TÁC PHẨM: ĐƯỜNG KÁCH MỆNH
Tác phẩm
Đường Kách mệnh của
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Không có lý luận
kách mệnh, thì không có kách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận kách mệnh
tiền phong, đảng kách mệnh mới làm nổi trách nhiệm kách mệnh tiền phong- LÊNIN
(Trích trong cuốn Làm gì? của V.I.Lê-nin(BT))
BỊ ÁP BỨC DÂN TỘC LIÊN HỢP HỘI
Cần kiệm.
Hoà mà không tư.
Cả quyết sửa lỗi
mình.
Cẩn thận mà không
nhút nhát.
Hay hỏi.
Nhẫn nại (chịu
khó).
Hay nghiên cứu,
xem xét.
Vị công vong tư.
Không hiếu danh,
không kiêu ngạo.
Nói thì phải làm.
Giữ chủ nghĩa cho
vững.
Hy sinh.
Ít lòng tham muốn
về vật chất.
Bí mật.
Với từng người thì khoan thứ.
Với đoàn thể thì nghiêm.
Có lòng bày vẽ cho người.
Trực mà không táo bạo.
Hay xem xét người.
Làm việc phải:
Xem xét hoàn cảnh kỹ càng.
Quyết đoán.
Dũng cảm.
Phục tùng đoàn thể.
1.
Phàm làm việc gì cũng vậy, bất kỳ
lớn bé, bất kỳ khó dễ, nếu không ra sức thì chắc không thành công. Tục ngữ Tàu
có câu: “Sư tử bắt thỏ tất dùng hết sức”. Sư tử mạnh biết chừng nào, nếu bắt
thỏ thì có khó gì, thế mà còn phải dùng hết sức, huống gì làm việc to tát như
việc giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, cho nhân loại, nếu không hết sức
thì làm sao được.
2.
Lại nhiều người thấy khó thì ngã
lòng, không hiểu rằng “nước chảy đá mòn” và “có công mài sắt, có ngày nên kim”.
Việc gì khó cho mấy, quyết tâm làm thì làm chắc được, ít người làm không nổi,
nhiều người đồng tâm hiệp lực mà làm thì phải nổi. Đời này làm chưa xong thì
đời sau nối theo làm thì phải xong.
3.
Muốn đồng tâm hiệp lực, muốn bền
gan thì trước ai ai cũng phải hiểu rõ vì sao mà phải làm, vì sao mà không làm
không được, vì sao mà ai ai cũng phải gánh một vai, vì sao phải làm ngay không
nên người này ngồi chờ người khác. Có như thế mục đích mới đồng; mục đích có
đồng, chí mới đồng; chí có đồng, tâm mới đồng; tâm đã đồng, lại phải biết cách
làm thì làm mới chóng.
4.
Lý luận và lịch sử Kách mệnh có
nhiều sách lắm. Pháp nó sợ, nên cấm chúng ta học, cấm chúng ta xem, cho nên
đồng bào ta đối với hai chữ Kách mệnh còn lờ mờ lắm. Có người biên chép đề
xướng ra một chút lại làm một cách rất hồ đồ; hoặc xúi dân bạo động mà không
bày cách tổ chức; hoặc làm cho dân quen tính ỷ lại, mà quên tính tự cường.
5.
Mục đích sách này là để nói cho đồng
bào ta biết rõ: (1) Vì sao chúng ta muốn sống thì phải Kách mệnh. (2) Vì sao
Kách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người. (3) Đem
lịch sử Kách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. (4) Đem phong trào thế
giới nói cho đồng bào ta rõ. (5) Ai là bạn ta? Ai là thù ta? (6) Kách mệnh thì
phải làm thế nào?
6.
Sách này muốn nói cho vắn tắt, dễ
hiểu, dễ nhớ. Chắc có người sẽ chê rằng văn chương cụt quằn. Vâng! Đây nói việc
gì thì nói rất giản tiện, mau mắn, chắc chắn như 2 lần 2 là 4, không tô vẽ
trang hoàng gì cả.
Hơn
sáu mươi năm nay, đế quốc chủ nghĩa Pháp đạp trên đầu; hơn hai mươi triệu đồng
bào hấp hối trong vòng tử địa. Phải kêu to, làm chóng để cứu lấy giống nòi, thì
giờ đâu rảnh mà vẽ vời trau chuốt!
Sách này chỉ ước
ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng
lên đoàn kết nhau mà làm Kách mệnh.
Văn chương và hy vọng sách này chỉ ở trong hai chữ: Kách mệnh! Kách
mệnh!! Kách mệnh!!!
KÁCH MỆNH
Kách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt. Thí
dụ: ông Galilê (1633) là khoa học Kách mệnh. Ngày xưa ai cũng tưởng rằng giời
tròn đất vuông, nhân kinh nghiệm và trắc đạc[1], ông ấy mới quyết rằng trái đất
tròn và chạy chung quanh mặt giời.
Ông Stêphenxông
(1800) là cơ khí Kách mệnh. Ngày xưa chỉ đi bộ và đi xe ngựa kéo; ông ấy mới
làm ra xe lửa.
Ông Đácuyn (1859)
là cách vật Kách mệnh[2].
Ngày xưa không ai hiểu rõ sự sinh hoá[3] của vạn vật, ông ấy mới nghiên
cứu ra vì sao mà có sự sinh hoá ấy.
Ông Các Mác là kinh tế học Kách mệnh. Ông ấy nghiên cứu rõ ràng tư bản
chủ nghĩa, đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tranh đấu, vân vân ở đâu mà sinh ra;
lịch sử nó thế nào, hiện tượng nó thế nào, và kết quả nó sẽ ra thế nào.
Ây là tư tưởng
Kách mệnh, dân chúng Kách mệnh thì có 3 thứ:
A- Tư bản Kách
mệnh.
B- Dân tộc Kách
mệnh.
C- Giai cấp Kách
mệnh.
Tư bản Kách mệnh
như Pháp Kách mệnh năm 1789. Mỹ Kách mệnh độc lập năm 1776 (đuổi Anh), Nhật
Kách mệnh năm 1864[4].
Dân
tộc Kách mệnh như Ytali đuổi cường quyền Áo năm 1859. Tàu đuổi Mãn Thanh năm
1911.
Giai cấp Kách mệnh như công nông Nga đuổi tư bản và giành lấy quyền[5]
năm 1917.
3. Vì sao mà sinh ra tư bản Kách
mệnh?
A.
Tư bản ở thành phố là tư bản mới,
nó có lò máy và làm ra hàng hoá. Có lò máy thì muốn có nhiều thợ làm công cho
nó. Làm ra hàng hoá thì muốn nhiều người mua của nó. Muốn nhiều người mua bán
thì muốn giao thông tiện lợi.
B.
Tư bản ở hương thôn là địa chủ, nó
muốn giữ những chế độ phong kiến, thổ địa nhân dân; ở chỗ nào chủ quyền đều là
về tay bọn quyền quý ở đấy cả; nó đối với nhân dân, nó coi như trâu, như lợn,
nó bắt ở yên một chỗ để cày ruộng cho nó, nó đối với người đi buôn, thì hàng
hoá nó muốn lấy thuế bao nhiêu thì lấy, không có chừng độ, tiền bạc mỗi xứ một
thứ, đi lại phải xin chúng nó cho phép, nó làm nhiều cách trở ngại cho việc
buôn bán mới.
Địa chủ hết sức
ngăn trở tư bản mới, tư bản mới hết sức phá địa chủ, hai bên xung đột nhau làm
thành ra tư bản Kách mệnh.
Không bao giờ hai tụi này chống nhau kịch liệt và rõ ràng, dễ thấy bằng
bên Mỹ. Năm 1861 đến 1865, mấy tỉnh phía Bắc (tư bản mới) cử binh đánh lại mấy
tỉnh phía Nam (điền chủ) như 2 nước thù địch vậy[6].
4. Vì sao mà sinh ra dân tộc Kách
mệnh?
Một nước cậy có
sức mạnh đến cướp một nước yếu, lấy võ lực cai trị dân nước ấy, và giành hết cả
quyền kinh tế và chính trị. Dân nước ấy đã mất cả tự do độc lập, lại làm ra
được bao nhiêu thì bị cường quyền vơ vét bấy nhiêu.
Nó đã cướp hết
sản vật, quyền lợi của dân rồi, khi có giặc giã, nó lại bắt dân đi lính chết
thay cho nó. Như trong trận Âu chiến 1914 - 1918, Tây bắt ta đi lính, sau lại
gia thuế gia sưu. Đánh được thì nó hưởng lợi quyền, thua thì mình đã chết người
lại hại của.
Nói tóm lại là bọn cường quyền này bắt dân tộc kia làm nô lệ, như Pháp
với An Nam. Đến khi dân nô lệ ấy chịu không nổi nữa, tỉnh ngộ lên, đoàn kết
lại, biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh
đuổi tụi áp bức mình đi; ấy là dân tộc Kách mệnh.
5. Vì sao mà sinh ra giai cấp Kách
mệnh?
Trong thế giới có
2 giai cấp:
A.
Tư bản (không làm công mà hưởng
lợi).
B.
Công và nông (làm khó nhọc mà
chẳng được hưởng).
Như người thợ An
Nam, làm ở mỏ than Hòn Gay, một ngày làm 11 giờ, đầu năm làm đến cuối, một ngày
chỉ được 3 hào, ăn chẳng đủ ăn, mặc không có mặc, đau không có thuốc, chết
không có hòm.
Còn anh chủ mỏ ấy
không bao giờ nhúng tay đến việc gì, mà nó ăn sung mặc sướng, lên ngựa xuống
xe, mỗi năm lại được mấy mươi triệu đồng lời (năm 1925 nó được 17.000.000
đồng). Thử hỏi 17 triệu ấy thằng chủ Tây làm ra hay là công nhân An Nam làm ra?
Dân cày ta ruộng không có mà cày, mà tụi đồn điền Tây nó chiếm hết 122.000 mẫu
ruộng tốt ở Trung Kỳ, 150.000 mẫu ở Nam Kỳ.
Dân ta nơi thì
không đủ ăn, nơi thì chết đói, mà điền chủ mỗi năm nó bán gạo gần 1.000 triệu
quan tiền Tây[7]
(năm 1925 nó bán 911.477.000 quan).
Nước ta như vậy, các nước cũng như vậy. Công nông không chịu nổi, đoàn
kết nhau đánh đuổi tư bản đi, như bên Nga, ấy là giai cấp Kách mệnh; nói tóm
lại là giai cấp bị áp bức Kách mệnh[8]
để đạp đổ giai cấp đi áp bức mình.
6. Kách mệnh chia làm mấy thứ?
Kách mệnh chia ra
hai thứ:
A.
Như An Nam đuổi Pháp, Ản Độ đuổi
Anh, Cao Ly[9]
đuổi Nhật, Philíppin đuổi Mỹ, Tàu đuổi các đế quốc chủ nghĩa để giành lấy quyền
tự do bình đẳng của dân nước mình, ấy là dân tộc Kách mệnh.
B.
Tất cả dân cày, người thợ trong
thế giới bất kỳ nước nào, nòi nào đều liên hợp nhau lại như anh em một nhà, để
đập đổ tất cả tư bản trong thế giới, làm cho nước nào, dân nào cũng được hạnh
phúc, làm cho thiên hạ đại đồng - ấy là thế giới Kách mệnh.
Hai thứ Kách mệnh
đó tuy có khác nhau, vì dân tộc Kách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ,
nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền. Còn thế giới Kách mệnh
thì vô sản giai cấp đứng đầu đi trước. Nhưng 2 Kách mệnh ấy vẫn có quan hệ với
nhau. Thí dụ: An Nam dân tộc Kách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản
Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp Kách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông
Pháp Kách mệnh thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do.
Vậy nên Kách mệnh An Nam với Kách mệnh Pháp phải liên lạc
với nhau.
7. Ai là những người Kách mệnh?
Vì bị áp bức mà
sinh ra Kách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng Kách mệnh càng
bền, chí Kách mệnh càng quyết. Khi trước tư bản bị phong kiến áp bức cho nên nó
Kách mệnh. Bây giờ tư bản lại đi áp bức công nông, cho nên công nông là người
chủ Kách mệnh[10].
1.
Là vì công nông bị áp bức nặng
hơn,
2.
Là vì công nông là đông nhất cho
nên sức mạnh hơn hết,
3. Là vì công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái
kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc. Vì những cớ ấy,
nên công nông là gốc Kách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị
tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn Kách
mệnh của công nông thôi.
Sửa cái xã hội cũ
đã mấy ngàn năm làm xã hội mới, ấy là rất khó. Nhưng biết cách làm, biết đồng
tâm hiệp lực mà làm thì chắc làm được, thế thì không khó. Khó dễ cũng tại mình,
mình quyết chí làm thì làm được. Nhưng muốn làm Kách mệnh thì phải biết:
A- Tụi tư bản và
đế quốc chủ nghĩa nó lấy tôn giáo và văn hoá làm cho dân ngu, lấy phép luật
buộc dân lại, lấy sức mạnh làm cho dân sợ, lấy phú quý làm cho dân tham. Nó làm
cho dân nghe đến 2 chữ Kách mệnh thì sợ rùng mình.
