BẢN ÁN CHẾ ĐỘ THỰC DÂN PHÁP
“Bản án chế độ thực dân Pháp” (Le Procès de la Colonisation Franẹaise) là tác phẩm của Hồ Chủ tịch viết bằng tiếng Pháp trong khoảng những năm 1921 - 1925, đăng tải lần đầu tiên tại Paris (Thủ đô nước Pháp) trên Báo Imprékor của Quốc tế Cộng sản.
Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục, với cách
thành văn ngắn gọn, súc tích, cùng với những sự kiện đầy sức thuyết phục, tác
phẩm tố cáo thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn khốc liệt bắt “dân bản xứ” phải
đóng “thuế máu” cho chính quốc... để “phơi thây trên chính trường Châu Âu”, đày
đọa phụ nữ, trẻ em “thuộc địa”; các thống sứ, quan lại thực dân độc ác như một
bầy thú dữ, v.v. Tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn ngay từ khi ra đời, thức
tỉnh lương tri của những con người yêu tự do, bình đẳng, bác ái, hướng các dân
tộc bị áp bức đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga và Chủ nghĩa Mác-Lm
ênin, thắp lên ngọn lửa đấu tranh cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội của
dân tộc Việt Nam.
Năm 1946, ở Việt Nam, tác phẩm này đã được xuất bản
bằng tiếng Pháp tại Hà Nội. Năm 1960, Nhà xuất bản Sự Thật lần đầu tiên đã xuất
bản bằng tiếng Việt.
Nhân hưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản Trẻ in tác phẩm “Bản án chế độ
thực dân Pháp” - một trong những đỉnh cao của văn chương chính luận cách
mạng.
Để giúp bạn đọc thuận tiện trong việc nghiên cứu
nội dung tác phẩm, chúng tôi có in lại lời giới thiệu của Giáo sự - Viện sĩ
Nguyễn Khánh Toàn, nguyên Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam.
Xin trân trọng giới thiệu quyển sách này với độc
giả.
NHÀ XUẤT BẢN TRẺ
Vào cuối thế kỷ 19, khi bọn thực dân
Pháp đặt xong bộ máy cai trị ở Việt Nam, chúng bắt tay vào công cuộc khai thác
nước ta với quy mô lớn. Sự bóc lột hết sức tàn ác, dã man của bọn tư bản độc
quyền Pháp cộng với sự áp bức, bóc lột của bọn địa chủ phong kiến trong nước
được chúng tiếp tay làm cho đời sống của nhân dân ta vô cùng điêu đứng, khổ
cực.
Nước mất, nhà tan, đời sống bần cùng,
không có con đường nào khác, nhân dân ta đã đứng dậy đấu tranh.
Trong mấy chục năm cuối thế kỷ 19 và
đầu thế kỷ 20, các phong trào yêu nước cuồn cuộn dấy lên từ Bắc chí Nam. Tầng
tầng, lớp lớp thợ thuyền, dân cày, dân nghèo, thành thị, nhà buôn, trí thức,
học sinh... kết thành những đợt sóng đấu tranh liên tiếp, mạnh mẽ. Dưới những
hình thức khác nhau, quần chúng khởi nghĩa trên những vùng rộng lớn chống bắt
lính, bắt phu, chống sưu cao, thuế nặng, chống khủng bố, cầm tù,v.v.; nói chung
lại là chống áp bức, bóc lột của thực dân Pháp. Tất cả đều thể hiện một tinh
thần chung là chống đế quốc, chống sự hà khắc, tham nhũng của bọn quan lại,
chống bọn phong kiến hợp tác với giặc, phản dân hại nước; tất cả đều thể hiện
một ý chí chung là giành độc lập, tự do. Dù chưa đạt tới mục tiêu, song các
phong trào yêu nước lúc này, về khách quan, đã hình thành - dĩ nhiên là tự
phát, những yếu tố, những đường viền của một mặt trận dân tộc thống nhất rộng
rãi, bao gồm nhiều tầng lớp xã hội.
Nhưng do hạn chế của những điều kiện
lịch sử, các phong trào yêu nước của tất cả các tầng lớp xã hội lúc này - kể cả
các phong trào đấu tranh của công nhân đã xuất hiện ngay từ giữa những năm chín
mươi của thế kỷ 19 - đều chưa có đường lối đúng đắn. Những người cầm đầu các
phong trào chưa phân biệt được địch, ta, bạn, thù; chưa nhận thức được rằng đế
quốc Pháp xâm lược Việt Nam không phải là hiện tượng riêng lẻ, mà là một vấn đề
thời đại gắn liền với cả giai đoạn lịch sử chủ nghĩa tư bản thống trị thế giới;
họ chưa nhận rõ nhiệm vụ cách mạng Việt Nam lúc này là phải đánh đuổi đế quốc
Pháp giành độc lập, tự do, đánh đổ phong kiến địa chủ giành quyền dân chủ cho
nhân dân; họ càng không thể thấy lực lượng cách mạng chủ yếu là công, nông
trong đó giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo.
Do những hạn chế đó, lại bị những đòn
tấn công rất ác liệt, man rợ của quân thù, cho nên các phong trào đều lần lượt
bị thất bại. Ách áp bức của kẻ thù càng thêm nặng, nỗi thống khổ của quần chúng
càng thêm chồng chất, tiền đồ của dân tộc vẫn mờ mịt.
Nhưng tất yếu là, càng bị đàn áp,
càng bị thất bại, càng thống khổ thì quần chúng càng thêm nung nấu lòng căm thù
và ý chí chiến đấu, càng khát khao tìm cách thoát khỏi kiếp sống trâu ngựa.
Như vậy, một vấn đề mà lịch sử lúc này đặt ra là
phải có những người ưu tú, tiên tiến nhất trong đội ngũ những người yêu nước
Việt Nam có khả năng vượt lên những hạn chế kể trên, tìm ra một con đường đúng
đắn nhất cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc, người thanh niên giàu lòng
yêu nước, tiên tiến nhất trong đội ngũ những người yêu nước đã nhận lấy trách
nhiệm ấy trước lịch sử, xuất dương, tìm một con đường mới để cứu nước, cứu dân.
Ra đi, dĩ nhiên cũng với tư cách một người yêu nước
như những người đi trước, nhưng đồng chí không đi con đường của những người đã
đi - không cầu cạnh một lực lượng bên ngoài giúp dân mình (mà lực lượng bên
ngoài không phải ai khác bè lũ đế quốc). Đồng chí đi về phương Tây, nơi có tư
tưởng tự do, dân chủ, dân quyền, có khoa học, kỹ thuật hiện đại thu hút đồng
chí. Đồng chí đi về phương Tây vì mục đích cách mạng và do một sự nhạy cảm cách
mạng làm cho đồng chí nhận thấy chỉ ở đó mới phát hiện ra cái nguồn gốc của mọi
thảm họa đã trút lên đầu lên cổ dân tộc mình và cái đầu mối của sự nghiệp giải
phóng đồng bào mình.
Đi khắp năm châu bốn biển, lăn lộn trong cuộc sống
lao động và đấu tranh của quần chúng lao khổ ở các nước tư bản và thuộc địa,
đâu đâu đồng chí cũng chứng kiến cảnh sống trái ngược giữa một bên là thiên
đường của những kẻ giàu sống trong cảnh đế vương, một bên là địa ngục trần gian
của hàng triệu người thuộc đủ mọi màu da sống kiếp ngựa trâu, tủi nhục, lầm
than, đói rách.
Hàng chục năm phấn đấu, rèn luyện gian khổ trong
đấu tranh và học tập đã làm sáng tỏ dần những chân lý cách mạng mà đồng chí
đang cần tìm hiểu.
Chiến tranh thế giới thứ nhất một mặt đã bộc lộ đầy
đủ bản chất bóc lột, tàn ác, dã man của chủ nghĩa đế quốc và sự suy yếu của nó;
mặt khác nó lại là cơ hội để chủ nghĩa đế quốc tăng cường bóc lột giai cấp vô
sản và các dân tộc bị áp bức, đẩy sâu thêm con người lao động vào cảnh bần
cùng. Sự kiện này làm bừng sáng thêm trong nhận thức của đồng chí một chân lý;
chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản là cội nguồn của mọi sự khổ đau của quần
chúng và quần chúng lao khổ ở đâu cũng là người cùng chung số phận và do đó
chung một chiến tuyến với dân tộc mình.
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi là một sự kiện
đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với đời sống tinh thần của đồng
chí. Nó đưa đồng chí đến chỗ khẳng định được con đường cách mạng đúng đắn nhất:
Con đường của Cách mạng Tháng Mười. Đó là một chân lí mới. Nó thỏa mãn hoài bão
lớn lao mà bao lâu đồng chí từng ôm ấp.
Dưới ánh sáng soi đường của Quốc tế Cộng sản, của
“Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” do Lênin vạch ra và dưới ảnh
hưởng trực tiếp của cuộc đấu tranh thành lập Đảng Cộng sản Pháp, mà đồng chí là
một trong những đảng viên đầu tiên, một trong những người tham gia thành lập
chủ nghĩa Mác - Lênin, chân lí cách mạng của thời đại đã sáng tỏ, đã được khẳng
định vững chắc trong nhận thức của đồng chí. Đó là bước chuyển biến quyết định
về chất trong tư tưởng và lập trường chính trị của đồng chí.
Từ đó đồng chí càng hoạt động nỗ lực và sôi nổi
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Hoạt động trong các tổ chức cách mạng và trong Hội
Liên hiệp thuộc địa do đồng chí sáng lập, đồng chí đã viết nhiều sách báo tấn
công vào chủ nghĩa đế quốc, kêu gọi, thức tỉnh quần chúng ở các nước thuộc địa
đấu tranh.
Đây cũng là lúc mà đồng chí viết cuốn sách nổi
tiếng “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Cuốn sách này là sản phẩm tổng hòa của tất
cả các tri thức, chính trị, triết học, xã hội, lịch sử, văn học và kinh nghiệm
thực tiễn, được tiếp thu, bồi bổ, phát triển trong quá trình đấu tranh đầy sóng
gió của Người.
“Bản án chế độ thực dân Pháp” viết bằng tiếng Pháp
vào những năm 1921- 1925 và được xuất bản đầu tiên vào năm 1925 ở Pa-ri, Thủ đô
nước Pháp.
Ngay từ khi mới ra đời “Bản án chế độ thực dân
Pháp” lan truyền đi nhanh và rộng khác thường. Rất nhiều người trong và ngoài
nước biết đến nó.
Hun đúc trong đấu tranh cách mạng, “Bản án chế độ
thực dân Pháp” ra đời như một luồng ánh sáng mới xé tan đám mây mù đang bao phủ
trên khắp đất nước Việt Nam và nhiều nước thuộc địa. Nó thỏa mãn cả lý trí và
tình cảm của hàng triệu quần chúng cách mạng đang ngưỡng vọng và khát khao một
chân trời mới; nó thu hút mạnh mẽ sự chú ý của nhiều lớp người tiến bộ đang mơ
hồ, băn khoăn về một con đường giải phóng sáng sủa.
“Bản án chế độ thực dân Pháp” có tác động lớn về
nhiều mặt như vậy là bởi lẽ: Thứ nhất, tác phẩm này ra đời giữa lúc mâu thuân
giữa chủ nghĩa đế quốc, đặc biệt là mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với
chủ nghĩa đế quốc, giữa dân tộc ta và bọn đế quốc Pháp đã đạt tới điểm bùng nổ;
tinh thần và ý chí chống đế quốc của nhân dân ta và nhân dân ở các nước bị áp
bức khác lên cao, đòi hỏi một ngọn cờ hướng đạo đúng đắn để đi vào một cuộc
chiến đấu quyết định vận mệnh lịch sử của dân tộc. Thứ hai, tác phẩm này đề cập
đến những người thật, việc thật, những chuyện xảy ra hàng ngày “mắt thấy tai
nghe” ở những hoàn cảnh cụ thể nhưng có quan hệ thân thiết đến vận mệnh của
hàng chục triệu con người trong cái địa ngục trần gian gọi là “xứ thuộc địa” và
lý giải nó một cách khoa học theo quan điểm Mác - Lênin, quan điểm tiên tiến
nhất của thời đại.
“Bản án chế độ thực dân Pháp” trước hết là một bản
cáo trạng. Nó tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp không phải chỉ ở Đông Dương,
ở Việt Nam mà ở khắp các thuộc địa: An-giê-ri, Tuy-ni-di, Tây Phi... Trên thế
tấn công “Bản án chế độ thực dân Pháp” lột mặt nạ chủ nghĩa đế quốc bằng những
chứng cớ, tang vật không thể chối cãi được. Và như các quan tòa thường xử những
phạm nhân trọng tội, tác phẩm đã lôi bọn hung thủ - lũ kẻ cướp toàn cầu, ra
trước vành móng ngựa, bắt chúng trả lời và diễn lại tại chỗ những tội ác mà
chúng đã phạm với loài người hàng mấy thế kỷ. Bằng lý lẽ đanh thép, tác phẩm đã
bóc trần bản chất bóc lột, tàn ác, dã man, phản động của chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa thực dân:
Đó là việc vũ trang xâm lược “bình định” đất nước
ta, đàn áp đẫm máu các phong trào yêu nước của ta, để đặt và củng cố ách thống
trị, bóc lột của chúng đối với nhân dân ta;
Là bóc lột bằng “thuế máu” - đày đọa những con
người gọi là “dân bản xứ” trên các chiến trường Châu Âu trong chiến tranh thế
giới thứ nhất(Chương I);
Là “việc đầu độc người bản xứ” bằng thuốc phiện và
rượu cồn (Chương II);
Là việc giáng vào người bản xứ nào sưu thuế “nặng
oằn lưng”, nào công trái, nào phu phen tạp dịch;
Là “chính sách ngu dân” (làm cho dân ngu để dễ
trị), “một chính sách mà các nhà cầm quyền ở thuộc địa của chúng ta ưa dùng
nhất” (Chương IX);
Là những luật lệ đặt ra vô tội vạ, hết sức khắc
nghiệt, cho phép các nhà cầm quyền hễ ngứa tay thì phạt vạ, tống tù và kèm theo
thảm sát đẫm máu;
Vân vân và vân vân.
“Bản án chế độ thực dân Pháp” còn chỉ mặt, gọi tên
những kẻ đại diện cho “nước mẹ” cho “tự do”, “công lý”, cho “sự nghiệp khai
hóa” và “truyền bá văn minh”, đang ra tay hoành hành ở khắp các thuộc địa. Tất
cả bọn chúng, toàn quyền, thống đốc, khâm sứ, công sứ... cho đến bọn đội lốt
tôn giáo trong các giáo hội và bọn tay sai mạt hạng của chúng, đều là lũ phản
động, vô liêm sỉ, bóc lột tàn ác.
Sức tố cáo của tác phẩm càng mạnh mẽ thêm khi mô tả
những nỗi khổ nhục của người dân bản xứ, nhất là “nỗi khổ nhục của người phụ nữ
bản xứ”(Chương XI). Dưới nanh vuốt của bọn thực dân, mọi tầng lớp thuộc người
bản xứ, vua quan, hào lý, tư sản, trí thức, viên chức hay người dân lao động,
từ cụ già đến trẻ em, đều bị coi là đám nô lệ thấp hèn, đều bị đối xử như xúc
vật và tính mạng đều “không đáng giá một trinh”. Bị cướp đoạt, đốt phá, giết
chóc, đánh đập, hãm hiếp là chuyện thường ngày xảy ra đối với người bản xứ ở
khắp các thuộc địa.
Từ việc mô tả sinh động, cụ thể những cảnh bần
cùng, cơ cực của quần chúng, tác phẩm tỏa ra một mối tình đồng cam cộng khổ,
thương yêu dạt dào đối với quần chúng bị áp bức, những con người cùng chung số
phận với dân tộc mình.
Thông cảm sâu sắc với quần chúng, đứng trên lập
trường những người vô sản tiên tiến bênh vực quần chúng lao khổ bị áp bức, đó
là một nội dung của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản cao cả; đó cũng là một biểu
hiện của sự kết hợp nhuần nhuyễn tinh thần yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô
sản trong một con người mà cuộc đời ngay từ buổi ra đi đã gắn chặt với vận mệnh
của những người vô sản và những người lao khổ ở khắp hoàn cầu.
Giữa những năm màn đêm còn bao phủ khắp các thuộc
địa, bọn thực dân Pháp cùng bè lũ cơ hội - mà đại biểu của nó là Quốc tế thứ 2,
đang ra sức tuyên truyền những luận điệu thực dân phản động, bênh vực chủ nghĩa
đế quốc, thì “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã giáng vào đầu bọn chúng một đòn
tấn công ác liệt, luận tội bọn chúng và đứng hẳn vào hàng ngũ những người vô
sản tiên tiến bênh vực cho quần chúng lao khổ và các dân tộc bị áp bức. Đó là
một phương thức cơ bản trong sách lược tấn công của cách mạng lúc ấy và tác phẩm
trở thành tiếng nói tiêu biểu cho cái thế tấn công của thời đại.
Nhưng đi xa hơn nữa, ở tầm nhìn cao
hơn nữa, “Bản án chế độ thực dân Pháp” còn vạch rõ kẻ thù của quần chúng lao
động và các dân tộc bị áp bức. Đó là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc. Hình
thù của nó là con đỉa hai vòi, một vòi hút máu của giai cấp vô sản và nhân dân
lao động ở chính quốc, một vòi hút màu của giai cấp vô sản và nhân dân lao động
ở các thuộc địa. Sự có mặt và sự tác oai tác quái của nó trên trái đất này là
cội nguồn của mọi thảm họa, mọi nỗi đau khổ đã trút lên đầu lên cổ nhân dân các
thuộc địa từ mấy thế kỷ nay. Đồng thời, tác phẩm đã vạch ra cái mâu thuẫn không
thể điều hòa được giữa chúng - kẻ đã gây ra mọi thảm họa, với giai cấp vô sản
và nhân dân vị áp bức - người đã từng chịu mọi thảm họa. Và với tầm nhìn xa
thấy rộng ấy (nó vốn là kết quả của một tư duy cách mạng, một thế giới quan
mới, hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của các hệ tư tưởng cũ, tác phẩm đã chỉ rõ
rằng, chính quần chúng nhân dân là lực lượng cách mạng tiêu diệt chủ nghĩa tư
bản, chủ nghĩa đế quốc, và những người vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng.
Từ trong đêm tối của cuộc đời lầm
than đau khổ, tác phẩm đã mở ra cho quần chúng nhân dân thấy cảnh tương lai
tươi sáng. Tương lai đó là hiện thực trên đất nước Nga Xôviết sau cách mạng
tháng Mười. Tác giả khẳng định cho quần chúng một lòng tin sắt son vào cái
tương lai ấy, và chỉ rõ ràng, tương lai ấy đang được chuẩn bị ở Trường Đại học
Phương Đông, ngay trên đất nước Nga Xôviết. Trường này “đang ấp ủ dưới mái của
mình tất cả tương lai của các dân tộc thuộc địa”!
Hướng tới tương lai đó, với khí thế
tấn công cách mạng sôi nổi, tác phẩm đã vạch ra đường lối chiến lược và sách
lược cho quần chúng nhân dân đấu tranh quật ngã kẻ thù. Tác phẩm khẳng định đã
là người mất nước thì ai ai cũng bị sống kiếp nô lệ, dù là người Việt Nam,
Angiêri, Đahômây, Xiri, Tây Phi... hay Xênêgan. Tất cả những người vô sản và
nhân dân lao động kể cả ở nước Pháp, đều có chung một mối thù không đội trời
chung với chủ nghĩa đế quốc quốc tế. Vì vậy, tất cả hãy thực hiện lời hiệu
triệu của Các Mác: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”. hãy đi theo con
đường Cách mạng tháng Mười, đoàn kết đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa thực dân, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, cơm áo, danh dự cho con
người!
Tác phẩm vạch rõ, bản chất của chủ
nghĩa tư bản là con đỉa có hai vòi. Muốn diệt trừ nó, phải đồng thời chặt đứt
cả hai vòi. Như vậy, nghĩa là tác phẩm đã đề ra nhiệm vụ cách mạng vô sản ở
chính quốc và nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và mối
quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó cũng như mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở
phương Tây và cách mạng giải phóng dân tộc ở phương Đông.
Cũng trên tinh thần ấy, tác phẩm đã
khẳng định rõ nhiệm vụ của giai cấp vô sản ở chính quốc là vừa phải giác ngộ,
tổ chức quần chúng ở chính quốc làm cách mạng, đồng thời “không được quên rằng
bổn phận của mình” là phải đoàn kết chặt chẽ, ủng hộ giai cấp vô sản và nhân
dân các thuộc địa, không phải chỉ bằng lời nói mà bằng hành động thực tiễn cách
mạng, cùng nhau tiêu diệt kẻ thù chung.
Tác phẩm còn khẳng định rằng, sự nghiệp giải phóng
dân tộc ở Việt Nam, cũng như ở mỗi nước, phải là một bộ phận gắn liền với sự
nghiệp cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc trên phạm vi toàn thế
giới. Trên tình đoàn kết quốc tế vô sản, giữa những người, những dân tộc cùng
chung một chiến tuyến, tác phẩm đã biểu dương sức mạnh của những đợt sóng đấu
tranh mang ý nghĩa thời đại đang dâng lên mạnh mẽ trên các thuộc địa như
Đahômây, Xiri, v.v..., ca ngợi các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam và coi
đó là “dấu hiệu của thời đại”.
“Bản án chế độ thực dân Pháp” ra đời là một cái mốc
quan trọng đánh dấu sự trưởng thành trong ý thức cách mạng của nhân dân Việt
Nam. Nó đáp ứng những đòi hỏi bức thiết của cách mạng Việt Nam về một đường lối
sáng suốt và đúng đắn, để thoát ra khỏi tình trạng mơ hồ về phương hướng và mục
tiêu cách mạng.
“Bản án chế độ thực dân Pháp” là một đóng góp sáng
tạo có ý nghĩa lịch sử lớn lao vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
Việt Nam. Với tác phẩm này, ánh sáng của chân lý cách mạng của thời đại đã soi
rọi vào tâm trí nhân dân về con đường cách mạng duy nhất đúng đắn, con đường
của chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho mọi người thấy rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là
cái mình đang mong đợi, khát khao.
Nhằm vào việc giải quyết vấn đề cơ bản của thời
đại. “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã vạch rõ bạn thù, vạch rõ mục tiêu cách
mạng và bước đầu vạch ra chiến lược, sách lược của cách mạng cho nhân dân ta và
các dân tộc bị áp bức. Đồng thời, tác phẩm cũng đã gợi ra phương hướng vận dụng
những chân lý phổ biến vào điều kiện cụ thể của mỗi nước.
Như vậy, trên bình diện chính trị, “Bản án chế độ
thực dân Pháp” là sự chuẩn bị về tư tưởng, nhận thức cho các dân tộc bị áp bức
đi vào cuộc đấu tranh dành độc lập, tự do, giành quyền thống trị xã hội vào tay
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đó là vấn đề có ý nghĩa chiến lược
quan trọng của cách mạng.
Ra đời trong bối cảnh lịch sử cụ thể của thế giới
và của đất nước vào những năm hai mươi của thế kỷ XX, “Bản án chế độ thực dân
Pháp” có một giá trị lịch sử to lớn. Nó lý giải một cách khoa học theo quan
điểm Mác -Lênin những vấn đề cơ bản mà lịch sử loài người đang đặt ra và đòi
hỏi phải giải quyết. Nó đề cập những vấn đề có quan hệ đến vận mệnh lịch sử thế
giới, đến con đường phát triển tất yếu của lịch sử loài người trong thời đại
hiện nay.
Riêng ở Việt Nam, cùng với việc chuẩn bị một đội
ngũ tiên phong lãnh đạo cách mạng để giải đáp những đòi hỏi của lịch sử, “Bản
án chế độ thực dân Pháp” đã góp phần quan trọng thúc đẩy lịch sử Việt Nam tiến
tới, thức tỉnh và thôi thúc dân tộc ta cùng hòa nhịp với các dân tộc bị áp bức
trên thế giới bước nhanh vào kỷ nguyên mới của loài người: Kỷ nguyên của độc
lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Qua nội dung phong phú, sâu sắc của tác phẩm “Bản
án chế độ thực dân Pháp”, chúng ta có thể nói một cách khái quát rằng: Tác phẩm
là sản phẩm của sự kết hợp biện chứng, sinh động, tài tình những nguyên lý phổ
biến của học thuyết Mác -Lênin về chủ nghĩa đế quốc, về vấn đề dân tộc và thuộc
địa với thực tiễn của phong trào công nhân, phong trào giải phóng dân tộc dưới
ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. về mặt lý luận, phương pháp luận,
và về giá trị thực tiễn, tác phẩm đã vượt ra ngoài khuôn khổ của cái tiêu đề
“Bản án chế dộ thực dân Pháp”.
Tác phẩm này viết cách đây nửa thế kỷ (Thời điểm
viết Lời giới thiệu là năm 1975) nhưng khoảng thời gian đó không hề làm
phai mờ những ý nghĩa, tác dụng những giá trị lớn về lý luận và thực tiễn của
nó. Trái lại, nửa thế kỷ qua, cách mạng thế giới và trong nước càng phát triển,
ý thức cách mạng của nhân dân ta càng trưởng thành, thì những giá trị lớn của
nó càng được nhận thức đầy đủ, càng trở lên cao quý.
“Bản án chế độ thực dân Pháp” là một tác phẩm vốn
có giá trị lớn về nội dung. Nhưng giá trị ấy lại càng nổi bật lên với một nghệ
thuật biểu hiện sắc sảo.
Tác phẩm đề cập đến những vấn đề lớn của thời đại,
nhưng lại không phân tích dài dòng, khô khan, mà đi từ việc diễn tả những hiện
tượng hàng ngày xảy ra trong những hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến những kết luận
sắc, gọn, súc tích.
Trên cơ sở diễn tả những sự việc cụ thể đó, rọi vào
nó ánh sáng của tư tưởng mới tác phẩm làm cho tư duy của người đọc mở mang, dẫn
đến những suy nghĩ rộng và xa hơn, rồi lại trở về vấn đề trọng tâm với một nhận
thức sâu sắc, sáng rõ hơn.
Từ những việc riêng lẻ dưới những đầu đề khác nhau
được đặt trong một kết cấu lô gích, tác phẩm hình thành một chỉnh thể, một bức
tranh toàn diện: Về cái địa ngục trần gian của kiếp người nô lệ; về cái thiên
đường của bọn giàu sang; hay về những bộ mặt tàn ác, bỉ ổi của quân thù...
Hình thức biểu hiện của tác phẩm, về mọi mặt, từ
cách diễn tả, cách sử dụng ngôn ngữ, cách chọn lọc những chi tiết, những hiện
tượng, những hình ảnh, cách sử dụng các yếu tố của nghệ thuật châm biếm, đến
cách bố cục từng chương, mục và toàn tác phẩm, đều có những nét rất độc đáo.
Trong các biện pháp nghệ thuật đó, nghệ thuật châm biếm là một biện pháp được
sử dụng rất tài tình, tinh tế, sắc sảo.
Ngoài tư cách chủ yếu là một tác phẩm chính trị,
“Bản án chế độ thực dân Pháp” còn là tác phẩm có giá trị về nhiều mặt như văn
học, ngôn ngữ, lịch sử, v.v. cần được nghiên cứu, khai thác và giới thiệu một
cách đầy đủ và nghiêm túc.
Hiện nay, xã hội Việt Nam đang ở vào một giai đoạn
lịch sử căn bản khác với nửa thế kỷ trước đây. Những nhiệm vụ lịch sử đặt ra
trước mắt dân tộc ta do đó cũng khác trước. Cả thế và lực, cả trong nước và
trên trường quốc tế, chúng ta đang ở trên một vị trí khác trước về căn bản.
Trong lúc này, học tập, nghiên cứu để nhận thức đầy
đủ, sâu sắc những giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm “Bản án chế độ thực
dân Pháp” và thực hiện những điều chỉ giáo của Nguyên Ái Quốc - tức Chủ tịch Hồ
Chí Minh kính yêu của chúng ta - là hết sức có ý nghĩa đối với việc thực hiện
Di chúc thiêng liêng của Người là “đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Hà Nội,
ngày 01 tháng 5 năm 1975
NGUYỄN KHÁNH TOÀN
CHƯƠNG I: THUẾ MÁU(1)
I-
Chiến
tranh và "người bản xứ"
Trước năm 1914, họ chỉ là những tên
da đen bẩn thỉu, những tên "Annamít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ
biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Ày thế mà cuộc chiến
tranh vui tươi vừa bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa "con yêu",
những người "bạn hiền" của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm
chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé(2) nữa. Đùng một
cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là
"chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do". Nhưng họ đã phải trả bằng một giá
khá đắt cái vinh dự đột ngột ấy, vì để bảo vệ cho cái công lý và tự do mà chính
họ không được hưởng một tí nào, họ đã phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh
ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến
trường Châu Âu. Trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng
kiến cảnh kỳ diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, đã được xuống
tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái. Một số khác đã bỏ xác
tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Bancăng, lúc chết còn tự hỏi phải chăng
nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ, chả thế sao lại đem
nướng họ ở những miền xa xôi ấy? Một số khác nữa thì đã anh dũng đưa thân cho
người ta tàn sát trên bờ sông Mácnơ, hoặc trong bãi lầy miền Sămpanhơ, để lấy
máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm
nên những chiếc gậy của các ngài Thống chế.
Cuối cùng, ở hậu phương, những người
làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy không phải hít hơi ngạt
của bọn "bôsơ"(3), nhưng lại nhiễm phải những luồng khí
độc đỏ ối của người Pháp; đằng nào cũng thế thôi, vì những kẻ khốn khổ ấy cũng
đã khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì đã hít phải hơi ngạt vậy.
Tổng cộng có 700.000 người bản xứ đã
đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, 80.000 người không bao giờ còn trông
thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa!
Một bạn đồng nghiệp nói với chúng
tôi: Dân lao khổ bản xứ ở Đông Dương từ bao đời nay bị bóp nặn bằng đủ mọi thứ
thuế khoá, sưu sai, tạp dịch, bằng cưỡng bức phải mua rượu và thuốc phiện theo
lệnh quan trên, từ 1915-1916 tới nay, lại còn phải chịu thêm cái vạ mộ lính
nữa.
Những biến cố trong mấy năm gần đây
là cái cớ để người ta tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn
cõi Đông Dương. Những người bị bắt đều bị nhốt vào trại lính với đủ thứ tên:
Lính khố đỏ, lính thợ chuyên nghiệp, lính thợ không chuyên nghiệp, v.v..
Theo ý kiến của tất cả các cơ quan có thẩm quyền
không thiên vị được giao cho sử dụng ở châu Âu "vật liệu biết nói"
Châu Á, thì vật liệu này đã không đưa lại kết quả tương xứng với chi phí rất
lớn về chuyên chở và bảo quản.
Sau nữa, việc săn bắt thứ "vật liệu biết
nói" đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là "chế độ lính tình
nguyện" (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây ra những vụ nhũng lạm
hết sức trắng trợn.
Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như
thế này: Vị "chúa tỉnh" - mỗi viên Công sứ ở Đông Dương quả là một vị
"chúa tỉnh" - ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền, trong một thời hạn
nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định. Bằng cách nào, điều đó không
quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở kiểu D(4)
thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói, nhất là xoay xở làm tiền.
Thoạt tiên, chúng tóm những người khoẻ mạnh, nghèo
khổ, những người này chỉ chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó,
chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp
để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho
đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: "Đi lính tình
nguyện, hoặc xì tiền ra".
Những người bị tóm đi như thế còn hào hứng gì nữa
với cái nghề cột vào cổ họ. Cho nên, bước chân vào trại lính là họ liền tìm mọi
cơ hội để trốn thoát.
Còn những người
nào thấy không thể thoát khỏi số phận hẩm hiu, thì tìm cách tự làm cho mình
nhiễm phải những bệnh nặng nhất, mà thông thường hơn cả là bệnh đau mắt toét
chảy mủ, gây ra bằng cách xát vào mắt nhiều thứ chất độc, từ vôi sống đến mủ
bệnh lậu.
*
* *
Ày thế mà trong một bản bố cáo với những người bị
bắt lính, phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những
lính sẽ còn sống sót và truy tặng những người sẽ hy sinh "cho Tổ
quốc", đã trịnh trọng tuyên bố rằng: "Các bạn đã tấp nập đầu quân,
các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến
dâng xương máu của mình như lính khố đỏ(5), kẻ thì hiến dâng cánh
tay lao động của mình như lính thợ".
Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến
thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lỵ, tốp thì trước
khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh
gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao
Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hoà và ở nhiều nơi khác nữa, phải
chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân "tấp nập" và
"không ngần ngại"?
Những vụ trốn đi lính và đào ngũ (tính ra có đến 50
phần trăm trong hàng ngũ quân dự bị) đều bị đàn áp không gớm tay và những cuộc
đàn áp lại gây ra những cuộc binh biến bị dìm trong biển máu(6).