Vậy Kách mệnh
trước phải làm cho dân giác ngộ.
B- Dân khổ quá
hay làm bạo động, như dân An Nam ở Trung Kỳ kháng thuế, Hà Thành đầu độc, Nam
Kỳ phá khám; không có chủ nghĩa, không có kế hoạch, đến nỗi thất bại mãi.
Vậy
Kách mệnh phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa[11] cho dân hiểu.
C- Dân vì không
hiểu tình thế trong thế giới, không biết so sánh, không có mưu chước, chưa nên
làm đã làm, khi nên làm lại không làm[12].
Kách
mệnh phải hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân.
D-
Dân thường chia rẽ[13]
phái này bọn kia, như dân ta người Nam thì nghi người Trung, người Trung thì
khinh người Bắc, nên nỗi yếu sức đi, như đũa mỗi chiếc mỗi nơi.
Vậy nên sức Kách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng Kách
mệnh.
9. Kách mệnh trước hết phải có cái
gì?
Trước
hết phải có đảng Kách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài
thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững
Kách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng
muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng
phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí
khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, Kách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin.
LỊCH SỬ KÁCH MỆNH MỸ
Thế kỷ thứ 14 về
trước, chưa ai biết Mỹ ở đâu. Đến năm 1492, người buôn tên là Christophe Colomb
đi tàu buôn muốn qua Ản Độ, nhưng đi lạc đường, may lại gặp châu Mỹ. Dân xứ ấy
là loài da đỏ, chỉ đi săn bắn không biết buôn bán và làm nghề.
Từ lúc Colomb tìm
ra châu Mỹ, thì người các nước bên Âu tràn qua đấy làm ăn. Người da trắng muốn
bắt người da đỏ làm nô lệ, nhưng nó không chịu làm, thì chúng giết mòn giết mỏi
người da đỏ đi, rồi bắt người da đen bên Phi qua làm cho chúng nó.
Người Âu qua Mỹ thì nước nào cũng có, nhưng đông nhất là người Anh
(3.000.000 người). Vì vậy, Anh giành Mỹ làm thuộc địa.
2. Vì sao mà Mỹ làm kách mệnh?
Thổ sản Mỹ rất
giàu, đồng, sắt, than, bông, lúa, trâu bò, vân vân, vật gì cũng nhiều. Anh thì
tham, muốn hốt về cho mình cả, cho nên đặt ra 3 phép như sau này:
1.
Có bao nhiêu thổ sản, Mỹ phải cung
cấp cho Anh hết, không được bán cho các nước khác.
2.
Dân Mỹ không được lập ra lò máy và
hội buôn bán.
3.
Các nước không được vào buôn bán
với Mỹ, chỉ Anh được buôn bán mà thôi.
Vì 3 điều ấy, lại thêm thuế má nặng nề, làm cho kinh tế Mỹ
rất khốn đốn, nên từ năm 1770, dân Mỹ tức mình “tẩy chay” Anh.
3. Phong triều ấy kết quả ra thế
nào?
Phong
triều “tẩy chay” giắc dai đến 5 năm. Anh đem lính qua dẹp, và bắt những người
cầm đầu làm tội. Mỗi lần bắt một người cầm đầu, thì dân càng tức giận thêm. Đến
năm 1775, khi lính Anh bắt mấy người cầm đầu nữa, dân kéo nhau ra cứu, lại bị
lính Anh giết chết 9 người. Việc này như lửa rơi vào thuốc súng, dân tức quá
thì nổ, sống chết cũng quyết đuổi được Chính phủ Anh mới thôi.
Cách một năm sau,
đến ngày 4 tháng 7 năm 1776 thì kách mệnh được và Mỹ tuyên bố độc lập45,
và nước Mỹ thành ra nước cộng hoà.
Bây giờ Mỹ có 48 tỉnh và 110.000.000 dân.
4. Ý nghĩa kách mệnh Mỹ với kách
mệnh An Nam thế nào?
1.
Chính sách Pháp đối với An Nam bây
giờ xấu hơn Anh đối với Mỹ trước, vì Pháp đã vơ vét hết của cải dân ta, đã ngăn
cấm dân ta làm việc này việc khác; nó lại bắt dân ta hút thuốc phiện và uống
rượu. Anh chỉ ham tiền Mỹ, Pháp đã ham tiền lại muốn làm mất nòi, mất giống An
Nam đi. Thế mà dân An Nam còn chưa học Mỹ mà làm cách mệnh!
2.
Trong lời tuyên ngôn của Mỹ có câu
rằng: “Giời sinh ra ai cũng có quyền tự do, quyền giữ tính mệnh của mình, quyền
làm ăn cho sung sướng... Hễ Chính phủ nào mà có hại cho dân chúng, thì dân
chúng phải đập đổ Chính phủ ấy đi, và gây lên Chính phủ khác...”.
Nhưng
bây giờ Chính phủ Mỹ lại không muốn cho ai nói đến cách mệnh, ai đụng đến Chính
phủ!
3.
Mỹ tuy rằng kách mệnh thành công
đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính kách mệnh
lần thứ hai.
Ây
là vì kách mệnh Mỹ là kách mệnh tư bản, mà kách mệnh tư bản là chưa phải kách
mệnh đến nơi.
Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là
làm sao kách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay
một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh
phúc.
KÁCH MỆNH PHÁP
1. Vì sao Pháp có phong triều cách
mệnh?
Hồi thế kỷ thứ
18, vua thì kiêu xa dâm dật, quý tộc và bọn cố đạo thì hoành hành; thuế nặng
dịch phiền, dân tình khốn khổ.
Phần thì Canađa
và Ân Độ, nguyên là thuộc địa Pháp, nay bị Anh vơ mất.
Phần thì những
người học thức như ông Môngtexkiơ (1755), Vônte và Rútxô (1778) tuyên truyền
chủ nghĩa tự do bình đẳng.
Phần
thì phong triều kách mệnh Anh (ông Krômven chém vua Anh và lập Cộng hoà Chính
phủ năm 1653) còn mới, và phong triều dân chủ Mỹ (1776) vừa qua.
Nhất là vì tư bản mới bị tụi phong kiến ngăn trở, dân thì bị vua, quý
tộc và cố đạo áp bức. Vậy nên tư bản mới liên hiệp với học trò, dân cày và
người thợ để phá phong kiến.
2. Kách mệnh Pháp khởi từ bao giờ?
Vua thấy dân chộn
rộn, thì bắt bớ những người tuyên truyền và tổ chức. Dân thấy vậy thì tức quá,
đến ngày 14 tháng 7 năm 1789 kéo nhau đến phá khám lớn (Baxti). Vua đem lính về
giữ kinh đô; dân lại tổ chức kách mệnh đội để phòng chống lại. Vua lui ra ở tại
tỉnh Vécxây.
Ngày 5 tháng 10
năm ấy, thợ thuyền đàn bà con gái Pari kéo nhau đến Vécxây bắt vua về khai hội,
và ký tờ tuyên ngôn:
1.
Là bỏ chế độ phong kiến, giải
phóng nông nô.
2.
Là đem của các nhà thờ đạo làm của
Nhà nước.
3.
Là cho dân tự do làm báo, tổ chức,
vân vân.
4.
Là lập hiến pháp, nghĩa là vua
không được chuyên quyền.
1792,
vì vua cầu cứu với ngoại quốc và
thông với bọn phản cách mệnh, dân mới bỏ vua mà lập ra cộng hoà.
1793,
ngày 21 tháng 1 làm án vua và vợ
con vua là phản quốc tặc, rồi đem ra chém.
3. Các nước Âu châu đối với kách
mệnh Pháp thế nào?
Dân
các nước thì đều mừng thầm và tán thành. Nhưng vua và quý tộc các nước thì sợ
dân mình bắt chước dân Pháp, cho nên bên ngoài chúng nó liên binh đánh kách
mệnh mà bên trong thì giúp cho tụi phản cách mệnh.
Dân
Pháp tuy lương thực ít, súng ống thiếu, nhưng chỉ nhờ gan kách mệnh mà trong
dẹp nội loạn, ngoài phá cường quyền. Hồi ấy lính kách mệnh gọi là “lính không
quần”, người không có nón, kẻ không có giày, áo rách quần tua, mặt gầy bụng
đói. Thế mà lính ấy đến đâu, thì lính ngoại quốc thua đấy, vì họ gan liều hy
sinh quá, không ai chống nổi.
Thế thì biết: một người kách mệnh có gan, hơn một ngàn người vô chí.
4. Pháp kách mệnh đến mấy lần?
Năm
1792 đến 1804 Cộng hoà lần thứ 1. Năm
1804 Napôlêông phản kách mệnh lên làm hoàng đế.
Năm
1814 các nước đánh Napôlêông thua rồi đem dòng vua cũ lên ngôi đến 1848.
Năm
1848 lại kách mệnh lần thứ 21).
Năm
1852 cháu Napôlêông lại phản kách mệnh lên làm vua.
Năm 1870 nhân thua Đức, Napôlêông thứ 3 bỏ chạy, Pháp lại
lập lên Cộng hoà lần thứ 3.
5. Pari Công xã (Commune de Paris)
là gì?
Năm
1871 vua Pháp thua chạy rồi, lính Đức tới vây kinh đô Pháp là Pari. Tư bản Pháp
cắt 2 tỉnh cúng cho Đức để cầu hoà. Vì giặc giã mà chết nhiều người, hại nhiều
của. Dân không bánh ăn, thợ không công làm. Ngày 18 tháng 3, thợ thuyền Pari
nổi lên làm kách mệnh cộng sản (Công xã).
Vì thợ thuyền còn non nớt, tổ chức không khéo, vả lại Đức
giúp cho tư bản Pháp đánh lại thợ thuyền, nên cuối tháng 5 thì kách mệnh thất
bại.
6. Mục đích Công xã ấy thế nào?
Khi
vừa lấy được Pari rồi, thì Công xã lập lên Chính phủ dân và tuyên bố rằng Công
xã sẽ thực hành những việc này:
1.
Bao nhiêu cơ quan sinh sản riêng
đều đem làm của công.
2.
Tất cả trẻ con trong nước, bất kỳ
con trai con gái, đều phải đi học. Học phí Nhà nước phải cho.
3.
Dân có quyền tự do tổ chức, làm
báo, khai hội, xuất dương, v.v..
4.
Bất kỳ đàn ông đàn bà, ai cũng
được quyền chính trị, tuyển cử và ứng cử.
5.
Chính phủ tự dân cử lên, và dân có
quyền thay đổi Chính phủ.
7. Kết quả Công xã ra thế nào?
Tư bản Pháp khi
ấy như nhà cháy 2 bên, bên thì Đức bắt chịu đầu, bên thì kách mệnh nổi trước
mắt. Tư bản Pháp thề chịu nhục với Đức, chứ không chịu hoà với cách mệnh. Đức
thấy kách mệnh cũng sợ, cho nên hết lòng giúp tư bản Pháp đánh lại cách mệnh.
Lúc Pháp vừa hàng, thì Đức bắt bỏ hết lính, chỉ cho 40.000 culít mà thôi. Khi
kách mệnh nổi lên, Đức lại cho phép tư bản Pháp thêm lên 100.000 lính để dẹp
cách mệnh.
Xem vậy thì hiểu
rằng: “Tư bản không có Tổ quốc”.
Dẹp được kách mệnh rồi thì tư bản ra sức báo thù. Nó giết hết 30.000
người cả đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con. Nó đày 28.000 người. Nó bắt giam
650 đứa trẻ con, 850 người đàn bà, 37.000 người đàn ông.
8. Kách mệnh Pháp đối với kách mệnh
An Nam thế nào?
a)
Trong 3 lần cách mệnh, 1789, 1848,
1870, đều vì dân can đảm nhiều, nhưng trí thức ít, cho nên để tư bản nó lợi
dụng.
b)
Pari Công xã vì tổ chức không khéo
và vì không liên lạc với dân cày, đến nỗi thất bại.
c)
Tư bản nó dùng chữ Tự do, Bình
đẳng, Đồng bào để lừa dân, xúi dân đánh đổ phong kiến. Khi dân đánh đổ phong
kiến rồi, thì nó lại thay phong kiến mà áp bức dân.
d)
Kách mệnh Pháp cũng như kách mệnh
Mỹ, nghĩa là kách mệnh tư bản, kách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và
dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc
địa. Kách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu kách mệnh
lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Kách mệnh An Nam nên nhớ những điều
ấy.
9.
Kách mệnh Pháp làm gương
cho chúng ta về những việc gì?
Kách mệnh Pháp
dạy cho chúng ta:
1.
Dân chúng công nông là gốc cách
mệnh, tư bản là hoạt đầu, khi nó không lợi dụng được dân chúng nữa, thì nó phản
cách mệnh.
2.
Kách mệnh thì phải có tổ chức rất
vững bền mới thành công.
3.
Đàn bà trẻ con cũng giúp làm việc
kách mệnh được nhiều.
4.