Bản bố cáo của phủ toàn quyền còn cẩn
thận nhắc thêm rằng, tất nhiên muốn xứng đáng với "lòng tốt rõ rệt"
và "độ lượng lớn lao" của chính phủ thì "các anh (binh lính Đông
Dương) cần phải cư xử đúng đắn và không được làm một điều gì cho người ta phải
phàn nàn cả".
Viên chỉ huy tối cao quân đội Đông
Dương còn có một lối đề phòng khác: ông ta bắt thích vào lưng hoặc cổ tay của
từng người lính mới mộ một con số không thể nào tẩy xoá được bằng một dung dịch
nitơrát bạc.
Ở đây cũng giống như ở Châu Âu, sự
khốn khổ của những người này là nguồn lợi nhuận của những kẻ khác: Nào là bọn
đeo lon chuyên nghiệp may mắn vớ được công việc tuyển mộ và quản lý lính mới
bản xứ mà lánh xa được càng lâu càng tốt những cuộc giao chiến nguy hiểm ở châu
Âu; nào là bọn chủ thầu lương thực làm giàu vùn vụt bằng cách bỏ đói những lính
mộ khốn khổ; nào là bọn độc quyền tiếp liệu thông đồng với bọn quan chức để
gian lận, đầu cơ.
Về chuyện này, cần nói thêm là còn
một loại chế độ tình nguyện khác nữa: Tình nguyện mua công trái. Biện pháp tiến
hành thì cũng như thế. Ai có máu mặt là phải bỏ tiền ra. Kẻ nào khó bảo thì
người ta dùng cách dụ dỗ và cưỡng bách đến phải mua mới thôi.
Phần đông những
người mua công trái ở Đông Dương không hiểu gì về thể thức tài chính cả; họ coi
việc mua công trái cũng như đóng một thứ thuế mới và coi các phiếu công trái
không khác gì những biên lai nộp thuế.
*
Bây giờ thử xem chế độ mộ lính tình
nguyện đã được tổ chức ở các thuộc địa khác như thế nào.
Lấy Tây Phi làm thí dụ:
Ở đây, bọn chỉ
huy quân đội kéo quân đến từng làng bắt bọn hào mục phải nộp ngay lập tức đầy
đủ số người chúng muốn tuyển mộ. Để buộc những thanh niên Xê-nê-gan bỏ trốn
phải ra nhận đội mũ lính, chẳng phải một viên chỉ huy đã tra tấn, hành hạ các
thân nhân của họ, và cho rằng làm như thế là tài giỏi đó sao? Chính hắn đã bắt
các ông bà già, đàn bà có thai, con gái, đem lột trần truồng, rồi đốt hết quần
áo trước mặt họ. Những nạn nhân khốn khổ đó mình trần như nhộng, tay trói cánh
khuỷu buộc phải chạy khắp các thôn xã dưới làn roi vọt, để "nêu
gương"! Một người đàn bà cõng con phải van xin mãi mới được cởi trói một
tay để đỡ đứa bé. Trong khi chạy, hai cụ già đã ngã chết ngất đi; nhiều em gái
khiếp sợ trước những hành vi bạo ngược đó, đã hành kinh trước tuổi; một người
đàn bà truỵ thai, một chị khác đẻ một đứa con mù.
*
Có rất nhiều thủ đoạn bắt lính.
Thủ đoạn sau đây đã tỏ ra nhanh và tiện nhất:
Lấy dây chăng ngang hai đầu con đường chính trong
làng lại. Thế là tất cả những người da đen ở vào giữa đều coi như chính thức
phải tòng quân.
Một nhân chứng đã viết cho chúng tôi như sau:
"Giữa trưa ngày 3 tháng 3 năm 1923, bọn hiến binh vây ráp các bến cảng
Ruyphixcơ và Đaca(7) rồi tóm tất cả những người bản xứ làm việc ở
đó. Những anh chàng này vì không tỏ vẻ sốt sắng đi bảo vệ văn minh ngay, nên
người ta rước họ lên ô tô cam nhông mời về nhà lao. Ở đấy, sau khi họ có đủ thì
giờ để thay đổi ý kiến rồi, người ta mới đưa họ sang trại lính.
"Ở trại lính, sau những nghi lễ biểu dương
tinh thần yêu nước, 29 lính tình nguyện được tuyên dương có thể trở nên anh
hùng của cuộc chiến tranh cuối cùng nay mai... Bây giờ thì tất cả đều nóng lòng
muốn lấy lại miền Ruya(8) cho nước mẹ.
Nhưng theo tướng Mănggianh(9),
người hiểu rõ họ nhất, thì đó chỉ là những đội quân để đem nướng trước mùa
đông".
Chúng tôi hiện có trong tay bức thư của một người
Đahômây, vốn là cựu binh, đã từng làm "nghĩa vụ" trong cuộc chiến
tranh "vì công lý". Một vài đoạn trích trong bức thư sẽ vạch rõ cho
các bạn thấy người "Batuala"(10) đã được bảo vệ như thế
nào và các quan cai trị thuộc địa nhà ta đã nặn ra lòng trung thành của người
bản xứ như thế nào để tô điểm cho tất cả những bài diễn văn của các nhà cầm
quyền và làm đề tài cho tất cả những bài báo của bọn Rêgixmăngxê và Hôde(11)
thuộc đủ cỡ.
Bức thư viết: "Năm 1915, khi ông M.Nuphla,
thống đốc Đahômây, ra lệnh bắt lính, thì làng tôi bị bọn cảnh sát cùng lính cơ
cướp phá và đốt sạch. Tất cả tài sản của tôi đều bị mất hết trong các cuộc đốt
phá đó. Tuy thế, tôi vẫn bị cưỡng bách nhập ngũ, và mặc dầu là nạn nhân của
việc xúc phạm bỉ ổi đó, tôi đã làm nghĩa vụ của tôi ở mặt trận bên Pháp. Tôi bị
thương ở trận Exnơ.
"Ngày nay, chiến tranh đã chấm dứt, tôi sắp
trở về nước, nhưng không còn nhà cửa, của cải gì cả.
"Người ta đã cướp của tôi:
1000 phrăng tiền mặt;
12 con lợn;
15 - cừu;
10 - dê;
60 - gà;
8 tấm vải quấn mình;
5 áo mặc ngoài;
10 quần;
7 mũ;
"Đây là tên những bạn cùng ở một xóm đã bị
cưỡng bách nhập ngũ cùng ngày với tôi, và nhà cửa cũng đã bị cướp phá và đốt
sạch. (Ghi tiếp theo tên bảy người).
"Còn nhiều nạn nhân nữa của những chiến công
kiểu ấy của ngài Thống đốc Nuphla, nhưng tôi không biết rõ tên những người đó
để gửi cho các anh hôm nay...".
Chắc bọn "bôsơ" của vua Ghiôm cũng không
làm được hơn thế.
Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì
những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im bặt như
có phép lạ, và cả người Nêgrô(12) lẫn người "Annamít" mặc
nhiên trở lại "giống người bẩn thỉu".
Để ghi nhớ công lao người lính An Nam, chẳng phải
người ta đã lột hết tất cả của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới
toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỷ niệm đủ thứ, v.v... trước khi
đưa họ đến Mácxây xuống tàu về nước, đó sao? Chẳng phải người ta đã giao họ cho
bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ vô cớ đó sao? Chẳng phải người ta đã cho
họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường
nằm, không ánh sáng, thiếu không khí đó sao? Về đến xứ sở, chẳng phải họ đã
được một quan cai trị biết ơn đón chào nồn g nhiệt bằng một bài diễn văn yêu
nước. "Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần
đến các anh nữa, cút đi!", đó sao?
Thế là những
"cựu binh" - đúng hơn là cái xác còn lại - sau khi đã dũng cảm bảo vệ
chính nghĩa và công lý nay tay không trở về với chế độ bản xứ của họ, một chế
độ không biết gì đến chính nghĩa và công lý cả.
*
* *
Theo báo chí Đông Dương thì thương binh người Pháp
bị mất một phần thân thể và vợ của tử sĩ người Pháp đều được cấp môn bài bán lẻ
thuốc phiện.
Như thế là trong một việc mà chính quyền thuộc địa
đã phạm tới hai tội ác đối với nhân loại. Một mặt, họ vẫn chưa thoả khi tự tay
làm cái việc bỉ ổi của người đầu độc, mà còn muốn lôi kéo vào đây cả những nạn
nhân đáng thương hại của cuộc huynh đệ tương tàn nữa. Mặt khác, họ coi rẻ tính
mạng và xương máu của những kẻ đã bị họ lừa bịp, đến nỗi tưởng rằng chỉ cần
quẳng cho những người này khúc xương thối ấy là đủ đền bù được một phần của
cánh tay bị mất hoặc mạng của một người chồng.
Chúng tôi chắc
rằng thương binh và quả phụ chiến tranh sẽ đá văng món quà nhơ nhớp ấy và nhổ
vào mặt kẻ tặng quà. Chúng tôi cũng tin chắc rằng thế giới văn minh và người
Pháp lương thiện sẽ đứng về phía chúng tôi để lên án bọn cá mập thực dân đang
không ngần ngại đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi.
*
* *
Theo tục lệ An Nam, khi trong làng có
người chết thì những người xay lúa, giã gạo phải tỏ lòng kính trọng vong linh
người chết và thông cảm nỗi đau buồn của tang gia bằng cách im lặng không hát
hò trong khi xay giã như họ vẫn thường làm. Nhưng nền văn minh hiện đại được
đưa vào nước chúng tôi bằng bạo lực có cần gì phải tế nhị đến như thế. Xin đọc
câu chuyện sau đây đăng trên một tờ báo ở Nam Kỳ:
Những ngày hội ở Biên Hoà
"Để lấy tiền bỏ vào quỹ xây dựng
Đài kỷ niệm người An Nam trận vong của tỉnh Biên Hoà, Ban Tổ chức ngày hội đang
tích cực chuẩn bị một chương trình tuyệt diệu.
"Người ta bàn tán sẽ có nào là
yến tiệc giữa vườn(13), nào là chợ phiên, nào là khiêu vũ ngoài
trời, v.v., tóm lại, sẽ có nhiều và đủ thứ trò chơi để ai ai cũng có thể góp
phần làm việc nghĩa một cách thú vị nhất đời.
"Quý ông phi công ở sân bay Biên
Hoà có nhã ý sẽ góp phần vào cuộc vui, và ngay từ bây giờ Ban Tổ chức đã có thể
khẳng định rằng sự có mặt của các quan chức cao cấp nhất ở Sài Gòn sẽ làm cho
ngày hội thêm phần rực rỡ.
"Xin tin thêm cho các bạn nam nữ
ở Sài Gòn lên dự hội biết rằng, các bạn sẽ không cần phải bỏ dở cuộc vui để về
nhà dùng cơm, vì ngay tại chỗ, sẽ có phòng ăn tổ chức cực kỳ chu đáo và đặc
biệt đầy đủ, các bạn sành ăn uống nhất cũng sẽ được hài lòng.
"Ngày 21 tháng 1 tới, tất cả
chúng ta hãy đi Biên Hoà, chúng ta sẽ vừa được dự những hội hè linh đình vui
tươi, vừa được dịp tỏ cho những gia đình tử sĩ An Nam ở Biên Hoà thấy rằng
chúng ta biết tưởng nhớ đến sự hy sinh của con em họ".
Thật là thời đại khác, phong tục
khác.
Nhưng phong tục kỳ quái làm sao!
Người ta còn cho chúng tôi xem bức
thư sau đây nữa:
Sài Gòn, ngày...
"Nếu trên đời này mà có một việc
quái gở vừa thương tâm lại vừa lố bịch, thì đó hẳn là việc bắt một dân tộc vẫn
đang chịu đựng đủ mọi thứ bất công và không có bất cứ thứ quyền nào phải làm lễ
mừng cuộc chiến thắng của "công lý" và "chính nghĩa". Ày
thế mà ở bên này chúng tôi đã làm như thế đấy. Tôi tưởng không cần thuật lại cho
anh nghe về những hội hè và "trò vui công cộng" trong thành phố này
ngày 11 tháng 11 làm gì. Ở đâu và bao giờ cũng thế thôi, rước đèn, đốt pháo
bông, duyệt binh, khiêu vũ ở Dinh Thống đốc, đua xe hoa, mở lạc quyên vì nước,
quảng cáo, diễn văn, tiệc tùng, v.v.. Trong tất cả những trò hề đó, tôi chỉ còn
nhớ lại một việc đáng chú ý về phương diện tâm lý như sau: Cũng như công chúng
ở tất cả các nước, công chúng Sài Gòn rất thích xi nê. Vì thế, một đám người
dày đặc đã tụ tập trước khách sạn Palaxơ để xem phim, nào hề Sáclô, nào bọn cao
bồi, nào những người "lính quang vinh" lần lượt diễn trên màn ảnh.
Công chúng tràn ngập cả đại lộ, đứng chật cả mặt đường và hè phố. Lúc bấy giờ
ông chủ khách sạn Sài Gòn - Palaxơ không muốn cho người ta đứng đông trên vỉa
hè trước cửa tiệm của ông ta, ông ta liền vung roi mây quất túi bụi. Bà chủ
cũng ra giúp một tay và đánh bừa vào đám đông. Mấy chú trẻ ranh mãnh không biết
làm thế nào mà lại "cướp" được ngọn roi của bà, làm cho mọi người vỗ
tay cười ầm lên. Ông chủ điên tiết chạy lại tiếp viện cho bà chủ. Lần này, ông
cầm một cái ba toong và hùng dũng phang tới tấp xuống đầu người ta, cứ mỏi tay
này thì đổi tay khác. Những người "nhà quê" phải chạy dồn xuống
đường; nhưng vì say sưa với "chiến thắng" của mình, ông người Pháp quý
hoá ấy liền hùng hổ vượt qua đường và cứ tiếp tục vụt túi bụi cái gậy to tướng
xuống đầu, xuống vai, xuống lưng những người dân bản xứ đáng thương ấy. Một em
bé bị ông túm lấy và "đả" cho một trận nên thân"...
IV-
Hành vi
quân phiệt tiếp diễn
Bước chân đến Cabablanca(14),
Thống chế Liôtây gửi cho binh sĩ của đạo quân chiếm đóng Marốc một bản nhật
lệnh như sau:
"Bản chức có vinh dự được Chính
phủ nước Pháp Cộng hoà phong quân hàm cao nhất là nhờ, trong chín năm nay, các
người đã hiến dâng lòng trung thành và máu xương của các người mà không hề tính
toán.
"Chúng ta sắp mở một chiến dịch
để hoàn thành công cuộc bình định xứ Marốc, vì lợi ích chung của dân chúng
trung thực trên đất nước này, cũng như vì lợi ích của quốc gia(15)
bảo hộ, v.v.".
Nhưng, cũng trong ngày ấy (ngày 14
tháng 4), lại có bản thông cáo sau đây:
"Trong một cuộc giao chiến với
bọn Bơni Bude(16) ở Báp en Hácbe, bên ta đã có 29 binh sĩ hy sinh và
11 bị thương".
Khi người ta nhớ rằng đã phải tốn
xương máu của một triệu rưởi người lao động mới tạo nên được sáu chiếc gậy
thống chế, thì cái chết của 29 kẻ khốn khổ chưa đủ để hoan hô bài diễn văn hùng
hồn của ngài Thống chế - khâm sứ! Nhưng như vậy thì cái quyền dân tộc tự quyết,
mà vì nó trong suốt bốn năm trời, người ta đã chém giết lẫn nhau, cái quyền ấy,
các ngài để đâu mất rồi? Thật là một cách khai hoá kỳ khôi: Để dạy mọi người
sống cho ra sống, người ta bắt đầu bằng việc giết họ đi đã!
*
* *
Ở đây (Hải Phòng), cũng có những cuộc
bãi công của thuỷ thủ. Chẳng hạn như hôm thứ năm (ngày 15 tháng 8) là ngày mà
hai chiếc tàu phải nhổ neo để chở một số lớn lính khố đỏ An Nam đi Xyri.
Nhưng thuỷ thủ không chịu đi, vì
người ta không chịu phát lương cho họ bằng tiền Đông Dương. Theo giá thị
trường, thì một đồng Đông Dương ăn khoảng mười phrăng chứ không phải 2 phrăng
50, thế mà các công ty hàng hải lại làm một việc hà lạm trắng trợn là định trả
lương cho thuỷ thủ bằng phrăng chứ không trả bằng tiền Đông Dương như đã trả
cho công chức.
Thế là người ta liền xua tất cả mọi
người ở dưới tàu lên, rồi lập tức bắt hết các thuỷ thủ.
Rõ ràng là thuỷ thủ Hoàng Hải chẳng
có gì phải so bì với thuỷ thủ Hắc Hải.
Chúng tôi cực lực phản đối việc đưa
lính An Nam sang Xyri. Phải chăng các nhà cầm quyền cấp cao cho rằng bao nhiêu
anh em da vàng xấu số của chúng tôi bị giết hại trên các chiến trường từ năm
1914 đến năm 1918, trong cuộc "chiến tranh vì văn minh và công lý",
vẫn còn chưa đủ hay sao?
*
* *
Các ngài chiến thắng quang vinh của
chúng ta thường quen thói "giáo dục" người bản xứ bằng đá đít hoặc
roi vọt.
Anh Nahông đáng thương hại đã bị ám
sát đến hai lần. Lần thứ nhất bởi tay tên Đại uý Vida, lần thứ hai bởi tay tên
lang băm đóng lon quân nhân coi việc phẫu nghiệm xác chết. Tên này đã đánh cắp
và giấu biệt bộ óc người chết để phi tang, đặng cứu hung thủ là bạn của hắn. Nhưng
than ôi! Anh Nahông không phải là nạn nhân duy nhất của bọn quân phiệt thuộc
địa! Một bạn đồng nghiệp của chúng tôi ở thuộc địa đã thuật chuyện một nạn nhân
khác như sau:
"Lần này, sự việc xảy ra trong
trung đoàn lính khố đỏ thứ 5 ở Medông - Carê(17). Nạn nhân là một
người lính trẻ tuổi tên là Terie quê ở Tênét(18) thuộc lớp quân dịch
năm 1921.
"Anh chết trong trường hợp rất
thương tâm. Ngày 5 tháng 8, anh lính trẻ Terie đến bệnh xá của trung đoàn để
xin thuốc tẩy. Người ta đưa thuốc tẩy cho anh, nói đúng hơn là đưa cho anh một
thứ thuốc mà anh tưởng là thuốc tẩy. Anh uống và vài giờ sau anh đau bụng quằn
quại, rồi lăn đùng ra chết.
"Cụ thân sinh ra Terie nhận được
một bức điện báo tin rằng người con độc nhất của cụ đã chết và sáng hôm sau,
chủ nhật, sẽ đưa đám. Bức điện không có đến nửa lời an ủi hay giải thích.
"Đau xót đến cực độ, cụ Terie
đến ngay Angiê, tìm Trung đoàn lính khố đỏ thứ 5 ở Medông- Carê. Ở đấy cụ được
biết xác con đang để ở Bệnh viện Maiô. (Mà làm sao xác Terie lại chở đến đây
được nhỉ? Phải chăng để tránh việc khám nghiệm mà luật lệ đã quy định là bắt
buộc đối với mọi trường hợp chết ở Trạm y tế, người ta đã chở xác anh ta đến
bệnh viện làm ra vẻ như bệnh nhân đã chết ở dọc đường?)
"Đến bệnh viện, người cha đau khổ xin thăm xác
con; người ta bảo hãy chờ đã.
"Mãi sau, một quan tư thầy thuốc mới đến báo
cho cụ biết là việc phẫu nghiệm không phát hiện dấu vết gì khả nghi cả. Nói
xong hắn bỏ mặc cụ đứng đó, không cho phép cụ vào thăm xác con.
"Theo tin cuối cùng thì hình như cụ thân sinh ra
Terie đã đến hỏi viên đại tá chỉ huy trung đoàn lính khố đỏ thứ 5 về nguyên do
cái chết của Terie và đã được trả lời là con ông chết vì ngộ độc!".
(1) Bản in năm 1925 có lời giới thiệu của Nguyên Thế
Truyền
(2) Nguyên văn: Nous gouverneurs plus ou moins généraux
(3) Boches: Từ có nghĩa xấu chỉ quân Đức
(4) Nguyên văn: Système D, D chữ đầu của từ
Débrouillard, có nghĩa lá xoay xở, tháo vát.
(5) Bản tiếng Pháp: "Les tirailleurs".
(6) Bản tiếng Pháp: Qui ont été étouffées dans le sang,
có nghĩa "bị dìm trong máu."
(7) Rufisque et Dakar: Các hải cảng của nước Xênêgan.
(8) Ruhr: Vùng công nghiệp của Đức, sau thế chiến thứ
nhất được cắt giao cho Pháp từ năm 1921 đến năm 1925.
(9) Mangin: Tướng Pháp (1866-1925): tham gia chiến
thắng Vecdoong, tổng chỉ huy đội quân xâm lược Xuđăng, Bắc Kỳ, Marôc.
(10) Batouala: Tên một bộ lạc ở xích đạo châu Phi.
(11) Régismanset et Hauser: Tên những người viết báo tay
sai, có nghĩa như những tên bồi bút.
(12) Negro: từ chỉ người da đen.
(13) Nguyên văn: Garden - Party.
(14) Casablanca: Hải cảng lớn của nước Marôc.
(15) Bản tiếng Pháp: "nation protectrice".
(16) Beni - Bouzert. Quân khởi nghĩa do Áptlen Crim,
lãnh tụ phong trào chống Pháp của Marốc, lãnh đạo.
(17) Maison- Carée: Một thị xã thuộc tỉnh Angiê ở
Angiêri.
(18) Ténès: Hải cảng của Angiêri.
Chương II:
Việc đầu độc người bản xứ
Cứ theo lời ngài Xarô quý mến, đảng
viên Đảng cấp tiến, nguyên Bộ trưởng Bộ Thuộc địa, thì ngài là người cha hiền
của dân bản xứ, ngài rất quý mến người An Nam và được người An Nam quý mến lại.
Để nhồi nhét văn minh "Đại
Pháp" cho người An Nam, ngài Xarô, người trùm của sự nghiệp đó đã không từ
một thủ đoạn nào, kể cả những thủ đoạn bỉ ổi nhất và những tội ác. Đây, một
chứng cớ: Đó là bức thư mà ngài đã gửi cho những người thuộc quyền ngài, với tư
cách là Toàn quyền Đông Dương và nhằm vơ vét cho đầy túi tham của bọn kẻ cướp
thực dân và cả của ngài nữa:
"Kính gửi ông công sứ!
"Tôi trân trọng yêu cầu ông
vui lòng giúp đỡ những cố gắng của Nha Thương chính trong việc đặt thêm đại lý
bán lẻ thuốc phiện và rượu, theo chỉ thị của ông Tống giám đốc Nha Thương chính
Đông Dương.
Để tiến hành việc đó, tôi xin gửi
ông một bản danh sách những đại lý cần đặt trong các xã đã kê tên; phần lớn các
xã này, tới nay, vân hoàn toàn chưa có rượu và thuốc phiện.
Qua các Tỉnh trưởng và các Xã
trưởng Cao Miên, ông có thể dùng ảnh hưởng to tát của ông để làm cho một số
tiểu thương người bản xứ thấy rằng buôn thêm rượu và thuốc phiện là rất có lợi.
về phần chúng tôi, thì những viên
chức lưu động trong khi đi kinh lý sẽ tìm cách đặt đại lý, trừ phi ông muốn họ
đợi ông tranh thủ được sự giúp đỡ của các quan chức địa phương trước đã. Trong
trường hợp này, tôi đề nghị ông vui lòng báo cáo cho tôi biết.
Chúng ta chỉ có thể đạt kết quả mỹ
mãn, nếu chúng ta hợp đồng với nhau chặt chẽ và liên tục, vì lợi ích tối cao
của ngân khố.
Ký tên: Anbe Xarô"
Lúc ấy, cứ một nghìn làng thì có đến
một nghìn năm trăm đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện. Nhưng cũng trong số một
nghìn làng đó lại chỉ có vẻn vẹn mười trường học.
Trước khi có bức
thư quý hoá trên, hàng năm người ta cũng đã tọng từ 23 đến 24 triệu lít rượu
cho 12 triệu người bản xứ, kể cả đàn bà và trẻ con.
* * *
"Nói đến các món độc quyền,
người ta có thể hình dung Đông Dương như một con nai béo mập bị trói chặt và
đương hấp hối dưới những cái mỏ quặp của một bầy diều hâu rỉa rói mãi không
thấy no".
Trong số người có cổ phần trong công
ty độc quyền rượu, có các nhân vật cao quý nhất ở Đông Dương và tất cả các
ngành cai trị đều có đại diện tai to mặt lớn trong ấy. Phần đông các quan lớn
này đều rất có ích cho công ty, không ai chối cãi được:
Ngành Tư pháp, có ích để giải quyết những vụ lôi
thôi với những kẻ mà người ta muốn cưỡng bức, có:
2 Chưởng lý;
1 Biện lý;
1 Lục sự - Chưởng khế.
Ngành Quân đội, có ích để đàn áp một cuộc nổi loạn
mà người ta tính là có thể xảy ra do chỉ riêng cái việc thi hành chế độ độc quyền
béo bở, có:
1 Thiếu tướng;
Ngành Hành chính mà sự ân cần vô tư là điều đảm bảo
nhất cho việc kinh doanh thành công, thì có:
1 Công sứ;
1 Giám đốc Tài chính;
1 Tổng giám đốc Ngân khố;
1 Thanh tra Bưu chính;
1 Giám đốc Trước bạ;
Và cuối cùng là: Ngài Clêmăngten đáng kính, nghị
viên hạt Puyđơ - Đôm.
Trong Hội chợ triển lãm thuộc địa ở Mácxây, ông
Xarô lớn tiếng ba hoa: "Nước Pháp hãy nhìn vào đây và lấy đó làm tự
hào!". Mà quả thế thật. Những anh lạc đà Tuynidi thản nhiên đứng ngáp bên
cạnh mấy chú cá sấu oai vệ của Tây Phi và những anh chàng cá sấu(1)
đáng yêu của Mađagátxca chuyện trò thân mật với các ả bò cái mỹ miều của Đông
Dương. Chưa bao giờ lại có một sự hoà hợp tuyệt diệu đến thế, và trước sự xâm
nhập hoà bình của các loài thú thuộc địa, chị cá trích trong huyền thoại của
Hải cảng cũ nở nụ cười duyên dáng của một bà chủ nhà mến khách.
Người đi xem nhìn một cách rất thích thú chiếc
trường kỷ lịch sử của một vị toàn quyền nọ, thanh gươm của viên Công sứ Đáclơ
từng dùng để đâm vào đùi tù nhân Bắc Kỳ và cây đuốc mà viên quan cai trị Bruye
đã dùng để thui sống hơn 200 thổ dân Huátxa(2).
Gian hàng Camơrun được đặc biệt chú ý. Ở đấy có tấm
bảng đề mấy dòng chữ yêu nước sau đây:
"Trước kia người Đức nhập vào xứ Camơrun rất
nhiều rượu.
Ngày nay người Pháp lại cấm
rượu".
Nhưng, một bàn tay ranh mãnh nào đó
đã dán ngay vào dưới tấm bảng bức thư của ngài Xarô chỉ thị cho người thuộc
quyền ngài tăng số đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện ở các làng An Nam, kèm
theo lời phê:
"Thế mà người An Nam lại đã có:
Những 10 trường học, những 1.500 đại lý rượu và thuốc phiện cho 1.000 làng kia
đấy!".
Đây là một sự kiện đầy ý nghĩa của
một viên chức đứng đầu tỉnh Sơn Tây, một tỉnh ở Bắc Kỳ.
Số dân tỉnh này ước tính chỉ độ
200.000 người. Nhưng để nâng số lượng rượu phải tiêu thụ lên, số dân ấy bỗng
nhiên tăng vọt nhanh như chớp tới 230.000 người. Nhưng vì 230.000 dân này uống
quá ít, viên Công sứ Sơn Tây đã ra công một năm đẩy số lượng rượu tiêu thụ lên
560.000 lít.
Ngay lập tức, viên công sứ được thăng
cấp và được khen.
Ông đờ C... khẳng định rằng một viên
Công sứ khác đã đưa ông xem một bức thư của cấp trên, trong đó có đoạn viết:
"Số rượu tiêu thụ trong phủ X, đã tụt xuống dưới con số Z, cho mỗi dân đinh.
Vậy ông có nghĩ rằng cần phải có biện pháp làm gương không?". Viên Công sứ
bị cảnh cáo gián tiếp như thế bèn đòi Tổng lý trong phủ ấy đến hiểu thị rằng sở
dĩ họ tiêu thụ ít rượu đến như thế là vì họ nấu rượu lậu. Để được yên chuyện,
các làng liền mua ngay số rượu quy định chiểu theo dân số mà sự tính toán của
các phòng giấy bắt họ phải chịu.
Rõ ràng là người ta đã ấn định trên
thực tế, nếu không phải bằng cách hợp pháp, mức rượu mà mỗi người bản xứ buộc
phải uống hàng năm. Và khi nói mỗi người bản xứ thì cũng đừng tưởng đó chỉ là
người đứng tuổi mà là toàn bộ dân số, kể cả người già, phụ nữ, trẻ em, cả đến
đứa còn bú mẹ. Như thế là buộc thân nhân của họ phải uống thay, không phải chỉ
một lít mà hai, ba lít.
Dân một làng Bắc Kỳ, buộc phải uống
rượu, thấy trước nguy cơ đe doạ ấy, đã kêu với viên quan người Pháp "của
họ" rằng:
"Ngay đến cái ăn, chúng tôi cũng
không có gì cả". Quan đáp: "Chúng mày quen ngày ba bữa, bây giờ bớt
đi một bữa, hay nếu cần thì bớt đi một bữa rưỡi để có thể mua rượu của nhà
nước".
Trước đây, người bản xứ quen mua rượu
từng ít một; họ mang chai lọ thế nào cho vừa thì thôi. Nay thì người ta đóng
rượu vào chai sẵn. Rượu chỉ bán trong chai nửa lít hay một lít. Người An Nam
quen dùng rượu từ 20 đến 22 độ; ngày nay người ta bắt họ dùng rượu từ 40 đến 45
độ. Họ quen dùng loại rượu có mùi vị thơm dịu do chất lượng của những nguyên
liệu mà họ vẫn dùng; trong số nguyên liệu này có thứ gạo thuộc vào loại ngon
nhất. Còn thứ rượu mà nay người ta buộc họ phải uống lại cất bằng thứ gạo rẻ
tiền, pha thêm chất hoá học, có mùi vị nồng nặc khó chịu.
Bọn chủ độc quyền còn ra Thông tư bắt
nhân viên của chúng pha thêm nước lã vào rượu đem bán; cứ mỗi héctôlít rượu pha
thêm 8 lít nước lã.
Như thế, tính trên toàn cõi Đông
Dương mỗi ngày cứ bán 500 héctôlít rượu thì có 4.000 lít nước lã pha thêm vào;
4.000 lít, mỗi lít giá ba hào, thành 1.200 đồng một ngày, 36.000 đồng một
tháng. Như thế chỉ cần mở vòi nước lã không thôi, mỗi năm công ty cũng thu được
một món lãi nho nhỏ 432.000 đồng, hay 4 triệu phrăng.
Xem thế, đủ biết thứ rượu mà bọn độc
quyền cất và đem bán ở Đông Dương là không hợp với khẩu vị của người bản xứ về
độ cũng như về mùi vị, cho nên người ta phải cưỡng bức họ mua.
Vì bắt buộc phải trả những khoản chi
tiêu thường xuyên, phải trang trải những món kinh phí ngày càng tăng của Phủ
toàn quyền, của những trái khoản lớn, của những công trình kiến thiết quân sự
và phải đặt ra - nếu không phải là những chức vụ thực sự - thì ít ra cũng là
những khoản lương cho một đám đông công chức từ Pari gán sang, cho nên Chính
phủ đã tìm mọi cách thúc đẩy các viên chức, từ công sứ đến nhân viên hạng bét,
phải làm tăng mức tiêu thụ rượu lên.
Chú thích: 1) Tác giả dùng
chữ crocodile, caiman, chúng tôi tạm dịch là cá sấu cả; 2) Houassas. Tên một bộ
tộc ở Châu Phi.
Chương III: Các quan Thống đốc
Ông Phuốc, Thống đốc xứ Đahômây, cai
trị giỏi đến nỗi người bản xứ nào ở thuộc địa ấy cũng kêu ca về ông ta. Để xoa
dịu lòng công phẫn, người ta vờ phái sang đó một viên Thanh tra. Viên Thanh tra
này kiểm tra giỏi đến nỗi chưa thèm xét gì đến đơn khiếu nại của nhân dân đã
cuốn gói chuồn thẳng(1).
Về việc này, chúng tôi có nhận được
một bức thư của Uỷ ban Hành động Pháp - Hồi ở Poóctô - Nôvô(2) trong
đó có những đoạn chính như sau:
Trước lúc người Pháp đến Đahômây rất
lâu, ở Poóctô - Nôvô đã có một Thủ lĩnh Hồi giáo gọi là Imăng có nhiệm vụ đại
diện cho tập thể người Hồi ở bất cứ chỗ nào cần thiết, quản lý tài sản của tập
thể Hồi giáo ấy và trông nom việc lễ bái.