Dân khí mạnh thì quân lính nào,
súng ống nào cũng không chống lại.
5.
Kách mệnh Pháp hy sinh rất nhiều
người mà không sợ; ta muốn làm kách mệnh thì cũng không nên sợ phải hy sinh.
LỊCH SỬ KÁCH MỆNH NGA
1. Nguyên do kách mệnh Nga từ đâu
ra?
Nga là một nước
rất rộng, nửa nằm về châu Á, nửa nằm về châu Âu. Dân Nga hơn 90 phần là dân
cày, không đầy 10 phần là thợ thuyền. Khi trước theo chế độ nông nô, nghĩa là
bao nhiêu đất ruộng và dân cày đều ở dưới quyền địa chủ. Địa chủ xem nông nô
như súc vật, nó cho sống được sống, nó bắt chết phải chết, khi nó cần tiền, thì
nó đem nông nô đi bán như bán trâu bán bò. Nông dân không được bỏ xứ này qua xứ
khác.
Chừng nửa thế kỷ
thứ 19, tư bản mới hơi phát đạt, nó vừa mở lò máy, nó cần người làm công, nó
mới vận động bỏ chế độ nông nô để cho dân cày tới làm với nó, đến năm 1861, chế
độ nông nô mới bỏ.
Tư bản mới và địa chủ từ đấy mới sinh hiềm khích to, mà phong triều
kách mệnh công nông cũng từ đấy mọc ra.
2. Nông nô được giải phóng rồi thì
làm gì?
Được giải phóng
rồi, người thì ra thành phố làm công, người thì ở lại làm ruộng.
Đi làm công thì
tiền công ít, giờ làm nhiều, phải làm nô lệ cho tư bản, ở lại cày thì đất ruộng
ít, trâu bò thiếu, phải chịu lòn tụi phú gia. Dân tiếng tự do tuy được, kỳ thực
cứ kiếp nô lệ: người thợ thì cực khổ, dân cày cũng chẳng sướng hơn.
Những người có
lòng kách mệnh thì lập ra đảng để liên hiệp dân cày lại, nhưng mà không chú ý
đến thợ thuyền.
Năm 1875 mới có
đảng kách mệnh gọi là “Công nhân giải phóng”. Năm 1878 lại có một đảng mới gọi
là “Công đảng”.
Nhưng hai đảng ấy người ít sức hèn, lại bị Chính phủ bắt bớ nhiều, sau
hoá ra đảng kịch liệt, chỉ lo đi ám sát vua và các quan.
3. Kết quả hai đảng ấy ra thế nào?
Ám
sát là làm liều, và kết quả ít, vì giết thằng này còn thằng khác, giết sao cho
hết? Kách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ cả cái giai cấp
áp bức mình, chứ không phải chỉ nhờ 5, 7 người giết 2, 3 anh vua, 9, 10 anh
quan mà được. Hai đảng ấy tuy hy sinh hết nhiều người, làm được nhiều sự ám sát
oanh liệt, nhưng vì đi sai đường cách mệnh, không có sức dân chúng làm nền, cho
nên bị Chính phủ trị mãi đến nỗi tan.
Năm 1883, ông Plêkhanốp lập nên đảng “Lao động tự do”. Đảng
này tổ chức theo cách ông Mã Khắc Tư dạy, nghĩa là liên hiệp cả dân cày và thợ
thuyền làm cả kinh tế và chính trị cách mệnh.
4. Đảng này làm việc kách mệnh thế
nào?
Đảng này lấy thợ
thuyền làm cốt cách mệnh, và dân cày phụ vào.
Làm
việc rất bí mật.
Ở Nga, ma tà, mật
thám nhiều quá, nên cơ quan Đảng phải lập ở ngoại quốc (Luân Đôn).
Năm 1894, ông
Lênin vào Đảng.
Năm 1898, Đảng
khai hội một lần trong nước, chẳng may Chính phủ dò ra, bắt hết nhiều đảng
viên. Tuy đảng viên bị bắt, nhưng lời tuyên ngôn của Đảng đã truyền khắp cả
nước, cho nên phong triều kách mệnh càng ngày càng cao. Những người chưa bị bắt
thì hết sức bí mật tuyên truyền và tổ chức.
Ít lâu đổi tên là
“Xã hội dân chủ Đảng”, sau lại đổi tên ra “Cộng sản Đảng”.
Năm 1904 - 1905, Nga với Nhật đánh nhau, nhân lúc dân tình xục rục,
Đảng ra sức vận động cách mệnh.
5. Sao mà biết dân tình xục rục mà vận
động?
a)
Trước khi đánh Nhật, vua phỉnh tư
bản xuất tiền, lừa họ rằng đánh được thì kinh tế sẽ phát đạt, và tư bản sẽ được
lợi to. Sau đánh thua thì tư bản mất tiền nhiều mà chẳng được gì, cho nên oán
vua.
b)
Thợ thuyền ghét vua đã sẵn nay vì
đánh thua lại bị áp bức thêm, lại thêm ghét vua.
c)
Dân cày ghét vua xưa nay, bây giờ
đi lính chết chóc nhiều, vả lại thuế má nặng thêm, lòng ghét vua cũng càng ngày
càng to.
Ba hạng ấy mục đích tuy khác nhau, nhưng lòng ghét vua thì như nhau.
Đảng biết vậy thì vận động kách mệnh đuổi vua.
6. Lúc bấy giờ vua xử trí thế nào?
Vua
biết thợ thuyền là hăng hái kách mệnh nhất, thì đặt cách làm cho tư bản, dân
cày và thợ thuyền rời nhau. Nó xúi một người cố đạo ra tổ chức công hội, một là
để lung lạc thợ thuyền, hai là để dò ai hăng hái thì bắt.
Ngày
9 tháng 1 năm 1905, anh cố đạo ấy (tên là Gapông) đem thợ thuyền đến chỗ vua ở
thỉnh nguyện. Vì anh ta quên báo trước, và vì vua thấy đông người thì sợ bạo
động, nên sai lính ra dẹp, bắn chết mất nhiều người. Gapông bỏ chạy ra ngoại
quốc. Thợ thuyền các tỉnh nghe tin ấy thì bãi công và bạo động, lập ra công
nhân hội nghị.
Kách mệnh chống nhau với vua và Chính phủ từ tháng 1 đến
tháng 10. Vua một đường thì dùng lính dẹp cách mệnh, một đường thì giả tuyên bố
lập ra nghị viện cho đại biểu dân bàn việc nước.
7. Vì sao kách mệnh 1905 thua?
1.
Vì khi đầu tư bản muốn lợi dụng
thợ thuyền đập đổ vua; sau nó thấy thợ thuyền hăng hái quá, nó sợ đập vua rồi
lại đập cả nó, cho nên nó phản thợ thuyền mà giúp cho vua.
2.
Vì thợ thuyền với dân cày không
nhất trí. Khi thợ thuyền nổi lên thì dân cày không theo ngay. Thợ thuyền thua
rồi, dân cày mới nổi lên, để cho vua nó trị thợ thuyền rồi nó trở qua trị dân
cày.
3.
Thợ thuyền chưa có kinh nghiệm
nhiều, và tổ chức chưa hoàn toàn.
4.
Chưa vận động lính và súng ống khí
giới của dân ít quá.
8. Kách mệnh 1905 thất bại, thợ
thuyền và Đảng có ngã lòng không?
Không. Trải qua
lần thất bại ấy, Đảng nghiên cứu lại, phê bình lại, sai lầm ở đâu, vì sao mà
thất bại? Biết rõ ràng những chỗ khuyết điểm mà sửa sang lại. Cũng như rèn một
con dao, thử cắt mới biết chỗ nào sắc, chỗ nào cùn; sau cứ theo chỗ cùn mà mài,
con dao mới tốt.
Nhờ chuyến thất
bại 1905, thợ thuyền mới hiểu rằng: một là phải tổ chức vững vàng, hai là phải
liên lạc với dân cày, ba là phải vận động lính, bốn là không tin được tụi đề
huề, năm là biết tư bản và vua cùng là một tụi, muốn đuổi vua thì phải đuổi cả
tư bản.
Kách mệnh 1905 thất bại làm gương cho kách mệnh 1917 thành
công.
9. Lịch sử kách mệnh 1917 thế nào?
Kách
mệnh 1917 có mấy cớ sau này:
1.
Khi Âu chiến, đế quốc chủ nghĩa
Anh và Pháp lợi dụng vua Nga đánh lại Đức. Nhưng vua Nga lôi thôi, tiêu hết
nhiều tiền, chết hết nhiều lính, tất bị Đức đánh thua mãi. Các đế quốc chủ
nghĩa ấy giận và giúp cho tư bản đẩy vua đi.
2.
Tư bản giận vua chỉ tín dụng bọn
quý tộc cầm binh quyền, bọn quý tộc lại vô tài, đánh đâu thua đó. Vả tư bản bên
Nga phần nhiều là chung với tư bản Anh và Pháp; nếu Nga thua Đức, thì chẳng
những tư bản Nga, mà tư bản Anh và Pháp cũng nguy; và nếu cứ để vua thì chắc
thua. Vậy nên tư bản cũng muốn đẩy vua.
3.
Thợ thuyền và dân cày đối với vua
như đối với thù địch đã đành.
4.
Bọn hoạt đầu nhân cơ hội ấy, thì
lợi dụng 2 bọn này đuổi vua cho tư bản Nga và đế quốc chủ nghĩa Anh và Pháp. Tư
bản và đế quốc chủ nghĩa lại lợi dụng bọn hoạt đầu.
Nhân dịp lính
chết nhiều, dân gian đói khổ, thợ thuyền thất nghiệp, Chính phủ lôi thôi; bọn
hoạt đầu xúi dân rằng bây giờ kách mệnh đuổi vua đi, thì ruộng đất sẽ về dân
cày, công xưởng sẽ về người thợ, nhân dân sẽ được quyền Chính phủ, chiến tranh
sẽ hoá ra hoà bình.
Chẳng ngờ lúc tháng 2 đuổi vua đi rồi, tụi hoạt đầu và tụi tư bản lên
cầm chính quyền, bao nhiêu lời nguyền ước chúng nó quên hết. Chúng nó cứ bắt
lính đi đánh; ruộng đất cứ ở tay địa chủ, lò máy cứ ở tay nhà giàu; công nông
cũng không được dự vào Chính phủ.
11. Sao Đảng Cộng sản không ra tay
làm?
Khi kách mệnh
đuổi vua, Đảng Cộng sản vẫn đứng đầu dân chúng. Nhưng lúc ấy đảng viên hẵng còn
ít, và hoàn cảnh chưa đến, nên chưa giựt lấy chính quyền.
Kách mệnh xong
lúc tháng 2. Từ tháng 2 đến tháng 4, dân nhiều người còn tưởng rằng Chính phủ
mới chưa kịp thi hành những việc lợi dân, vì chưa có thì giờ.
Đến tháng 4 thì ông Lênin và nhiều đồng chí ở ngoại quốc về. Từ tháng 4
đến tháng 11, Chính phủ mới thì mỗi ngày mỗi lộ mặt phản kách mệnh ra. Còn đảng
viên cộng sản phần thì đi tuyên truyền cho dân rằng: “Đấy, các anh xem đấy, tụi
hoạt đầu là thầy tớ của tư bản và đế quốc chủ nghĩa, chúng nó chẳng hơn gì
vua...”, làm cho ai cũng oán Chính phủ mới, phần thì lòn vào nông, công, binh,
tổ chức bí mật để thực hành cộng sản cách mệnh.
12. Cộng sản kách mệnh thành công
bao giờ?
Cuối tháng 10,
đâu cũng có tổ chức cả rồi, ai cũng muốn cử sự. Nhưng ông Lênin bảo: “Khoan đã!
Chờ ít bữa nữa cho ai ai cũng phản đối Chính phủ, lúc ấy sẽ cử sự”. Đến ngày 5
tháng 11, Chính phủ khai hội để ban bố phép luật mới, mà phép luật ấy thì lợi
cho tư bản mà hại cho công, nông. Ông Lênin nói với đảng viên rằng: Mồng 6 cử
sự thì sớm quá, vì dân chưa biết hết luật lệ xấu ấy, mà chưa biết luật lệ ấy
thì chưa ghét Chính phủ lắm. Mồng 8 cử sự thì muộn quá vì khi ấy thì Chính phủ
đã biết rằng dân oán và đã phòng bị nghiêm ngặt rồi.
Quả nhiên ngày
mồng 7 Đảng Cộng sản hạ lịnh cách mệnh, thì thợ thuyền ào đến vây Chính phủ,
dân cày ào đến đuổi địa chủ. Chính phủ phái lính ra dẹp, thì lính ùa theo thợ
thuyền mà trở lại đánh Chính phủ.
Từ bữa ấy, Chính phủ hoạt đầu bỏ chạy, Đảng Cộng sản cầm quyền, tổ chức
ra Chính phủ công, nông, binh, phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho
thợ thuyền, không bắt dân đi chết cho tư bản và đế quốc chủ nghĩa nữa, ra sức
tổ chức kinh tế mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng.
13. Kách mệnh Nga đối với kách mệnh
An Nam thế nào?