Theo tục lệ, Imăng phải do một Đoàn
cử tri bầu lên, chọn trong những người Hồi giáo ngoan đạo, có tiếng là đức độ
và đã từng làm Phó Imăng một thời gian lâu. Hơn nữa, trước khi chết, Imăng
đương quyền có ý kiến về vị Phó nào có đủ tư cách để thay thế mình.
Ý kiến của Imăng lúc đó là ý kiến
không được sửa đổi.
Trước khi qua đời, Imăng Cátxumu đã
chỉ định viên Phó Xarucu làm người kế vị mình. Đoàn cử tri và đa số người Hồi
giáo cũng đã tán thành.
Khi Cátxumu mất, đáng lẽ Xarucu phải
được bầu lên, nhưng tên Inhaxiô Paredô dựa vào thế của Thống đốc đã độc đoán
cản trở, bắt ép người Hồi giáo phải nhận tên Lavani Cốtxôcô là bạn thân của y,
làm Imăng. Tên Cốtxôcô, cũng như y, chỉ theo đạo Hồi trên danh nghĩa.
Thấy Đoàn cử tri và đa số người Hồi giáo chống lại
việc cử tên Cốtxôcô một cách bất hợp pháp, Paredô liền nhờ viên Thủ lĩnh cao
cấp là Hútgi can thiệp. Hútgi là tín đồ đạo bái vật, được Chính phủ che chở,
nên hắn cứ cử tên Lavani Cố txôcô làm Imăng, bất chấp nguyện vọng người Hồi
giáo.
Kể ra, nếu Lavani Cốtxôcô là một người Hồi giáo tốt
và lương thiện thì chúng tôi cũng làm ngơ việc hắn được cử làm Imăng, nhưng hắn
lại là một tên bất lương chưa từng thấy trên đời này. Chúng tôi nói như thế là
có bằng cứ:
Lavani Cốtxôcô sinh ở Lagốt (xứ Nigiêria thuộc
Anh). Hắn là dân thuộc địa Anh. Vì can nhiều tội giết người và nhiều tội ác
khác ở Nigiêria thuộc Anh, nên bị nhà chức trách Anh truy nã.
Ông Thống đốc của chúng tôi hồi đó đã thu dụng tên
dân thuộc địa Anh bất lương này và như để thưởng công cho hắn, đã cử hắn làm tù
trưởng các xã ven hồ như Ápphôtônu Aghêghê, Áplăngcăngtăng, v.v.. Toàn dân vùng
ấy ngày nay đều ghê tởm những hành vi nhũng lạm, những tội ác của hắn, và kêu
ca về hắn.
Nguyên chúng tôi có một điện thờ ở khu phố Atpatxa
tại Poóctô- Nôvô. Nhà đương cục Pháp đã phá huỷ điện thờ ấy với lý do vì lợi
ích công cộng rồi bồi thường cho chúng tôi năm nghìn phrăng.
Tiền bồi thường không đủ để xây dựng một điện thờ
mới. Chúng tôi đã mở một cuộc lạc quyên riêng, thu được 22.000 phrăng.
Paredô là người có chân trong tiểu ban mua sắm vật
liệu và phát lương cho thợ.
Khi viên Phó Imăng Bítxiriu - người nắm giữ chìa
khóa két - chết, thì Paredô trở thành người giữ chìa khoá két. Hắn lợi dụng địa
vị ấy để biển thủ số tiền 2.775 phrăng. Tiểu ban bắt buộc phải khai trừ hắn ra
khỏi tiểu ban.
Inhaxiô Paredô căm tức, bèn bàn mưu tính kế với ông
Thống đốc. Thế là ông này cho thi hành những biện pháp độc đoán đối với chúng
tôi, và làm trở ngại việc xây dựng điện thờ của chúng tôi.
Giờ đây, do mưu mô của Inhaxiô Paredô được ông
Thống đốc tiếp tay cho trong việc cử một cách trái đạo tên Cốtxôcô làm Imăng,
dân Hồi giáo ở Poóctô - Nôvô đã chia thành hai phe. Tình trạng ấy làm tổn
thương tình đoàn kết, hoà hợp của người Hồi giáo, làm hại cho việc tự do hành
đạo của chúng tôi và gây ra những vụ lộn xộn lớn".
Dưới đây là mấy đoạn trích ở một lá thư của Đại tá
Bécna gửi cho Báo La République Franẹaise, ngày 6 tháng 12 năm 1922. Thưa ngài
Bộ trưởng, xin ngài vững tâm, Đại tá Bécna không phải là cộng sản đâu.
“Con số hàng xuất khẩu ở Đông Dương, bức thư viết,
hiện đang giẫm chân tại chỗ, thậm chí còn đang sụt xuống. Năm 1914, Đông Dương
đã xuất khẩu 45.000 kilô tơ lụa, 99.000 tấn ngô, 480 tấn chè; năm ngoái chỉ
xuất khẩu có 15.000 kilô tơ lụa, 32.000 tấn ngô, 156 tấn chè.
Người ta cũng tưởng rằng hiện nay Chính phủ Đông
Dương đang tích cực tiến hành những công trình lớn cần thiết cho việc khai thác
thuộc địa. Ày thế mà, từ năm 1914 đến nay, người ta không hề đặt thêm được một
kilômét đường sắt nào, cũng không khai thác được lấy một hécta ruộng nào. Cách
đây 10 năm, ông Xarô có đưa thông qua một chương trình kiến thiết, bao gồm việc
xây dựng con đường sắt từ Vinh đến Đông Hà và bốn hệ thống đại thuỷ nông; tất
cả những công trình đó đều đã ngừng lại từ hơn 5 năm nay, lấy cớ là không có
kinh phí. Nhưng, cũng trong thời gian ấy, xứ Đông Dương lại bỏ ra 65 triệu đồng
tức là 450 triệu phrăng để làm đường và dinh thự. Mời ông Phaghê hãy suy nghĩ
về những con số đó xem! Tiêu gần nửa tỷ để làm những đường ô tô mà trên đó
không hề lưu thông một tấn hàng h oá nào; để xây dựng những dinh thự và phòng
giấy cho đám công chức đang mọc đầy rẫy lên ở Đông Dương như cỏ cây vùng nhiệt
đới; trong khi ấy thì những công trình đã được thừa nhận là cần thiết và đã
được Nghị viện thông qua, lại bị bỏ rơi!
Nhưng đừng tưởng là người ta có ý muốn thay đổi
phương pháp ở Đông Dương. Để hoàn thành chương trình năm 1912, ông Lông đã xin
Nghị viện cho phép phát hành một đợt công trái. Nay, ông ta lại xin phát hành
một đợt thứ hai nữa. Những kẻ hiện đang điều khiển việc khai thác Đông Dương
hình như đã định tâm không làm cái gì thật sự có ích lợi cả nếu trước hết người
ta không cho phép họ vay nợ. Còn đối với tài nguyên ngân sách, đối với những dự
trữ tích luỹ được trong và sau thời kỳ chiến tranh, thì họ quyết vung tay ném
qua cửa sổ nếu Nghị viện không đưa vào nền nếp”.
Ông Gácbi, Toàn quyền đảo Mađagátxca, vừa về Pháp.
Cũng như tất cả các viên thống đốc, bạn đồng nghiệp của ông, ông Gácbi rất lấy
làm hài lòng về cái thuộc địa "của mình": Tiến bộ, giàu có, trung
thành, an cư lạc nghiệp, có tổ chức, có dự án này, chương trình nọ, v.v.. Đó là
cái bọc hành lý muôn thuở, bất di bất dịch của các ngài Thống đốc về nghỉ, mà
nay đến lượt ông Gácbi lại ân cần mở ra cho tất cả những ai muốn xem... Và vượt
lên trên tất cả những ngón bịp bợm cũ rích ấy, ông Gácbi còn khéo léo giở ra
ngón bịp khác (hay đúng hơn ngón bịp của người khác) rất mực tinh vi: Việc khai
thác thuộc địa. Chúng tôi xin chào mừng quan toàn quyền mới về, và xin hỏi
ngài:
"Phải chăng phái Đoàn Thanh tra của Bộ đã
không có đủ xà phòng để xát(3) lên đầu quan Toàn quyền, đồng thời
thoa trơn cái dốc, trên đó cụ lớn phải trượt thẳng về chính quốc để ở lại đó
mãi mãi đến mãn đời trọn kiếp?
"Phải chăng để cứu vớt thể diện cho ngài, một
vài tên tay sai đắc lực đã tổ chức một tiệc rượu tiễn hành, và để làm việc đó,
chúng đã phải chạy bở hơi tai, vì ngoài Ban Tổ chức ra, không ma nào buồn đến
dự tiệc cả?
"Phải chăng bọn tay chân của quan Toàn quyền
đã định làm một lá đơn ái mộ xin ngài trở lại thuộc địa, nhưng lại không dám
đưa ra vì sợ có đơn chống lại?
"Sau cùng, phải chăng nhân dân bản xứ đã tặng
ngài lời chúc thân ái này: "Thôi nhé, chú Gácbi! Xin chúc không bao giờ
gặp lại chú nữa!"
Vận mệnh hai mươi triệu người An Nam tốt số đang
nằm trong tay ông Mácxian Méclanh.
Các bạn sẽ hỏi tôi: "Cái ông Méclanh ấy là ai
vậy?". Đó là một ông đã từng làm quan cai trị ở quần đảo Gămbiê, sau giữ
chức Phó Thống đốc Tây Phi, rồi lên làm Thống đốc xứ ấy. Đó là một ông đã bỏ ra
ba mươi sáu năm của đời mình để nhồi nhét cái văn minh đầy ân huệ của nước Pháp
vào đầu óc người bản xứ.
Có lẽ các bạn cho rằng đưa một người không hiểu gì
về Đông Dương đến nắm vận mệnh Đông Dương thì thật là một trò hề lớn kiểu Đông
Dương chứ gì.
Đúng đấy! Nhưng đó là cái "mốt". Một bạn
đồng nghiệp cho biết rằng: tại Bộ Thuộc địa, một viên quan cai trị cũ ở Đông
Dương ngồi chễm chệ tại vụ Tây Phi thuộc Pháp; một viên quan cai trị cũ ở Tây
Phi phụ trách vụ châu Phi xích đạo thuộc Pháp; một viên chức cũ ở Xuđăng phụ
trách những vấn đề về Mađagátxca; còn đại diện cho xứ Camơrun ở Hội chợ triển
lãm Thuộc địa lại là một viên chức chưa hề bao giờ đặt chân lên đất Camơrun.
Thế nên, trước khi sang Đông Dương khai hoá cho
người Đông Dương, quan Toàn quyền Méclanh định bắt đầu khai hoá những người
Đông Dương chết ở Pháp, tức là những người đã hy sinh vì tổ quốc, vì công lý,
và vì vân vân ấy mà!
Cười trong nghĩa địa là một cái thú đối với những
vĩ nhân, nhưng cười một mình ở đó thì có lẽ là không khoái lắm. Bởi vậy, Cụ lớn
Méclanh đã ra lệnh cho những thanh niên An Nam được trợ cấp phải theo Cụ lớn
đến nghĩa trang Nôgiăng trên bờ sông Mácnơ để đọc một bài diễn văn trước sự
chứng kiến long trọng của ngài. Nhưng bài diễn văn ấy phải đệ trình cho Cụ lớn
kiểm duyệt trước. Họ đã làm đúng như thế. Nhưng Cụ lớn thấy bài diễn văn quá ư
quá khích, nên Cụ bỏ phắt đi và thay bằng một bài khác do Cụ tự tay vạch ra dàn
bài.
Dĩ nhiên, bài diễn văn được xào xáo theo kiểu nhà
quan như vậy thì phải sặc mùi trung thành và quyến luyến.
Nếu người chết mà nói được, như bọn phù thuỷ thường
bảo, thì hồn ma của những người An Nam chôn ở Nôgiăng, hẳn đã nói rằng:
"Ngài toàn quyền ôi! Xin c... cảm ơn ngài! Nhưng xin Ngài làm ơn... xéo đi
cho! "(4).
Chúng tôi đọc Tờ Annales coloniales thấy mẩu tin
ngắn như sau:
Chúng tôi được tin Giêrêmi Lơme, cựu Thống đốc
thuộc địa, cựu nghị viên của Ân Độ thuộc Pháp, đương bị truy tố trước toà. Ông
ta nguyên là Chủ tịch một Nhà băng do ông Phrơdun làm Quản trị - uỷ nhiệm. Nhà
băng ấy đã tuyên bố vỡ nợ cách đây hai năm.
Đó là sự kết liễu đích đáng con đường công danh của
tên vô lại ấy".
Ô! Ô! Thế ra cũng có những tên vô lại trong cái
giới Thống đốc và nghị viên thuộc địa cao quý ấy ư? Ai ngờ nhỉ!
Ông Utơrây là một nghị viên Nam Kỳ
(ông ta là người Nam Kỳ cũng giống như ông P. Lôti là người nước Thổ vậy). Ông
ta đọc diễn văn ở nghị viện, và kinh doanh ở Sài Gòn. Là nghị viên ông ta nhận
cấp phí đều đặn; là thực dân, ông ta không nộp thuế. Ông nghị liêm chính này có
một đồn điền 2.000 hécta, và mười lăm năm nay, ông chủ đồn điền đáng kính đó
không nộp một xu nhỏ thuế nào. Khi sở thuế yêu cầu ông làm đúng luật lệ thì ông
trả lời: C...ảm ơn. Vì ông ta là nghị viên nên người ta không động đến ông.
Đã có một thời, cái ông Utơrây ấy đã
giữ chức quyền Thống đốc Nam Kỳ.
Xứ Nam Kỳ do một Thống đốc cai trị,
viên Thống đốc này do Sắc lệnh Tổng thống Pháp bổ nhiệm. Để làm tròn nhiệm vụ
cao cả của mình, vị quan cao cấp này dựa vào một Hội đồng hỗn hợp gồm cả người
Pháp lẫn người An Nam, gọi là Hội đồng Quản hạt. Một trong những quyền hạn chắc
là quan trọng nhất của Hội đồng này là hằng năm biểu quyết dự toán ngân sách
của thuộc địa. Chúng tôi xin nói ngay rằng nguồn thu của ngân sách ấy là các
khoản thuế trực thu và gián thu do người An Nam nộp, còn các khoản dự chi, thì
trên nguyên tắc (nhưng không bao giờ trên thực tế!) là phải được chi tiêu cho
những công cuộc có lợi cho người An Nam; tóm lại là quyền lợi của người An Nam
được giao phó cho cái Hội đồng Quản hạt ấy. Thế nhưng cái Hội đồng Quản hạt quý
hoá này lại gồm nhiều người Pháp hơn là người An Nam: Có 18 người Pháp, thì 12
là đại biểu do tuyển cử bầu ra, 6 là đại biểu của các công ty, phòng thương
mại, phòng canh nông v.v... và 6 người An Nam. Cứ cho rằng luôn luôn đủ mặt đi
nữa thì 6 phiếu của người An Nam kia tài nào mà chống lại được 18 phiếu của
người Pháp? Vì thế Chính phủ cứ việc tuỳ ý mà dự toán và chắc chắn là tất cả
các khoản dự toán đều đã được biểu quyết trước rồi.
Hầu như sự việc luôn luôn xảy ra như
thế. Cho nên năm 1905, cũng bằng cách ấy, quan quyền Thống đốc Utơrây nay là
nghị viên của người Pháp ở Nam Kỳ đã tăng thuế điền thổ vốn đã quá nặng, lên
một trăm phần trăm. Việc tăng thuế này đã làm cho tên tuổi Utơrây trở thành bất
tử trong trí nhớ của người An Nam, nó đã làm cho các đại biểu người An Nam
trong Hội đồng nhất loạt từ chức! Cần quái gì! Utơrây liền thay họ bằng những
người khác do ông ta đích thân bắt cử tri An Nam phải bầu. Trước ngày bầu
phiếu, một tay chân của ông ta là viên quan cai trị Maxperô (tỉnh Biên Hoà)
chẳng đã bắt giam tất cả cử tri ở tỉnh ấy lại, không cho họ tiếp xúc với những
người ứng cử đó hay sao? Người ta doạ trừng phạt để buộc họ phải bỏ phiếu cho
Bùi Thế Khâm, người do Utơrây đưa ra nhằm ngăn cản việc bầu lại ông Hoài, một
đại biểu vừa từ chức đã có lỗi là không làm theo ý muốn của Utơrây.
Chú thích
1)
Bản
tiếng Pháp: "Celuici inspecte si biên qu il f... le camp", viết tắt
của từ foutre le camp, có nghĩa là "chuồn thẳng". Từ này bắt đầu chữ
f như tên ông thống đốc Fourn.
2)
Porto
Novo. Thủ phủ Đahômây.
3)
Savonner.
Nghĩa đen là xát xà phòng, nghĩa bóng là khiển trách kịch liệt.
4)
M...
erci à toi,... F... nous lapaix! Trong Pháp văn chữ M viết tắt, người ta thường
hiểu là Merde, là một tiếng chửi rủa rất tục, cũng có nghĩa là phân; chữ F. là
Foutre, có nghĩa là cút, xéo đi, để yên... (Foutre le camp, Foutre la paix...
). Đây là lối chơi chữ của tác giả.
Chương IV: Các quan cai trị
Như các bạn đều biết, các thuộc địa
vẫn được gọi là những nước Pháp hải ngoại, và người Pháp của những nước Pháp ấy
là người An Nam, người Mađagátxca hoặc người.. .v.v. Bởi thế, cái gì ở bên này
là phải thì ở bên kia là trái, và cái gì ở bên kia được phép thì ở bên này bị
cấm. Thí dụ: Ở bên ấy, tất cả người Pháp đều được phép làm cho dân bản xứ ngu
muội đi bằng thuốc phiện, họ càng bán được nhiều thuốc phiện, thì càng được quý
trọng; nhưng ở bên này, nếu anh đem bán thứ thuốc độc ấy thì, anh sẽ bị tóm cổ
ngay lập tức. Nếu ở bên Pháp, một viên chức cao cấp được phép vận quần áo lót
để đi ra đường, thì ngược lại một ông hoàng bản xứ không có quyền mặc áo bản
xứ, ngay cả khi ở nhà và đang ốm.
Vì đang ốm, nên cố Quốc vương Tuynidi
đã cứ mặc nguyên áo ngủ mà tiếp quan Khâm sứ. Như thế đã là bậy rồi; nhưng còn
bậy hơn nữa là cháu nội và cháu họ nhà vua lại quên chào quan Khâm sứ nói trên.
Thế là sau hai ngày, đúng vừa đủ thời gian để suy nghĩ, quan lớn Khâm sứ bèn
mặc nhung phục, kéo binh mã đến bắt nhà vua phải xin lỗi. Thế mới đúng chứ. Một
khi anh là quốc vương và chịu sự bảo hộ của một ông thánh (ông Xanh) thì dù là
thánh cha, thánh con hoặc thánh thần, anh cũng không có quyền được đau ốm. Còn
các chú "nhóc con" bản xứ, các chú phải biết rằng, một khi đã sinh ra
dưới đôi cánh mẹ hiền của nền dân chủ thì các chú không được nô đùa, reo cười,
hò hét, mà phải học chào lạy.
Ở Đông Dương cũng như ở các thuộc địa
khác, đối với những người bản xứ không kịp lạy chào các "quan bảo hộ"
thì nhiều quan cũng chỉ khiêm tốn "giã cho một trận" thôi, chứ chưa
bao giờ lại huy động quân đội để bắt trẻ con phải lạy chào. Dĩ nhiên trong bọn
họ không phải ai cũng đều là Khâm sứ cả!
Mặc dầu: "Sự việc nghiêm
trọng" ấy đã bị vạch ra trên diễn đàn nghị viện và theo lời ông Poăngcarê,
nó có thể làm tổn thương đến ảnh hưởng của nước Pháp, chúng ta sẽ là những
người vong ân đối với quan Khâm sứ Xanh, nếu chúng ta buộc cho ông cái tội
"thất bại chủ nghĩa"; bởi vì, nhờ có cuộc biểu diễn lực lượng thân
thiện, trẻ con và hoà bình ấy mà từ đó người bản xứ biết cách nên lạy chào một
"người anh em da trắng" như thế nào. Ai cũng còn nhớ khi ông Milơrăng
sang thăm Châu Phi, người bản xứ đã đón chào ông, và để tỏ lòng trung thành vô
hạn và lòng tôn kính sâu sắc với vị quốc trưởng nước bảo hộ, họ đã kéo áo sơmi
ra ngoài quần đấy.
Tập Cahier des droits de l Homme vừa mới đăng một
bức thư của ông Phécđinăng Buytxông, Chủ tịch Hội nhân quyền, gửi ông Xarô, Bộ
trưởng Bộ Thuộc địa, nói về cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên (Đông Dương) năm 1917
và việc đàn áp cuộc khởi nghĩa đó.
Bức thư vạch rõ trách nhiệm của viên Công sứ tỉnh
Thái Nguyên là ông Đáclơ: Chính vì sự lạm quyền của ông Đáclơ mà cuộc khởi
nghĩa bùng nổ. Toà án Sài Gòn cũng đã xác định tội của ông ta ngay từ năm 1917.
Thế nhưng, có ai ngờ rằng ông Đáclơ không hề bị một
sự trừng phạt nào về mặt hành chính cả. Trái lại, ông ta lại được cử làm Uỷ
viên Hội đồng thành phố Sài Gòn. Còn sự trừng phạt về mặt tư pháp thì thật là
đáng buồn cười: Nộp vẻn vẹn có 200 phrăng tiền phạt!
Cái ông Đáclơ ấy quả là một nhà cai trị có tài.
Khoa cai trị của ông ta, ông ta đã học được ở khu phố latinh khi ông còn là một
anh hàng cháo.
Lúc ấy, ông Đáclơ không có một xu dính túi và mắc
nợ như chúa chổm. Nhưng nhờ một chính khách có thế lực, ông ta được bổ nhiệm
làm quan cai trị ở Đông Dương.
Chễm chệ đứng đầu một tỉnh có hàng vạn dân, và được
giao cho quyền hành tuyệt đối, ông ta vừa là Tỉnh trưởng, vừa là Thị trưởng,
vừa là quan toà, vừa là mõ toà, vừa là người đốc thuế; tóm lại, ông ta nắm
trong tay tất cả mọi quyền hành: Toà án, thuế khoá, điền thổ, tính mạng và tài
sản của người bản xứ, quyền lợi của viên chức, việc bầu cử Lý trưởng và Chánh
tổng, tức là vận mạng của cả một tỉnh được đặt vào tay cái anh hàng cháo ngày
xưa ấy.
Ở Paris, không làm giàu nổi bằng cách bóc lột khách
hàng, sang Bắc Kỳ ông ta gỡ gạc lại bằng cách bắt bớ, giam cầm, xử tội người An
Nam một cách độc đoán, để bòn rút họ.
Đây là một vài việc làm rạng rỡ thời thống trị độc
tài của vị quan cai trị dễ thương ấy mà nước mẹ cộng hoà đã có nhã ý gửi sang
để khai hoá cho chúng tôi.
Một số lính tình nguyện (!) bản xứ, bị điệu về để
sung vào lính khố đỏ và vì thế họ phải đi khám sức khoẻ. Đó là những người mù
chữ, nhút nhát, khi hỏi thì trả lời chậm chạp, nên quan Công sứ đã chửi bới,
đấm đá và lấy gậy phang họ túi bụi.
Ba người lính khố xanh để xổng một người tù, đã bị
ông Đáclơ đánh đập một cách rất tàn nhẫn, nắm tóc họ kéo lê dưới đất và đập đầu
họ vào tường toà sứ.
Khi hỏi cung tù nhân, quan công sứ thường lấy thanh
gươm đâm vào đùi họ. Có người khi về đến nhà lao thì lăn ra bất tỉnh.
Một đoàn tù khốn khổ, gầy đói, quần áo tả tơi, bị
lôi dậy từ tờ mờ sáng, cổ mang gông, chân buộc xiềng, người nọ bị xích vào
người kia, cùng kéo một chiếc xe lu to tướng trên những lớp sỏi dày. Hoàn toàn
kiệt sức, họ ỳ ạch kéo chiếc xe lu nặng nề dưới ánh nắng như thiêu như đốt.
Bỗng quan Công sứ đến. Như lệ thường, quan cầm theo một cái gậy to tướng, rồi
bỗng dưng vô cớ, quan xông vào đám người khốn khổ ấy, như con thú dữ, đánh túi
bụi, tàn nhẫn không tưởng tượng được, vừa đánh vừa chửi họ là đồ lười.
Một hôm nhà khai hoá của chúng ta vừa
quở trách một nhân viên người Âu xong, không biết trút cơn giận lên đầu ai
được, vớ cái thước sắt trên bàn giấy đập nát hai ngón tay của một viên Thư ký
người An Nam chẳng liên can gì đến việc kia cả.
Một hôm khác, ông ta vụt roi gân bò
vào mặt một viên đội người bản xứ trước những người lính dưới quyền anh ta.
Lại một lần khác, có mấy người lính
khố xanh làm trái ý ông ta, ông ta bèn cho đem chôn họ đến tận cổ, mãi đến khi
họ ngắc ngoải mới cho moi lên.
Cứ mỗi khi ông ta đi xem xét các con
đường có dân phu làm việc thì số chân người bị đánh què bằng lưỡi xẻng, cán
cuốc, phải tính bằng đơn vị nửa tá. Những người dân phu làm đường ấy đều là
những người bị ông ta bắt ép đi làm với tiền công mỗi ngày một, hai xu, sau khi
họ đã phải nộp tiền chuộc phần tạp dịch của họ với giá mười lăm xu mỗi ngày.
Một lần, ở một công trường, ông ta đã
giật súng của một người lính coi tù để đánh một người tù. Người tù tránh được,
quan Công sứ quay lại đánh người lính, cũng bằng cây súng ấy. Bà Công sứ, người
vợ xứng đáng của quan lớn, cũng tham gia, bà đánh tù một cách tự nhiên và phạt
lính lúc nào cũng được.
Người ta đã trông thấy quan Công sứ
dùng gậy đánh một viên đội lòi mắt. Quan còn làm nhiều việc cao cả khác nữa mà
ở đây chúng tôi không thể nào kể xiết được.
Tất cả những việc kể trên, mọi người
đều tai nghe, mắt thấy, kể cả cấp trên của ông ta là các quan Toàn quyền, quan
Khâm sứ. Để khen thưởng tinh thần "cương quyết" và "đức độ rất
cộng hoà" của ông ta, những vị này đã thẳng tay thăng quan tiến chức cho
ông ta.
III,
Quý
ngài Buđinô, Bôđoanh và những người khác
Mặc các cuộc triển lãm ồn ào, những
bài diễn văn rùm beng, những cuộc kinh lý đế vương và những bài báo hoa mỹ,
tình hình ở Đông Dương vẫn chẳng ổn chút nào.
Chiếc ghế bị cáo mà quan cai trị liêm
chính Lanô vừa rời khỏi chưa kịp nguội thì người ta lại báo cho chúng tôi biết
về những vụ xấu xa khác nữa.
Trước hết là vụ Buđinô. Ông Buđinô là
một nhà khai hoá điển hình, một vị quan cai trị chuyên ăn hối lộ. Trong số vụ
ông ta bị tố cáo, chúng tôi xin kể vụ sau đây:
"Làng Tân An, nơi lỵ sở của
tổng, đã lấy quỹ làng và vay tiền để xây dựng một nhà máy điện. Việc kinh doanh
rất có lợi, vì thu vượt chi rất nhiều. Ngoài ra, các công sở và đường sá của
làng còn được thắp đèn điện không mất tiền.
"Nhưng bỗng một quan cai trị khá
xảo quyệt (ông Buđinô), đã khéo xoay sở thế nào mà làng Tân An phải chịu nhường
không nhà máy điện cho một anh chàng thầu khoán, để được hưởng cái thú phải trả
tiền đèn đường và đèn công sở. Ngày nay làng nhận thấy chuộc lại nhà máy nhượng
không ấy là có lợi, và chuộc lại thì phải xuất ra hàng chục nghìn đồng. Câu
chuyện này là cả một thiên tiểu thuyết trong đó tài nănsg hư cấu của một tên
cựu tỉnh trưởng đã được tự do phát huy với một sự đểu cáng không thể tưởng
tượng nổi".
Vụ xấu xa thứ hai trước mắt là vụ
Têa. Một bạn đồng nghiệp ở Đông Dương đã viết về vụ đó như sau:
"Chúng ta đang sống trong một
bầu không khí thật là... không bình thường chút nào: Chưa xong vụ Buđinô, vụ
Lanô, lại đến vụ Têa.
"Ông Têa là một kỹ sư xuất sắc,
Giám đốc một hãng lớn của người Pháp ở Hải Phòng. Ông đã đến tìm ông Xcala,
Giám đốc Thương chính, và tặng trước ông này số tiền chè lá một vạn đôla để ký
kết một chuyến buôn thuốc phiện với cơ quan nhà nước. Chắc là ông Têa có những
lý do rất đặc biệt để nghĩ rằng việc vận động như thế không có gì là bất thường
cả. Như vậy có nghĩa là việc hối lộ là việc thông thường trong chính giới ở
Đông Dương. Tất cả những kẻ nào có quyền thế như vậy đều lợi dụng để vơ vét cho
đầy túi tham của mình và làm hại lớn cho xã hội".
Nếu như ông Đáclơ, Công sứ khát máu ở
Thái Nguyên mà được cử làm Uỷ viên Hội đồng thành phố Sài Gòn, và ông Bôđoanh,
người đang được quan toà Oaren nóng lòng chờ đợi, mà được cử giữ chức Toàn
quyền Đông Dương, thì các ông Têa và Buđinô ít ra cũng nên được gắn bội tinh
mới phải.
1) Saint. Vừa là tên viên Khâm sứ,
vừa có nghĩa là thánh. Đây là lối dùng chữ của tác giả để chế giêu viên Khâm sứ
Saint, dựa theo điển tích Chúa ba ngôi - thánh cha, thánh con, thánh thần
(Sainte Trinité: Saintpère, Saint fils, Saint esprit).
Xin hỏi: Có phải là ở Sở Mật thám của
Phủ Toàn quyền Đông Dương có một nhân viên người Pháp là C...không? Có phải
chính tên C... ấy trong khi được phái đi "công cán" ở Phú Xuyên, đã
bắt người An Nam ở đây gọi hắn bằng "Quan lớn", và đã đánh đập tàn
nhẫn những ai không nhanh miệng chào hắn như thế không? Có phải cũng chính tên
C... này đã hiếp dâm một người lính lệ không? À té ra cái gì người ta cũng được
phép và có thể làm được ở cái thiên đường Đông Dương ấy.
Giữa tháng 12 năm 1922, một viên đội
phó cảnh binh Pháp(1) của Sở Cảnh sát đô thị Sài Gòn, "say
mềm", đã vào nhà một người bản xứ và làm bị thương nặng hai người trong
nhà, trong đó có một người đàn bà.
Khi ông dự thẩm hỏi cung thì tên cảnh
binh ấy khai là hắn không còn nhớ gì cả, và chối phăng là hắn không say.
Trái lại, các nhân chứng, trong đó có
một người Âu, đều xác nhận rằng lúc xảy ra vụ thương tâm ấy, người bảo vệ trật
tự kia quả là không ở trong trạng thái bình thường.
Người khai hoá ấy
say hay là điên, điều đó không quan trọng, chúng tôi chỉ thiết tha mong rằng
anh ta sẽ được tặng thưởng Huân chương về hành động dũng cảm của anh ta.
*
* *
Ở thuộc địa, hễ có màu da trắng là quý phái, là thuộc
chủng tộc thượng đẳng.
Để giữ thể thống, anh tây đoan hạng bét cũng có ít
nhất một người ở, một người "bồi", và người này thường thường lại bị
dùng làm "người hầu gái vạn năng".
Đày tớ người bản xứ đã dễ bảo lại rẻ tiền, nên
nhiều viên chức thuộc địa về nghỉ hoặc về hưu mang theo cả người ở về nước.
Chẳng hạn như ông Giăng Lơ M...rinhy ở phố Cácnô,
thành phố Sécbua. Ông ấy ở Đông Dương về, mang theo một người bồi lương tháng
35 quan. Chẳng cần phải nói bạn cũng biết rằng, người bồi ấy phải làm quần quật
từ mờ sáng đến đ êm khuya. Trong nhà ấy, không có Chủ nhật cũng chẳng có ngày
lễ. Hơn nữa, người ta cho anh ăn uống hết sức kham khổ, và chỗ ở rất tồi tệ.
Một hôm ông Giăng Lơ M...rinhy muốn sai người
"được bảo hộ" của mình về làm lụng ở thôn quê. Vì đã từng được nếm
cuộc sống sung sướng ở thôn quê mà ông chủ quý hoá dành cho, nên người con của
xứ An Nam không chịu đi.
Thế là nhà cựu khai hoá kia nổi cơn
thịnh nộ nện cho anh ta một trận nên thân, rồi đuổi ra khỏi nhà(2),
nhưng lại giữ tất cả tài sản của anh ta: Tiền bạc, hòm xiểng, quần áo, v.v...
mà nhất định không chịu trả lại, mặc dù anh ta đã nhiều lần van nài. Bị đuổi
đột ngột, trơ hai bàn tay trắng, không biết tiếng Pháp, không bạn bè thân
thích, bơ vơ lạc lõng, con người bất hạnh đó đang lâm vào cảnh cùng khốn ghê
gớm.