Trong thế giới
bây giờ chỉ có kách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là
dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và
bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Kách mệnh
Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước
và dân bị áp bức các thuộc địa làm kách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa
và tư bản trong thế giới.
Kách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn kách mệnh thành công thì phải
dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan,
phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ
nghĩa Mã Khắc Tư và Lê-nin.
QUỐC TẾ
Quốc tế nghĩa là người trong thế giới,
bất kỳ nước nào, dân tộc nào, có một mục đích như nhau, hợp sức nhau để làm cho
đến mục đích ấy. Như các đế quốc chủ nghĩa liên lạc nhau, để đè nén các dân hèn
yếu (Pháp liên lạc Tây Ban Nha để đánh lấy An Nam, liên lạc Nhật để giữ An Nam,
v.v.), các tư bản liên lạc nhau để tước bóc thợ thuyền (tư bản Anh, Mỹ, Pháp
liên lạc tư bản Đức để tước lục thợ thuyền Đức). Thợ thuyền các nước liên lạc
nhau để chống lại tư bản (như Hội Công nhân Quốc tế). Chúng ta kách mệnh thì
cũng phải liên lạc tất cả những đảng kách mệnh trong thế giới để chống lại tư
bản và đế quốc chủ nghĩa (như Đệ tam quốc tế).
Muốn biết Đệ tam quốc tế là gì thì trước phải biết Đệ nhất và Đệ nhị4)
quốc tế đã.
Từ thế kỷ thứ 18 trở xuống, tư bản phát đạt rất thịnh, áp bức thợ
thuyền rất nghiệt. Thợ thuyền bị áp bức thì tính cách phản đối, như tổ chức
công hội, bãi công bạo động. Nhưng hầu hết tỉnh nào biết tỉnh nấy, nước nào
biết nước nấy mà thôi, cho nên sức không mạnh lắm.
Năm 1840, thợ thuyền Đức lập ra một hội tên là Nhân quyền hội. Khẩu
hiệu hội ấy là “Trong thế giới ai cũng là anh em”. Khẩu hiệu ấy tuy rất hay,
nhưng không đúng; vì bọn tư bản đế quốc chủ nghĩa và phản kách mệnh là thù địch
dân, gọi chúng là anh em sao được?
Năm 1847, hội ấy sửa lại gọi là: “Toàn thế giới vô sản
giai cấp liên hợp hội” - ông Mã Khắc Tư và Ăngghen vào hội ấy. Nhờ hai ông ấy
sửa chương trình lại, và khẩu hiệu hội là: Đập đổ tư bản chủ nghĩa - thợ thuyền
giành lấy chính quyền - làm cho thế giới đại đồng.
3. Hai hội ấy có phải Đệ nhất và Đệ
nhị quốc tế không?
Không phải. Trong hai hội tuy là có thợ thuyền Đức và Pháp vào, nhưng
hội viên có ít, sức lực còn yếu chưa làm được gì. Chẳng qua là biểu hiện rằng
thợ thuyền các nước phải giúp đỡ lẫn nhau và bắc cầu cho Đệ nhất quốc tế đi.
Năm 1862 ở Kinh đô Anh (Luân Đôn) mở hội đấu xảo; tư bản
các nước phái công nhân qua xem xét các máy móc. Công nhân lại gặp những người
kách mệnh Nga, Đức, Pháp và các nước khác trốn ở đấy. Hai bên bàn bạc lập một
hội kách mệnh thế giới.
Năm 1864, (ngày 28 tháng 2) mới lập thành Đệ nhất quốc
tế.
4. Đệ nhất quốc tế làm được những
việc gì?
Hội ấy tuy có nhiều người cầm đầu thợ thuyền các nước vào, nhưng vì:
2.
Các công hội trong các nước còn
yếu,
3.
Không thống nhất cho nên chỉ tuyên
truyền chủ nghĩa cộng sản mà chưa làm được việc gì lớn.
Không thống nhất là vì ba chủ nghĩa chống nhau:
3.
Chủ nghĩa Mã Khắc Tư (Đức) (xem
đoạn chủ nghĩa kách mệnh thì biết).
Sau lúc Pari Công xã thất bại, nhiều hội viên bị chết, bị
bắt, nên hội tiêu điều dần, đến 1874 thì giải tán.
Đệ nhất quốc tế tuy chỉ đứng được 10
năm, nhưng khẩu hiệu “Toàn thế giới vô sản giai cấp liên hợp lại!” và tinh thần
kách mệnh vẫn truyền đến bây giờ. Tuy không làm được nhiều việc, nhưng cái công
dạy cho thợ thuyền trong thế giới kách mệnh thì rất to.
5.
Đệ nhị quốc tế lập ra bao giờ?
Đệ nhất quốc tế tan rồi, vừa lúc tư bản phát đạt lắm, công nhân vận
động cũng phát đạt. Trong khoảng 15 năm ấy (từ 1874 đến 1889) trong các nước
nhiều công đảng mới lập lên, và đảng nào cũng hiểu rằng thợ thuyền các nước
không giùm giúp lẫn nhau không được.
Năm 1889, đại biểu các công đảng hội nhau tại Pari, lập nên
Đệ nhị quốc tế.
Từ khi lập ra, đến ngày Âu chiến, khai hội chín lần bàn bạc và nghị
định:
1.
Nước nào cũng phải lập ra công
đảng;
2.
Mỗi năm đến ngày 1 tháng 5 thợ
thuyền cả thế giới đều bãi công và thỉnh nguyện;
3.
Tất cả công nhân trong thế giới ra
sức đòi chỉ làm công mỗi ngày 8 giờ mà thôi;
4.
Phản đối đế quốc chủ nghĩa;
5.
Các công đảng không được đề huề
với tư bản;
6.
Đảng viên không được ra làm quan
với tư bản;
7.
Nếu các đế quốc chủ nghĩa có sự
chiến tranh, thì thợ thuyền các nước đều bãi công và kiếm phương thế kách mệnh
để giành lấy chính quyền. Vấn đề thứ 7, thì trong 9 lần đại hội đều có bàn đến
cả.
6. Vì sao Đệ nhị quốc tế lại hay
bàn đến việc chiến tranh?
Vì đương lúc ấy, tư bản đã hoá ra đế quốc chủ nghĩa, và đế
quốc chủ nghĩa, hoặc thường đánh nhau để giành thuộc địa, hoặc đi cướp nước hèn
yếu làm thuộc địa. Như:
Năm 1894, Nhật đánh với Tàu;
1896,
Pháp đánh với Mađagátxca;
1898, Mỹ đánh với Tây Ban Nha để giành Philíppin;
1900, Anh đánh với Nam Phi châu;
1904, Nga đánh với Nhật;
1912, các nước Bancăng đánh nhau, vân vân.
Thợ thuyền thấy vậy, thì biết rằng các đế quốc chủ nghĩa sẽ có trận
đánh nhau lớn. Vậy nên kiếm cách dè trước đi. Ngờ đâu đến 1914 các nước đánh
nhau, thì phần nhiều hội viên Đệ nhị quốc tế đều giúp cho đế quốc chủ nghĩa,
công đảng nước nào cũng khuyên dân đi đánh.
7. Đệ tam quốc tế lập ra từ bao giờ?
Vì bọn hoạt đầu trong Đệ nhị quốc tế đã phản mục đích hội mà hoá ra chó
săn cho tư bản và đế quốc chủ nghĩa, hoá ra phản cách mệnh; những người chân
chính kách mệnh như ông Lênin, ông Các Lípnếch, Rôda Luyxămbua, vân v., cho
Quốc tế ấy như chết rồi, phải lập ra Quốc tế khác. Năm 1915 và 1916, những
người kách mệnh hội nhau tại nước Suít (Thụy Sĩ) sắp sửa lập Đệ tam quốc tế, để
nối theo chủ nghĩa Đệ nhất quốc tế 1) mà làm cộng sản cách mệnh.
Năm 1917, Nga kách mệnh cộng sản thành công.
Năm 1919, Đệ tam quốc tế thành lập tại Kinh đô Nga là Mosku (ngày 6
tháng 3). Khi khai hội lần đầu, có đại biểu đảng cộng sản trong 24 nước dự hội.
Trong lời tuyên ngôn Đệ tam quốc tế xướng rõ ràng rằng:
1.
Thế nào cũng đập đổ tư bản chủ
nghĩa nhất thiết không đề huề như Đệ nhị quốc tế;
2.
Thế nào cũng quyết làm cho chính
quyền về tay công nông.
8. Từ khi lập ra đến giờ (đầu năm
1927) Đệ tam quốc tế khai hội mấy lần?
Năm 1920 khai Đại
hội lần thứ II, có 31 nước dự hội. Tụi hoạt đầu Đệ nhị quốc tế thấy hội này
mạnh, muốn xen vào để “theo đóm ăn tàn”, cho nên Đại hội đặt ra cách tổ chức
rất nghiêm; ai thừa nhận theo 21 điều quy tắc mới được vào. (Xem sau cùng đoạn
này).
Năm
1921, Đại hội lần thứ III. Từ lúc có Đệ tam quốc tế, thợ thuyền các nước chia
ra hai phái, phái theo cộng sản (Đệ tam quốc tế), phái theo đề huề (Đệ nhị quốc
tế). Vì vậy mà sức kém đi; cho nên Đại hội định rằng khi phấn đấu với tư bản
thì hai phái phải hợp sức nhau lại không được chia hai. Năm 1922, Đại hội lần
thứ IV. Nhân kách mệnh phong triều trong các nước rầm rộ, tư bản chủ nghĩa toan
cùng đường, chúng nó lập ra đảng Fasity phản đối kách mệnh tợn lắm. Đại hội
định cách đối đãi đảng ấy.
Năm 1924, Đại hội lần thứ V, có đến 61 nước dự hội. Vì
nhiều người lầm tưởng rằng tư bản lại tới hồi thịnh vượng như trước khi Âu
chiến. Đại hội đem chứng rõ ràng rằng thịnh vượng ấy là thịnh vượng giả; kỳ
thực tư bản trong thế giới gần đến mạt lộ, và công nông kách mệnh phải sắp sửa
ra tay.
9. Đệ tam quốc tế tổ chức thế nào?
a)
Mỗi năm hay cách vài năm, đại hội
một lần.
Đại hội có quyền đoán định tất cả các việc các đảng trong
các nước.
b)
Đại hội cử một Hội Trung ưong 24
người. Hội này thay mặt đại hội. Các đảng trong các nước đều phải theo mệnh
lịnh Trung ưong.
c)
Có Thanh niên bộ, để xem về việc
vận động thanh niên; Phụ nữ bộ, xem việc vận động phụ nữ; Á - Đông bộ xem về
việc kách mệnh các thuộc địa bên Á - Đông. Tuyên truyền, tổ chức, cứu tế, v.v.,
đều có một bộ riêng.
d)
Đệ tam quốc tế là một Đảng Cộng
sản thế giới. Các đảng các nước là như chi bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và
quy tắc chung. Việc gì chưa có mệnh lịnh và kế hoạch Đệ tam quốc tế thì các
đảng không được làm.
10. Đệ nhất quốc tế và Đệ tam quốc
tế giống nhau cái gì? khác nhau cái gì?
Đệ nhất quốc tế
với Đệ tam quốc tế khác nhau.
a)
Đệ nhất quốc tế nhỏ, Đệ tam quốc
tế to;
b)
Đệ nhất quốc tế chỉ lý luận, Đệ
tam quốc tế đã thực hành;
c)
Đệ nhất quốc tế không thống nhất,
Đệ tam quốc tế chỉ huy tất cả các đảng cộng sản trong các nước phải theo;
d)
Đệ nhất quốc tế chỉ nói: “Thế giới
vô sản giai cấp liên hợp”; Đệ tam quốc tế nói thêm “Vô sản giai cấp và dân tộc
bị áp bức trong thế giới liên hợp lại”. Đệ nhất quốc tế không bắt hội viên giúp
dân thuộc địa chống lại đế quốc chủ nghĩa như Đệ tam quốc tế.
Ây
là vì hoàn cảnh hai Quốc tế ấy khác nhau. Như việc dân tộc bị áp bức, Đệ nhất
quốc tế nói đến ít, vì lúc ấy đế quốc chủ nghĩa chưa phát đạt mấy. Vả lại, Đệ
tam quốc tế sinh ra sau thì có nhiều kinh nghiệm hơn Đệ nhất quốc tế.
Đến như chủ nghĩa làm kách mệnh cho đến nơi, làm cho thế
giới đại đồng, thì hai Quốc tế vẫn như nhau; chẳng qua Đệ nhất quốc tế làm không
đến nơi, mà Đệ tam quốc tế chắc là làm được, nhờ nay Nga kách mệnh đã thành
công để làm nền cho kách mệnh thế giới.
11. Đệ nhị quốc tế và Đệ tam quốc tế
khác nhau cái gì?
Đệ nhị quốc tế trước vẫn là cách mệnh, nhưng vì kỷ luật
không nghiêm, tổ chức không khéo, để tụi hoạt đầu xen vào nhiều quá; sau hoá ra
phản cách mệnh. Hai Quốc tế ấy khác nhau những điều sau này:
Đệ
tam quốc tế chủ trương đập đổ tư bản làm thế giới cách mệnh.
Đệ
nhị quốc tế chủ trương đề huề với tư bản.
Đệ
tam quốc tế giúp dân thuộc địa chống lại đế quốc chủ nghĩa.
Đệ
nhị quốc tế giúp đế quốc chủ nghĩa đè nén dân thuộc địa (Toàn quyền Varen là
hội viên Đệ nhị quốc tế).
Đệ tam quốc tế
dạy cho vô sản giai cấp trong thế giới - bất kỳ nòi giống nào, nghề nghiệp gì,
tôn giáo gì - hợp sức làm cách mệnh.
Đệ nhị quốc tế xui dân nước này chống dân nước kia, nghề
nghiệp này chống nghề nghiệp khác.
12. Đệ tam quốc tế đối với kách mệnh
An Nam thế nào?
Xem trong cách tổ
chức Đệ tam quốc tế, có đặt ra một bộ riêng, chuyên nghiên cứu và giúp đỡ cho
kách mệnh bên Á - Đông.
Xem khẩu hiệu Đệ
tam quốc tế, chẳng những rằng “vô sản giai cấp” mà lại thêm câu “... và dân tộc
bị áp bức trong thế giới liên hợp lại”.
Xem quy tắc Đệ
tam quốc tế trong 21 điều, điều thứ 8 nói rằng: “Các đảng cộng sản, nhất là
Đảng Cộng sản Pháp... phải hết sức giúp dân thuộc địa làm cách mệnh”.
Xem đương lúc
Pháp đánh Marốc và Xyri, vì giúp hai nước ấy mà Đảng Cộng sản Pháp hy sinh mấy
mươi đảng viên bị bắt, bị tù, Đảng bị phạt hơn 100 vạn đồng bạc.
Xem kách mệnh Nga
giúp cho kách mệnh Tàu, Thổ Nhĩ Kỳ, Pécsia, Mông Cổ.
Lại
xem kế hoạch về vấn đề thuộc địa là tự tay ông Lênin làm ra.
Xem những việc ấy thì đủ biết rằng An Nam muốn kách mệnh
thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế.
PHỤ NỮ QUỐC TẾ
1. Vì sao lập ra Phụ nữ Quốc tế?
Ông Các Mác nói
rằng: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ
giúp vào, thì chắc không làm nổi. Xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con gái,
thì biết xã hội tấn bộ ra thế nào?”.
Ông Lênin nói:
“Đảng kách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước, như
thế kách mệnh mới gọi là thành công”.
Những
lời ấy không phải câu nói lông bông. Xem trong lịch sử kách mệnh chẳng có lần
nào là không có đàn bà con gái tham gia. Kách mệnh Pháp có những người như cô
học trò Sáclốt Coócđây rút dao đâm chết người Tể tướng hung bạo, như bà Luy
Misen ra giúp tổ chức Pari Công xã. Khi Nga cách mệnh, đàn bà ra tình nguyện đi
lính; sau tính lại lính kách mệnh đàn bà chết hết 1.854 người. Nay kách mệnh
Nga thành công mau như thế, đứng vững như thế, cũng vì đàn bà con gái hết sức
giùm vào. Vậy nên muốn thế giới kách mệnh thành công, thì phải vận động đàn bà
con gái công nông các nước.
Vì vậy Đệ tam quốc tế tổ chức Phụ nữ Quốc tế.
2. Lịch sử Phụ nữ Quốc tế thế nào?
Năm
1910, bà Clara Détkin (cộng sản Đức) đề nghị trong Đại hội Đệ nhị quốc tế rằng:
Mỗi năm đến ngày 8 tháng 3 thì làm một ngày phụ nữ vận động gọi là “Ngày đàn bà
con gái”. Sau ngày ấy đổi ra một tuần. Khẩu hiệu tuần ấy là: “Đòi quyền tuyển
cử cho nữ giới”.
Năm
1917, ngày 23 tháng 2, đàn bà ở Kinh đô Nga nổi lên “đòi bánh cho con” và đòi
“giả chồng chúng tôi lại cho chúng tôi” (vì chồng phải đi đánh). Sự bạo động
này làm ngòi cho kách mệnh Nga.
Mồng 8 tháng 3
năm 1920, Đệ tam quốc tế phái bà Détkin tổ chức Phụ nữ Quốc tế. Khẩu hiệu là:
“Đàn bà con gái công nông phải liên hợp với Đệ tam quốc tế, để làm thế giới
cách mệnh”.
Năm 1923, nữ giới Nga ăn mừng “ngày 8 tháng 3” thì mở 66 nhà nuôi trẻ
con, 36 ấu trĩ viên, 18 nhà nuôi đồng tử, 22 nhà thương và nhà nghỉ, 15 nhà
nuôi đàn bà sinh cữ, 15 nhà ăn chung cho 10.000 người; 27 nhà hiệp tác xã dùng
đến 1.300 người đàn bà làm công, 11 cái công viên có nhà nghỉ cho những người
có bệnh.
3. Cách tổ chức của Phụ nữ Quốc tế
ra thế nào?
Quy
tắc và chương trình thì đại khái cũng như Đệ tam quốc tế. Nhưng bên này thì chỉ
chuyên trách về mặt tuyên truyền, tổ chức và huấn luyện đàn bà con gái, và giúp
về đường giáo dục trẻ con công nông.
Mỗi đảng cộng sản
phải có một bộ phụ nữ, trực tiếp thuộc về Phụ nữ Quốc tế. Nhưng đảng viên đàn
bà trong các đảng phải theo mệnh lịnh Quốc tế, khi phái để làm việc gì dẫu khó
nhọc, nguy hiểm mấy cũng phải làm. Thí dụ: Đảng viên A không phải là làm thợ,
nhưng khi Quốc tế bảo phải xin vào làm việc trong lò máy nào để vận động phụ nữ
trong ấy, thì tất phải bỏ nghề cũ mà vào làm trong lò máy.
Nói tóm lại là
quy tắc rất nghiêm, hành động rất thống nhất, và việc làm cũng rất khó. Vì phần
nhiều đàn bà con gái còn có tư tưởng thủ cựu. Tuy vậy, ai cũng hết lòng, cho
nên tiến bộ mau. Nhờ Phụ nữ Quốc tế mà các đảng cộng sản mới lập ra như đảng ở
Java, đảng viên đàn bà mỗi ngày một thêm nhiều.
An Nam kách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công, mà nữ
giới An Nam muốn kách mệnh thì phải theo Phụ nữ Quốc tế chỉ bảo.
CÔNG NHÂN QUỐC TẾ
1. Lịch sử Công nhân Quốc tế thế
nào?
Trước phải biết
qua lịch sử công nhân vận động, sau sẽ nói đến lịch sử công nhân.
Lịch sử công nhân vận động chia làm 3 thời kỳ:
a)
Trước Âu chiến, b) Đương lúc Âu
chiến, c) Khi Âu chiến rồi.
a) Trước khi Âu
chiến: Bên Âu và Mỹ có chừng 16 triệu thợ thuyền có tổ chức và có một hội gọi
là “Vạn quốc công hội”. Nhưng 16 triệu người ấy không vào “Vạn quốc công hội”
cả. Những đoàn thể vào lại chia ra nhiều phái biệt:
1.
Công đoàn chủ nghĩa Anh và Mỹ chỉ
lo sao thợ thuyền sinh hoạt khá, mà không nói đến đánh đổ tư bản.
2.
Vô chính phủ công đoàn các nước
Latinh, thì không muốn lập chính đảng.
3.
Cải lương chủ nghĩa thì chủ trương
công hội nên giúp chính đảng, nhưng không nên hợp với chính đảng.
4.
Trung lập chủ nghĩa chủ trương
rằng công nhân không phải là nền cách mệnh.
5.
Cộng sản chủ nghĩa, chủ trương đập
đổ tư bản, công nhân là nền cách mệnh, phải có chính đảng để dắt công hội làm
cách mệnh.
Vì
mục đích và chủ nghĩa lộn xộn không thống nhất như thế, cho nên hội không có
lực lượng.
b)
Khi Âu chiến: Hội này đi theo Đệ
nhị quốc tế, nghĩa là công hội nước nào giùm tư bản nước ấy.
Vả
lại, tiếng là Vạn quốc nhưng chỉ có thợ thuyền Âu và Mỹ, còn thợ thuyền Á, Phi,
Úc thì không vào.
c)
Sau khi Âu chiến: Phần thì thợ
thuyền cực khổ, phần thì phong triều kách mệnh Nga, công hội càng ngày càng to.
Như:
Năm 1913 Năm 1919
Anh chỉ có
4.000.000 người 8.000.000 người
Pháp chỉ có
1.000.000 người 2.500.000 người
Tất
cả các nước: 15.000.000 người 50.000.000 người
Công hội bên Á - Đông cùng rầm rầm rột rột lập lên (Tàu, Nhật, Ản Độ,
Java, Philíppin, vân v.).
2. Phong triều ấy kết quả ra thế
nào?
Tư bản các nước
thấy thợ thuyền thịnh thì sợ, và kiếm cách làm cho êm dịu xuống. Năm 1919 có
khai đại hội bên kinh đô Mỹ, để giải quyết việc thợ thuyền trong thế giới.
Trong hội ấy có đại biểu các Chính phủ, các tư bản, và các công hội các nước.
Nhưng nó chỉ cho bọn Đệ nhị quốc tế đại biểu cho thợ thuyền. Nước nào công nhân
thịnh đã đòi được 8 giờ (như Anh, Pháp), thì đại biểu Chính phủ nước ấy yêu cầu
các nước kia cũng phải dùng 8 giờ làm lệ chung (vì sợ tư bản nước kia được lợi
hơn tư bản nước nó).
Sau tư bản lập ra
hội Vạn quốc, lại lập thêm một bộ công nhân, có 12 đại biểu cho các Chính phủ,
6 đại biểu cho tư bản, và 6 đại biểu cho thợ thuyền. Nó lại dắt mấy anh công
tặc làm đại biểu thợ thuyền!
3. Tư bản làm như vậy, thợ thuyền
các nước có làm gì không?
Thợ thuyền có 31
quốc tế.
29 quốc tế nghề
nghiệp, nghĩa là nghề nghiệp nào có riêng quốc tế nghề nghiệp ấy; 1 quốc tế gọi
là Quốc tế Amxtécđam hay là Quốc tế “vàng” và 1 Quốc tế đỏ.
Quốc tế nghề
nghiệp có đã lâu, ước chừng 20.000.000 hội viên. Trong 29 quốc tế ấy, nghề sắt
to hơn hết (3.000.000 người); hai là nghề than (2.500.000 người); ba là thợ làm
nhà máy (2.300.000 người), vân v..
Lúc Âu chiến, các quốc tế ấy cũng tan, Âu chiến rồi lập lại, nhưng vì
bọn hoạt đầu cầm quyền, nên công việc không ra gì. Như năm 1921, 1.000.000
người đào than Anh bãi công, vì người đào than Mỹ, Đức và các nước không giúp
mà thua. Qua năm 1922, 500.000 thợ đào than Mỹ bãi công, cũng vì không ai giúp
mà thất bại. Nói tóm lại là các quốc tế ấy có danh mà không thực.
4.
Sao gọi là Quốc tế Amxtécđam hay “vàng”?
Vì Quốc tế ấy lập
ra tại Amxtécđam (kinh đô Holăng). Trong tiếng mới, phản kách mệnh gọi là sắc
vàng; kách mệnh gọi là sắc đỏ.
Năm 1919, các
công hội theo Vạn quốc công hội hội nhau tại Amxtécđam lập nên quốc tế này. Khi
đầu rất to, nhưng sau nhiều công hội bỏ vào Quốc tế “đỏ”, nay chỉ còn lại công
hội 23 nước, tất cả 14.400.000 người.
Quốc tế này theo
bọn hoạt đầu Đệ nhị quốc tế đề huề với tư bản, và làm nhiều việc phản kách mệnh
như:
1.
Tán thành điều ước Vécxây của
đế quốc chủ nghĩa bắt Đức đền 400.000.000 đồng.
2.
Đức không gánh nổi, Mỹ lại đặt
ra kế hoạch (gọi là kế hoạch Đạo Uy Tư) bắt Đức đền 132.000.000.000 đồng. Kế
hoạch ấy làm cho công nông Đức hoá ra nô lệ. Thế mà Quốc tế Amxtécđam cũng tán
thành.
3.
Không cho công hội Nga vào.
4.
Phản đối cộng sản rất kịch
liệt, mà đối đãi fasity rất hoà bình.
5. Sao gọi là Công nhân Quốc tế đỏ?
Quốc tế vàng đã
đề huề với tư bản, những thợ thuyền thiệt kách mệnh kiếm cách lập ra quốc tế
khác.
Năm 1920, tháng
7, chỉ có mấy người công nhân Anh, Ý, Pháp, Tây Ban Nha và Nga lập ra một cơ
quan tuyên truyền. Năm 1921, đã có nhiều công hội bỏ bên kia theo bên này. Ngày
mồng 3 tháng 7 năm ấy, Công nhân Quốc tế đỏ lập thành.