*
* *
Viên chức thuộc địa là nguyên nhân chính gây ra nạn
đời sống đắt đỏ ở thuộc địa. Muốn biết nhân tố ăn bám ấy đè nặng lên ngân sách
đến mức nào, nghĩa là đè nặng lên lưng nhân dân lao động như thế nào, hãy so
sánh những con số sau đây:
Ở Ân Độ thuộc Anh, dân số 325 triệu người, có 4.898
viên chức người Âu.
Ở Đông Dương thuộc Pháp, dân số 15
triệu người, có 4.300 viên chức người Âu.
Như thế nghĩa là ở thuộc địa Anh, cứ
66.150 người dân thì có một viên chức người Âu, còn ở thuộc địa Pháp, thì cứ
3.490 người dân đã có một viên chức người Âu.
Ở Ân Độ, ngành thương chính có 240
viên chức người Âu. Ở Đông Dương, ngành thương chính có 1.100 viên chức người
Âu.
Ở Ân Độ, có 26.000 nhà dây thép với
268 viên chức người Âu.
Ở Đông Dương có 330 nhà dây thép với
340 viên chức người Âu.
Tại sao ở Đông Dương, cái loài ăn hại
ngân sách ấy lại nhiều đến thế? Bởi vì thuộc địa là một thiên đường ở trần
gian; ở đó, trừ một vài trường hợp rất hiếm hoi, còn thì tất cả những cặn bã
trong các ngành chính trị, tài chính, báo chí, v.v... mà chính quốc thải ra,
đều tìm được môi trường rất thích hợp để phát triển... Hãy bắt đầu từ nhân vật
quan trọng nhất là viên Toàn quyền. Về vấn đề này, một người thực dân không
thiên vị đã viết: "Sang Bắc Kỳ, các ông Toàn quyền chỉ nhằm một mục đích
là: Tìm chỗ bổ dụng bạn bè con cháu thân thuộc và bọn vận động bầu cử của những
bậc quyền thế có thể làm chỗ dựa cho mình; thường thường bọn này là những người
mắc nợ như chúa chổm, bị chủ nợ săn lùng, phải có tiền cho chúng mới được
"
...
Đối với nhà văn thanh cao nào muốn
viết lịch sử huy hoàng của công cuộc khai hoá thuộc địa, thì cuộc chiến tranh
gọi là vì công lý và chính nghĩa sẽ là nguồn tài liệu vô tận. Với một cử chỉ
say sưa và hùng biện, ông Anbe Xarô nói: "Chính công cuộc chinh phục thuộc
địa đã đào tạo nên phần lớn những vị tướng lĩnh vĩ đại đã đưa chúng ta đến
chiến thắng và đã từng được dư luận nước Pháp ca tụng chiến công và thanh danh
khi họ đưa ngọn cờ của chúng ta đi khắp đất Á, trời Phi".
Cũng với ý nghĩ thẳng thắn như thế,
nhưng bằng lời lẽ kém bay bướm hơn, Tờ Le Journal de Genève (à, lại có quỷ sứ ở
Giơnevơ chăng?) đã nói toạc ra rằng: "Chính phủ Cộng hoà đã đi tìm thuộc
địa để gỡ gạc lại trận thất bại năm 1870. Dân tộc Pháp coi việc chinh phục
thuộc địa như là một sự đền bù lại những thất vọng cay đắng của mình ở Châu Âu,
và bọn quân nhân thì vớ được dịp để trổ tài trong những trận thắng dễ
dàng".
Nghe những lời chứng có thẩm quyền
như thế, mà các bạn vẫn cứ khăng khăng không tin rằng việc khai thác thuộc địa
là một sứ mệnh khai hoá và nhân đạo không hơn không kém, thì thật là hết chỗ
nói!
*
1. Ông Ghinôđô bị mất trộm số tiền 5.000 phrăng. Muốn
bắt những người bản xứ làm việc ở nhà ông phải thú nhận, ông chủ tốt bụng và
nhà khai hoá vĩ đại đó đã đem họ ra tra điện. Nhưng sau, người ta tìm ra kẻ cắp
thì lại không phải là một người bản xứ, mà chính là một nhà khai hoá khác: Ày
là cậu ấm con ngài Ghinôđô! Thế mà ông Ghinôđô vẫn được vô tội, còn tám người
bản xứ giúp việc ông thì hiện vẫn còn nằm nhà thương.
2. Ông Vônla, nhà khai hoá kiêm nhà buôn, không trả
lương đều đặn cho những nhân viên bản xứ làm cho ông. Một trong những nhân viên
đó nhờ viên Đốc công hỏi hộ cho anh số lương chủ còn thiếu. Ông Vônla bèn đưa
cho viên Đốc công một mảnh giấy ghi mấy chữ sau đây: "Bảo cái con lợn ấy
lấy C... mà ăn, chỉ có món ấy là hợp với nó thôi".
Việc này xảy ra ở Tuynidi, năm 1923,
ngay giữa lúc ông Tổng thống Milơrăng đi kinh lý ở đó.
*
* *
Khi người ta có màu da trắng thì nghiễm nhiên người
ta là một nhà khai hoá. Mà khi người ta đã là một nhà khai hoá thì người ta có
thể làm những việc dã man mà vẫn cứ là người văn minh nhất.
Cho nên, một viên Đốc công lục lộ ở Nam Kỳ đã bắt
những người An Nam gặp hắn trên đường phải lạy chào hắn theo đúng nghi thức của
chủng tộc chiến bại đối với chủng tộc chiến thắng.
Một hôm, một viên Thư ký người bản xứ ở sở ra, vừa
đi vừa đọc một quyển tiểu thuyết. Đến một đoạn hài hước, anh bật lên cười. Vừa
lúc ấy viên Đốc công lục lộ đi tới. Ông ta nổi cơn giận lên, thứ nhất là vì
người bản xứ ấy mải đọc truyện đến nỗi không nhìn thấy ông mà chào; thứ hai là
vì một người bản xứ mà lại dám cười khi đi qua trước mặt một người da trắng.
Thế là nhà khai hoá nắm viên Thư ký lại, buộc anh phải khai tên và hỏi anh có
muốn ăn một cái tát không. Tất nhiên là người Thư ký từ chối món quà quá hào
hiệp đó, và tỏ vẻ ngạc nhiên tại sao lại có chuyện thoá mạ như thế được. Thế là
chẳng nói chẳng rằng, người viên chức Pháp túm áo người bản xứ ấy lôi đến trước
quan chủ tỉnh.
Cũng vẫn cái lão Đốc công lục lộ ấy, lấy cớ là phải
sắp xếp nhà cửa, vườn tược lại cho ngay ngắn, đã ra lệnh cho nhân dân ở hai bên
đường hàng tỉnh phải dọn nhà đi, chặt cây và phá vườn trong một thời hạn do hắn
quy định, nếu không thì sẽ bị phạt tiền.
Như thế đấy mà người ta vẫn cứ ngạc nhiên vì sao
người bản xứ ở các thuộc địa lại cứ bất bình!
Chẳng những bọn Thống đốc, Công sứ muốn làm gì thì
làm, mà cả các nhân viên nhà đoan, cảnh binh và tất cả những ai có tý chút
quyền hành trong tay cũng đều sử dụng và lạm dụng quyền hành để thả cửa làm bậy
vì họ biết chắc rằng sẽ không bị tội vạ gì hết.
Một viên cẩm ở Tuyên Quang (Bắc Kỳ) đã đánh một
người bản xứ gãy cả hai cánh tay. Một viên cẩm khác ở Đà Lạt (Trung Kỳ)(3)
vừa mới sáng tạo ra một lối mua bán cực kỳ lý thú, chúng tôi xin thuật ra đây
để hiến quý ngài Điô và Xarô. Một hôm ông cẩm cần gỗ ván, ông sai lính ra phố
mua. Mua là một cách nói thôi, chứ ông ta có đưa tiền cho lính của ông ta đâu.
Tuy vậy, lính của ông ta cũng cứ ra phố, vào hàng chọn gỗ và định mang đi, cố
nhiên là không trả tiền. Người bán gỗ không cho. Lính trở về báo cáo với quan
Tây yêu sách quái gở của nhà buôn ấy.
Điên tiết lên, ông cẩm phái ba người lính mang súng
đến bắt người bán gỗ to gan đó. Người này đang bị cảm không chịu đi. Lính về
báo lại với ông cẩm. Tức giận đến cực độ, ông liền phái thêm ba người lính nữa
nhập với tốp trước, và hạ lệnh cho họ phải bắt bằng được tên cứng đầu cứng cổ
kia đem về dù sống hay chết.
Toán lính vũ trang đến bao vây cửa hiệu bán gỗ và
sắp sửa thi hành mệnh lệnh.
Lúc ấy, một nhà buôn người Âu can thiệp bênh người
bán gỗ bản xứ và viết thư cho ông cẩm. Nhưng người cộng sự đầy nghị lực của ông
Môrixơ Lông, vẫn không chịu thu hồi "trát đòi" người bán gỗ và cho
biết rằng nếu anh ta không chịu đến thì sẽ gặp nhiều chuyện rắc rối.
Nhà buôn người bản xứ ấy đành phải bỏ
công việc làm ăn, bỏ cả quê hương để lẩn tránh cơn tức giận "khai
hoá" của vị quan da trắng.
*
* *
Bảy người An Nam đáng thương đang bơi một chiếc
xuồng dài mỏng mảnh; đã xuôi dòng nước, lại có đến bảy tay chèo nên chiếc xuồng
đi vùn vụt như một chiếc xuồng máy. Bỗng thuyền của một nhân viên Nhà đoan
khuất sau đám cây đước trong lạch hiện ra, với quốc kỳ Pháp cắm sau lái. Một
thuỷ thủ trên thuyền Nhà đoan gọi, bảo xuồng kia dừng lại; người trên xuồng vẫn
chèo. Thuyền của viên tây đoan đi chậm không đuổi kịp. Viên đoan liền cầm súng
oanhsitơ bắn theo. Đoàng! Đoàng! Một người đang chèo thét lên rồi ngã gục.
Đoàng! Lại một người nữa ngã gục. Lúc ấy, một người Âu khác, làm nghề gạch
ngói, vừa đi xuồng tới, cũng tham gia đột kích "bọn cướp" kia ở một
khúc ngoẹo. Đoàng! Đoàng! Đoàng! Quả là tay súng cừ! Ba viên đạn, ba nạn nhân.
Chiếc xuồng cùng hai người sống sót mất hút trong lạch
Một hôm khác, cũng viên đoan ấy đi với sáu thuỷ thủ
vũ trang, phát hiện được một người khốn khổ đang trốn dưới ao, ngâm mình dưới
bùn, thở bằng một cái ống, một đầu ngậm ở miệng, một đầu để ló ra khỏi mặt
nước; trên mặt nước lá sen che phủ một cách rất khéo. Viên tây đoan liền bắt và
chặt đầu "tên cướp" ấy đem về toà sứ. Thật ra, đó chỉ là một nông dân
bình thường khiếp sợ vì thấy có nhiều người lạ đến làng, mặt mày hung tợn, mang
đầy súng lục, túi đạn, lăm lăm súng oanhsitơ trên tay. Số là bọn Nhà đoan vào
các túp lều trong làng đã tìm thấy ba chiếc vỏ đạn, mấy cái bánh tàu và một cái
búa đi rừng. Vậy đích thị là một làng làm giặc và tiếp tế cho giặc rồi còn nghi
ngờ gì nữa!
Một sĩ quan trẻ tuổi vừa ở Pháp sang,
đến một làng nọ, thấy nhà cửa vắng vẻ, còn dân chúng thì tụ tập lại một chỗ.
Tưởng đâu đã lọt vào ổ phục kích, hắn bắn xả vào đám đông vô tội. Thật ra thì
dân chúng đương họp để cúng tế. Bị bắn, họ kinh hoảng bỏ chạy tán loạn. Tên sĩ
quan đuổi theo và tàn sát họ.
Một người Pháp đã từng ở Bắc Kỳ lâu
năm kể: Khi từ chiếc tàu của một nhà kinh doanh lớn, tôi đặt chân lên Bắc Kỳ,
anh có biết mạng của một người An Nam đáng giá bao nhiêu không ? Không đáng một
trinh! Thật đấy.
- Này nhé, tôi còn nhớ, khi chúng tôi
ngược sông Hồng, người ta đã đem rượu ra đánh cuộc xem ai ngồi dưới tàu, bắn
mười phát mà "hạ sát" được nhiều người An Nam nhất ở trên bờ.
Một đôi kẻ súng cầm tay đi lùng bắt
dân làng, thuyền bè để đòi tiền chuộc.
Một Đại đội Thuỷ quân Lục chiến hành
quân đến Vĩnh Thượng. Theo phép lịch sự, viên quan địa phương dàn lính (bọn lính
lệ) nghênh tiếp. Tên chỉ huy toán lính đi dò đường của đại đội thấy thế đã ra
lệnh bắn vào họ, làm nhiều người chết.
Khi người ta không trừ nổi một nghĩa
quân thì người ta đốt cả làng người ấy. Người ta đã triệt hạ cả một vùng chung
quanh Hưng Hoá như vậy.
Một người An Nam đang đi lảo đảo trên
một con đường nhỏ hẻo lánh, vai gánh hai thúng to đầy lạc. Chúng tôi tới gần,
hắn ta không kịp tránh. Tức thời người ta bắt hắn và bắn chết.
Suốt ngày, người ta vác gậy hoặc sống
gươm nện vào người An Nam để bắt họ làm việc.
Người An Nam rất hiền lành, rất ngoan
ngoãn, nhưng người ta lại nói chuyện với họ chỉ bằng những cái đá đít thôi.
Chúng ta coi những người An Nam yêu
nước là những tên cướp. Chẳng hạn như Đội Văn, một người yêu nước đã từng chiến
đấu mấy năm trời chống lại sự thống trị của người nước ngoài, bị chém tại Hà
Nội, bêu đầu ở Bắc Ninh, ném xác xuống sông Hồng.
Tống Duy Tân, sau mười năm ròng rã
chiến đấu tuyệt vọng, đã bị bắt và bị chém.
Phan Đình Phùng, một vị quan to,
kháng chiến trong mười năm trời rồi chết trong rừng sâu. Ông ta chết rồi mà
chúng ta vẫn không tha; người ta vào rừng quật mộ ông lên, ném thi hài ông mỗi
nơi một mảnh. Người ta báo thù ông ngay sau khi ông đã nằm sâu dưới mộ.
Ở tỉnh Quảng Trị, một viên cai lục lộ
người Pháp say rượu đã "hạ" một người bản xứ ngồi trên lưng voi, chỉ
vì tội không nghe rõ hay là không hiểu lệnh của hắn.
Một viên tây đoan ở Bà Rịa (Nam Kỳ)
cũng say rượu, phang một gậy trúng lá lách một thuỷ thủ An Nam thuộc quyền hắn,
làm cho anh ta chết tươi.
Một viên thầu khoán người Pháp giết
một lính khố xanh ở Đà Lạt. Cũng ở đấy, một nhà khai hoá khác đã đánh một người
thợ mộc bản xứ đến chết.
Một viên thầu khoán bắt thợ làm việc
ngày đêm dưới nước để đào một đường hầm. Một số đông thợ chết, những người còn
sống sót bãi công. Viên thầu khoán đã tự tay đốt nhà những người bãi công để
buộc họ phải đi làm trở lại. Cả một làng cháy rực giữa đêm tối.
Một viên Chánh quản pháo binh nửa đêm
vào nhà một bà vắng chồng. Bà ta không chịu tiếp hắn. Thế là hắn nổi lửa đốt
nhà bà. Dĩ nhiên, người đàn bà đau khổ kia hết sức sợ hãi.
Một viên quan hai nhiều vợ, đã quật
ngã một thiếu phụ, dùng gậy song đánh chị đến chết chỉ vì chị không chịu ăn ở
với hắn.
Một viên chức ở xưởng đóng tàu của
hải quân giết một nhân viên hoả xa người An Nam bằng cách xô anh vào một đống
than hồng sau khi đánh đập anh hết sức tàn nhẫn.
*
* *
Ông Vinhê Đốctông viết: "Trên
thế giới không có dân tộc chiến bại nào bị đàn áp và hành hạ như người dân
thuộc địa".
Một nhà du lịch khác viết: "Đời
sống ở thuộc địa chỉ làm cho tật xấu của cá nhân phát triển: Những kẻ đã nếm
mùi chiến tranh thì càng mất hết ý thức đạo đức, càng trụy lạc, bất lương và
độc ác; những bọn con buôn và bọn phiêu lưu khác thì càng quen mùi trộm cắp,
cướp giật. Ở bên Pháp ít có dịp để làm những việc đó, và người ta sợ cảnh sát
hơn! Ở đây, bọn nói trên, đôi khi chỉ có một mình với vài người bản xứ, trên
một con thuyền hoặc trong một thôn xóm; vì vậy chúng cướp bóc trắng trợn hơn là
người Âu trên thị trường, và đối xử tàn nhẫn hơn với những nông dân nào phản
đối chúng".
Một nhà du lịch thứ ba viết: Khi đặt
chân đến đây, tất cả những người Pháp đều nghĩ rằng người An Nam là hạng người
thấp kém và phải làm nô lệ cho họ. Họ coi người An Nam như những súc vật phải
điều khiển bằng roi vọt. Tất cả đều quen tự coi mình thuộc một đẳng cấp quý tộc
mới, có đặc quyền đặc lợi. Binh sĩ hay là thực dân, họ đều cho rằng giữa họ và
người bản xứ không có cách đối xử nào khác hơn là sự đối xử giữa chủ và tớ.
Hình như đối với họ, người bồi là tiêu biểu của cả chủng tộc da vàng. Phải nghe
một người Pháp ở Đông Dương nói về người da vàng mới thấy hết cái ngu xuẩn
trong lối nói ngạo mạn của hắn. Phải nhìn một người Âu đối xử với người bản xứ
mới thấy hết cái cục cằn thô lỗ của hắn.
Kẻ đi chinh phục rất quan tâm đến
thái độ phục tùng và cung kính của người bị chinh phục. Người An Nam ở thành
thị cũng như ở nông thôn đều bắt buộc phải ngả nón trước mặt người Âu.
Một tên mật thám Pháp đánh đập tàn
nhẫn những người An Nam nào quên không gọi hắn ta bằng quan lớn. Một tên Tham
tá Nhà đoan buộc những người bản xứ khi đi qua nhà hắn phải ngả mũ hoặc xuống
xe, xuống ngựa. Một hôm, nhà khai hoá này đánh đập tàn nhẫn một chị người An
Nam đang có mang, chỉ vì tuy chị có chào hắn, nhưng lại quên gọi hắn là quan
lớn. Hắn đá một cái rất mạnh vào bụng chị làm chị truỵ thai, ít lâu sau thì
người đàn bà khốn khổ ấy chết.
Các quan bảo hộ của chúng ta buộc
người An Nam phải khúm núm, ngoan ngoãn, dễ bảo và lễ phép, nhưng ngược lại, về
phía các quan, thì như một nhà văn sang thăm Đông Dương đã viết: "Hình như
họ chỉ làm những điều khiến cho sự có mặt của chúng ta trở thành một điều xấu
xa bỉ ổi không ai chịu được". Nhà văn ấy còn viết tiếp: "Ở châu Âu
người ta coi giống người da vàng chứa đựng tất cả những thói điêu ngoa, xảo
trá. Ày thế mà, chính chúng ta thì lại rất ít chú ý tỏ ra là mình ngay thẳng,
thành thật".
Có những sĩ quan đã giật râu thầy
cúng ngay trong lúc họ làm lễ. Một cậu ấm người Pháp đã đánh nhừ đòn một viên
chức người An Nam, vì ông này đã ngồi trước trên một chiếc xe hàng mà không
chịu nhường chỗ cho cậu.
Một viên Toàn quyền vừa về tới
Mácxây, người ta thết tiệc ông ta và đề nghị cho mấy viên quan Nam triều đang
có mặt ở cảng đến cùng dự. Viên Toàn quyền Đông Dương đáp: "Nếu các ông
mời các tên quan lại ấy, thì tôi cũng sẽ đưa tên bồi của tôi đến".
*
Chúng tôi xin trích trong nhật ký đi
đường của một anh lính thuộc địa, sự việc sau đây:
- Trong khi "những người từng ở
Bắc Kỳ" đang vui chơi nhởn nhơ trên tàu, thì dưới mạn tàu phía bên phải,
có mấy chiếc xuồng bán hoa quả, ốc hến. Để đưa hàng đến tận tay chúng tôi,
những người An Nam buộc giỏ đựng hàng vào đầu ngọn sào, rồi giơ lên. Chúng tôi
chỉ có mất công chọn. Nhưng đáng lẽ trả tiền, thì người ta lại có nhã ý bỏ vào
giỏ đủ thứ như sau: ống điếu, khuy quần, mẩu tàn thuốc (có lẽ họ làm như thế để
giáo dục tính ngay thật trong việc mua bán cho người bản xứ chăng!). Đôi khi để
đùa vui, một anh sốp phơ hắt một thùng nước sôi xuống lưng những người bán hàng
khốn khổ. Thế là, những tiếng kêu rú lên, mái chèo vung lên loạn xạ để bơi
tránh, làm cho xuồng va chạm vào nhau lộc cộc.
"Ngay bên dưới tôi, một người An
Nam bị giội nước sôi, bỏng từ đầu đến chân, phát điên lên muốn nhảy xuống biển.
Người anh của anh ta, quên cả nguy hiểm, bỏ chèo, ôm lấy anh, bắt anh nằm xuống
lòng thuyền. Cuộc vật lộn chớp nhoáng vừa chấm dứt thì một thùng nước sôi khác
do một bàn tay thành thạo lại giội xuống; thế là đến lượt chính người đi cứu,
bị luộc chín. Tôi trông thấy anh ta giẫy giụa trong thuyền, da bị lột ra tròi
thịt đỏ rói gào rống lên như một con vật. Thế nhưng cảnh đó lại làm cho chúng
tôi cười, chúng tôi cho là rất ngộ nghĩnh. Quả thật chúng tôi đã có tâm hồn
thực dân!".
Ở một trang khác, anh lính viết:
- Trong thời kỳ tôi ở đây (ở Bắc Kỳ),
không có tuần nào là tôi không thấy vài cái đầu rụng.
Trong những cảnh ấy, tôi chỉ còn ghi
nhớ được một điều là chúng ta còn độc ác, còn dã man hơn cả bọn kẻ cướp nhà
nghề. Tại sao lại có những hành vi quái ác đến thế đối với một con người tù sắp
phải chết ? Tại sao lại dùng nhục hình, tại sao phải giải từng đoàn tù đi bêu
khắp xóm làng ?
*
* *
Ông Đume, cựu toàn quyền Đông Dương,
đã trịnh trọng phát biểu tại Hạ nghị viện như sau: "Tôi hiểu rõ những cảnh
binh ở thuộc địa. Tôi đã từng cho tăng số đội cảnh binh lên, vì tôi đã nhận
thấy rằng lực lượng cảnh binh bảo đảm cho người bản xứ tránh được những sự hà
lạm có thể do một số tên thực dân gây ra. Cảnh binh rất được lòng người bản
xứ".
Chúng ta hãy xem các ông cảnh binh đã
làm thế nào để "được lòng dân". Phải nói ngay rằng, nhìn chung, các
ông rất hiền từ đối với bọn côn đồ, đó là điều chắc chắn rồi. Nhưng đối với dân
hiền lành thì lại là chuyện khác. Chúng ta chưa cần nói đến chuyện thương tâm
xảy ra tại Khám lớn Sài Gòn năm 1916, năm mà các ngài cảnh binh, do "nhiệt
tình yêu nước", đã bắt người bừa bãi, và những người vô tội bị bắt ấy đã
bị kết án và hành hình. Dù máu người An Nam nhuộm đỏ "đồng Mả ngụy"
có phai đi với thời gian chăng nữa, thì vết thương lòng của những bà mẹ già,
những người vợ goá, những đứa con côi không bao giờ hàn gắn được. Bọn thủ phạm
gây ra vụ đó, mà cảnh binh là công cụ hèn mạt của chúng, không hề bị trừng trị,
chúng cũng chưa hề bị truy tố. Bây giờ, chỉ xin nêu một vài trường hợp đặc
biệt:
Một viên cẩm ở Bắc Kỳ suốt ngày đi
dọc các cống rãnh, bảo là để giữ gìn vệ sinh. Hễ bắt gặp được dù chỉ một cuộng
cỏ trên dòng nước, là tức khắc hắn trừng trị và phạt tiền những người dân nghèo
khổ ở quanh đấy.
Ở miền Tây Nam Kỳ, nhằm tránh tai nạn
trong các kênh có thuyền bè đi lại, mỗi con kênh đều có một trạm cảnh binh làm
nhiệm vụ kiểm soát không cho thuyền bè đi quá nhanh hoặc làm trở ngại giao
thông. Nhưng với sự có mặt của bọn cảnh binh, thì đó là một cái "cửa
cống" tuôn ra không biết bao nhiêu vụ phạt tiền, phạt vi cảnh. Hầu hết
thuyền bè qua lại trên các kênh lạch có trạm cảnh binh ấy đều bị phạt từ một
đến hai đồng. Như thế là ngoài các khoản thuế của nhà nước chồng chất lên ngập
đầu, còn thêm thuế sông nước do các ngài cảnh binh "được lòng dân"
đặt ra nữa; nên người dân An Nam thật là sung sướng, sung sướng lắm!
Ngoài việc thăng thưởng dành cho
những người đắc lực nhất, nghe đâu các ngài cảnh binh còn được hưởng món hoa
hồng bằng 20% số tiền phạt nữa thì phải! Chế độ tốt đẹp thay!
Một tờ báo bản xứ viết: "Dân bản
xứ không muốn có cảnh binh Pháp nữa vì đó thường là mối tai hoạ cho người lương
thiện".
Một gã Puốcxinhông nào đó thấy một
người An Nam dám tò mò và cả gan nhìn vào nhà hắn trong vài giây, hắn đã nhảy
xổ ra đánh và giết anh ta bằng một phát súng lục vào đầu.
Một nhân viên hoả xa người Pháp ở Bắc
Kỳ, lấy roi mây quất một người Lý trưởng, rồi bắt nhốt vào cũi chó.
Ông Bếc đấm vỡ sọ người lái xe cho
ông ta.
Ông Brét thầu khoán, trói một người
An Nam cho chó cắn, rồi đá anh ta cho đến chết.
Ông Đépphi, chủ sự thuế quan, đá vào
hông người đày tớ một cái rất mạnh làm anh này chết tươi.
Ông Hăngri, thợ máy, nghe có tiếng ồn ào ngoài phố; cửa nhà
ông vừa mở; một chị người An Nam chạy xộc vào, có một người đàn ông bản xứ đuổi
theo. Hăngri tưởng người đàn ông kia ghẹo "con gái"(4) của
mình, liền vớ ngay khẩu súng săn, bắn một phát, người kia ngã gục.
Một người Pháp đem ngựa của hắn buộc
vào một tàu ngựa trong đó đã có con ngựa cái của một người dân bản xứ. Con ngựa
đực lồng lên làm cho người Pháp tức điên đầu. Hắn liền đánh người bản xứ ấy hộc
máu mồm máu mũi, rồi trói anh ta lại, treo lên cầu thang.
Một nhà truyền giáo (vâng, một tông
đồ hiền lành của Chúa!) nghi cho một học sinh Chủng viện bản xứ lấy cắp một
nghìn đồng; hắn trói anh ta lại rút lên xà nhà mà đánh. Người học sinh tội
nghiệp kia ngất đi. Hắn hạ anh ta xuống. Anh hồi tỉnh, hắn lại rút anh lên, tra
khảo. Người bản xứ đó dở sống dở chết. Có lẽ hôm nay thì đã chết thật.
Vân vân và vân vân.
Toà án có trừng phạt những kẻ ấy,
những nhà khai hoá ấy không?
Một số đã được tha bổng, còn một số
thì chẳng hề bị động tới lông chân.
Một tên thực dân Pháp thấy ba người
bản xứ thả cừu vào vườn ôliu của hắn. Hắn bảo vợ đem súng đạn ra; nấp vào bụi
rậm, hắn bắn ba phát, làm bị thương nặng cả ba người.
Một tên thực dân Pháp khác có hai
công nhân người bản xứ giúp việc là Amđuni và Ben Benkhia. Hai người này hình
như có hái trộm vài chùm nho. Tên thực dân liền cho gọi họ đến, lấy roi gân bò
quất xối xả vào họ cho đến chết ngất. Khi họ tỉnh lại thì quan lớn bảo hộ sai
trói giật cánh khuỷu lại và treo lên. Mặc dù hai người khốn khổ kia đã mê man
bất tỉnh, cuộc hành hạ ghê tởm đó vẫn cứ kéo dài suốt bốn tiếng đồng hồ cho đến
khi có người láng giềng phản đối mới thôi.
Khiêng vào bệnh viện, mỗi người bị
cưa mất một bàn tay. Còn bàn tay kia cũng không chắc gì cứu khỏi.
* *
Một người An Nam, 50 tuổi, từng làm
việc 25 năm ở Sở Xe lửa Nam Kỳ, đã bị một viên chức da trắng giết chết. Đầu
đuôi như sau:
Ông Lê Văn Tài có bốn người An Nam
khác giúp việc dưới quyền mình. Phận sự của họ là đóng cầu mỗi khi có xe lửa đi
qua và mở cầu cho thuyền bè qua lại. Theo lệ thì phải đóng cầu mười phút trước
khi xe lửa đi qua.
Ngày 2 tháng 4, hồi 16 giờ 30 phút,
một người trong bọn họ vừa mới đóng cầu và treo tín hiệu xong thì một xuồng máy
công đi đến; trên xuồng có một viên chức người Pháp của xưởng đóng tàu hải quân
đi săn về. Chiếc xuồng kéo còi. Nhân viên bản xứ liền ra giữa cầu phất cờ đỏ
báo cho những người trên xuồng biết xe lửa sắp chạy qua. Thế là chiếc xuồng cập
vào một trụ cầu. Người viên chức Pháp nhảy lên bờ, hầm hầm đi về phía người An
Nam. Anh này khôn ý chạy về phía nhà ông Tài là "xếp" của mình. Người
Pháp đuổi bắt, lấy đá ném theo. Nghe tiếng ồn ào, ông Tài chạy ra, đón viên đại
diện của văn minh, thì viên này sừng sộ mắng vào mặt ông: "Đồ súc sinh!
Tại sao mày không mở cầu ra?". Vốn không biết nói tiếng Pháp, ông Tài chỉ
còn biết trả lời hắn bằng cách trỏ tay vào cái tín hiệu màu đỏ. Cử chỉ đơn giản
ấy làm cho vị cộng sự của ngài toàn quyền Lông phát khùng lên. Không phân phải
trái, hắn ta nhảy xổ vào ông Tài và sau khi đánh ông nhừ tử, hắn xô ông vào một
đống than hồng gần đó.
Người An Nam gác cầu ấy bị bỏng một
cách rùng rợn, phải chở đến nhà thương, và sau sáu ngày giãy giụa, ông đã chết.
Người viên chức kia vẫn được vô sự,
không bị đòi hỏi gì cả. Trong lúc ở Mácxây người ta trưng bày sự phồn vinh giả
tạo của xứ Đông Dương, thì ở Trung Kỳ dân đang chết đói. Ở đây, người ta ca
ngợi lòng trung thành, thì ở bên kia, người ta đang giết người!
Trong khi tính mạng một con người An
Nam bị rẻ rúng không đáng giá một trinh, thì ngài Tổng Thanh tra Rêna chỉ bị
sướt một chút da ở cánh tay lại được lĩnh đến 120.000 phrăng tiền bồi thường.
* *
Công cuộc khai hoá người Marốc bằng
đại bác vẫn tiếp diễn.
Một viên chỉ huy bộ binh Duavơ(5) đóng ở Xéttát, đã nói
với binh sĩ như thế này: "Chúng ta phải diệt cho xong lũ man rợ này. Đất
Marốc giàu khoáng sản và nông sản. Chúng ta, những người Pháp, những người văn
minh, chúng ta đến đây với hai mục đích: Khai hoá và làm giàu cho chúng
ta".
Viên chỉ huy ấy nói đúng
đấy. Nhất là ông ta đã thành thật thú nhận rằng người ta sang thuộc địa là để
cướp bóc người bản xứ. Bởi vì chỉ sau 10 năm đặt dưới chế độ bảo hộ, xứ Marốc
đã bị người châu Âu cướp mất 379.000 hécta đất trồng trọt, trong đó 368.000
hécta đã lọt vào tay những người Pháp khai hoá. Diện tích Marốc có 815.000
kilômét vuông; nếu công cuộc khai hoá cứ tiếp tục với đà ấy thì chẳng mấy năm
nữa, người dân Marốc khốn khổ sẽ không còn lấy một tấc đất tự do nào để trồng
trọt và sinh sống trên Tổ quốc mình mà không phải chịu cái ách bóc lột và nô
dịch của chủ nghĩa thực dân.
1)
Bản tiếng
Pháp: Sous brigadier européen (Phó Cảnh binh người Âu).
2)
Bản
tiếng Pháp: f... l Annamite à la porte... (đuổi người An Nam ra khỏi nhà).
3) Bản tiếng Pháp: Cochinchine (Nam Kỳ).
4)
Hồi
Pháp thống trị nước ta, người Pháp thường nuôi những người thiếu nữ Việt Nam
vừa làm người hầu hạ, may vá, vừa làm trò chơi; chúng gọi những người ấy là
"con gái". Khi một người Pháp nói "ma con gái" (đứa con gái
của tôi) cũng như nói "mon boy" (người bồi của tôi) vậy.
5) Zouaves. Danh từ dùng để chỉ những binh lính thuộc
những đơn vị quân đội thực dân Pháp lúc mới thành lập chỉ gồm những người bản
xứ Angiêri ở vùng Zouagha, một địa phương thuộc miền núi nước Angiêri, giáp
Tuynidi.
Chương VI: Tệ
tham nhũng trong bộ máy cai trị
Ngân sách Nam Kỳ chẳng hạn, năm 1911
là 5.561.680 đồng (12.791.000 phrăng); năm 1912 là 7.321.817 đồng (16.840.000
phrăng). Năm 1922, ngân sách đó lên tới 12.821.325 đồng (96.169.000 phrăng).
Một con tính đơn giản cho chúng ta thấy giữa hai năm 1911 và 1922, trong ngân
sách của thuộc địa này có một sự chênh lệch là 83.369.000 phrăng. Số tiền đó
chạy vào đâu? Tất nhiên là vào các khoản chi về nhân sự, vì các khoản này ngốn
gần hết 100% tổng số thu.
Hết hành vi điên rồ này đến hành vi
điên rồ khác đã phung phí đồng tiền mà người dân An Nam khốn khổ đã phải đổ mồ
hôi nước mắt mới kiếm được. Chúng tôi chưa biết đích xác số tiền chi tiêu cho
vua An Nam sang ngao du bên Pháp, chỉ biết rằng, để đợi ngày lành cho con Rồng
tre xuống tàu, người ta đã phải bồi thường cho tàu Poóctốtxơ trong bốn ngày chờ
đợi, mỗi ngày 100.000 phrăng (tức là 400.000 phrăng tất cả). Tiền tàu hết
400.000 phrăng. Tiền chiêu đãi hết 240.000 phrăng (chưa kể tiền lương trả cho
bọn mật vụ để theo dõi người An Nam ở Pháp), 77.600 phrăng trả tiền ăn ở tại
Mácxây cho lính khố xanh dùng để "bồng súng chào" Cụ lớn và Hoàng
thượng.
Vì nói đến Mácxây, nên nhân tiện cũng
thử xem cuộc Triển lãm thuộc địa ở đây đã tốn phí bao nhiêu. Trước hết, ngoài
bọn có thế lực ở chính quốc ra, người ta còn cho mời ba chục viên chức cao cấp
ở các thuộc địa về; bọn này phè phỡn ở đường phố Cannơbie(1) mà vẫn
được lĩnh phụ cấp cả ở Triển lãm lẫn ở thuộc địa. Riêng Đông Dương phải bỏ ra
12 triệu cho cuộc Triển lãm này. Và các bạn có biết người ta đã chi tiêu số
tiền đó như thế nào không? Một ví dụ: Việc dựng lại cái mô hình nổi tiếng của
các cung điện Ăngco đã tốn 3.000 mét khối gỗ, giá 400 hoặc 500 phrăng một mét
khối. Tức là: Từ 1 triệu 200 nghìn đến 1 triệu 500 nghìn phrăng!
Còn nhiều ví dụ khác về sự phung phí
nữa. Trong việc đi lại của quan toàn quyền, xe hơi và xe luých vẫn chưa đủ, còn
phải có một toa xe lửa đặc biệt nữa kia; việc sửa sang toa xe đó tốn cho ngân
khố 125.250 phrăng.
Trong vòng mười một tháng hoạt động,
Nha Kinh tế (?) đã làm hao phí công quỹ Đông Dương một số tiền 464.000 phrăng.
Tại Trường Thuộc địa, nơi "chế
tạo" ra những nhà khai hoá tương lai, 44 Giáo sư đủ các loại được đài thọ
để dạy từ 30 đến 35 học viên. Lại phải tốn hàng nghìn phrăng nữa.
Công việc thanh tra thường xuyên các
công trình phòng thủ thuộc địa hằng năm tốn cho ngân sách 785.168 phrăng. Thế
nhưng các ngài Thanh tra thì không bao giờ rời khỏi Pari và đối với các thuộc
địa thì các ngài cũng không hiểu biết gì hơn là hiểu biết ông trăng già!
Nếu chúng ta đến
các thuộc địa khác, thì ở đâu chúng ta cũng thấy một tình trạng tệ lậu như vậy.
Để đón tiếp một phái đoàn "kinh tế" không chính thức, ngân khố
Máctiních "nhẹ bổng đi" mất 400.000 phrăng. Trong vòng 10 năm, ngân
sách Marốc từ 17 triệu lên 290 triệu phrăng, mặc dầu người ta đã giảm 30% các
khoản chi tiêu cho lợi ích địa phương, tức là những khoản chi tiêu có thể có
lợi cho nhân dân bản xứ!
*
* *
Một cựu nghị sĩ đi thăm thuộc địa về, đã phải kêu
lên: "So với bọn viên chức thuộc địa thì những tên cướp đường còn là những
người lương thiện!". Mặc dù đồng lương rất hậu (một nhân viên Pháp mới bổ
dụng, dù có dốt đặc đi nữa, lương ít nhất cũng 200 đồng = 2.000 phrăng mỗi
tháng), nhưng các ngài viên chức ấy vẫn không bao giờ thoả mãn, họ muốn kiếm
chác nhiều hơn, bằng đủ cách.
Học bổng thì cấp cho các cậu ấm con các quan Công
sứ, hoặc các quan cai trị tại chức mà lương được coi như quá thấp (từ 4 vạn đến
10 vạn phrăng).
Có thể nói một số phiên họp của Hội đồng quản hạt
chỉ là để bàn việc cướp giật công quỹ một cách có phương pháp. Riêng một ông
Chủ tịch nào đó của Hội đồng đã được lãnh thầu những công việc trị giá hai
triệu phrăng rồi. Ông đổng lý sự vụ nọ, đại diện của Chính phủ trong Hội đồng,
đã xin tăng lương mình lên gấp đôi và đã được chấp thuận. Việc làm một con
đường kéo dài năm này qua năm khác chẳng ai kiểm tra đem lại cho một vị thứ ba
những món lợi thường xuyên đều đặn. Chức vụ thầy thuốc của các viên chức Đông
Dương đem lại cho vị thứ tư một khoản lương khá hậu. Vị thứ năm được bổ làm
thầy thuốc các công sở thành phố. Vị thứ sáu nhận cung ứng giấy và in tài liệu
cho Chính phủ. Cứ thế, vân vân và vân vân.
Kho bạc có vơi đi chút ít thì đã có những quý quan
làm cho nó đầy lại một cách nhanh chóng. Với quyền hành sẵn có, họ sức cho dân
bản xứ biết nhà nước cần một khoản tiền bao nhiêu đó, rồi họ phân bổ cho các
làng phải đóng góp. Và các làng lo vội vàng tuân lệnh để khỏi bị trừng phạt
ngay lập tức.
Khi một viên Khâm sứ cần thanh toán một khoản tiền
gì đó thì ngài phát hành các bằng sắc để bán. Người ta kể lại ở một tỉnh nọ,
một vụ kinh doanh kiểu ấy đã thu được tới 10.620 phrăng. Mà những vụ như thế
không phải hiếm.
Một trong những quan Khâm sứ của chúng ta, vì tiêu
hết trước hạn mấy tháng tất cả kinh phí cho chiếc xàlúp đã bắt công quỹ hoàn
lại cho ngài các khoản chi phí về một cuộc lễ tiết nào đó không ai biết rõ,
nhưng nói rằng nhà vua đã được mời ngự trên xàlúp.
Các tay chào hàng
cho văn minh và dân chủ quả thật thông thạo về cái ngón xoay xở kiểu D.
*
* *
Một cựu Toàn quyền Đông Dương, một
hôm đã thú nhận rằng thuộc địa này đầy rẫy những viên chức ăn hại ngân sách mà
thường chẳng được tích sự gì cả.
Một người thực dân viết: Quá nửa số
viên chức ấy, từ các quan đầu tỉnh đến các quan chức khác, đều không đủ tư cách
cần thiết của những con người được giao phó những quyền hạn rộng rãi và ghê gớm
như thế.
Tất cả bọn chúng chỉ có mỗi cái tài
là phung phí công quỹ, còn người An Nam khốn khổ thì cứ nai lưng đóng góp, đóng
góp mãi. Họ đóng góp không những để trả lương cho những viên chức giữ những
chức vụ vô dụng, mà còn để trả lương cho cả những viên chức không có chức vụ gì
cả! Năm 19..., 250.000 phrăng đã tan biến đi như thế.
Một chiến hạm đã được dành riêng cho
sự đi lại của một Cụ lớn. Việc sửa sang chiếc chiến hạm đã tốn 250.000 phrăng,
ấy là chưa kể những khoản "chi phí linh tinh" mà Đông Dương phải đài
thọ cho mỗi chuyến đi là trên 80.000 phrăng.
Quan Toàn quyền chưa vừa ý với những
lâu đài tráng lệ mà ngài ở tại Sài Gòn và Hà Nội, còn phải cần thêm cho ngài
một biệt thự ở bãi biển nữa. Ngân sách Đông Dương lại phải "è lưng ra
gánh".
Năm 19... một tay nước ngoài(2)
tai to mặt lớn nào đó ghé qua Sài Gòn, đã được viên Thống đốc đón tiếp một cách
đế vương. Bốn ngày liền ăn chơi phè phỡn thả cửa, yến tiệc, rượu chè lu bù, rốt
cuộc xứ Nam Kỳ tội nghiệp phải tính sổ trả 75.000 phrăng.
Các quan cai trị đều là những ông vua
con. Họ muốn xung quanh mình cái gì cũng xa hoa tráng lệ, và nói rằng, có thế
mới nâng cao được uy tín của họ đối với người bản xứ.
Một viên Công sứ nọ đã lập cả một đội
kỵ mã cận vệ và không bao giờ hắn đi đâu mà không có đội ấy theo hầu. Ở tất cả
các toà sứ đều có từ 6 đến 11 con ngựa và 5, 6 cỗ xe sang trọng đủ kiểu: Độc
mã, song mã, tứ mã, v.v.. Ngoài những phương tiện đi lại đã quá thừa ấy, còn
thêm những xe hơi mỹ lệ, tốn cho công quỹ hàng vạn đồng. Một viên quan cai trị
nọ còn có cả một tàu ngựa đua.
Tiền nhà cửa, bàn ghế, điện nước của
các vị đó đều do công quỹ đài thọ cả. Ngoài ra, những người đánh xe, lái xe,
giữ ngựa, làm vườn, tóm lại, tất cả những kẻ hầu người hạ của họ cũng đều do
nhà nước trả tiền công.
Thậm chí những cuộc giải trí về văn
chương của những người tốt số ấy cũng lại do nhà nước trang trải. Một viên quan
cai trị đã ghi vào ngân sách 900 đồng tiền sưởi ấm, và 1.700 đồng mua báo chí!
Một vị khác đã dùng mánh lới kế toán để biến tiền mua sắm áo khoác ngoài, đàn
dương cầm, đồ trang sức thành những khoản vật liệu tu bổ toà sứ, hoặc những
khoản tương tự như thế để bắt ngân sách nhà nước phải chịu.
*
* *
Dù trước kia họ là những anh hàng
cháo, hoặc giám thị trong các nhà trường, nhưng khi đã đặt chân đến thuộc địa
là các nhà khai hoá ấy của chúng ta sống một đời sống đế vương. Một viên quan
cai trị dùng năm sáu lính khố xanh để chăn dê cho mình; một viên khác bắt lính
có nghề điêu khắc chạm trổ cho mình những tượng Phật xinh xắn hoặc đóng cho
mình những rương hòm rất đẹp bằng gỗ dạ hương.
Theo lệ, một viên giám binh chỉ được
lấy một lính hầu, thế mà người ta kể, có một ngài đã dùng: 1 viên đội làm quản
gia, 1 đầu bếp, 3 bồi, 2 phụ bếp, 3 người làm vườn, 1 hầu phòng, 1 người đánh
xe, 1 người giữ ngựa. Còn bà lớn thì dùng: 1 thợ may, 2 thợ giặt, 1 thợ thêu
ren, 1 thợ đan lát. Và cậu ấm thì có một người bồi riêng không lúc nào rời cậu
nửa bước.
Một người mắt thấy kể lại: Chỉ trong
một bữa ăn thường, không phải yến tiệc gì, ở nhà một viên quan cai trị, cũng
thấy đằng sau mỗi người ngồi ăn có một lính đứng hầu chờ thay đĩa và đưa món
ăn. Và tất cả lính hầu trong phòng ăn đều do một viên đội nhất chỉ huy!
1)
La
Cannebière. Tên một đường phố đông đúc ở Mácxây.
2) Nguyên văn: Un Tartempion de marqué étranger.
Tartempion là một danh từ riêng đặt ra dùng để chỉ một anh chàng cha căng chú
kiết nào đó.
Chương VII:
Bóc lột người bản xứ
"Sau khi cướp hết những ruộng
đất màu mỡ, bọn cá mập Pháp đánh vào những ruộng đất cằn côi những thứ thuế vô
lý gấp trăm lần thuế đất thời phong kiến".
Vinhê Đốctông
Trước khi Pháp chiếm cứ xứ này, trong
bộ thuế điền thổ các làng, người ta xếp đất ruộng, công cũng như tư, thành
nhiều hạng dựa theo các loại cây trồng. Thuế suất ruộng từ 5 hào đến l đồng một
mẫu, còn đất từ một hào hai đến một đồng tư một mẫu. Mẫu là đơn vị diện tích hình
vuông mỗi cạnh 150 thước. Thước thì dài, ngắn không chừng, tuỳ từng tỉnh, có
thước 42, 47, hoặc 64 xăngtimét. Vì thế, diện tích mẫu rộng hẹp khác nhau, có
nơi bằng 3.970 mét vuông, nơi 4.900, nơi 6.200 mét vuông.
Để tăng thu nhập cho nhà nước, người
ta đã định một thước thống nhất là 40 xăngtimét, non hơn tất cả các thứ thước
thông dụng, do đó mỗi mẫu chỉ bằng 3.600 mét vuông. Với cách này, thuế điền thổ
tăng lên theo tỷ lệ khác nhau tuỳ từng tỉnh: Có nơi tăng một phần mười hai, có
nơi một phần ba, nơi không may nhất tăng đến hai phần ba.
Từ năm 1890 đến
năm 1896, thuế trực thu tăng gấp đôi; từ năm 1896 đến năm 1898 lại tăng lên gấp
rưỡi. Làng nào bị tăng thuế cũng cắn răng mà chịu; hỏi còn biết kêu vào đâu?
Được thể các ngài công sứ càng làm già. Nhiều người Pháp coi việc các làng
ngoan ngoãn đóng thuế như vậy là một bằng chứng rõ ràng rằng mức thuế không có
gì là quá đáng!
*
Thuế thân tăng từ một hào tư lên hai đồng rưỡi.
Những thanh niên chưa vào sổ đinh, nghĩa là còn dưới 18 tuổi, trước kia không
phải nộp gì cả, nay phải nộp ba hào mỗi người, tức là hơn gấp đôi một suất đinh
trước kia.
Theo nghị định ngày 11 tháng 12 năm 1919 của thống
sứ Bắc Kỳ, thì tất cả người bản xứ, từ 18 đến 60 tuổi đều phải đóng một suất
thuế thân đồng loạt là hai đồng rưỡi.
Mỗi người An Nam lúc nào cũng phải mang theo mình
thẻ thuế thân, khi hỏi phải xuất trình; ai quên hoặc đánh mất sẽ bị bỏ tù.
Để bù vào chỗ đồng bạc bị sụt giá, Toàn quyền Đume
chỉ cần làm một việc đơn giản là tăng số đinh lên!
Mỗi năm người ta phân bổ cho mỗi làng một số nhất
định về đinh và điền thuộc các hạng. Nhưng khi cần tăng thêm nguồn thu thì thế
nào? Thì cứ việc chữa lại các con số của tài khoá rồi bắt các làng phải đóng
thuế cho số đinh và điền cao hơn con số đã phân bổ đầu năm. Vì thế, tỉnh Nam Định
(Bắc Kỳ) tổng diện tích chưa đến 120.000 hécta nhưng thống kê đã ghi đến
122.000 hécta ruộng, và người dân An Nam buộc phải nộp thuế cho những ruộng
không có trên thực tế! Có kêu cũng chả ai thèm nghe!
Thuế má không những nặng oằn lưng, mà còn luôn luôn
thay đổi.
Một số thuế lưu thông hàng hoá cũng giống như thế.
Vả lại, đánh thuế như cách sau đây thì làm sao mà công bằng được: Người ta cấp
giấy phép lưu thông cho 150 kilôgam thuốc lá, sau đó lại bố trí để đánh thuế
được nhiều lần cũng món hàng đó mỗi khi nó chuyển sang tay chủ khác, mỗi khi số
150 kilôgam ấy được phân phối cho ba, bốn khách mua? Chẳng còn luật lệ nào khác
ngoài sự tuỳ tiện của bọn Nhà đoan. Bởi vậy, người An Nam rất sợ bọn Nhà đoan,
cứ thoáng thấy chúng là họ vứt ngay giữa đường những thúng muối, thúng cau,
hoặc thuốc lá của họ: Thà vứt của đi còn hơn là phải đóng thuế hết khoản này
đến khoản khác mãi mãi không thôi. Ở một số vùng, nhân dân buộc lòng phải nhổ
thuốc, chặt cau, để tránh những phiền nhiễu vì thuế mới.
Ở Luông Prabăng, nhiều phụ nữ nghèo khổ thảm thương
phải mang xiềng đi quét đường chỉ vì một tội không nộp nổi thuế.
Tỉnh Bắc Ninh
(Bắc Kỳ) bị lũ lụt tàn phá, thế mà cũng phải nộp 500.000 đồng tiền thuế.
*
Các bạn đã nghe ông Môrixơ Lông, Toàn
quyền Đông Dương, ông Anbe Xarô, Bộ trưởng Bộ Thuộc địa, và báo chí của họ -
một thứ báo chí vô tư - khua chiêng gõ trống về thành công của công trái Đông
Dương. Nhưng họ lại giữ kín không nói là đã dùng biện pháp gì để đi đến thành
công đó. Họ sợ lộ bí quyết nhà nghề. Kể cũng phải. Và bí quyết ấy là như thế
này: Trước hết, họ đem khoản lợi tức công trái ra để câu những kẻ ngây thơ.
Nhưng ngón ấy không ăn thua mấy, họ bèn bắt các xã phải bán công sản đi để mua
công trái. Cũng vẫn không đủ, họ liền đòi những người có máu mặt đến, ấn cho mỗi
người một biên lai trước, thế là những người này chỉ còn có việc chạy vạy nộp
cho đủ khoản tiền đã ghi sẵn trong biên lai. Vì ruột két của Chính phủ thì rộng
thênh thang, mà số những nhà công thương bản xứ thì không nhiều, cho nên số
công trái ấn vào cho họ không đủ để nhét đầy cái ruột két không đáy kia. Thế là
cái nhà nước quen gõ cứ gõ mãi vào đám đông đã bị gõ nhiều nhất: Người ta bắt
hai, ba, bốn người dân nghèo, hoặc nhiều hơn nữa, phải mua chung một cổ phiếu!
Dưới đây là một thí dụ về cái ngón mà
các quan cai trị của chúng ta thường dùng để móc tiền trong túi người bản xứ.
Ở một tỉnh thuộc miền Tây Nam Kỳ,
trước ngày mở công trái mấy tuần, viên tỉnh trưởng họp tất cả các Chánh tổng
trong tỉnh lại để hiểu dụ về thể thức mua công trái. Sau khi những lời hiểu dụ
của ông ta được người thông ngôn dịch xong, viên tỉnh trưởng kết luận:
-
Thế đấy. Nhiệm
vụ của tôi là giải thích cho các ông hiểu. Bây giờ thì mua đi! Rồi "quan
lớn" quay lại hỏi viên Chánh tổng đứng bên cạnh:
-
Thế tổng ông
nhận mua bao nhiêu nào?
Viên Chánh tổng thảm hại kia bị hỏi
đột ngột, ấp úng trả lời rằng, vì chưa gặp được dân để tìm hiểu khả năng của
họ, nên chưa thể nói ngay được con số sẽ mua là bao nhiêu.
Quan lớn liền thét:
-
Câm cái mõm
lại, anh không xứng đáng là Chánh tổng! Tôi cách chức anh!
Công trái đã mở. Viên Thống đốc Nam
Kỳ đi kinh lý, ghé lại tỉnh lỵ hỏi xem từ một tuần nay số công trái bán được là
bao nhiêu.
Nghe báo cáo là 73.000 đồng, quan lớn
tỏ vẻ không hài lòng, vì tỉnh này có tiếng giàu nhất miền Tây Nam Kỳ, vả lại
trong những đợt công trái trước, tỉnh này đã mua được nhiều hơn thế kia mà.
Viên Thống đốc đi rồi, viên chủ tỉnh
quyết định đi một vòng để cổ động trong toàn hạt. Ông ta đến thăm tất cả các
nhà giàu bản xứ có súng và ấn cho mỗi người một số công trái. Để cho họ hiểu
rằng đây không phải là chuyện đùa, quan lớn tịch thu súng của họ và bảo:
-
Phải biết, nếu
cứ ỳ ra thì đừng có hòng được trả lại súng!
Thế là ai nấy đều phải cúi đầu chịu
mua cả.
Nhân đây cũng nên
nói, chính ông quan lớn này đã chi 30.000 đồng để đắp một con đường dài 9
kilômét hiện nay nó đang sụt lở xuống dòng kênh bên cạnh. Mong rằng con đường
sắt xuyên Đông Dương sẽ tốt số hơn.
*
* *
Người ta xây một ngôi chùa. Nhân công
làm chùa toàn là người nhà pha, do một thân hào hướng dẫn. Sổ chấm công thợ
hằng ngày ghi rõ ràng đều đặn và thầu khoán cũng trả tiền sòng phẳng. Thế nhưng
tiền thì lại chính quan lớn Công sứ bỏ túi.
Quan lớn Công sứ vừa được thưởng mề
đay. Để mừng ngài, người ta mở một cuộc lạc quyên. Mức đóng góp bắt buộc đối
với các quan lại, viên chức, hào lý, tối thiểu phải là 6 đồng. Tất cả thu được
l0.000 đồng. Chiếc mề đay ấy quý đấy chứ nhỉ!
Việc cho bao thầu vật liệu để bắc mấy
chiếc cầu gỗ và dựng mấy trường làng, đã mang lại cho quan Công sứ thanh liêm
nhà ta một món quà nhỏ gần 2.000 đồng.
Việc đăng ký trâu bò không mất tiền,
nhưng quan lớn Công sứ cứ cho phép những kẻ thừa hành thu mỗi con từ 5 hào đến
5 đồng.
Để đáp lại, bọn này cứ đóng cho ngài
mỗi tháng 200 đồng.
Việc xếp hạng ruộng đất một cách gian
dối còn đem thêm 4.000 đồng cho ông quan vừa mới được gắn mề đay ấy.
Việc nhượng trưng bất hợp pháp mấy
hécta đất lại cho chui thêm vào túi ngài 2.000 đồng nữa.
Là nhà khai hoá, là nhà ái quốc, và
cũng là môn đồ của chủ nghĩa cực đoan, quan lớn Công sứ đã biết lợi dụng rất có
kết quả những đợt "công trái Chiến thắng" - xin nhớ rằng cứ mỗi lần
chiến thắng là một lần mở công trái, và cứ mỗi năm lại có một lần chiến thắng.
Trong lần mở công trái năm 1920, có mấy làng đã mua 55.900 phrăng, theo hối
suất một đồng ăn 10 phrăng 25, tức là họ đã bỏ ra 5.466 đồng. Năm 1921, đồng
bạc sụt giá chỉ còn 6 phrăng, cụ sứ bèn hào hiệp thu về cho cụ các cổ phiếu đó
và bỏ ra 5.466 đồng hoàn lại cho các làng. Về sau, do giá đồng bạc Đông Dương
lên, cụ đã vớ gọn 9.325 đồng.
Tin sau đây chúng tôi trích ở Tờ Công
báo, nói về buổi họp thứ nhất, ngày 22 tháng 12 năm 1922: "Trong thời
kỳ chiến tranh, nhiều lính Phi gửi ngân phiếu cho gia đình, với những số tiền
nhiều khi rất lớn. Nhưng các ngân phiếu ấy không bao giờ đến tay người nhận
cả".
Một bạn đồng nghiệp lại vừa cho chúng
tôi biết một "hiện tượng" tương tự như thế. Lần này, thì sự việc xảy
ra ở đảo Rêuyniông. Đã nhiều tháng nay nhân dân trên đảo không hề nhận được một
bưu kiện nào gửi đến cho họ cả. Tờ báo viết:
"Hiện tượng ấy làm cho cả người gửi hàng lẫn
người không nhận được hàng đều phải lấy làm lạ.
“Nhiều người khiếu nại. Cuộc điều tra mới mở đã rọi
ngay được ánh sáng vào điều bí mật nói trên, và phát hiện ra một loạt vụ đánh
cắp được tiến hành một cách chu đáo và kiên trì lạ thường.
"Người ta bắt một nhân viên, rồi một nhân viên
nữa, rồi đến lượt ông "xếp", và cuối cùng, khi tất cả nhân viên đã bị
còng tay thì đến phiên ông Giám đốc ngành bưu điện cũng theo họ vào tù nốt.
"Mỗi ngày cuộc điều tra lại đưa ra ánh sáng
vài sự việc mới. Số bưu kiện bị đánh cắp trị giá trên 125.500 phrăng. Giấy tờ
kế toán đều làm gian cả. Sổ sách gian lận rối beng đến nỗi phải mất hơn 6 tháng
mới gỡ ra được.
Ở trong một ngành nào đó đôi khi có
thể có một vài viên chức gian tham, song rất ít khi lại có cả một ngành suốt từ
trên xuống dưới nhiễm phải bệnh ăn cắp đến như vậy; điều lạ kỳ hơn nữa là tại
sao tất cả bọn ăn cắp ấy lại có thể hoành hành được trong mấy năm ròng mà vân
được bình yên vô sự".
*
* *
Trong dịp nghị viện thảo luận dự luật về kinh phí
hàng không quân sự, trong đó có khoản kinh phí mà các thuộc địa, nghĩa là người
bản xứ, buộc phải nhả tiền ra đóng (Đông Dương 375.000 phrăng, Tây Phi 100.000
phrăng), ông Môrinô, nghị viên Angiêri, có nói về việc này:
"Thưa các bạn thân mến, trong dịp này, các bạn
hãy cho phép tôi tiếp theo những lời ca tụng những người Pháp dũng cảm đã lập
được một chiến công đẹp đẽ như thế, chiến công mà Tờ Times đánh giá là
kỳ diệu, được nói lên tấm lòng cảm phục của tất cả chúng ta đối với họ; sự cảm
phục đó ông Xitrôen, nhà công nghiệp "chí công vô tư" cũng
xứng đáng được dự phần, vì ông đã không ngần ngại giúp đỡ phương tiện tài chính
và kỹ thuật cho họ. (Vỗ tay).
"Việc gì đã xảy ra sau sự kiện vĩ đại ấy? Ấy
là việc các đồn đóng ở miền Nam Angiêri lập tức đặt mua thứ phương tiện vận tải
vô song ấy cho sa mạc Xahara mà người ta gọi là ôtô dây xích.
"Đồn Túcguốc và đồn Uácgla vừa đặt mua hai
chiếc - tin này gần đây quan Toàn
quyền Angiêri vừa cho tôi biết.
"Tất cả các đồn bốt khác của ta tất nhiên rồi
cũng sẽ mau chóng được trang bị bằng những thứ đó.
"Trong một thời gian ngắn, chúng ta cần phải
thiết lập thêm bốn, năm đồn mới nữa, để cho có một tuyến đồn bốt nối tiếp nhau,
cứ khoảng 200 kilômét có một đồn. "Đồn mới sẽ được thiết lập, rồi sẽ đặt
mua ôtô dây xích. Thế là tất cả các đồn bốt ở Xahara sẽ liên lạc được với nhau
không khó khăn gì. Việc chuyển vận quân nhu, lương thực từ đồn này sang đồn
khác sẽ hết sức dễ dàng. Thư từ sẽ nhận đều đặn (Vỗ tay)".
(Trích Công
báo ngày 22 tháng 1 năm 1923)
*
* *
Người dân đi tạp dịch không phải chỉ có dọn dẹp,
sửa sang những lối đi quanh toà sứ để cho vui bước chân nhàn hạ của một vài
người Âu đâu, mà họ còn phải luôn luôn làm những việc nặng nhọc hơn nhiều tuỳ
theo ý thích của các quan Công sứ.
Mới được tin ông Bộ trưởng Bộ Thuộc địa sang thăm
Đông Dương, thế là người ta bắt ngay l0.000 dân đi làm cho xong con đường V.L.(1),
để kịp cho ngài Bộ trưởng làm Lễ Khánh thành.
Mùa hè năm 18..., một thời gian ngắn trước khi nạn
đói tàn phá miền Trung Trung Kỳ, người ta đã bắt một vạn dân, có Lý trưởng từng
làng áp giải, đi nạo vét bùn một con sông. Đến nơi một số lớn trong đoàn nhân
công khổng lồ ấy không có việc làm. Thế nhưng người ta vẫn giữ họ lại hàng
tháng trong lúc đồng ruộng đang cần đến những cánh tay nhàn rỗi ấy. Phải chú ý
một điều là chưa bao giờ người ta huy động một lực lượng đông đến như thế, khi
cần ngăn ngừa một tai hoạ chung cho nhân dân. Cuối năm 18..., nếu người ta tổ
chức từ Đà Nằng trở đi một đường dây vận chuyển để tiếp tế cho các địa phương
bị đói thì đại đa số những người chết đói ở miền Trung đã khỏi bị chết oan;
l0.000 dân phục dịch ở sông nói trên, rất có thể đủ sức phân phối trong vòng
một tháng 2.000 tấn gạo cho các nơi bị đói trong các tỉnh của họ.
Công việc làm các con đường đi Đà Nằng, đi Trấn
Ninh và đi Lào còn để lại cho mọi người biết bao kỷ niệm đau đớn. Dân phu phải
đi bộ hàng trăm kilômét mới đến công trường. Đến nơi, họ phải chui rúc trong
những túp lều tranh thảm hại. Không có mảy may vệ sinh; không có tổ chức y tế.
Trên đường không trạm nghỉ chân, không nhà tạm trú. Họ chỉ được một suất cơm ăn
không đủ no với một chút cá khô và phải uống nước bẩn, thứ nước khe núi mà họ
rất sợ. Bệnh hoạn, cực nhọc, hành hạ tàn tệ đã gây nên chết chóc khủng khiếp.
Nếu không bắt dân đi tạp dịch thì người ta trưng
tập họ đi phu, giữa hai cách đó chỉ có một điểm khác nhau là đi tạp dịch thì có
thời hạn, còn đi phu thì không. Cả hai cách đều dùng để giải quyết mọi nhu cầu:
Nhà đoan muốn chở muối chăng? thì trưng dụng thuyền; muốn làm kho chăng? thì
trưng tập thợ và trưng dụng luôn cả vật liệu xây dựng.
Trưng tập đi phu thì quả là một sự phát lưu trá
hình vụng về. Người ta xua cả từng làng đến công trường, bất chấp công việc
đồng áng, bất chấp cả những ngày hội tôn giáo. Số người được trở về rất ít. Vả
lại, người ta có làm gì để giúp cho người dân phu trở về quê quán đâu!
Trên đường đi lên cao nguyên Lang Biên, đi lên rừng
xanh núi đỏ, nơi mà thần chết đang đợi chờ, từng đoàn người dân đi tạp dịch
hoặc đi phu trưng tập, lương thực thiếu thốn, có ngày không có lấy một hột cơm
vào bụng, họ đã bỏ trốn từng đoàn, hoặc nổi dậy chống lại, và mỗi khi như thế
là bị bọn lính áp giải đàn áp ghê rợn, xác họ rải khắp dọc đường.
Nhà cầm quyền Quảng Châu Loan(2) được
lệnh bắt phu. Thế là người ta bắt giữ tất cả những người bản xứ đang làm việc ở
bến cảng, trói gô lại ném xuống tàu.
Nhân dân Lào, những thổ dân khốn khổ, sống trong
cảnh luôn luôn nơm nớp sợ đi phu. Mỗi khi bọn sĩ quan phụ trách bắt phu đến
làng, bản là chỉ thấy nhà hoang cửa trống, vì dân đã trốn biệt.