Quốc
tế đỏ theo về Đệ tam quốc tế, quyết làm giai cấp cách mệnh.
Nay
đã có công hội 47 nước, 11.750.000 người vào.
Tháng
5 năm 1925 bên Á - Đông có những hội này vào:
Tàu:
450.000 người;
Java:
35.000 người;
Nhật:
32.000 người;
Cao
Ly: 5.000 người;
Mông
Cổ: 5.000 người;
Thổ
Nhĩ Kỳ: 20.000 người;
An Nam: 000.
6. Quốc tế này đối với kách mệnh An
Nam ra thế nào?
Xem
trong Quốc tế vàng không có công hội Á - Đông nào, Quốc tế đỏ thì có 8 hội
thuộc địa vào.
Khi
thợ thuyền Java, Ản Độ bãi công, Quốc tế đỏ hết sức giúp, còn Quốc tế vàng thì
không ngó đến.
Ở Tàu, thợ thuyền
Thượng Hải bãi công hơn ba tháng, Hương Cảng bãi công hơn một năm rưỡi, Quốc tế
đỏ đã giúp tiền bạc, phái đại biểu qua yên ủi, lại sức công hội các nước giúp.
Quốc tế vàng chỉ in vài tờ tuyên ngôn rồi làm thinh.
Vậy thì biết nếu thợ thuyền An Nam biết tổ chức thì chắc
Quốc tế đỏ sẽ hết lòng giúp cho mà làm cách mệnh. Nhưng muốn người ta giúp cho,
thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã.
CỘNG SẢN THANH NIÊN QUỐC TẾ
1. Cộng sản Thanh niên Quốc tế là
gì?
Trước kia các
đảng xã hội có xã hội thanh niên. Các đảng ấy hợp lại thành Đệ nhị quốc tế. Các
thanh niên ấy cũng tổ chức xã hội thanh niên quốc tế. Khi Âu chiến, phần nhiều
Đệ nhị quốc tế đề huề với tư bản, phần nhiều thanh niên cũng bắt chước đề huề.
Những người thanh
niên kách mệnh bỏ hội ấy cũng như ông Lênin và những người chân chính kách mệnh
bỏ Đệ nhị quốc tế ra.
Đến tháng 11 năm
1919, thanh niên kách mệnh 14 nước bên Âu hội nhau tại kinh đô Đức (Béclin) lập
ra Thanh niên Cộng sản Quốc tế.
Năm
1921 đã có thanh niên 43 nước theo vào.
Năm
1922 có 60 nước, 760.000 người.
Năm 1924 có hơn 1.000.000 (thanh niên Nga chưa tính).
Đại
khái cũng theo cách tổ chức Đệ tam quốc tế. Thanh niên các nước khai đại hội,
cử ra một Hội uỷ viên; Hội uỷ viên có quyền chỉ huy, và thanh niên các nước
nhất thiết phải theo kế hoạch và mệnh lịnh Hội ấy.
Ước
chừng 16 đến 20 tuổi thì được vào Hội. Trước lúc Hội cho vào thì phải thử, công
nông binh thì 6 tháng, học trò thì một năm, làm việc được mới cho vào.
Mục
đích Cộng sản Thanh niên Quốc tế là:
2.
Bồi dưỡng nhân tài để đem vào đảng
cộng sản;
3.
Chuyên môn về việc kinh tế và
chính trị, có quan hệ cho bọn thanh niên;
4.
Tuyên truyền tổ chức và huấn luyện
bọn thợ thuyền, dân cày, học trò và lính thanh niên;
5.
Phản đối mê tín và khuyên dân
chúng học hành.
Nơi thì công
khai, như ở Nga, nơi thì nửa công khai, nửa bí mật, như ở các nước Âu và Mỹ.
Nơi thì bí mật như ở Cao Ly, Java, vân v..
Tuyên truyền và
tổ chức thì theo hoàn cảnh. Phái người lòn vào ở lính, hoặc làm thợ, hoặc đi
cày, hoặc đi học để tuyên truyền và kiếm đồng chí. Khi kiếm được một ít đồng
chí rồi, thì lập ra tiểu tổ chức. Hoặc lập ra hội học, hội đá bóng, hội chơi để
lựa đồng chí và tuyên truyền.
Nói tóm lại là họ làm hết cách để xen vào trong dân chúng.
4. Cộng sản Thanh niên đối với đảng
cộng sản thế nào?
Hai đoàn thể ấy
đối với nhau theo cách dân chủ, nghĩa là khi đảng có việc gì thì có đại biểu
thanh niên dự hội. Khi thanh niên có việc gì, thì đảng có đại biểu dự hội.
Đường chính trị, thì thanh niên theo đảng chỉ huy, nhưng việc làm thì thanh
niên độc lập. Nếu đảng và thanh niên có việc gì không đồng ý, thì có hai Quốc
tế xử phân.
Thanh
niên Cộng sản làm việc rất nỗ lực, rất hy sinh.
Trong năm 1921,
Thanh niên Đức chỉ có 27.000 người và Mỹ chỉ có 4 chi bộ. Năm 1922 Đức đã có đến
70.000 người và Mỹ có đến 150 chi bộ.
Hồi
lính Pháp đóng bên Đức, vì việc tuyên truyền, phản đối đế quốc chủ nghĩa trong
quân đội, mà 120 thanh niên Pháp bị tù. Hồi Pháp đánh Marốc, cũng vì việc ấy mà
hơn 3.000 thanh niên Pháp bị bắt.
Việc
bãi khoá ở Tàu, vận động ở Cao Ly, bãi công ở Anh, vân v., Cộng sản Thanh niên
đều đứng đầu đi trước.
Ngày
nay nước nào cũng có thanh niên cộng sản.
Chỉ An Nam là chưa!.
QUỐC TẾ GIÚP ĐỠ
Năm 1921, nước
Nga bị đại hạn mất mùa, dân chết đói nhiều. Đế quốc chủ nghĩa lợi dụng cơ hội
ấy, bên thì muốn xui dân Nga nổi loạn, bên thì muốn kéo binh vào phá kách mệnh
Nga. Phần thì đem các tàu bè vây biển Nga, không cho các tàu bè đi lại chở đồ
ăn bán cho dân Nga.
Những người có
lòng tốt như ông Nanxăn (người khoa học rất có danh tiếng nước Noócve, ông ấy
đi tàu bay qua Bắc cực), và các công hội đều có tổ chức hội cứu tế đi quyên
tiền, đồ ăn, và áo quần gửi cho dân Nga. Nhưng vì tổ chức tản mát cho nên sức
lực yếu.
Đệ
tam quốc tế và Công nhân Quốc tế đỏ (mới tổ chức) xướng lên lập một hội Quốc tế
giúp đỡ, để tập trung tất cả các hội cứu tế lại. Đệ nhị quốc tế và Công nhân
Quốc tế vàng không chịu vào, lập riêng ra một hội cứu tế riêng.
Tuy vậy, Quốc tế giúp đỡ cũng lập thành. Từ cuối năm 1921,
đến năm 1922, Quốc tế này quyên được hơn 5.000.000 đồng bạc, và 40.000.000 kilô
đồ ăn cho dân Nga.
2. Khi Nga khỏi đói rồi, quốc tế
này làm việc gì?
Nga
khỏi đói rồi, Quốc tế này vẫn tiếp tục làm việc mãi. Bất kỳ xứ nào có tai nạn
gì, Quốc tế này đều ra sức giúp. Như năm 1923 Ailan (Ireland) mất mùa, mấy vạn
dân cơm không có ăn, áo không có mặc, nhờ Quốc tế qua giúp mà khỏi chết đói.
Năm 1924, thợ thuyền Đức bãi công hơn 60 vạn người, Quốc tế này lập ra nhà ăn
không mất tiền, mỗi ngày hơn 25.000 người thợ tới ăn. Lại lập ra nhà thương để
nuôi những người bãi công đau ốm; lập ra nhà nuôi trẻ con của thợ thuyền, lập
ra đội lữ hành đem trẻ con Đức qua gửi cho công hội các nước nuôi dạy. Lúc bãi
công gần rồi mới đem về.
Năm
Nhật Bản có động đất, Tàu mắc lụt, Quốc tế này cũng chở đồ ăn, đồ mặc và đồ làm
nhà qua giúp.
Nói tóm lại là ở đâu mắc nạn lớn, là Quốc tế này đều giúp
cả.
3. Quốc tế giúp đỡ lấy tiền đâu?
Quốc tế này không
phải là một hội làm phúc phát chẩn và bố thí như các hội của tư bản lập ra. Mục
đích Quốc tế này là “thợ thuyền và dân cày trong thế giới là anh em, khi anh em
xứ này rủi ro, thì anh em xứ khác phải giúp đỡ”, vậy nên, khi có việc thì hội viên
ra sức quyên, khi vô sự thì phải góp hội phí. Hội phí tuỳ theo hạng người như
thợ thuyền làm ra đồng tiền dễ, thì đóng nhiều hơn, dân cày ít tiền thì đóng
ít. Nhưng ai cũng phải đóng.
Vì Quốc tế có chi
bộ khắp cả 5 châu, và hội viên rất đông, nhất là ở Nga, cho nên chỉ hội phí góp
lại cũng đã khá nhiều.
Quốc tế lại đem
tiền ấy làm ra hoa lợi, như mở sở cày, làm hát bóng, mở nhà buôn, sở đánh cá,
vân v.. Phần nhiều những công cuộc này đều là ở Nga. Chỉ một chỗ đánh cá ở
Atrakan mỗi năm đánh được 4-5 triệu kilô cá.
Tiền bán ra đều để dành để giúp đỡ cho thế giới cả.
4. Quốc tế này đối với kách mệnh có
ích gì?
Như nước An Nam
gặp lúc vỡ đê vừa rồi, hay những khi đại hạn và lụt. Nếu Quốc tế biết, chắc có
giúp đỡ. Song:
1.
Là vì dân ta chưa ai biết đến mà
kêu van;
2.
Là Pháp sợ Quốc tế làm cho dân ta
biết cách thân ái và liên hợp của vô sản giai cấp trong thế giới;
3.
Nó sợ tuyên truyền kách mệnh cho
nên nó hết sức giấu dân ta không cho biết rằng trong thế giới có một hội như
thế và ngăn trở Quốc tế ấy lọt vào đến An Nam.
Cái gì Pháp ghét,
tất là có ích cho An Nam.
Còn như việc cách
mệnh, Quốc tế này cũng giúp được nhiều. Xem như khi dân Nga đói, nhờ Quốc tế
này mà không đến nỗi oán Chính phủ cách mệnh. Thợ thuyền Nhật nhờ Quốc tế này
mà khôi phục được công hội lại mau. Thợ thuyền Đức nhờ Quốc tế này mà cứ việc
phấn đấu, vân v., thì biết rằng Quốc tế này sẽ có ích cho kách mệnh An Nam
nhiều.
QUỐC TẾ CỨU TẾ ĐỎ
Quốc tế giúp đỡ
thì cứu tế cho dân bị tai nạn, và cũng cứu tế cho những người chính trị phạm
nữa. Quốc tế cứu tế đỏ thì chuyên môn giúp đỡ cho chính trị phạm mà thôi.
Bây giờ là hồi tranh đấu; vô sản thì tranh đấu với tư bản, dân bị áp
bức thì tranh đấu với đế quốc chủ nghĩa. Tư bản và đế quốc chủ nghĩa về một
phe, vô sản và dân bị áp bức về một phe. Hai phe ấy cũng như hai quân đội đánh
nhau. Quân đội kách mệnh thì theo cờ Đệ tam quốc tế. Quân phản kách mệnh thì
theo cờ bọn nhà giàu. Đánh nhau thì chắc có người phải bắt, người bị thương,
người bị chết. Quốc tế cứu tế đỏ là như cái nhà thương để săn sóc cho những
người bị thương, giùm giúp cho những người bị bắt, trông nom cho cha già mẹ
yếu, vợ dại con thơ của những người đã tử trận cho cách mệnh.
2. Quốc tế cứu tế đỏ lập ra bao
giờ?
Năm 1923, Đệ tam
quốc tế khai đại hội, có hội “bị đày chung thân” và hội “những người cộng sản
già” đề nghị, và Đệ tam quốc tế tán thành lập ra Quốc tế cứu tế đỏ. Trước hết
lập ra Tổng bộ tại Nga. Bây giờ nước nào cũng có Chi bộ. (Chỉ có An Nam chưa).
Nga bây giờ có
50.000 phân bộ và 9 triệu hội viên. Tất cả công nhân và nhiều dân cày vào hội
ấy, hoặc vào từng người, hoặc cả đoàn thể. Tất cả các người cộng sản và cộng
sản thanh niên đều phải vào hội ấy.
Khi
mới lập ra, ba tháng đầu đã quyên được 300.000 đồng. Bốn tháng sau thì quyên
được 4.000.000 đồng. Ở tỉnh Quảng Đông, Tàu mới lập Chi bộ được 6 tháng mà đã
được 250.000 hội viên.
Xem thế thì biết Quốc tế ấy phát triển rất chóng.