Ở tỉnh Thủ Dầu Một, một viên quan cai trị cần một
chiếc xe lu. Làm thế nào? Hắn thương lượng với một công ty đấu thầu đang cần
nhân công rẻ tiền. Công ty bỏ tiền ra mua xe lu với giá 13.500 phrăng. Còn quan
thì bắt dân đi tạp dịch cho công ty với giá ngày công 0,50 phrăng. Ba năm liền,
dân Thủ Dầu Một phải đặt dưới quyền sử dụng của công ty kia, làm xâu để trả
tiền chiếc xe lu mà quan lớn cai trị thích mua để dùng trong vườn của ngài.
Ở một tỉnh khác, người dân đi tạp dịch làm hết
ngày, còn phải gánh đá không công trên đường dài một kilômét để xây tường quanh
dinh của viên quan cai trị chủ tỉnh.
Như thế là bất cứ
lúc nào, người dân An Nam cũng có thể bị bắt đi, bị ép làm những công việc cực
nhọc, mà cơm ăn không no, tiền công rẻ mạt; bị trưng tập không thời hạn, rồi bị
vứt bỏ xa quê hương hàng trăm kilômét.
*
* *
Nói chung, người An Nam đều phải è ra mà chịu công
ơn bảo hộ của nước Pháp. Riêng người nông dân An Nam lại càng phải è ra mà chịu
sự bảo hộ ấy một cách nhục nhã hơn: Là người An Nam, họ bị áp bức, là người
nông dân, họ bị tước đoạt. Chính họ là những người lao khổ, làm để nuôi lũ
người ăn bám, bọn đi khai hoá và những bọn khác. Chính họ phải sống cùng khổ,
trong khi bọn đao phủ của họ lại sống phè phỡn; hễ mất mùa là họ chết đói. Họ
bị cướp giật từ mọi phía, bằng mọi cách, bởi nhà nước, bởi bọn phong kiến tân thời,
bởi giáo hội Thiên chúa. Xưa kia, dưới chế độ phong kiến An Nam, ruộng đất xếp
thành đẳng hạng theo tốt xấu. Thuế đánh theo sự phân hạng ấy. Dưới chế độ thuộc
địa hiện nay, những điều đó đã thay đổi. Khi cần tiền, nhà nước bảo hộ Pháp chỉ
có việc thay đổi hạng ruộng. Chỉ một nét bút thần kỳ là họ biến một đám ruộng
xấu thành ruộng tốt.
Như thế cũng vẫn chưa hết. Người ta còn tăng diện
tích ruộng đất lên một cách giả tạo bằng thủ đoạn rút bớt đơn vị đo đạc. Bằng
cách đó, thuế lập tức tăng lên, nơi thì một phần ba, nơi thì hai phần ba. Thế
mà vẫn chưa đủ thoả lòng tham không đáy của nhà nước bảo hộ và hằng năm thuế cứ
tăng lên mãi. Thí dụ, từ năm 1890 đến năm 1896, thuế đã tăng gấp đôi. Từ năm
1896 đến năm 1898 lại tăng lên gấp rưỡi và cứ như thế mà tiếp tục. Người An Nam
cứ chịu để cho người ta róc thịt mãi, thì các quan lớn bảo hộ nhà ta quen ăn
bén mùi lại càng tiếp tục bóc lột thêm.
Năm 1895, viên Công sứ một tỉnh ở Bắc Kỳ đã tước
mất của một làng nọ nhiều hécta ruộng đất để cấp cho một làng khác theo đạo
Thiên chúa. Những người mất ruộng khiếu nại. Người ta bắt họ bỏ tù. Các bạn
đừng tưởng chế độ cai trị vô liêm sỉ ấy chỉ dừng lại ở đó thôi. Người ta còn
bắt những kẻ xấu số bị mất ruộng phải tiếp tục nộp cho đến năm 1910, tiền thuế
của những ruộng đất đã bị tước đoạt từ năm 1895!
Thêm vào nạn ăn cướp của chính quyền, là nạn ăn
cướp của bọn chủ đồn điền. Người ta cấp cho những người Âu chỉ có cái bụng phệ
và màu da trắng những đồn điền có khi rộng trên 20.000 hécta.
Phần lớn những đồn điền này đều được lập ra bằng
lối cướp giật được hợp pháp hoá. Trong thời kỳ chiến tranh xâm lược, dân cày An
Nam - cũng như người Andátxơ năm 1870, - đã bỏ ruộng đất của mình lánh sang
những vùng còn tự do. Khi trở về thì ruộng vườn của họ đã "thành đồn
điền" mất rồi. Hàng bao nhiêu làng đã bị tước đoạt theo kiểu đó, và người
bản xứ lâm vào cảnh phải lao động cho bọn chúa đất tân thời, bọn này chiếm đoạt
có khi đến 90% thu hoạch.
Lấy cớ khuyến khích khai thác thuộc địa, người ta
miễn thuế điền thổ cho số lớn chủ đồn điền kếch sù.
Sau khi đã được
cấp không ruộng đất, bọn chủ đồn điền còn được cấp không hoặc gần như không, cả
nhân công nữa. Nhà nước cung cấp cho chúng một số tù khổ sai làm không công,
hoặc dùng uy quyền để mộ nhân công cho chúng với một đồng lương chết đói. Nếu
dân phu đến không đủ số hoặc tỏ ra bất mãn, thì người ta dùng vũ lực; bọn chủ
đồn điền tóm cổ hào lý, đánh đập, tra tấn họ cho đến khi họ chịu ký giao kèo
hẹn nộp đủ số nhân công mà chúng đòi hỏi.
*
* *
Bên cạnh uy lực phần đời ấy, còn có những đấng cứu thế
phần hồn nữa. Các đấng này, trong khi thuyết giáo "đức nghèo" cho
người An Nam, cũng không quên làm giàu trên mồ hôi và máu của họ. Chỉ riêng ở
Nam Kỳ, Hội Thánh truyền đạo cũng đã độc chiếm đến l/5 ruộng đất trong vùng.
Kinh thánh tuy không dạy, song thủ đoạn chiếm đất rất giản đơn: Cho vay nặng
lãi và hối lộ. Nhà chung lợi dụng lúc mất mùa để cho nông dân vay và buộc phải
có ruộng đất để làm bảo đảm. Vì lãi suất tính cắt cổ, nên người An Nam không
thể trả nợ đúng hạn; thế là ruộng đất cầm cố vĩnh viễn rơi vào tay Nhà chung
(Hội thánh).
Các viên Toàn quyền lớn, Toàn quyền bé được nước mẹ
ký thác vận mệnh xứ Đông Dương, nói chung đều là bọn ngu xuẩn, bọn đểu cáng.
Nhà chung chỉ cần nắm được một vài giấy tờ bí mật, thuộc đời tư, có tính chất
nguy hại đối với thanh danh, địa vị của chúng, là có thể làm cho chúng hoảng sợ
và phải thoả mãn mọi yêu cầu của Nhà chung. Chính vì thế mà một viên Toàn quyền
đã nhường cho Nhà chung 7.000 hécta đất bãi bồi của người bản xứ, khiến họ phải
đi ăn xin.
Phác qua như thế,
cũng đủ thấy dưới chiêu bài dân chủ, đế quốc Pháp đã cắm vào đất An Nam chế độ
đáng nguyền rủa của thời trung cổ; người nông dân An Nam bị hành hình vừa bằng
lưỡi lê của nền văn minh tư bản chủ nghĩa, vừa bằng cây thánh giá của giáo hội
sa đoạ làm ô danh Chúa.
*
Angiêri đau khổ vì nạn đói. Tuynidi cũng bị tàn phá
vì nạn đói. Để giải quyết tình trạng ấy, Chính phủ bắt giam một số đông người
đói. Để cho bọn "người đói" đừng coi nhà tù là nơi cứu tế, người ta
không cho họ ăn gì hết. Cho nên nhiều người đã chết đói trong lúc bị giam cầm.
Trong những hang động En Ghiria, nhiều người đói lả phải gặm xác một con lừa
chết thối lâu ngày.
Ở Bêgia, người Cammê(3) giành giật xác
thú vật với quạ. Ở Xúc en Acba, ở Ghiđa, Uét Mơlidơ, mỗi ngày hàng chục người
chết đói.
Đi đôi với nạn
đói, nạn dịch tễ phát sinh ở nhiều nơi và có nguy cơ lan rộng.
*
Để che đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột đầy tội ác,
chủ nghĩa tư bản thực dân luôn luôn trang điểm cho cái huy chương mục nát của
nó bằng những châm ngôn lý tưởng: Bác ái, bình đẳng, v.v..
Cùng làm một việc trong cùng một xưởng, người thợ
da trắng được trả lương cao hơn nhiều so với bạn đồng nghiệp khác màu da.
Trong các công sở, những người bản xứ dù đã làm
việc lâu năm và dù rất thành thạo công việc, cũng chỉ được lĩnh một khoản tiền
lương chết đói; trái lại một người da trắng mới được đưa vào, làm việc ít hơn,
thì lại lĩnh lương cao hơn.
Có những thanh niên bản xứ đã học các trường đại
học của chính quốc, đỗ bác sĩ Y khoa hay Tiến sĩ Luật khoa thế mà vẫn không
được làm nghề nghiệp của mình trong nước mình, nếu không vào quốc tịch Pháp. Mà
ai cũng đã biết, một người bản xứ muốn được nhập quốc tịch Pháp như vậy thì
phải vượt qua bao nhiêu khó khăn và tốn bao nhiêu công chạy vạy nhục nhã.
Còn những người bản xứ bắt buộc phải lìa bỏ ruộng
nương, gia đình đi "lính tình nguyện" thì đều sớm được nếm hương vị
tuyệt vời của món "bình đẳng".
Cùng một cấp bậc,
nhưng người da trắng hầu như bao giờ cũng được coi là cấp trên của người bản
xứ. Cái chế độ đẳng cấp có tính chất "nhân chủng - quân sự" ấy lại
càng rõ rệt hơn khi những quân nhân da trắng và quân nhân khác màu da cùng đi
trên một chuyến xe lửa hoặc tầu thuỷ.
*
Một người bản xứ làm thế nào để có thể nhập quốc
tịch Pháp? Đạo luật ngày 25 tháng 3 năm 1915 về việc dân thuộc địa Pháp nhập
quốc tịch Pháp quy định:
Điều 1. - Những người dân thuộc địa Pháp hoặc dân
được Pháp bảo hộ, trên 21 tuổi, không phải là quê hương ở Angiêri, Tuynidi hoặc
Marốc, đã cư trú ở Pháp, Angiêri hoặc trên đất bảo hộ của Pháp và có được một
trong những điều kiện sau đây thì có thể được thừa nhận cho hưởng quyền lợi
công dân Pháp:
1. Đã được thưởng Bắc đẩu bội tinh hoặc đã tốt nghiệp
một trong những trường đại học hay là chuyên nghiệp mà danh sách sẽ do sắc lệnh
ấn định.
2. Đã có công lớn trong việc khai thác thuộc địa hoặc
phục vụ quyền lợi của nước Pháp.
3. Đã phục vụ trong quân đội Pháp và được giữ chức sĩ
quan hay hạ sĩ quan, hoặc được thưởng Huân chương, Quân công.
4. Đã lấy vợ Pháp và có chỗ ở tương đối ổn định trên
đất Pháp được một năm.
5. Đã cư trú hơn mười năm tại các xứ kể trên, và biết
tiếng Pháp đến một trình độ khá.
Tuy đạo luật còn có thiếu sót, song cứ trung thực
thi hành thì cũng còn khá; nhưng không, các ngài viên chức có kể gì luật pháp
và, như những tên ngu xuẩn tò mò ưa xoi mói, chúng buộc những người xin nhập
quốc tịch Pháp phải trả lời trên giấy các câu hỏi sau đây:
A- Vợ con có nói tiếng Pháp không ?
B- Họ có mặc Âu phục không ?
C- Nhà có đồ đạc như giường, nệm, bàn, tủ, v.v. không ?
D- Và ghế dựa nữa ?
E- Ăn trên bàn hay trên chiếu ?
P- Ăn gì ?
G- Ăn cơm hay bánh mì ?
H- Anh có tài sản không ?
I- Vợ có tài sản không ?
J- Thu hoạch đồng niên của anh bao nhiêu ?
K- Anh theo tôn giáo gì ?
L- Anh vào những hội nào ?
M- Trong các hội ấy, anh giữ chức vụ gì ?
N- Chế độ bản xứ tốt và nhân từ, thế vì cớ gì anh lại
xin nhập quốc tịch Pháp ? Có phải để làm viên chức không ? Hay để có địa vị
cao? Hay để đi tìm mỏ vàng, mỏ ngọc?
O- Bạn bè thân thiết nhất là những ai?
Chỉ còn thiếu điều mà các ngài ấy chưa hỏi: Vợ anh
có cắm S... lên đầu anh không!
1) Có lẽ là con đường từ Vinh sang Lào
2) Một phần lãnh thổ Trung Quốc ở phía Đông Nam thành
phố Quảng Châu, bấy giờ là thuộc địa của Pháp.
3) Khammès. Danh từ người Bắc Phi thường dùng để gọi
những người lính canh ruộng chỉ được hưởng một phần năm hoa lợi trong các vụ
thu hoạch (tiếng Arập là Khams, có nghĩa là một phần năm).
Có phải vì quá thừa tình nhân đạo,
như ông Xarô đã nhiều lần tuyên bố, mà người ta bắt các phạm nhân ở Nhà lao Nha
Trang (Trung Kỳ) phải ăn khan, nghĩa là ăn cơm mà không được uống nước, không ?
Có phải người ta đã quệt tanhtuya điốt lên mũi phạm nhân để dễ nhận ra họ khi
họ vượt ngục không?
Báo L Indépendant ở Mađagátxca số ra
ngày 13 tháng 7 năm 1921 có đăng một bài tường thuật về cách phòng bệnh
"dịch hạch", chúng tôi xin trích đoạn sau đây:
“Vô số nhà bị đốt, trong đó, có cái
nhà khá đẹp của Racôtômanga ở phố Galiêni cùng bị đốt hôm thứ hai vừa qua.
Nhưng nhà của ông Đêrô thì lại thoát khỏi số phận chung ấy, tính ra cái nhà ấy,
với tất cả đồ đạc đắt tiền quá (50.000 phrăng), vì thế nhà chức trách quyết
định không đốt mà chỉ tẩy uế và cấm ở một thời gian khá dài, có lẽ là sáu
tháng".
Chúng tôi xin nói thêm rằng, ông Đêrô
là công dân Pháp, còn Racôtômanga chỉ là dân lệ thuộc vì là người bản xứ. Nhân
đây xin nhắc để bạn đọc nhớ lại rằng, đạo luật năm 1841 được biểu quyết là để
áp dụng cho tất cả nông dân Pháp.
Cũng ở Mađagátxca, sáu người bản xứ bị bắt trong
đồn điền của một thực dân người Pháp về tội trốn thuế. Trước toà, các bị can
khai rằng, ông chủ đồn điền Đơla Rôsơ đã cam kết với họ: 1. Sẽ đóng thuế cho
họ; 2. Sẽ xin miễn sai dịch cho họ; 3. Trả tiền công cho họ cứ ba mươi ngày
công là l0 quan. Cần chú ý là nhà thực dân kia chỉ thuê họ mỗi tuần làm có một
ngày thôi. Muốn đủ sống họ phải đi làm thuê cho người Mangát ở gần đồn điền.
Mặt khác, ông Đơla Rôsơ chẳng những không đóng thuế cho họ như đã hứa, mà hình
như còn lờ luôn số tiền họ đã gửi ông để đóng thuế nữa.
Quý hoá làm sao, lần này Chính phủ đã mở một cuộc
điều tra. Nhưng rồi các bạn xem...
Khi được biết vụ này, nghiệp đoàn
nông nghiệp Mahanôrô, mà chắc hẳn ông Đơla Rôsơ là đoàn viên, liền điện cho
quan Toàn quyền phản kháng việc cảnh binh đã đến xét hỏi không đúng lúc tại đồn
điền ông Đơla Rôsơ và yêu cầu trừng trị viên Trưởng đồn về tội cả gan phát hiện
sự nhũng lạm của một người Pháp đối với người bản xứ.
Vì không muốn
"mua việc" vào mình, quan Toàn quyền đã cho xếp ngay vụ rắc rối ấy
lại.
*
* *
Toà án binh Linlơ vừa kết án 20 năm khổ sai tên
Phôn Seven, sĩ quan Đức, về tội dùng roi da đánh đập những người bản xứ ở
Rôngcơ(1) trong thời gian quân Đức chiếm đóng.
Thế thì tại sao ở Đông Dương, ông người Pháp nọ bắn
vỡ sọ một người Trung Kỳ bằng súng lục; ông viên chức Pháp kia nhốt một người
Bắc Kỳ vào cũi chó sau khi đánh đập tàn nhẫn anh ta; ông thầu khoán Pháp này
trói tay một người Nam Kỳ cho chó cắn, rồi đem giết đi; ông thợ máy Pháp kia
"hạ sát" một người An Nam bằng súng săn; ông nhân viên hàng hải Pháp
khác xô người gác cầu bản xứ vào đống than hồng cho chết, v.v. và v.v. lại
không bị trừng trị?
Tại sao mấy ông thanh niên Pháp ở Angiê đấm đá một
em bé người bản xứ 13 tuổi, rồi xóc em lên đầu một trong những ngọn giáo ở giữa
hàng giáo cắm quanh "cây chiến thắng", chỉ bị phạt có 8 ngày tù án
treo?
Và tại sao tên hạ sĩ quan đã đánh anh Nahông cũng
như tên sĩ quan đã giết chết anh, không bị trừng phạt gì cả ?
Phải rồi, An Nam và Angiêri đều là những xứ bị
chiếm - cũng như Rôngcơ đã có lúc bị chiếm, - nhưng vì những người Pháp ở các
thuộc địa ấy không phải là lũ "bôsơ", cho nên cũng cùng một hành
động, nếu là của lũ "bôsơ" thì là tội ác, nhưng nếu là của người Pháp
thì lại là văn minh! Mà Annamít và Angiêriêng đâu phải là người! Đó là bọn
"nhà quê" bẩn thỉu, bầy "bicốt"(2) bẩn thỉu. Cần
quái gì phải có công lý đối với những giống ấy.
Cái ông Vinhê
Đốctông châm biếm kia quả là không lầm khi ông viết: "Pháp luật, công lý
đối với người bản xứ ư ? Thôi đi! Chỉ có ba toong, súng ngắn, súng dài, đấy mới
là thứ xứng đáng với lũ ròi bọ ấy!".
*
* *
Trong cái kho đầy ắp những hình phạt để giáng vào
đầu người bản xứ, có những khoản phạt tiền từ 200 đến 3.000 đồng.
Không phải ông Đume không biết rằng người An Nam
không bao giờ đóng nổi những khoản tiền to đến thế. Nhưng ông ta cứ muốn xoay
tiền bằng bất cứ giá nào; nên con người khôn ngoan ấy đã dự kiến rằng có thể
bắt làng xã phải chịu trách nhiệm. (Điều 4).
Bạn sẽ bảo, muốn kết án cả một làng thì phải xác
định làng ấy là đồng loã chứ.
Không, với điều 4, việc ấy không cần thiết. Làng
nào không biết ngăn ngừa một tội phạm, thì phải chịu trách nhiệm về tội phạm
ấy.
Cái điều 4 này quả là một mánh khoé ác nghiệt, bởi
vì chỉ cần những tay chân của bọn chủ bao thầu thuế - những tay chân đó được
thuê tiền để phát giác càng nhiều vụ vi phạm càng hay - khai rằng làng sở tại
chẳng hề làm gì để ngăn chặn vụ vi phạm, là đủ.
Tiết 3 quy định cách thức kiểm chứng những vụ vi
phạm mà bọn tay sai của chủ bao thầu thuế có quyền làm.
Ở đây có một trở
ngại. Thường thường bọn tay chân ấy đều dốt nát, làm biên bản không hợp thức.
Người ta khắc phục trở ngại ấy bằng cách uỷ cho viên chức Nhà đoan ở tỉnh lỵ
hoặc phủ lỵ, huyện lỵ làm biên bản theo báo cáo của bọn tay chân của chủ bao
thầu.
*
* *
Đông Dương là cô gái cưng, rất xứng đáng với nước mẹ Pháp.
Mẹ có gì, con có nấy: Đông Dương có Chính phủ của nó, những bảo đảm của nó,
công lý của nó và cũng có âm mưu phiến loạn nho nhỏ của nó nữa. Dưới đây chúng
tôi chỉ nhắc lại hai vấn đề sau thôi.
Công lý được tượng trưng bằng một người đàn bà dịu
hiền, một tay cầm cân, một tay cầm kiếm. Vì đường từ Pháp đến Đông Dương xa
quá, xa đến nỗi sang được tới đó thì cán cân đã mất thăng bằng, đĩa cân đã chảy
lỏng ra và biến thành những tẩu thuốc phiện hoặc những chai rượu, nên người đàn
bà tội nghiệp chỉ còn lại độc cái kiếm để chém giết. Bà chém giết đến cả người
vô tội, và nhất là người vô tội.
Còn âm mưu phiến loạn thì lại là một chuyện khác.
Chúng tôi sẽ không nhắc lại những vụ phiến loạn nổi
tiếng năm 1908 hoặc năm 1916, những vụ mà nhờ đó rất nhiều người dân được nước
Pháp bảo hộ đã có thể nếm mùi công ơn khai hoá trên máy chém, trong nhà tù hoặc
ở nơi đầy ải. Những vụ phiến loạn ấy đã cũ rồi, chỉ còn để lại dấu vết trong
trí nhớ của người bản xứ nữa thôi.
Chúng tôi chỉ nói đến vụ vừa xảy ra gần đây nhất.
Vì ở chính quốc có vụ phiến loạn bônsêvích chấn động dư luận, nên các ngài thực
dân ở Đông Dương - y như con nhái trong truyện ngụ ngôn(3)- cũng
muốn có một vụ phiến loạn, bèn cố phình bụng lên và cuối cùng cũng đẻ ra được
một vụ.
Chúng đã làm như thế này.
Một quan lớn Tây (quan Công sứ Đại Pháp kia đấy
ạ!), một quan huyện và một ông lý trưởng đã đảm nhiệm việc chế tạo ra vụ đó.
Bộ ba quan lại này phao tin là có một
bọn phiến loạn chôn giấu hai trăm rưởi quả bom âm mưu làm nổ tung cả xứ Bắc Kỳ.
Nhưng ngày 16 tháng 2, toà đại hình
Hà Nội công nhận rằng chẳng những không có bằng chứng nào để kết luận có một tổ
chức cách mạng có vũ khí phá hoại, mà cả cái vụ mưu phản kia chẳng qua cũng chỉ
là một thủ đoạn khiêu khích do một số nhân viên Chính phủ muốn được thăng
thưởng tạo ra mà thôi.
Chắc các bạn tưởng rằng sau khi toà
đã phán quyết như thế rồi thì những người An Nam bị giam giữ sẽ được thả ra.
Không đâu! Bằng bất cứ giá nào, nhất thiết phải giữ uy tín cho kẻ đi chinh
phục! Muốn thế, lẽ ra chỉ gắn Huân chương cho bọn đã khéo phịa ra vụ án là đủ
rồi; đằng này người ta lại còn phạt tù 12 người An Nam từ 2 đến 5 năm, mà phần
lớn là nhà nho. Và trên cửa nhà lao giam giữ họ, nổi lên mấy chữ: Tự do, Bình
đẳng, Bác ái - dĩ nhiên là bằng tiếng Pháp hẳn hoi.
Thế rồi những tờ báo gọi là thân
người bản xứ vội vã ca tụng tính công bằng, không thiên vị của cái trò hề công
lý ấy!
Nhưng hãy đọc Tờ La Dépêche
Coloniale, Tờ báo giữ giải vô địch về chủ nghĩa bài An Nam:
"Toà án Pháp vừa tuyên án xong.
Một nửa can phạm được tha bổng, còn một nửa được kết án nhẹ. Những người bị án
là những nhà nho can tội làm thơ cảm hứng lăng nhăng để ca tụng ân huệ của tự
do".
Các bạn thấy không, đối với người An
Nam, ca tụng tự do là một tội nặng, chỉ vì thế thôi, người ta cũng phết cho họ
5 năm tù!
Tờ báo viết tiếp: "Chúng ta phải
nhiệt liệt hoan nghênh bản phán quyết hết sức công bằng ấy của các quan toà và
các vị bồi thẩm của chúng ta, v.v.".
Và cũng lại Tờ La Dépêche Coloniale
ấy đã vui mừng ghi nhận bản phán quyết rất mực vô tư của toà án Pháp về vụ mưu
loạn nổi tiếng ở Vĩnh Yên. Tờ báo ấy viết: "Những người An Nam ở Pari,
cũng như đồng bào của họ ở bên quê nhà xa xôi, đều tỏ lòng tin tưởng ở các quan
toà của chúng ta và tuyên bố rằng toà án đã xử đúng, vụ án kết thúc như thế làm
cho họ hoàn toàn thoả mãn". Không đâu! ông Puvuốcvin ạ, ông bịp đời vừa
chứ!
*
* *
Tờ Le Journal France-Indochine có đăng việc sau
đây: Cách đây mấy hôm, hãng Xôvagiơ báo với sở mật thám là xưởng họ bị mất trộm
một số sắt khá nhiều, độ một tấn. Nhận được đơn khiếu nại, sở mật thám lập tức
mở cuộc điều tra để tìm cho ra bọn trộm và chúng tôi vui mừng được tin rằng một
viên thanh tra mật thám người Âu cùng với mấy nhân viên người An Nam giúp sức
đã tóm được bọn trộm và cả tên đồng loã của chúng nữa.
"Ông S..., Quản lý hãng Xôvagiơ, cùng với
những tên Trần Văn Lộc, thợ máy học việc và Trần Văn Xa đã bị bắt và đưa ra toà
về tội ăn trộm và đồng loã...".
Các bạn có để ý
thấy bạn đồng nghiệp của chúng tôi hết sức tế nhị không nào ? Khi nói về ông ăn
trộm người Pháp, Quản lý hãng Xôvagiơ, thì người ta không nói tên, mà thay vào
bằng mấy dấu chấm. Chả là dù sao thì trước hết cũng phải bảo vệ uy tín của
chủng tộc thượng đẳng. Nhưng khi nói đến bọn kẻ trộm thông thường người An Nam
thì lại kê cả tên lẫn họ, và không gọi là ông mà gọi là những "tên".
*
* *
Ngày l0 tháng l0 năm 1922, Chính phủ vừa ra Sắc
lệnh quyết định một cuộc thuyên chuyển quan trọng trong ngạch quan toà thuộc
địa. Trên danh sách, đáng chú ý có tên hai ông Luyxơ và Oabrăng.
Cần nhắc lại sơ lược lai lịch của hai vị quan toà
này.
Ông Luycaxơ lúc làm Phó Chưởng lý ở Tây Phi thuộc
Pháp, đã từng dính dáng vào các vụ làm xôn xao dư luận xứ Tôgô. Trong một bản
thông báo cho báo chí, ông Bộ trưởng Bộ Thuộc địa đã bắt buộc phải thừa nhận
rằng, "cuộc điều tra cũng đã phát giác ra là sự tham gia của ông Luycaxơ
vào các vụ phạm pháp có thể làm cho ông ta phải gánh phần TRÁCH NHIỆM NẶNG NỀ NHẤT".
Chắc là để thưởng cho phần trách nhiệm nặng nề ấy
mà ngày nay người ta cất nhắc ông lên chức Chánh án Toà Thượng thẩm xứ Phi Châu
xích đạo thuộc Pháp.
Còn về Oabrăng thì câu chuyện của hắn đơn giản hơn
và ít người biết đến. Năm 1920, một người Pháp tên là Đuyếchgri, nhân viên hãng
buôn Pêrítxác ở Căngcăng (Ghinê), đi săn. Hắn bắn một con chim rơi xuống sông.
Lúc ấy có một em bé người bản xứ đi ngang qua. Đuyếchgri tóm cổ em bé ném xuống
sông, bắt phải tìm vớt con chim. Nước sâu, sóng lớn, lại không biết bơi, em
chết đuối. Cha mẹ em đi kiện. Đuyếchgri được lệnh viên Quan Tư chỉ huy quận đòi
đến, và nhận bồi thường cho gia đình đau xót kia một trăm phrăng.
Cha mẹ em bé không nhận cách dàn xếp bỉ ổi như vậy.
Viên Quan Tư nổi giận, đứng về phía người đồng bào của ông, tức là tên sát
nhân, doạ bỏ tù cha mẹ em bé nếu tiếp tục kháng cáo, rồi ông ta "xếp"
vụ án lại.
Nhưng, một bức thư nặc danh đã phát giác việc này
với ông Chưởng lý ở Đaca. Ông Chưởng lý liền phái ông Biện lý Oabrăng đi điều
tra. Ông Oabrăng đến Căngcăng, ngủ lại nhà viên xếp ga, rồi ngày hôm sau đến
nhà ông Cudanh đờ Lavalie là phó của viên quan tư quận, ở lại cả ngày. Rồi sáng
hôm sau, chưa hề bắt tay vào công việc điều tra gì cả, ông đã lên đường trở về.
Tuy thế ông Oabrăng vẫn cứ kết luận rằng lá thư nặc danh kia là vu khống. Hội
Liên hiệp Thuộc địa đã báo vụ này với Hội Nhân quyền (ngày 22 tháng 12 năm
1921). Nhưng có lẽ Hội Nhân quyền cho sự việc không lấy gì làm giật gân lắm nên
chẳng thèm quan tâm đến.
Từ khi đi chơi Căngcăng về, ông Oabrăng vẫn ngồi
yên ở địa vị cũ để thỉnh thoảng nhận gà và những túi khoai tây do ông bạn
Cudanh đờ Lavalie gửi đến biếu, và chờ được thăng quan. Các bạn thấy chưa, ông
Oabrăng quả thật xứng đáng với... phần thưởng công minh mà Chính phủ vừa tặng
ông bằng cách bổ nhiệm làm Biện lý Đaca(?).
Nền văn minh
thượng đẳng mà được giao phó vào tay những bọn Đáclơ, bọn Bôđoăng, bọn Oabrang
và bọn Luycaxơ thì thật là tuyệt, và số phận dân bản xứ cũng tuyệt!
*
* *
Toà tiểu hình vừa xử phạt Phécnăng Etxơlanh và mụ
goá Gierơ, mỗi người 13 tháng tù; Gióocgiơ Coócđiê l0 tháng, về tội tàng trữ,
chuyên chở và bán một kilôgam thuốc phiện.
Tốt lắm! Tính sơ qua cũng thấy một kilôgam thuốc
phiện đáng ba mươi sáu tháng tù!
Giá mà mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, như
người ta thường nói, thì tuổi thọ của ông Xarô, toàn quyền Đông Dương, phải dài
ghê lắm mới đủ để cho ông ngồi hết hạn tù. Vì rằng mỗi năm ông sẽ bị phạt ít ra
là một triệu ba mươi lăm vạn (1.350.000) tháng tù về tội mỗi năm bán cho người
An Nam trên mười lăm vạn kilôgam thuốc phiện.
Bất lực trong việc trừ khử ông Đề Thám trứ danh, vì
mọi âm mưu bắn giết ông, thủ tiêu ông bằng thuốc độc hoặc bằng mìn, đều thất
bại, người ta bèn đào mả cha mẹ ông lên, đem hài cốt đổ xuống sông.
Sau những vụ biểu tình ở miền Nam Trung Kỳ, nhiều
văn thân bị xử tử hoặc bị đầy biệt xứ. Trong số ấy có ông Tiến sĩ Trần Quý Cáp,
một nhà nho thanh cao ai cũng kính phục. Ông bị bắt trong lúc đang giữ chức
giáo thụ và chỉ hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau, là bị đem chém, không được xét
hỏi gì cả. Chính phủ cũng không chịu giao trả thi hài ông cho gia đình ông.
Ở Hải Dương, một vụ nổi dậy chưa làm chết một ai,
thế mà người ta đã làm rụng hết sáu mươi tư cái đầu, không cần xét xử gì cả.
Khi hành hình những người lính khố đỏ
ở Hà Nội, Chính phủ đã cho áp giải cha, mẹ, vợ con họ đến pháp trường để bắt họ
phải mục kích cảnh tàn sát long trọng những người thân yêu của mình. Để gây một
ấn tượng khủng khiếp lâu dài, và để "dạy cho dân chúng một bài học",
người ta làm lại cái việc đã làm ở nước Anh hồi thế kỷ thứ XVIII, tức là xóc
đầu lâu những người Giacôbít(4) bại trận lên mũi giáo đem bêu ở các
đường phố khu Xiti và dọc theo cầu Luân Đôn. Hàng tuần lễ, dọc các đường lớn ở
Hà Nội, người ta nhìn thấy nhiều đầu lâu của những nạn nhân bị người Pháp hạ
sát, đang cau mày, nhăn mặt trên những chiếc cọc tre.
Năm 1908, nhân dân miền Trung không
chịu nổi sưu cao thuế nặng và bao nhiêu sự hà lạm áp bức, đã phải biểu tình.
Các cuộc biểu tình ấy mặc dù diễn ra hết sức ôn hoà, nhưng đều bị đàn áp thẳng
tay. Hàng trăm đầu rơi, vô số người bị đi đầy.
Người ta làm đủ mọi cách để vũ trang
cho người An Nam chống lại đồng bào họ và gây nên những vụ phản bội.
Người ta tuyên bố các làng phải chịu
trách nhiệm về những vụ hỗn loạn xảy ra trên địa phận mình. Làng nào cho một
người yêu nước trú ngụ thì bị kết án. Để khai thác tin tức, người ta dùng một
phương pháp đơn giản - bao giờ cũng vậy - là tra khảo lý hào, ai không nói thì
bị xử tử tức khắc. Cứ như thế, trong vòng hai tuần lễ một viên giám binh đã xử
tử bảy mươi lăm lý hào!
Không bao giờ người ta nghĩ đến
chuyện phân biệt những người yêu nước đang chiến đấu tuyệt vọng với bọn côn đồ
ở các thành thị.
Muốn dập tắt sự kháng cự, người ta
không thấy có cách nào khác hơn là phó thác việc "bình định" cho lũ
phản bội bán nước. Và người ta duy trì ở vùng đồng bằng Bắc Kỳ, ở Bình Thuận, ở
Nghệ Tĩnh những đội quân càn quét hung hãn mà hình ảnh ghê tởm sẽ không bao giờ
phai mờ trong trí nhớ. Chú thích
1) Roncp. Tên một làng miền Bắc nước Pháp.
2) Bicot. Nghĩa đen là con dê con, nghĩa bóng dùng để
gọi một cách khinh bỉ những người Arập nói chung.
3) Truyện ngụ ngôn của La Fontaine, kể rằng: Có một
con ếch thấy một con bò to hơn mình, liền cố phình bụng ra cho bằng con bò,
cuối cùng vỡ bụng chết.
4) Jacobites. Tên gọi những đồ đảng của Vua Anh Giáccơ
II bị dòng Orănggiơ đánh bại sau cuộc chiến tranh năm 1688.
Để có thể đánh lừa dư luận bên Pháp
và bóc lột dân bản xứ một cách êm thấm, bọn cá mập của nền văn minh không những
đầu độc nhân dân An Nam bằng rượu và thuốc phiện, mà còn thi hành một chính
sách ngu dân triệt để.
Cho nên, theo sắc lệnh năm 1898, báo
chí bản xứ phải chịu kiểm duyệt trước khi in.
Sắc lệnh đó viết: "Việc lưu hành
báo chí bất cứ bằng thứ tiếng gì, đều có thể bị cấm do nghị định của quan Toàn
quyền.
"Báo Tiếng Việt không được xuất bản, nếu không
được phép của quan Toàn quyền. Giấy phép chỉ cấp với điều kiện là các bài báo
phải được quan Thống đốc duyệt trước. Giấy phép ấy có thể rút lúc nào cũng
được.
"Mọi cuộc trưng bày hoặc phổ biến những bài
hát, biếm hoạ hoặc tranh ảnh làm thương tổn đến sự tôn kính đối với các nhà cầm
quyền đều bị trừng trị".
Đấy, bạn thấy bà kiểm duyệt ở thuộc địa cầm kéo
khéo đến mức nào!
Với biện pháp đó, chính quyền Đông Dương có thể ỉm
được tất cả mọi vụ nhơ nhớp và tha hồ mà lạm quyền.
Trong một cuộc bầu cử Hội đồng Thành phố Sài Gòn,
viên Thống đốc cấm ba ông chủ nhiệm Báo Tiếng Việt không được đăng lên Báo của
họ bản Sắc lệnh quy định thể lệ bầu cử Hội đồng Thành phố ở Nam Kỳ. Họ là ứng
cử viên, thế mà Báo của họ bị cấm tuyệt không được đăng một cái gì dính dáng,
dù xa hay gần, đến chương trình của họ! Vì người An Nam không có quyền hội họp
quá số 20 người, nên ứng cử viên phải gặp 3.000 cử tri lần lượt từng người một.
Cũng trong lúc ấy, ông Thống đốc còn thông tri cho các tờ báo Tiếng Việt khác
biết là sở kiểm duyệt sẽ thẳng tay cắt những bài báo, cột báo, đầu đề hoặc bất
cứ một lời bóng gió nào nói đến các cuộc bầu cử thuộc địa hoặc thành phố. Một
tờ báo Tiếng Việt dịch đăng đạo luật nói về việc trừng trị những hành động hối
lộ trong bầu cử, bài ấy đã bị cắt. Trong lúc đó thì quan Thống đốc trắng trợn
cho đòi những người đứng đầu các tập đoàn cử tri đến văn phòng và truyền cho họ
phải bỏ phiếu và cổ động bỏ phiếu cho danh sách được ngài có cảm tình nhất.
Bàn tay bỉ ổi của kiểm duyệt không dừng lại ở các
xuất bản phẩm tiếng Việt mà còn rờ mó cả vào thư từ riêng và các tờ báo tiếng
Pháp không chịu ca tụng đức độ của các "Cụ lớn" thuộc địa: Sở bưu
điện và Sở Mật thám Nam Kỳ (Giám đốc Sở này là con rể ông Anbe Xarô) đã nhận
được lệnh không để lọt - bất cứ với lý do gì - những thư từ, bài vở, v.v. gửi
cho Báo Le Paria xuất bản ở Pa-ri hoặc của tờ báo ấy gửi về.
Một người Mangát
nguyên là lính tình nguyện tham gia đại chiến trong quân đội Pháp và có vợ
người Pháp, đã bị trục xuất khỏi tổ quốc anh, và bị kết án 5 năm đầy biệt xứ,
chỉ vì đã viết bài cho Báo Le Paria và vài tờ báo khác ở Pháp, để tố cáo những
sự nhũng lạm của bọn quan cai trị Pháp ở xứ sở anh.
*
* *
Nhân dân Đông Dương khẩn khoản đòi mở trường học vì
trường học thiếu một cách nghiêm trọng. Mỗi năm, vào kỳ khai giảng, nhiều phụ
huynh phải đi gõ cửa, chạy chọt mọi nơi thần thế, có khi chịu trả gấp đôi tiền
nội trú, nhưng vẫn không tìm được chỗ cho con học. Và hàng ngàn trẻ em đành
chịu ngu dốt vì nạn thiếu trường.
Tôi còn nhớ một người anh em họ tôi
muốn được vào một trong những "thiên đàng trường học" kia, đã phải
chạy chọt đủ kiểu, gửi hết đơn này đến đơn khác cho quan Khâm sứ, cho quan Công
sứ, cho quan đốc trường quốc học và quan đốc trường tiểu học. Tất nhiên, chẳng
ai thèm trả lời anh. Một hôm, anh đánh bạo mang đơn đến xin quan đốc, một người
Pháp, phụ trách cái trường mà tôi đã được đặc ân vào học trước đó ít lâu.
"Quan đốc" thấy anh cả gan
như thế, nổi khùng quát tháo: "Ai cho phép mày đến đây?" rồi xé vụn
lá đơn trước những cặp mắt ngơ ngác của cả lớp học.
Người ta bảo ngân sách không cho phép
Chính phủ mở trường mới. Không hẳn thế đâu. Trong số 12 triệu đồng của ngân
sách Nam Kỳ, thì l0 triệu đã tìm đường chui sâu vào túi các ngài viên chức rồi.
Ngoài ra, chính phủ thuộc địa lại tìm
đủ mọi cách để ngăn cản không cho thanh niên An Nam sang du học bên Pháp, vì sợ
nhiễm phải chủ nghĩa cộng sản. Điều 500 (bis) trong Nghị định ngày 20 tháng 6
năm 1921 về học chính ở Đông Dương quy định:
"Người bản xứ nào, vô luận là
dân thuộc địa Pháp hoặc dân do Pháp bảo hộ muốn sang chính quốc du học đều phải
được quan Toàn quyền cho phép. Quan Toàn quyền sẽ quyết định, sau khi hỏi ý
kiến quan Thủ hiến kỳ và quan Giám đốc nha học chính.
"Trước khi lên đường, người đó
phải đến nha học chính xin một quyển học bạ có dán ảnh và ghi rõ căn cước lý
lịch của mình, địa chỉ cha mẹ, những trường đã học, những học bổng hoặc trợ cấp
đã hưởng, những bằng cấp đã có, và địa chỉ của người bảo lãnh tại Pháp. Học bạ
ấy phải được quan Toàn quyền chứng thực.
"Hồ sơ của người bản xứ theo học
bên Pháp phải lưu trữ tại nha học chính".
"Làm cho dân
ngu để dễ trị", đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của
chúng ta ưa dùng nhất.
*
* *
Báo L Humanité đã thuật lại việc kiểm
duyệt thư tín vẫn còn tiến hành nghiêm ngặt như thế nào ở Mađagátxca khi cuộc
chiến tranh vì công lý đã kết thúc bốn năm rồi.
Đông Dương cũng vậy, chẳng có gì đáng
phân bì với Mađagátxca cả.
Chúng tôi đã nêu lên trường hợp tờ
Báo Le Paria.
Như là tình cờ xui nên, việc lạm
quyền ấy xảy ra đúng lúc ông Thống đốc gian lận Bôđoanh đến Sài Gòn, cùng với
người phụ tá xuất sắc của ông là con rể ông Anbe Xarô đồng thời là trùm Mật
thám.
Mặt khác, nhà cầm quyền vẫn tiếp tục
chặn lại và lục soát thư tín của tư nhân.
Trong khi người ta tàn sát người bản xứ,
cướp đoạt tài sản của họ một cách ngang nhiên, không hề bị trừng trị, thì ngay
đến cả cái quyền sơ đẳng là viết thư cho nhau họ cũng không được hưởng! Sự vi
phạm quyền tự do cá nhân ấy lại ghi thêm
một thành tích cho cái chế độ lạm quyền,
cái chế độ mật thám bỉ ổi đương hoành hành ở các thuộc địa.
*
* *
Chính phủ Đông Dương tổ chức phá hoại
tờ Báo Le Paria; Chính phủ Tây Phi thuộc Pháp cấm nhập các báo của người da đen
châu Mỹ; Chính phủ Tuynidi trục xuất chủ nhiệm tờ L Avenir social, ông Liôtây
đuổi chủ nhiệm tờ La Guêpe Marocaine ra khỏi Marốc. (Người ta chỉ cho nhà báo
một giờ để thu xếp hành lý).
Giữa lúc khai mạc Hội chợ Hà Nội, và
trong khi ông Bôđoanh, quyền toàn quyền Đông Dương, đang đi thăm các gian hàng,
thì bọn cảnh binh xông vào một gian nọ tịch thu các tập tranh biếm hoạ do Báo
L’Argus Indochinois trưng bày, vì tờ báo này có những lối phê bình và châm biếm
không hợp khẩu vị của những nhà đương quyền.
Ông Clêmăngti, Chủ nhiệm tờ báo, đã
bị bắt và tống giam.
Trong thời kỳ bình định, các sứ giả
của Chúa cũng hoạt động chẳng kém. Hệt như bọn gian phi rình lúc mọi người đang
hoảng hốt để nhảy vào hôi của sau khi nhà cháy, các nhà truyền giáo chúng ta
cũng thừa lúc đất nước rối loạn sau cuộc xâm lăng để... phục vụ Chúa. Kẻ thì
tiết lộ những bí mật mà con chiên đã nói ra khi xưng tội và nộp những người An
Nam yêu nước cho bọn chiến thắng đem lên máy chém hay giá treo cổ. Kẻ thì toả
đi khắp nơi để vơ vét những tín đồ bị bắt buộc phải theo đạo. Có linh mục nọ
"chân đi đất, quần xắn đến mông, lưng thắt bao đạn, vai khoác súng dài,
hông đeo súng ngắn, dẫn đầu một đoàn con chiên vác giáo mác và súng kíp; đó là
lối vũ trang phát triển tín đồ của một linh mục với sự yểm hộ của quân đội
chúng ta do ông ta hướng dẫn, xông vào các làng bên lương mà ông đã báo trước
với các nhà cầm quyền là làng phản nghịch".
Sau cuộc hành quân đánh chiếm Bắc
Kinh, chỉ riêng một mình Giám mục Phavie, sứ đồ của giáo hoàng, ngũ hạng bắc
đẩu bội tinh, đã bỏ túi 600.000 Phrăng của ăn cướp được. Một người thấy tận mắt
kể lại: "Dưới sự chỉ huy của Giám mục Phavie, một đoàn dài xe bò và xe
ngựa có 300 đến 400 giáo dân cùng lính bộ và lính thuỷ Pháp hộ tống đã kéo đến
trước Phủ đệ của Hoàng thân Lý. Họ đóng vai những kẻ dọn nhà vì lợi ích của
Chúa!... Xong việc, lính tráng mỗi người nhận được một ngân phiếu 200 phrăng,
do dòng tu thánh Vanhxăng đờ Pôn trả". Trong một bản báo cáo chính thức,
chúng tôi đọc thấy lời buộc tội đanh thép này: "Việc cướp bóc tập thể do
Giám mục Phaviê điều khiển là gương xấu làm cho kỷ luật ngấm ngầm bị đổ
vỡ".
Tất nhiên không phải chỉ có một mình Giám mục
Phavie truyền giáo theo lối ấy. Đức cha còn có nhiều đối thủ nữa. Người ta kể:
"Khi lệnh giới nghiêm vừa bãi bỏ, thì các giáo sĩ liền dẫn lính xông vào
nhà các chủ ngân hàng quen thuộc mà họ biết có cất giấu vàng thoi. Họ mang theo
học sinh chủng viện hoặc những người Hoa mới theo đạo, để những người này làm
việc thiện bằng cách giúp họ cướp giật đồng bào của mình và kiếm tiền cho các
cha cố từ thiện làm công việc Chúa".
Nếu kể hết ra đây tất cả những hành vi ác quỷ của
bọn tông đồ xứng đáng của đạo từ thiện này thì sẽ quá dài. Nhân đây chỉ kể sơ
một vài việc: Một cha xứ nọ đã nhốt một em bé bản xứ, đánh đập em, trói em vào
cột; khi người chủ của em, một người Âu, đến xin em về, thì cha xô đẩy, đánh
đấm, rút súng lục doạ bắn ông. Một cha xứ khác đã bán một em gái An Nam đi đạo
cho một người Âu lấy 300 phrăng. Một cha khác đánh gần chết một học sinh chủng
viện người bản xứ. Dân làng người bị nạn rất căm phẫn, trong khi chờ công lý của
Chúa, đã làm đơn kiện tên súc sinh - xin lỗi, tôi muốn nói vị cha đáng kính -,
thì công lý thế tục đã doạ những người đi kiện ngây thơ ấy rằng: "Dè
chừng! các con ạ! chớ có kiếm chuyện, nếu không thì..." Đức cha M... chẳng
đã tuyên bố rằng nền học vấn Pháp là nguy hiểm cho người An Nam đó sao? Còn đức
cha P... thì chả đã nói rằng Chúa cho cây mây mọc cạnh m... ông người An Nam là
Chúa đã có dụng tâm sáng suốt đó sao.
Nếu thiên đường có thật, thì sẽ quá chật không đủ
chỗ để chứa chấp tất cả bọn tông đồ thuộc địa can đảm đó. Và nếu Chúa bất hạnh
đã chịu đóng đanh trên cây thánh giá trở về cõi thế này, thì chắc Ngài sẽ vô
cùng ngao ngán khi thấy "các môn đồ trung thành” của mình thực hiện đức
khổ hạnh như thế nào: Giáo hội Xiêm chiếm đoạt một phần ba diện tích ruộng đất
canh tác trong xứ; giáo hội Nam Kỳ chiếm một phần năm; giáo hội Bắc Kỳ, chỉ
riêng ở Hà Nội đã chiếm một phần tư đất đai, cộng thêm một cái vốn bé xíu 10
triệu Phrăng. Không cần nói cũng biết là phần rất lớn tài sản ấy, giáo hội
giành được bằng những thủ đoạn mà họ không thể và cũng không bao giờ thú nhận.
Đại tá B... viết: "Điều mà người thực dân phải
dựa vào nhà nước để làm - thì người truyền giáo cứ làm, bất chấp nhà nước. Bên
cạnh lãnh thổ của người chủ đồn điền, mọc lên lãnh thổ của Nhà chung. Chẳng bao
lâu nữa, sẽ không còn rẻo đất nào cho người An Nam có thể sinh cơ lập nghiệp
nếu không cam chịu kiếp nông nô!".
Amen! Lạy Chúa
tôi.
*
* *
Chúa đầy lòng nhân ái và toàn năng. Là đấng sáng
thế tối cao, Người đã nặn ra một chủng tộc gọi là thượng đẳng để đặt lên lưng
một chủng tộc gọi là hạ đẳng cũng do Người nặn ra. Bởi vậy, mọi đoàn đi khai
hoá - dù đến Ăngtiơ, Mađagátxca, Tahiti hay là Đông Dương - cũng đều có móc
theo một đoàn gọi là Đoàn Truyền giáo. Chẳng hạn, chúng ta biết rằng Chính phủ
Pháp quyết định việc chinh phục Bắc Kỳ là do sự xúi giục của các ngài giáo phẩm
thực dân được mụ vợ Napôlêông đệ tam đỡ đầu. Và các vị đó đã làm những gì ? Họ
đã lợi dụng lòng hiếu khách của người An Nam để đánh cắp những bí mật quân sự,
vẽ những bản đồ nộp cho quân đội viễn chinh. Chúng tôi không hiểu tiếng Latinh
gọi cái công việc ấy là gì, chứ tiếng Pháp thông dụng thì gọi đó là làm gián
điệp.
Bọn Gácniê, bọn Rivie và bè lũ không am hiểu địa
phương và không biết tiếng bản xứ thì đã có bọn truyền giáo làm thông ngôn và
chỉ điểm cho chúng. Trong vai trò này, các vị mang chức thánh không bỏ lỡ dịp
nào để thực hiện đức nhân của đạo Chúa. Có linh mục đã bảo lính: “Đốt làng này
đi, nó đã không nộp thuế cho chúng ta", hay là: "Tha cho làng này, nó
đã quy thuận chúng ta" (GI.B). Chúng ta đây tức là giáo hội.
Hàng giáo sĩ thuộc địa không những phải chịu trách
nhiệm gây ra chiến tranh thuộc địa, mà còn là bọn kéo dài chiến tranh, bọn chủ
trương đánh đến cùng, không chịu điều đình "non". Đô đốc R.đờ Giơnuiy
trong một bản báo cáo với Bộ Hải quân đã viết rằng: "Tôi muốn tìm cách
giao thiệp với nhà cầm quyền An Nam để ký kết một hoà ước, nhưng đã gặp những
trở ngại rất lớn do các nhà truyền giáo gây ra... Một hoà ước với người An Nam,
dù có lợi bao nhiêu, cũng chẳng thoả mãn được lòng ham muốn của các ông ấy. Họ
muốn đánh chiếm hết cả nước và lật đổ triều đại đang trị vì. Giám mục Penlơranh
đã nhiều lần nói như thế và đó cũng là ý kiến của giám mục Lơphevrơ".
Phải chăng đó là vì yêu nước ? Không, bởi vì ở đoạn
sau của bản báo cáo, đô đốc đã nói rõ rằng, "những giáo sĩ hoạt động ở Nam
Kỳ hy sinh quyền lợi của nước Pháp cho những mục đích riêng tư".
Mẩu chuyện sau đây chứng minh cho ý kiến đó: Vua
Hàm Nghi rời bỏ kinh thành của mình bị quân Pháp chiếm. Ông đem nghĩa quân vây
một làng do người theo đạo chống giữ, trong đó có sáu nhà truyền giáo. Một
tướng Pháp được tin báo, liền điều đình với một cố đạo cho mượn thuyền chở quân
đi giải vây. Cố đạo khước từ, bảo rằng thuyền đi đánh cá ngoài khơi hết, ba bốn
ngày nữa mới về. Sau khi điều tra, viên tướng biết là tên cố đạo đã cố ý phân
tán thuyền bè để quân tiếp viện không thể đi được. Viên tướng bèn đòi cố đạo
đến bảo: "Nếu không có thuyền cho tôi trong sáu giờ nữa thì tôi sẽ cho bắn
ông". Thuyền đến, viên tướng hỏi vị cha đáng kính: “Tại sao lại nói dối
?" - “Thưa tướng quân, nếu để các giáo sĩ bị chết rồi tướng quân mới đến,
thì chúng tôi sẽ có thêm sáu người tử vì đạo để phong thánh".
Đấy là những hành động phúc âm mà các
“Cha nhà ta” nỗ lực làm hằng ngày và bao giờ cũng là nhân danh Chúa cả.
Chương XI: Nỗi khổ nhục của
người phụ nữ bản xứ
Đọc những trang trên đây cũng đã thấy người phụ nữ
An Nam được các nhà khai hoá của chúng ta "bảo hộ" như thế nào. Không
một chỗ nào người phụ nữ thoát khỏi những hành động bạo ngược. Ngoài phố, trong
nhà, giữa chợ hay ở thôn quê, đâu đâu họ cũng vấp phải những hành động tàn nhẫn
của bọn quan cai trị, sĩ quan, cảnh binh, nhân viên nhà đoan, nhà ga. Một người
Âu mắng một phụ nữ An Nam là con đĩ, con bú dù là một việc thông thường. Ngay
giữa chợ Bến Thành ở Sài Gòn, mà người ta bảo là một thành phố Pháp, bọn gác
chợ người Âu cũng không ngần ngại dùng roi gân bò, dùi cui đánh phụ nữ bản xứ
để bắt họ tránh khỏi làm nghẽn lối!
Những chuyện đáng buồn như thế, có thể kể mãi không
hết, song chúng tôi hy vọng rằng mấy việc kể trên cũng đủ làm cho chị em ở
chính quốc biết rõ phụ nữ An Nam sống quằn quại trong cảnh lầm than và bị áp
bức như thế nào. Bây giờ hãy xem người phụ nữ bản xứ ở các thuộc địa khác -
cũng ở dưới sự bảo hộ của nước mẹ- có được tôn trọng hơn không.
Ở Phết Mơdala (Angiêri), một người bản xứ bị kết án
một năm tù vì tội ăn trộm. Anh ta trốn khỏi Nhà lao. Người ta phái một toán
quân, do một quan hai chỉ huy, đến bao vây làng anh ta. Toán quân sục sạo rất
kỹ nhưng không tìm thấy. Chúng bèn tập trung 35 phụ nữ họ hàng thân thuộc của
anh ta lại. Trong số người này có những em gái 12 tuổi, những cụ bà 70 tuổi,
những phụ nữ có thai, những bà mẹ đang cho con bú. Dưới con mắt bao dung của
viên quan hai và của viên quan cai trị vừa đến, mỗi tên lính vồ lấy một phụ nữ.
Các hào mục, các người cầm đầu các tổ chức từ thiện trong làng cũng bắt buộc
phải đứng xem cảnh ấy. Người ta bảo làm thế để cho họ sợ. Xong rồi, người ta
phá nhà cửa, bắt súc vật, nhốt những người đàn bà đã bị hãm hiếp vào một căn
nhà để cho chính bọn đao phủ kia canh gác và tiếp tục mọi hành động ô nhục như
thế đến hơn một tháng.
Người ta thường
nói: "Chế độ thực dân là ăn cướp". Chúng tôi xin thêm: Là hiếp dâm và
giết người
*
* *
Dưới đầu đề: "Bọn thực dân kẻ cướp",
Víchto Mêrích đã kể lại một hành vi bạo ngược không thể tưởng tượng được của
một viên quan cai trị thuộc địa nọ: Hắn đổ nhựa cao su vào âm hộ của một phụ nữ
da đen. Sau đó, hắn bắt chị ta đội một tảng đá to tướng đứng phơi nắng cho đến
chết.
Tên viên chức dâm bạo ấy hiện đang tiếp tục lập
công ở một địa phương khác.
Khốn thay, những hành vi bỉ ổi như thế lại không
hiếm gì ở cái nơi mà làng báo bồi bút thường gọi là "nước Pháp hải
ngoại".
Tháng 3 năm 1922, một nhân viên Nhà đoan ở Bà Rịa
(Nam Kỳ) đã đánh gần chết một phụ nữ An Nam làm phu đội muối, lấy cớ chị đã làm
ồn ào dưới hiên nhà hắn làm hắn mất giấc ngủ trưa.
Tuyệt hơn nữa là người phụ nữ ấy còn bị đe doạ đuổi
khỏi công trường muối nếu chị kêu kiện.
Tháng 4, một nhân viên Nhà đoan khác đến thay, cũng
tỏ ra xứng đáng với tên trước bởi những hành vi tàn ác của hắn.
Một bà cụ An Nam, cũng là phu gánh muối, vì bị khấu
lương nên cãi nhau với mụ cai. Mụ cai thưa với viên đoan. Viên này không cần
xét hỏi gì cả, tát luôn bà cụ hai cái tát nên thân, và khi bà cụ cúi xuống nhặt
nón, thì nhà khai hoá đó lại đá luôn một cái rất ác vào bụng dưới làm cho máu
ộc ra lênh láng.
Bà cụ ngã xuống bất tỉnh. Đáng lẽ phải đỡ bà cụ dậy
thì người cộng sự của ông Xarô lại đòi Lý trưởng sở tại đến và ra lệnh đem
người bị thương đi. Lý trưởng từ chối không làm. Viên đoan liền cho đòi chồng
bà già đến, ông này mù, ra lệnh đem vợ về.
Các bạn có muốn
đánh cuộc rằng cũng như bạn đồng sự của họ là viên quan cai trị nọ ở châu Phi,
hai viên chức Nhà đoan Nam Kỳ này đã được hoàn toàn vô sự không? Thậm chí có
thể chúng đã được thăng thưởng nữa là khác!
*
* *
Các em bé Angiê đói. Nhiều em mới lên sáu, lên bảy
đã phải đi đánh giầy hay xách giỏ thuê ở chợ để kiếm ăn.
Chính phủ thuộc địa và khai hoá cho rằng các em
cùng khổ kia kiếm được quá nhiều tiền nên bắt mỗi em phải có một sổ đăng ký và
trả môn bài hằng tháng từ 1 Phrăng rưỡi đến 2 Phrăng.
Các bạn công nhân
chính quốc! Các bạn đang phản đối món thuế vô lý đánh vào tiền lương, các bạn
nghĩ thế nào về món thuế bỉ ổi đánh vào các em bé kia?
*
* *
Trước chiến tranh, ở Máctiních, giá đường là 280
Phrăng một tấn, rượu rom 35 Phrăng một trăm lít.
Nay giá đường 3.000 Phrăng, rượu rom 400 Phrăng.
Như thế bọn chủ được lời 1000%.
Trước chiến tranh, lương công nhân mỗi ngày 3
Phrăng, nay từ 3 Phrăng 75 đến 4 Phrăng.
Như thế tiền lương công nhân tăng chưa đầy 30%.
Giá sinh hoạt thì lại tăng lên ít nhất 300%. Nếu
cộng thêm sự giảm sút sức mua của đồng phrăng vào sự chênh lệnh ghê gớm nói
trên thì các bạn sẽ thấy đời sống của người công nhân bản xứ cùng cực đến thế
nào.
Tháng 2 năm 1923, vì chủ không chịu tăng lương,
công nhân đã bãi công.
Cũng như bất cứ ở đâu, mà ở thuộc địa lại còn hơn ở
nơi khác, bọn chủ không bao giờ ngần ngại làm cho công nhân đổ máu. Cho nên
trong cuộc bãi công ấy, hai công nhân trẻ người Máctiních, một anh 18, một anh
19 tuổi, đã bị giết một cách hèn nhát.
Bọn chủ hung ác không từ trẻ con, không từ phụ nữ.
Tờ Le Paria, số ra tháng 5 năm 1923, đã đăng tin dưới đây:
"Nhà chức trách đối xử rất bất
công với nhân dân lao động. Những người không nhận làm việc theo mức tiền công
do bọn chủ ấn định đều bị tố giác, bị cảnh binh bắt giữ và khám xét. Ở đâu, bọn
cảnh binh cũng tỏ ra đầy ác ý đối với dân nghèo khổ.
"Chẳng hạn hôm kia, hai cảnh
binh đã đến Viện Cứu tế Tơrinitê bắt một phụ nữ tên là Luybanh, chị này hai đùi
bị trúng nhiều vết đạn trong vụ nổ súng ở Rátxinhắc ngày 9 tháng 2. Người ta đã
bỏ tù chị, lấy cớ rằng "chị đã vi phạm quyền tự do lao động bằng bạo hành
hoặc bằng lời doạ dẫm".
"Nhưng một điều chắc chắn là
người phụ nữ đáng thương đó đi không được, thế mà bọn cảnh binh vẫn cứ muốn
giải chị đi bộ 32 kilômét đến chỗ ông dự thẩm".
"Lúc chị bị bắt thì đã năm, sáu
ngày chị không được thầy thuốc ở mãi Pho đơ Phrăngxơ(1), cách đấy 32
kilômét, đến khám".
"Thế thì ai đã cấp giấy cho chị
ra viện, khi mà người mẹ có ba con nhỏ và bị bắt giam kia vẫn bảo rằng mình
chưa lành, mình còn thương tích và không đi lại được? "
"Tôi nêu sự việc này trong số
bao nhiêu sự việc đáng căm phẫn thường tái diễn hầu như ở khắp nơi trong thuộc
địa".
"Trong cuộc bãi công, ở một số
doanh nghiệp, những người "được tuyển dụng" bị bắt buộc làm việc dưới
sự giám sát của cảnh binh và lính thuỷ, y như dưới thời đại nô lệ".
Chúng tôi đọc trong một tờ báo, thấy
như sau:
"Ở Côngxtăngtin(2),
từng đoàn phụ nữ lũ lượt kéo đi ăn xin. Một người trong đám người cùng khổ đó
đã chết bên cầu En Căngtara, tay còn ẵm đứa con nhỏ.
"Từ Bôgari đến Gienpha(3)
vô số ông già, trẻ em và phụ nữ bế con bao vây đoàn xe lửa để xin bố thí.
"Họ chỉ còn
là những bộ xương, quần áo tơi tả. Người ta cấm họ lảng vảng đến các ga".
*
* *
Thật là một sự mỉa mai đau đớn khi
thấy rằng nền văn minh - dưới nhiều hình thức khác nhau như tự do, công lý,
v.v., được tượng trưng bằng hình ảnh dịu hiền của một người phụ nữ và được một
hạng người tự cho là phong nhã ra sức điểm tô, lại đối xử một cách hết sức bỉ
ổi với người phụ nữ bằng xương, bằng thịt và xúc phạm tới phong hoá, trinh tiết
và đời sống của họ một cách cực kỳ vô liêm sỉ.
Thói dâm bạo thực dân là hiện tượng
phổ biến và tàn ác không thể tưởng tượng được. Ở đây, chúng tôi chỉ nêu ra một
vài việc mà những nhân chứng không thiên vị đã trông thấy và kể lại, để các chị
em phương Tây hiểu rõ giá trị của cái gọi là "sứ mạng khai hoá" và
nỗi đau khổ của chị em mình ở thuộc địa.
Một người ở thuộc địa kể lại rằng: Khi bọn lính kéo
đến, tất cả dân chúng đều chạy trốn, chỉ còn lại hai cụ già, một thiếu nữ, một
thiếu phụ đang cho đứa con mới đẻ bú và tay dắt một em gái lên tám. Bọn lính
đòi tiền, rượu và thuốc phiện. Vì không ai hiểu tiếng Pháp nên chúng nổi giận,
lấy báng súng đánh chết một cụ già. Còn cụ già kia thì bị hai tên lính, khi đến
đã say mềm, đem thiêu sống trong một đống lửa hàng mấy giờ liền để làm trò vui
với nhau. Trong khi đó thì những tên khác thay phiên nhau hiếp cô thiếu nữ,
người mẹ và đứa con gái nhỏ của bà. Xong, chúng vật ngửa cô thiếu nữ ra, trói
lại, nhét giẻ vào miệng, rồi một tên cầm lưỡi lê đâm vào bụng cô, chặt ngón tay
cô để lấy chiếc nhẫn và cắt đầu cô để lột cái vòng cổ.
Trên đám đất bằng phẳng trước kia là ruộng muối, ba
cái xác chết nằm đó: Một em bé bị lột trần truồng, một thiếu nữ ruột gan lòi
ra, cánh tay trái cứng đờ giơ nắm tay lên chĩa vào ông trời vô tình, một xác cụ
già ghê rợn khủng khiếp, thân thể trần truồng, mặt mũi cháy không nhận ra được
nữa, mỡ chảy lênh láng đã đông lại da bụng phồng lên, láng xầy, vàng óng như da
lợn quay.
Buổi tối hôm đánh chiếm Chợ Mới (Bắc Kỳ), một sĩ
quan của tiểu đoàn Châu Phi còn thấy một người tù khoẻ mạnh, không thương tích.
Sáng hôm sau, viên sĩ quan ấy đã thấy anh ta bị thiêu chết, mỡ chảy nhầy nhụa,
da bụng phồng lên và vàng ánh. Đó là vì một bọn lính đã suốt đêm thui con người
tay không ấy, trong khi bọn khác hành hạ một phụ nữ.