Khi
những người kách mệnh hoặc bị đuổi, hoặc bị bắt, hoặc bị tù, hoặc bị chết, thì
Quốc tế giúp đỡ:
a)
Giúp chính trị: Như có người bị
bắt, bị giam, thì Quốc tế sức cho các Chi bộ khai hội và tuần hành thị uy. Như
vừa rồi có hai người kách mệnh Ý bị bắt tại Mỹ, toan phải án chết, Quốc tế sức
chẳng những là thợ thuyền Mỹ làm như thế, mà lại nước nào, xứ nào có lĩnh sự Mỹ
thì thợ thuyền đều khai hội tuần hành và tuyên ngôn rằng: Nếu Chính phủ giết
hai người ấy, thì thợ thuyền Mỹ bãi công, và thợ thuyền thế giới sẽ tẩy chay
Mỹ. Mỹ thấy vậy thì không dám làm tội hai người ấy.
b)
Giúp kinh tế: Hễ bị giam thì
thường ăn uống cực khổ, còn vợ con cha mẹ ở nhà thì không ai nuôi. Quốc tế gửi
tiền cho để mua đồ ăn trong nhà giam và giúp cho người nhà ít nhiều để khỏi
phải đói rách. Như vậy thì những người bị giam cầm đã khỏi cực khổ quá, mà lại
vui lòng. Hoặc Quốc tế xuất tiền thuê thầy kiện để chống án cho. Hoặc gửi áo
quần sách vở cho.
c)
Giúp tinh thần: Hoặc phái người
hoặc gửi thơ đến thăm.
1.
Người ở giam biết rằng mình tuy hy
sinh cho quần chúng mà quần chúng không quên mình, thế thì trong lúc bị giam đã
không buồn sau được khỏi lại càng hết sức.
2.
Là người ta biết rằng mình tuy
phải giam một nơi, nhưng công việc kách mệnh vẫn cứ phát triển, vẫn có người
làm thế cho mình.
4. Kách mệnh An Nam nên theo Quốc
tế này không?
Nên lắm. Kách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong kách
mệnh thế giới. Ai làm kách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam
cả. Đã là đồng chí, thì sung sướng cực khổ phải có nhau. Huống gì, dân An Nam
là đương lúc tranh đấu với đế quốc chủ nghĩa Pháp, chắc là về sau sẽ có nhiều người
kách mệnh phải hy sinh, phải khốn khổ, phải cần anh em trong thế giới giúp
giùm.
CÁCH TỔ CHỨC CÔNG HỘI
Tổ
chức công hội trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình; hai là
để nghiên cứu với nhau; ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá
hơn bây giờ; bốn là để giữ gìn lợi quyền cho công nhân; năm là để giúp cho quốc
dân, giúp cho thế giới.
Đi
lại không phải là bữa này người A có giỗ chạp thì người B tới ăn; mai người B
có cúng quảy lại mời người C tới uống rượu. Nhưng đi lại để bày vẽ cho nhau
điều khôn lẽ phải, để giao hoán trí thức cho nhau.
Nghiên cứu chẳng
những là giở sách vở, giở báo ra giảng; nhưng phải bàn bạc cách phấn đấu với tư
bản và đế quốc chủ nghĩa[14].
Sửa
sang cách sinh hoạt như lập hiệp tác xã, mở hội học, hội chơi cho công nhân,
vân vân.
Giữ
gìn lợi quyền là khi hội đã có thế lực rồi, thì đòi thêm tiền công, bớt giờ
làm, vân vân.
Giúp cho quốc dân và thế giới là đem lực lượng thợ thuyền cách mệnh làm
cho ai cũng được bình đẳng tự do như thợ thuyền Nga đã làm từ năm 1917.
2. Cách tổ chức công hội thế nào?
Tổ chức có hai
cách, cách nghề nghiệp và cách sản nghiệp.
Nghề nghiệp là ai
làm nghề gì thì vào hội nghề ấy. Như thợ may vào hội may, thợ rèn vào hội rèn.
Sản nghiệp là bất
kỳ nghề gì, hễ làm một chỗ thì vào một hội. Như việc xe lửa, người đốt than,
người sơn xe, người phát vé, người coi đường, người cầm máy; tất cả nhập vào
một công hội xe lửa.
Tổ chức theo cách sản nghiệp thì mạnh hơn, vì thống nhất hơn. Thí dụ
khi xe lửa muốn bãi công, nếu hội là sản nghiệp thì hội viên đều phải bãi công
hết, thì tư bản sợ hơn. Nếu hội là nghề nghiệp, thì có khi người đốt lửa bãi
công mà người cầm máy không, hoặc người phát vé bãi công mà người làm ga không,
thế thì sức bãi công yếu đi.
3. Một người công nhân có thể vào
hai hội không?
Không. Nếu hội ấy
là nghề nghiệp, thì chỉ những người đồng nghề nghiệp được vào; ai đã vào hội
sản nghiệp rồi thì không được vào hội nghề nghiệp nữa. Thí dụ: Xe lửa đã tổ
chức theo sản nghiệp, mấy người thợ việc[15] đã vào hội ấy rồi. Trong xứ ấy
lại có một hội thợ mộc khác, những người thợ mộc trong hội xe lửa[16]
không được vào.
Trong một nghề
hoặc một sản nghiệp cũng không được lập hai hội.
Nhưng mà một công
hội có phép vào hai tổng công hội. Thí dụ: Hội xe lửa Hà Nội đã vào Tổng công
hội xe lửa An Nam lại vào tổng công hội ta nào.
Nói tóm lại là
đoàn thể thì có phép vào nhiều
tổng công hội mà từng người thì chỉ được
vào một hội mà thôi. Nếu giới hạn này không nghiêm thì sau hay bối rối.
4. Công hội với chính đảng khác
nhau thế nào?
Công
hội chú trọng mặt kinh tế hơn. Đảng chú trọng mặt chính trị hơn. Ai là thợ
thuyền thì được vào hội, dù tin Phật, tin đạo, tin cộng sản, tin vô chính phủ,
tin gì cũng mặc, miễn là theo đúng quy tắc hội là được.
Đảng
thì bất kỳ người ấy làm nghề gì, thợ thuyền hay là dân cày, học sinh hay là
người buôn, miễn là người ấy tin theo chủ nghĩa đảng, phục tùng phép luật đảng[17]
thì được vào.
Ai vào cả đảng và hội, chính trị thì theo đảng chỉ huy, mà
kinh tế thì theo công hội chỉ huy. Đảng viên ai cũng phải vào hội để mà tuyên
truyền chủ nghĩa của đảng. Nhưng không phải hội viên nào cũng vào được đảng.
5. Cái gì là hệ thống của công hội?
Hệ
thống là cách tổ chức ngang hay là dọc.
Ngang
là như trong một tỉnh có hội thợ rèn, hội thợ may, hội thợ mộc, hội thợ nề, vân
vân, tất cả các hội tổ chức thành tỉnh tổng công hội; hội nào cũng bình đẳng,
bằng ngang nhau.
Dọc
là như mỗi huyện có một hội thợ may, 4, 5 hội huyện tổ chức một hội thợ may
tuyền tỉnh, tất cả hội thợ may trong mấy tỉnh tổ chức một hội thợ may cả nước.
Ây là dọc, nghĩa là từ dưới lên trên.
Đã ngang lại dọc, thế thì theo mệnh lịnh tổng công hội
ngang hay là tổng công hội dọc? Nếu quan hệ về sản nghiệp thì theo mệnh lịnh
dọc. Nếu quan hệ về địa phương thì theo mệnh lịnh ngang.
6. Muốn hội vững bền thì phải tránh
những việc gì?
Đã
vào công hội thì:
1.
Nên bỏ giới hạn xứ sở, nghĩa là
chớ phân biệt người này là Trung Kỳ, người kia là Nam Kỳ, người nọ là Bắc Kỳ.
Và cũng không nên chia ra người An Nam, người Tàu hay là người nước nào. Đã một
nghề, một hội tức là anh em cả, phải xem nhau như người một nhà.
2.
Đàn ông, đàn bà đều phải bình
đẳng.
3.
Chớ có bỉ thử[18] mình khéo hơn, lương cao hơn,
mà khinh người vụng và ăn tiền ít.
4.
Chớ cậy mình là nhiều tuổi mà muốn
làm đàn anh.
5.
Chớ cho bọn tư bản vào hội.
7. Phải tổ chức thế nào cho kiên
cố?
Công
hội là cơ quan của công nhân để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa, cho nên
tổ chức phải nghiêm nhặt, chỉ huy phải mau mắn, làm việc phải kín đáo. Muốn
được như thế thì phải tổ chức như quân đội.
Quân
lính thì có đội ngũ.
Thợ
thuyền phải có tiểu tổ, chi bộ.
Thí
dụ: Trong tỉnh có 5 nhà máy dệt vải, mỗi nhà máy phải có một chi bộ. Trong mỗi
chi bộ lại chia làm mấy tiểu tổ; mỗi chi bộ phải cử 3 hoặc 5 người làm uỷ viên;
(phần nhiều nên cử những người làm trong lò đã lâu, thuộc tình hình nhiều) mỗi
tiểu tổ phải cử tổ trưởng. Mỗi tiểu tổ không được quá 10 người.
Tiểu
tổ theo mệnh lịnh chi bộ, chi bộ theo tỉnh hội, tỉnh hội theo quốc hội[19].
Có thứ tự như thế thì trong hội có mấy mươi vạn người chỉ huy cũng dễ, và hành
động cũng nhất trí.
Cây có nhiều rễ
mới vững, hội có nhiều tiểu tổ mới bền. Tiểu tổ phải:
1.
Huấn luyện và phê bình anh em;
2.
Thi hành những việc hội đã định;
4.
Điều tra tình hình trong lò máy;
5.
Đề nghị những việc hội nên làm;
7.
Báo cáo những việc làm cho chi bộ,
để chi bộ báo cáo cho tỉnh bộ, vân vân.
Chi bộ nhiều người khó khai hội, khó xem xét. Tiểu tổ ít
người, làm gần nhau, quen biết nhau, cho nên xem xét, huấn luyện, làm việc và
khai hội dễ bí mật hơn và mau mắn hơn. Tiểu tổ là có ích như thế. Vả lại, nếu
Chính phủ cấm công hội, mà tiểu tổ khéo tổ chức, thì công hội cứ tiến bộ, cứ
làm việc được. Vậy cho nên người ta gọi tiểu tổ là gốc của hội.
9. Thứ tự trong công hội thế nào?
Tiểu
tổ lên chi bộ.
Nếu trong tỉnh
nhiều lò máy, 4, 5 chi bộ tổ chức một bộ uỷ viên (4, 5 lò ấy mỗi lò cử 1 hoặc 2
người).
Bộ
uỷ viên lên tỉnh hội.
Tỉnh hội lên quốc
hội.
Ây là thứ tự tổ
chức. Còn quyền bính thì về dự hội, nghĩa là tất cả hội viên khai hội bàn định.
Nếu hội viên nhiều quá, khai hội không tiện thì định mấy người cử một đại biểu
dự hội, ấy là đại biểu đại hội. Đại hội nghị định việc gì, thì chấp hành uỷ
viên hội phải thi hành. Khi hội tan thì quyền về chấp hành uỷ viên hội.
Đại biểu đại hội
trong tỉnh một tháng khai hội một lần. Đại biểu đại hội trong nước, một năm một
lần.
Đại biểu nên cử công nhân làm, không nên cử những người chức việc[20]
trong hội. Khi khai hội, đại biểu phải báo cáo tình trạng và ý kiến của công
nhân (không phải ý kiến riêng mình), đề nghị và bàn bạc các việc. Khai hội rồi,
phải về báo cáo việc hội cho công nhân.
10. Có việc gì thì giải quyết thế
nào?
Từ tiểu tổ đến
đại hội đều theo cách dân chủ tập trung. Nghĩa là có việc gì thì ai cũng được
bàn, cũng phải bàn. Khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào nhiều người theo hơn
thì được. Ây là dân chủ. Đã bỏ thăm rồi, thì giao cho hội uỷ viên làm, khi ấy
thì tất cả hội viên phải theo mệnh lịnh hội ấy. Ây là tập trung. Ai không nghe
lời thì uỷ viên hội có quyền phạt.
Gặp
việc bất thường không kịp khai hội, thì uỷ viên có quyền xử trí, sau báo cáo
cho hội.
Gặp việc bất thường lắm, thì hội uỷ viên cứ phép giao quyền cho một
người, người này có quyền độc đoán, việc rồi[21] báo cáo với hội.
11. Sao hội viên phải nộp hội phí?
Có hội thì có phí
tổn, như thuê nhà, bút mực, vân vân, ấy là thường phí, hội viên phải gánh. Lại có
bất thường phí, như để dành phòng lúc bãi công hoặc giúp những hội khác bãi
công, hoặc giúp đỡ những người trong hội mất việc làm, hoặc làm các việc công
ích, vân vân. Nếu hội không tiền thì làm không được. Cho nên hội viên phải “góp
gió làm bão”.
Khi
hội có tiền thừa thãi, thì nên làm những việc này:
1.
Lập trường học cho công nhân;
2.
Lập trường cho con cháu công nhân;
4.
Lập nhà thương cho công nhân;
5.
Lập nhà ngủ, nhà tắm, nhà hát;
7.
Tổ chức công binh[22],
đồng tử quân[23],
vân vân. Phải xem hoàn cảnh mà làm, chớ cho tư bản và đế quốc chủ nghĩa chú ý.
Hội tiêu tiền phải rất phân minh, cho hội viên đều biết. Hội phí không nên thu
nặng quá; phải theo sức hội viên.
12. Cách tổ chức bí mật thế nào?
Khi hội được công
khai, các tiểu tổ cũng phải giữ bí mật. Khi không được công khai, thì phải mượn
tiếng hợp tác xã, trường học, hoặc câu lạc bộ (nhà xéc) vân vân, che mắt người
ta. Ở Tàu, ở Nhật nhiều nơi thợ thuyền lập nhà bán nước, ngoài thì bán bánh bán
nước, trong thì làm việc hội. Thợ thuyền vào uống nước ăn bánh, và bàn việc;
cho nên ma tà mật thám không làm gì được. Có nơi lại giả hội cúng tế hoặc hội
chơi, vân vân để che cho công hội.
Lại khi mới gây
dựng ra hoặc ở nơi thợ thuyền ít, phải tuỳ cơ ứng biến, không nhất định cứ theo
cách thường.
Đại khái cách tổ chức công hội phải thống nhất, bí mật, nghiêm nhặt,
thì hội mới vững vàng.
TỔ
CHỨC DÂN CÀY
1. Vì sao phải tổ chức dân cày?
Nước
ta kinh tế chưa phát đạt, trong 100 người thì đến 90 người là dân cày. Mà dân
cày ta rất là cực khổ, nghề không có mà làm, đất không đủ mà cày, đến nỗi cơm
không đủ ăn, áo không có mặc.
Xem
như Trung Kỳ, tất cả chừng 5.730.000 người dân mà chỉ có chừng 148.015 mẫu
ruộng.
Trước
năm 1926, Tây đồn điền đã chiếm mất 62.000 mẫu. Từ năm 1926, 175 thằng Tây đồn
điền lại chiếm hết:
1.982
mẫu ở Thanh Hoá,
35.426
mẫu ở Nghệ An,
17.076
mẫu ở Nha Trang,
13.474
mẫu ở Phan Thiết,
92.000
mẫu ở Kon Tum,
67.000
mẫu ở Đồng Nai.
Như
thế thì dân ta còn ruộng đâu nữa mà cày!
2. Tây đồn điền choán ruộng cách
thế nào?
Chúng
nó dùng nhiều cách. Như tháng 6 năm 1922[24], 20 thằng Tây rủ nhau xin
Chính phủ Tây mỗi thằng 3.000[25]
mẫu trong lục tỉnh. Xin được rồi nhóm cả lại thành ra 60.000 mẫu, 19 thằng bán
lại cho 1 thằng.
Tháng
8 năm 1926, nhà ngân hàng Đông - Pháp xin 30.000 mẫu, trong đám đất ấy đã có 6
làng An Nam ở. Khi nhà ngân hàng xin được rồi thì nó đuổi dân ta đi.
Nam
Kỳ bị Tây đồn điền chiếm mất 150.000 mẫu ruộng tốt.
Phần
thì Tây đồn điền cướp, phần thì các nhà thờ đạo chiếm. Các cố đạo chờ năm nào
mất mùa, đem tiền cho dân cày vay. Chúng nó bắt dân đem văn khế ruộng cầm cho
nó và ăn lời thiệt nặng. Vì lời nặng quá, đến mùa sau trả không nổi, thì các cố
xiết ruộng[26]
ấy đem làm ruộng nhà thờ.
3. Chính phủ Pháp đãi[27] dân cày An Nam thế nào?
Tư bản Tây và nhà
thờ đạo đã choán gần hết đất ruộng, còn giữ được miếng nào thì Chính phủ lại
đánh thuế thiệt nặng, mỗi năm mỗi tăng. Như mỗi mẫu ruộng tốt mỗi năm tất cả
hoa lợi được chừng 25 đồng, Tây nó đã lấy mất 2 đồng 5 hào thuế, nghĩa là 10
phần nó lấy mất một.
Nếu tính tiền
thuê trâu bò, mua phân tro, mướn làm, tiền ăn uống, thì mỗi mẫu mỗi năm đã hết
chừng 30 đồng. Nghĩa là dân cày đã lỗ mất 5 đồng, mà Chính phủ lại còn kẹp[28]
lấy cho được 2 đồng rưỡi.
Chẳng thế mà thôi. Dân ta cày ra lúa mà không được ăn. Đến mùa thuế thì
bán đổ bán tháo để nộp thuế. Tây nó biết vậy thì nó mua rẻ để nó chở đi bán các
xứ, mỗi năm nó chở hết 150 vạn tấn. Nó chở đi chừng nào, thì gạo kém chừng ấy,
thì dân ta chết đói nhiều chừng ấy.
Sự cực khổ dân
cày An Nam là:
1.
Ruộng bị Tây choán hết, không đủ
mà cày.
2.
Gạo bị nó chở hết, không đủ mà ăn.
3.
Làm nhiều, được ít, thuế nặng.
4.
Lại thêm nước lụt, đại hạn, vỡ đê,
mất mùa.
5.
Đến nỗi chết đói, hoặc bán vợ đợ
con, hoặc đem thân làm nô lệ như những người nó chở đi Tân thế giới.
6.
Nào là chính trị áp bức (thử hỏi
dân cày ta có quyền chính trị gì?), văn hoá áp bức (dân cày ta được mấy người
biết chữ, trong làng được mấy trường học?).
Nếu dân cày An Nam muốn thoát khỏi vòng cay đắng ấy, thì phải tổ chức
nhau để kiếm đường giải phóng.
5. Cách tổ chức dân cày thế nào?
Cách tổ chức đại
khái như sau:
1.
Bất kỳ đàn ông đàn bà, từ những
người tiểu điền chủ cho đến những dân cày thuê cày rẽ, từ 18 tuổi trở lên thì
được vào. (Những người đại địa chủ, mật thám, cố đạo, say mê rượu chè, cờ bạc
và a phiến[29]
thì chớ cho vào hội).
2.
Ai vào phải tình nguyện giữ quy
tắc hội, và phải có hội viên cũ giới thiệu.
3.
Làng nào đã có 3 người tình nguyện
vào hội thì tổ chức được một hội làng, 3 làng có hội thì tổ chức hội tổng, 3
tổng có hội thì tổ chức hội huyện, 3 huyện có hội thì tổ chức hội tỉnh, 3 tỉnh có
hội thì tổ chức hội nước.
4.
Còn cách khai hội, tổ chức các bộ
làm việc, tuyển cử, đề nghị, giải quyết, báo cáo thì cũng như công hội.
6. Hội dân cày nên đặt tiểu tổ hay
không?
Dân
cày trong làng không xúm xít đông đúc như thợ thuyền trong lò máy, cho nên hội
dân cày làng thế cho tiểu tổ; người uỷ viên thế cho tổ trưởng cũng được.
Uỷ viên bên thì
chỉ huy cho hội viên làm việc, bên thì thi hành mệnh lịnh từ thượng cấp truyền
đến, bên thì báo cáo việc đại hội với hội viên, bên thì báo cáo công việc hội
viên với đại hội.
Các hội viên thì
phải:
2.
Điều tra cách ăn làm và các
việc trong làng;
3.
Đề xướng làm các hợp tác xã;
4.
Hết sức mở mang giáo dục, như
lập trường, tổ chức nhà xem sách, vân vân;
5.
Khuyên anh em dân cày cấm
rượu, a phiến, đánh bạc;
Nói tóm lại là kiếm làm những việc có ích cho dân cày, có
lợi cho nòi giống.
7. Nếu không có tiểu tổ sao giữ
được bí mật?
Ây
là nói về lúc bình thường, có lẽ công khai được. Nếu lúc phải giữ bí mật, thì:
2.
Chớ gọi là hội dân cày, nhưng gọi
là phường lợp nhà, phường đánh cá, phường chung lúa, vân vân để mà che mắt
thiên hạ. Vả trong làng xã An Nam hiện bây giờ cũng có nhiều phường hội như
thế, muốn tổ chức dân cày thì nên theo hoàn cảnh mà lợi dụng những phường ấy.
Cốt làm sao cho người ngoài đừng chú ý là tốt.
Khi
hội đã vững, hội viên đã đông, lại nên đặt các bộ chuyên môn[30]
như:
Bộ
tập thể thao;
Bộ
cải lương nghề cày cấy[31];
Bộ
người cày thuê (đi cày thuê gặt mướn cho người ta, mình không có đất ruộng trâu
bò gì cả);
Bộ người cày rẽ;
Bộ thủ công
nghiệp (thợ thuyền trong làng tuy không cày ruộng, hoặc nửa cày nửa thợ, cũng
phải cho vào hội dân cày);
Bộ thanh niên, bộ phụ nữ, bộ giáo dục, vân vân.
8. Có nông hội rồi đã khỏi những sự
cực khổ nói trên chưa?
Sự tự do, bình
đẳng phải cách mệnh mà lấy lại, hội nông là một cái nền cách mệnh của dân ta.
Nếu thợ thuyền và dân cày trước tổ chức kiên cố, sau đồng tâm hiệp lực mà cách
mệnh thì sẽ khỏi những sự cực khổ ấy. Dẫu chưa cách mệnh được ngay, có tổ chức
tất là có ích lợi. Như mỗi năm Tây nó bắt dân ta hút 150 vạn kilô a phiến, nó
lấy 1.500 vạn đồng lời. Nó bắt ta mua 173.000.000 lít rượu, nó lấy 1.000 triệu
phrăng lời. Nó vừa lấy lời vừa làm cho ta mất nòi mất giống. Nếu dân cày tổ
chức mà khuyên nhau đừng uống rượu, đừng hút a phiến, thì đã cứu được nòi giống
khỏi mòn mỏi, mỗi năm lại khỏi đem 1.000.000.000 phrăng và 15.000.000 đồng bạc
cúng cho Tây. Tây nó áp bức ta vì ta không thương yêu nhau, vì ta ngu dốt. Có
hội hè rồi trước là có tình thân ái, sau thì khuyên nhau học hành. Chúng ta đã
biết “cách mệnh” tinh thần, “cách mệnh” kinh tế, thì “cách mệnh” chính trị cũng
không xa.
[1] Trắc đạc: đo đạc (BT).
[2] Cách vật Kách mệnh: sinh vật
Kách mệnh (BT).
[3] Sinh hoá: nảy nở và biến đổi
(BT).
[4] Cuộc Minh Trị duy tân từ năm
1868 (BT).
[5] Giành lấy chính quyền (BT).
[6] Cuộc nội chiến ở Mỹ kéo dài từ năm 1861 đến năm 1865 giữa các tập đoàn
tư sản công nghiệp miền Bắc và các tập đoàn chủ nô miền Nam (BT).
[7] Đồng phrăng Pháp (BT).
[8] Giai cấp bị áp bức Kách mệnh,
tức là giai cấp bị áp bức làm cách mạng (BT).
[9] Nay là nước Triều Tiên (BT).
[10] Công nông là người chủ Kách mệnh, tức là công nhân và nông dân
là lực lượng nòng cốt, là đội quân chủ lực của cách mạng (BT).
[11] Giảng giải lý luận và chủ nghĩa,
tức là giảng giải lý luận cách mạng và chủ nghĩa Mác - Lênin (BT).
[12] Tức là không biết nắm
thời cơ cách mạng (BT).
[13] Dân thường bị chia rẽ (do âm mưu
của bọn thực dân là chia rẽ để dễ cai trị) (BT).
[14] Câu này hiểu như sau: Nghiên cứu chẳng những là giở sách vở, giở báo
ra giảng mà còn phải bàn bạc cách đấu tranh với bọn tư bản và đế quốc chủ
nghĩa.
[15] Công nhân các nghề
trong ngành xe lửa.
[16] Câu còn hiểu là: Hội xe
lửa Hà Nội đã vào Tổng Công hội xe
lửa Việt Nam còn có thể vào một Tổng Công hội khác.
[17] Điều lệ Đảng.
[18] So sánh, so kè.
[19] Công hội toàn quốc.
[20] Chức việc: Người có chức vụ. Ở đây nên hiểu là không cử người có chức
vụ trong bộ máy chính quyền thực dân phong kiến.
[21] Xong việc rồi.
[22] Ở đây có thể hiểu là
đội tự vệ.
[23] Một tổ chức của thiếu
niên, nhi đồng
[24] Số này trong nguyên bản
bị mờ.
[25] Số này trong nguyên bản bị mờ.
[26] Một hình thức tước đoạt
ruộng để trừ vào tiền cho vay.
[27] Đãi: Đối xử với...
[28] Bắt ép, bắt chẹt.
[29] Thuốc phiện
[30] Các ban chuyên môn.
[31] Ban cải tiến nghề cày cấy.
Không có nhận xét nào