Một tên lính buộc một người phụ nữ An Nam phải hiến
thân cho con chó của hắn. Chị không chịu. Hắn liền đâm một nhát lưỡi lê vào
bụng chị, chết tươi. Cũng vẫn người ấy kể lại: "Một ngày lễ nọ, một tên
lính trong cơn vui, tự nhiên vô cớ nhảy bổ vào một bà già người An Nam, lấy
lưỡi lê đâm bà một nhát chết ngay.
Một tên lính làm vườn nhìn thấy một toán người, nam
có, nữ có, đi vào vườn hắn lúc mười giờ sáng. Đó là những người trồng rau hiền
lành, tò mò muốn xem vườn. Nhưng tên lính đã lấy súng săn bắn xả vào họ, làm
chết hai thiếu nữ.
Một nhân viên Nhà đoan đòi vào nhà một người bản
xứ, chủ nhà không chịu, hắn bèn đốt nhà, và đánh gãy chân chị vợ chủ nhà giữa
lúc chị này bị khói xông mờ mắt, dắt con chạy ra để khỏi chết cháy".
Thói dâm bạo vô
độ của bọn xâm lược thật không có giới hạn nào cả. Cái tinh vi của một nền văn
minh khát máu cho phép chúng tưởng tượng được đến đâu thì chúng cứ thực hiện tính
tàn ác lạnh lùng của chúng đến đó.
*
* *
Thuế má nặng nề không phải chỉ đánh vào ruộng đất,
vào súc vật và vào nam giới mà thôi, mà cái ơn mưa móc (!) ấy còn tưới rộng ra
cho cả nữ giới nữa:
Nhiều phụ nữ bản xứ khốn khổ, phải mang nặng gông
xiềng đi quét đường chỉ vì một tội là không nộp nổi thuế.
Trong tất cả những cố gắng của các nhà khai hoá
nhằm làm cho nòi giống An Nam lành mạnh hơn và đưa họ lên con đường tiến bộ
(?), phải kể đến việc cưỡng bức mua rượu ty. Không sao kể xiết tất cả sự nhũng
lạm chung quanh việc bán rượu, một thứ thuốc độc dùng để pha chế thế nào cho
người ta nuốt trôi được cái món "dân chủ".
Trên kia chúng tôi đã nói rõ rằng, để nuôi béo bọn
cá mập ở chính quốc, cái Chính phủ đầy tội ác ở Đông Dương đã cho phép bọn tôi
tớ của nó bắt đàn bà, trẻ con không uống rượu cũng phải mua rượu. Muốn làm vừa
ý bọn độc quyền, người ta đặt ra những luật lệ để trừng trị việc nấu và buôn
rượu lậu; người ta đặt lên đầu người dân bản xứ cả một lô đủ thứ hình phạt;
người ta cấp vũ khí cho nhân viên nhà đoan. Bọn này có quyền xông xáo vào nhà
cửa, ruộng vườn của tư nhân.
Chúng ta hơi lấy làm ngạc nhiên, mà kể cũng đáng
ngạc nhiên thật, khi thấy cảnh binh giải về Hà Nội hay Hải Phòng từng đoàn ông
già, phụ nữ có mang, trẻ con, cứ hai người trói chung một dây, để trả lời về
tội vi phạm Luật lệ Thương chính.
"Nhưng thế cũng chưa thấm gì so với những việc
xảy ra ở các tỉnh, nhất là ở Trung Kỳ; ở đấy, viên Công sứ kết án và bỏ tù hàng
loạt, già, trẻ, đàn ông, đàn bà".
Tác giả đoạn văn trên tả đám thân quyến của họ ở
cổng nhà lao như sau: "Ông già, đàn bà, trẻ con, tất cả đám người ấy đều
bẩn thỉu, rách rưới, mặt mũi hốc hác, mắt đỏ ngầu lên vì sốt; trẻ con bị lôi
theo vì ngắn chân bước không kịp. Tất cả cái đám người đã kiệt sức ấy mang theo
đủ mọi thứ: Nón, quần áo rách, cơm nắm, đủ thứ thức ăn, để lén trao cho người
bị can là cha, là chồng, là trụ cột của gia đình, và hầu như luôn luôn là chủ
gia đình". Tất cả những điều mà người ta đã có thể nói ra vẫn còn ở dưới
mức sự thật. Chưa có bao giờ, ở một nước nào mà người ta lại vi phạm mọi quyền
làm người một cách dã man, độc ác trắng trợn đến thế.
Không phải chỉ có những cuộc khám nhà hàng loạt,
liên tục, mà còn có những cuộc khám xét thân thể người bản xứ bất kể ở chỗ nào,
bất kể là nam hay nữ. Nhân viên Nhà đoan vào nhà người bản xứ, bắt đàn bà, con
gái cởi hết áo quần trước mặt chúng, và khi họ đã trần truồng như nhộng thì
chúng giở trò dâm đãng kỳ quặc đến mức đem cả con dấu nhà đoan đóng lên người
họ.
Ôi! Hỡi những người mẹ, những người vợ, những người
phụ nữ Pháp, chị em nghĩ gì về tình trạng đó? Và các bạn, những người con,
những người chồng, những anh em người Pháp nữa? Có phải đó là phép lịch sự của
người Pháp đã bị "thực dân hoá" đi không nhỉ?
Nhiệt tình của người An Nam đối với nền giáo dục
hiện đại làm cho Chính phủ bảo hộ lo sợ. Bởi thế, Chính phủ đóng cửa các trường
làng, biến trường học thành chuồng ngựa cho các quan nhà binh, đuổi học trò và
bỏ tù thầy giáo. Một cô giáo bản xứ đã bị bắt giải về tỉnh lỵ, cổ đeo gông, đầu
phơi trần dưới ánh nắng như thiêu đốt.
Một viên Chánh quản pháo binh, đã đốt nhà một phụ
nữ An Nam, vì người ấy không chịu tiếp hắn vào lúc nửa đêm.
Một viên quan hai có nhiều vợ đã quật ngã một thiếu
phụ An Nam và dùng gậy song đánh chị đến chết chỉ vì chị không chịu làm vợ lẽ
hắn.
Một sĩ quan khác hiếp một em bé gái
bằng những cách dâm bạo vô cùng ghê tởm. Bị truy tố trước toà đại hình, hắn
được trắng án, chỉ vì nạn nhân là người An Nam.
Trong tất cả các bài diễn văn, tất cả
các bản báo cáo ở khắp những nơi mà các nhà cầm quyền của chúng ta có dịp mở
miệng, và có bọn ngốc ngồi nghe, họ luôn luôn khẳng định rằng, chỉ có nước Đức
dã man mới là đế quốc, là quân phiệt, còn nước Pháp, cái nước Pháp yêu hoà
bình, nhân đạo, cộng hoà và dân chủ, cái nước Pháp mà họ đại diện thì không
phải là đế quốc, cũng không phải là quân phiệt. Ồ! hoàn toàn không phải! Nếu
chính các nhà cầm quyền ấy đưa binh lính, là con em công nhân hay chính là công
nhân, đi giết hại những công nhân ở các nước khác, thì đó chẳng qua là để dạy
cho những người này biết sống cho tốt mà thôi!
1) Fort de France. Thủ phủ Máctiních.
2) Constantine. Tên một quận của Angiêri, đồng thời
cũng là tên quận lỵ của quận ấy.
3) Boghari, Djelfa. Tên những địa phương ở Angiêri.
Chương XII: Nô lệ thức
tỉnh
Tháng 11 năm 1922, 600 thợ nhuộm ở
Chợ Lớn (Nam Kỳ) vì bị bớt lương nên đã quyết định bãi công.
Cuộc phản công của bọn chủ liền diễn
ra ở khắp nơi, và khắp nơi giai cấp công nhân cũng bắt đầu giác ngộ về lực
lượng và giá trị của mình.
Nếu những công nhân bản xứ khốn khổ
kia, thường là rất ngoan ngoãn, dễ sai, dễ bảo, không được giáo dục và tổ chức,
đã đi đến chỗ phải tập hợp nhau lại, do bản năng tự vệ, nếu có thể nói như thế
và đấu tranh chống những đòi hỏi tàn bạo của chủ, thì đó là vì tình cảnh của họ
quá ư khốn khổ, khốn khổ đến mức mà ở Châu Âu người ta không tưởng tượng được.
Đây là lần đầu tiên, một phong trào như thế nhóm lên ở thuộc địa. Chúng ta hãy
ghi lấy dấu hiệu đó của thời đại và chúng ta đừng quên rằng bổn phận của chúng
ta, những người lao động ở chính quốc, không phải chỉ tỏ tình đoàn kết với
những anh em cùng giai cấp ở đấy bằng lời nói, mà còn phải giác ngộ họ, giáo
dục họ về ý thức tổ chức và về phương pháp tổ chức.
Lo sợ về giai cấp công nhân ở chính quốc đã thức
tỉnh, chủ nghĩa tư bản Pháp tìm cách di chuyển nền thống trị của nó qua các
thuộc địa. Tại đó, nó vơ vét nguyên liệu cho các nhà máy và sử dụng những lực
lượng phản động và lạc hậu(1) để chống lại cách mạng. Báo chí tư sản
ở Pari và các tỉnh thường xuyên dành hàng trang cho mục thuộc địa. Các tướng tá
và nghị sĩ tổ chức những cuộc diễn thuyết về thuộc địa. Những cây bút quan liêu
và những người nói khoác ấy không tìm đâu ra đủ lời lẽ để ca ngợi công ơn khai
hoá "của họ" và lòng trung thành của người bản xứ.
Đôi khi các ngài ấy trơ tráo đến mức đem lòng...
nhân từ của họ đối lập với sự cướp bóc của thực dân Anh; họ cho chính sách của
người Anh là "phương pháp tàn nhẫn" hoặc "thái độ thô bạo"
và quả quyết rằng cách làm của người Pháp là đầy công bằng và từ thiện!
Chỉ cần nhìn qua các thuộc địa Pháp một chút cũng
đủ thấy công cuộc khai hoá đó là "đẹp đẽ và nhân từ" biết chừng nào?
Ở Đahômây, người ta tăng thêm thuế vốn đã quá nặng
đối với người bản xứ. Người ta bắt thanh niên phải bỏ nhà cửa, ruộng nương để
đi làm "những người bảo vệ văn minh". Người ta cấm người bản xứ mua
sắm và sử dụng vũ khí để chống thú dữ thường phá hoại sạch trơn hàng loạt làng
xóm. Giáo dục, vệ sinh đều thiếu. Trái lại, người ta không từ một thủ đoạn nào
để bắt người Đahômây "được bảo hộ" phải chiụ cái chế độ "dân bản
xứ" đáng phỉ nhổ, một chế độ đã hạ con người xuống hàng con vật và làm ô
nhục cho cái thế giới gọi là văn minh. Dân bản xứ không cam tâm chịu nhục được
mãi, họ phải vùng lên. Thế là đàn áp đẫm máu. Người ta dùng những biện pháp
cứng rắn. Người ta điều quân đội, súng liên thanh, súng cối và tàu chiến đến,
người ta ra lệnh giới nghiêm. Người ta bắt bớ và bỏ tù hàng loạt. Đấy! Công
cuộc khai hoá nhân từ là như thế đấy!
Dân Xyri lấy làm hài lòng, rất hài lòng về chính
sách cai trị của tướng Gurô, các nhà đương cục đều nói như thế. Nhưng các sự
việc sau đây đã chứng minh trái ngược lại:
Tháng 3 năm 1922, ông Muyxtapha Kêman đến Métxin.
Để đón tiếp ông, người Hồi giáo Xyri dựng một khải hoàn môn có cắm cờ đen mang
các khẩu hiệu: "Thổ và Arập là anh em!", "Xin chớ quên những
người anh em Xyri", "Hãy giải phóng cho chúng tôi", v.v..
Việc ông Muyxtapha Kêman đến thăm Ađana đã gây nên
những cuộc biểu tình sôi nổi. Trong hai ngày liền, những người trong phong trào
phục quốc ở Ăngchiôsơ và Alếchxăngđrét đã giương cờ đen kéo qua các phố và hô
lớn những khẩu hiệu chống chế độ uỷ trị Pháp.
Đáp lời kêu gọi của phái đoàn phục quốc Xyri, nghe
đâu ông Muyxtapha Kêman đã nói: “Một trung tâm văn minh đã tồn tại(2)
từ bao thế kỷ như Xyri không thể nằm trong tay người ngoại quốc được".
Chủ nghĩa thực dân Pháp không hề thay đổi cái châm
ngôn "chia để trị" của nó. Chính vì thế mà nước An Nam, một nước có
chung một dân tộc, chung một dòng máu, chung một phong tục, chung một lịch sử,
chung một truyền thống, chung một tiếng nói, đã bị chia năm sẻ bảy. Lợi dụng
một cách xảo trá sự chia cắt ấy, người ta hy vọng làm nguội được tình đoàn kết,
nghĩa đồng bào trong lòng người An Nam và tạo ra những mối xung khắc giữa anh
em ruột thịt với nhau. Sau khi đẩy họ chống lại nhau, người ta lại ghép một
cách giả tạo các thành phần ấy lại, lập nên một "Liên bang" gọi là
Liên bang Đông Dương.
Trong các thuộc địa mới, người ta cũng lại thấy cái
sách lược ấy. Sau khi chia cắt đất nước Xyri thành "một số quốc gia",
cao uỷ Pháp ở Bâyrút lại lập một "Liên bang" Xyri, gồm các
"nước" Alép, Đamát, và Alauit(3). Một lá quốc kỳ đã được
bày đặt ra nhằm mục đích đó. Cũng như đối với lá cờ An Nam, người ta không quên
vá vào lá cờ Liên bang đó một miếng "cờ bảo hộ", ở góc trên gần cán.
Ngày 11 tháng 12 năm 1922 là ngày lễ "long trọng", lần đầu tiên lá cờ
ấy được kéo lên nóc phủ Liên bang ở Alép.
Trong dịp ấy, nhiều nhà cầm quyền đã đọc diễn từ.
Ông Xubi Baraca Bây, Chủ tịch Liên bang, đã nói nào là "nước bảo hộ rộng
lượng”, nào là "người hướng đạo chân thành", nào là “những vị tướng
lĩnh chiến thắng", và hàng tràng những điều khác nữa. Ông Bôbe đơ Ke,
quyền cao uỷ, cũng đọc đítcua rất dài. Ngoài những điều khác ra, vị quan cao
cấp ấy đã nhắc lại rằng, "nước Xyri độc lập không phải là dân tộc đầu tiên
được nước Pháp săn sóc từ trong nôi"... Nhưng, tất cả những lời lẽ huênh
hoang rỗng tuếch ấy chẳng đánh lừa được ai. Phái đoàn Xyri - Palextin lãnh
nhiệm vụ đấu tranh cho độc lập và thống nhất - chân chính, của nước Xyri ở Hội
nghị Lôdannơ đã gửi một bức thư phản kháng. Bức thư này đã được đăng trên tờ La
Tribune d’Orient, và chúng tôi rất sung sướng được sao lại dưới đây:
Thưa ngài,
"Giữa lúc người ta đương cố hàn gắn những lỗ
hổng mà Hiệp ước Xevơrơ đã khoét ra trong vấn đề Cận Đông và giữa lúc dân tộc
Arập đang phải chịu đựng, so với mức hy sinh tự nguyện của mình, những điều tai
hại trực tiếp nhất do hiệp ước đó gây ra, thì ở hội nghị của các ngài, hội nghị
tổ chức ra với mục đích thiết lập một nền hoà bình vững chắc và lâu dài, tiếng
nói của các đại biểu dân tộc Arập ở các khu vực khác nhau vân chưa được lắng
nghe. "
Thế mà chính lúc này lại là lúc các nhà cầm quyền
Pháp chọn để khánh thành một cách long trọng công cuộc thực dân hoá mà họ đã
tiến hành từ bốn năm nay bằng cách gắn cái tượng trưng cho chế độ nô lệ vĩnh
viên là những miếng cờ tam tài lên lá cờ mà người ta vừa mới gán cho cái gọi là
“Liên bangXyri". Thế là một lần nữa, người ta lại phủ nhận những lời tuyên
bố của Đồng minh, những điều mà nước Anh đã nhân danh Đồng minh cam kết với các
dân tộc Arập, và ngay cả những lời của các chính khách Pháp hứa bảo đảm nền độc
lập cho xứXyri bất hạnh. Nước Xyri hiển nhiên có đủ tư cách để được độc lập
nhanh chóng, hoàn toàn, và xứng đáng với nền độc lập ấy không kém bất cứ một
nước nào khác ở phương Đông hay ở phương Tây. Thế mà Xyri lại không được phép
có một quốc kỳ riêng của mình. Người ta đã buộc Xyri phải đính vào quốc kỳ của
mình cái mảnh tam tài làm dấu hiệu cho chế độ uỷ trị, là một sự thôn tính trá
hình.
"Thưa ông Chủ tịch, từ trước tới nay chúng tôi
luôn luôn phản đối chế độ uỷ trị, không bao giờ chúng tôi công nhận chế độ ấy
cả, ngày nay chúng tôi lại cực lực phản đối việc gắn cái dấu hiệu tượng trưng
của chế độ ấy vào lá cờ của chúng tôi.
"Hầu hết các cường quốc, kể
cả những nước lớn mạnh không kém gì nước Pháp, đều không bao giờ dùng phương
pháp làm nhục ấy đối với những thuộc địa lạc hậu nhất của họ.
"Hiến chương Hội quốc liên
quy định rõ tính chất tạm thời của chế độ uỷ trị (Điều 22, đoạn 4). Vậy thì nhà
chức trách Pháp dựa trên cơ sở nào để gán ghép màu cờ của họ cho một nước mà họ
đòi dìu dắt đến độc lập, một nền độc lập đã được Hiến chương Hội quốc liên công
nhận?
"Thưa ngài, chúng tôi trân
trọng yêu cầu ngài xét lời phản kháng của chúng tôi về vấn đề ấy, và một lần
nữa, chúng tôi nhắc lại nguyện vọng tha thiết nhất của chúng tôi là những yêu
sách chính đáng của chúng tôi sẽ được bênh vực tại hội nghị.
"Kính mong, v.v.. " Thay mặt Trưởng Đoàn
đại biểu Xyri - Palextin Tổng Thư
ký EMIA SEKIP AcXlA
Ngoài ra, những người ở Hama, phần
nhiều là công chức, luật sư, giáo sư, nhà báo, nhà buôn, đã gửi cho thủ tướng
Pháp một bức thư mà sau đây là những đoạn chính:
"Thưa ngài Thủ tướng, chúng tôi
được hân hạnh trình bày với ngài các yêu sách của chúng tôi, đồng thời chúng
tôi phản đối sự phản ứng của cái Hội đồng đó, sự phản ứng mà chúng tôi cho là
đã đi ngược lại lợi ích của chúng tôi và lợi ích của cả nước Xyri nói chung.
1.
Cái Hội đồng
Liên bang ấy không phải là do quốc dân bầu ra. Vì thế, các uỷ viên của hội đồng
đó hoàn toàn không có tư cách là đại biểu của quốc dân, cũng không thể phản ánh
ý chí của quốc dân.
2.
Hội đồng ấy
không có quyền hành gì cả; nó bị bắt buộc chỉ được thảo luận những vấn đề nào
mà người ta muốn đưa ra trước nó, nên ngay cả những vấn đề sống còn của đất
nước, nó cũng không thể đề cập đến được. Sau hết, các nghị quyết của hội đồng
lại hoàn toàn phụ thuộc vào quyền hành của cao uỷ, cao uỷ có thể tuỳ tiện thi
hành hay bác bỏ.
3.
Chính ngay cơ
sở của Hội đồng ấy cũng không vững, bởi vì mỗi bang chỉ có một đại biểu, mặc
dầu dân số các bang không bằng nhau. Lại còn điều kỳ quặc phi lý này nữa là hội
đồng không theo nguyên tắc đa số, có một ý kiến bất đồng là cuộc biểu quyết coi
như không có giá trị và vấn đề phải đưa lên cao uỷ quyết định.
4.
Người ta giới
thiệu hội đồng này như là một bước tiến trên con đường đi đến thống nhất, thật
ra nó là sự phủ nhận thống nhất, phủ nhận ngay đến cả tư cách của đất nước nữa,
vì đã là một Hội đồng chỉ định ra thì nó hoàn toàn không phản ánh được ý chí
của quốc dân; thậm chí nó còn có thể đi ngược lại ý chí đó, trong khi trước con
mắt của toàn thế giới, nó lại có thể được coi như là cơ quan đề đạt nguyện vọng
của nhân dân Xyri, và do đó sẽ cung cấp cho người ta những lý do để khước từ
những yêu sách chính đáng của quốc dân chúng tôi.
Còn về nguyện vọng của chúng tôi, thì có thể nêu lên
như sau:
a) Công nhận nền độc lập thật sự và sự thống nhất của
Xyri.
b) Sau khi làm xong cuộc điều tra dân số đang tiến
hành thì sẽ tổ chức phổ thông đầu phiếu để bầu ra quốc hội. Quốc hội sẽ ban
hành Hiến pháp và quyết định chính thể. Quốc hội có thể được triệu tập vào cuối
năm 1922, tức là lúc Hội đồng Liên bang sẽ được triệu tập.
c) Thành lập một Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc
hội và Quốc hội, trong những quyền hạn của nó, phải có toàn quyền lập pháp.
Đó mới là những
nguyện vọng thật sự của nhân dân Hama, mà cũng là nguyện vọng của tuyệt đại đa
số nhân dân Xyri".
*
* *
Từ khi tập sách nhỏ này viết xong, thì nhiều biến
cố nghiêm trọng đã xảy ra ở nhiều thuộc địa. Đó là quả bom ở Quảng Châu do một
người An Nam ném, là những quả bom ở Ăngtiơ, những vụ bãi công đẫm máu ở
Guyađơlúp, những cuộc biểu tình không kém đổ máu ở Đamát, những vụ bãi công ở
Bidéctơ(4), ở Hammănglíp(5) và tình hình sôi sục ở
Tuynidi.
IV. Cách mạng Nga với các dân tộc thuộc địa
Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám
vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở
thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi.
Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu
của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc
ra.
Cách mạng Nga hiểu rất rõ điều đó. Cho nên nó không
dừng lại ở việc đọc những bài diễn văn lý tưởng đẹp đẽ và thông qua những kiến
nghị nhân đạo để ủng hộ các dân tộc bị áp bức, mà cách mạng Nga dạy cho họ đấu
tranh. Cách mạng Nga giúp đỡ họ về tinh thần và vật chất như Lê-nin đã viết
trong luận cương của Người về vấn đề thuộc địa. Cách mạng Nga đã triệu tập họ
đến Đại hội Bacu: Hai mươi mốt dân tộc phương Đông đã phái đại biểu tới dự.
Những đại biểu của các đảng công nhân phương Tây cũng tham gia Đại hội. Đó là
lần đầu tiên trong lịch sử, giai cấp vô sản ở các nước xâm lược và giai cấp vô
sản ở các nước bị xâm lược đã nắm tay nhau trong tình anh em và cùng nhau tìm
cách đấu tranh cho có hiệu quả chống chủ nghĩa tư bản là kẻ thù chung của họ.
Sau cuộc Đại hội lịch sử ấy, mặc dù đang phải đương
đầu với những khó khăn dồn dập trong nước và ngoài nước, nước Nga cách mạng vẫn
không hề một phút do dự trong việc giúp đỡ các dân tộc ấy, những dân tộc mà nó
đã thức tỉnh bằng tấm gương cách mạng anh dũng và thắng lợi của nó. Việc làm
đầu tiên của nó là thành lập Trường Đại học Phương Đông.
Hiện nay, Trường Đại học Phương Đông có 1.025 sinh
viên mà 151 là nữ sinh. Trong số sinh viên đó, có 895 người là đảng viên cộng sản.
Thành phần xã hội của sinh viên như sau: 547 nông dân, 265 công nhân, 210 trí
thức. Ngoài ra còn có 75 học sinh thiếu niên từ l0 đến 16 tuổi.
Có 150 giáo sư phụ trách giảng dạy về khoa học xã
hội, về toán học, về chủ nghĩa duy vật lịch sử, về lịch sử phong trào công
nhân, về khoa học tự nhiên, về lịch sử các cuộc cách mạng, về khoa kinh tế -
chính trị, v.v., v.v.. Trong lớp học, thanh niên của sáu mươi hai dân tộc sát
cánh nhau như anh em ruột thịt.
Trường có 10 ngôi nhà lớn dành cho sinh viên. Lại
có một rạp chiếu bóng, thứ Năm và Chủ nhật chiếu cho sinh viên xem không lấy
tiền, các ngày khác thì cho một người thầu thuê. Có hai thư viện với 47.000
quyển sách giúp cho các nhà cách mạng trẻ tuổi bồi dưỡng tư tưởng và đi sâu vào
việc nghiên cứu. Mỗi dân tộc hoặc "nhóm" lại có một tủ sách riêng gồm
sách báo bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Phòng đọc sách được sinh viên trang trí rất
có mỹ thuật, và có đầy đủ các báo hằng ngày và tạp chí.
Sinh viên tự mình cũng ra một tờ báo có "một
bản duy nhất" dán vào một cái bảng to đặt trước cửa phòng đọc sách. Những
người đau ốm được điều trị trong bệnh viện của nhà trường. Một Trại Điều dưỡng
ở Crimê được dành riêng cho những sinh viên mới ốm dậy. Chính phủ Xôviết tặng
nhà trường hai trại nghỉ gồm có chín ngôi nhà. Mỗi trại có một nhà chăn nuôi để
nghiên cứu việc chăn nuôi. Đồng chí Bí thư nông nghiệp của trường không giấu
nổi niềm tự hào khi nói với tôi: "Chúng tôi đã có 30 con bò cái và 50 con
lợn". Trại còn có 100 hécta đất để cho sinh viên trồng trọt. Trong các kỳ
nghỉ, sau giờ làm việc và tập luyện, sinh viên đi giúp đỡ nông dân.
Nhân đây cũng nói thêm rằng, một trong hai trại
nghỉ ấy trước kia là tài sản của một đại công tước Nga(6). Thật là
ngộ nghĩnh khi trông thấy lá cờ đỏ kiêu hãnh phấp phới trên đỉnh ngọn tháp được
trang điểm bằng chiếc mũ miện đại công tước và thấy những người nông dân trẻ
tuổi Triều Tiên hay Ácmêni chuyện trò và vui đùa không chút kiêng nể trong
phòng lễ của "Hoàng tử Điện hạ".
Sinh viên ăn, mặc, ở đều không mất tiền. Mỗi tháng,
mỗi người còn được lĩnh năm rúp vàng để tiêu vặt.
Để sinh viên có những kiến thức cơ bản về khoa nuôi
trẻ, nhà trường nhận đỡ đầu một nhà nuôi trẻ và một nhà gửi trẻ kiểu mẫu gồm 60
em nhỏ xinh xắn.
Mỗi năm Trường Đại học Phương Đông chi tiêu đến
516.000 rúp vàng.
Các đại biểu của 62 dân tộc trong Trường Đại học
lập thành một "công xã”. Chủ tịch và các cán sự của công xã đều do đầu
phiếu phổ thông bầu ra, ba tháng một lần. Một đại biểu sinh viên tham gia việc
quản lý kinh tế và hành chính. Tất cả các sinh viên đều lần lượt thay phiên
nhau làm bếp, làm công tác thư viện, câu lạc bộ, v.v.. Tất cả những vụ tranh
chấp và "phạm pháp" đều do một toà án được bầu ra xét xử trước mặt
toàn thể các đồng chí. Mỗi tuần, công xã họp một lần để thảo luận tình hình
chính trị và kinh tế thế giới. Thỉnh thoảng lại tổ chức những cuộc mít tinh và
những buổi tối giải trí, trong đó có những nghệ sĩ tài tử đột xuất làm cho anh
em được thưởng thức nghệ thuật và văn học muôn màu muôn vẻ của những đất nước
xa xôi.
Một điểm đặc biệt làm nổi bật sự "dã man"
của những người bônsêvích là không những họ coi những người dân thuộc địa
"thấp kém” ấy như anh em, mà còn mời họ tham gia đời sống chính trị của
nước Nga nữa. Những sinh viên khi ở quê hương mình chỉ là những "dân thuộc
địa", "dân bị bảo hộ", nghĩa là những người không có quyền gì
khác ngoài quyền nộp thuế, những người không được góp ý kiến vào công việc của
nước mình, không được phép bàn bạc chính trị, thì nay được tham gia tổng tuyển
cử của nhân dân để bầu những đại biểu của mình vào các Xôviết. Mong rằng những
anh em của tôi ở các thuộc địa đang hoài công tốn của cầu cạnh xin xỏ thay đổi
quốc tịch mãi mà không được, hãy thử so sánh nền dân chủ tư sản với nền dân chủ
vô sản(7)xem!
Tất cả những sinh viên ấy đều đã từng chịu đau khổ
và trông thấy cảnh đau khổ. Tất cả đều đã sống dưới “nền văn minh cao
đẳng" và dưới sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản nước ngoài. Cho nên,
tất cả đều phấn khởi và thiết tha học hỏi. Họ rất hăng hái và nghiêm túc. Họ
hoàn toàn không có vẻ công tử ăn chơi nhàn nhã(8) như những thanh
niên phương Đông du học ở Pari, Ôxpho, hoặc Béclin. Người ta có thể nói không
ngoa rằng Trường Đại học Phương Đông ấp ủ dưới mái của mình tương lai của các
dân tộc thuộc địa.
Miền Cận Đông và Viễn Đông, kể từ Xyri đến Triều
Tiên - chỉ tính những nước thuộc địa và nửa thuộc địa thôi - có một diện tích
rộng hơn 15 triệu kilômét vuông, với số dân hơn l.200 triệu người. Tất cả những
nước rộng lớn ấy hiện đang ở dưới ách của chủ nghĩa đế quốc tư bản. Và mặc dầu
dân số của họ đáng lẽ phải làm cho họ có sức mạnh, các dân tộc bị áp bức đó vẫn
chưa bao giờ ra sức tìm tòi thật đến nơi đến chốn con đường tự giải phóng, cho
nên họ chưa hiểu được giá trị của sự đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Họ
chưa có những mối liên hệ giữa các lục địa như các dân tộc châu Âu và châu Mỹ.
Họ có sẵn trong bản thân một sức mạnh vô cùng to lớn mà họ chưa biết! Việc
thành lập Trường Đại học Phương Đông đánh dấu một kỷ nguyên mới; trong khi tập
hợp những người trẻ trung, hoạt bát, thông minh của các nước thuộc địa lại, nhà
trường đang tiến hành một sự nghiệp vĩ đại là:
a) Giáo dục cho các chiến sĩ tương lai ấy nắm được
nguyên lý đấu tranh giai cấp là nguyên lý mà một mặt, những cuộc đấu tranh
chủng tộc, mặt khác, những tập tục gia trưởng đã làm cho mơ hồ, lẫn lộn trong
đầu óc họ.
b) Làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp
xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác
thật sự sau này; chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc
tế giành được thắng lợi cuối cùng.
c) Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn
cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên
minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong nhưng cái cánh
của cách mạng vô sản.
d) Nêu lên cho giai cấp vô sản ở những nước mà giai
cấp tư sản có thuộc địa, một tấm gương về những điều họ có thể làm và phải làm
cho những người anh em của họ đang bị nô dịch.
V. Hỡi anh em vô sản và nông dân các thuộc địa!
Cuộc chém giết đẫm máu thế giới đã mở mắt cho hàng
triệu vô sản và nông dân các thuộc địa thấy rõ hoàn cảnh sinh sống không sao
chịu nổi của mình. Một loạt những cuộc bùng nổ cách mạng mãnh liệt, nhưng chưa
được tổ chức, đã đánh dấu sự kết thúc của cuộc chiến tranh thế giới. Lực lượng
tự phát không gì ngăn nổi và khát khao chiến đấu cho một tương lai tốt đẹp hơn
ấy, là do giai cấp tư sản dân tộc bản xứ tổ chức và lãnh đạo. Lớn mạnh lên
trong thời kỳ chiến tranh, giai cấp tư sản dân tộc đó không muốn nằm mãi trong
nanh vuốt của chủ nghĩa đế quốc và để cho chúng nắm phần to lớn nhất trong việc
bóc lột "công nhân và nông dân của mình" nữa. Khẩu hiệu đấu tranh
giải phóng dân tộc của giai cấp tư sản trẻ tuổi ở thuộc địa đề ra, được quần
chúng lao động ở Ân Độ, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, v.v. hoan nghênh nhiệt liệt và ủng
hộ mạnh mẽ.
Quốc tế Cộng sản đấu tranh không ngừng chống bọn cá
mập tư sản ở tất cả các nước trên thế giới. Có thể nào nó lại giả vờ quay lưng
lại với phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa
được không ?
Không! Quốc tế Cộng sản đã công khai tuyên bố ủng
hộ và giúp đỡ cuộc đấu tranh ấy, và trung thành với mục tiêu của mình, Quốc tế
Cộng sản vẫn tiếp tục ủng hộ cuộc đấu tranh ấy.
(Trích Tuyên ngôn của Ban Chấp hành Quốc tế thứ Ba)
VI. Một bản hiệu triệu của Quốc tế Nông dân gửi nông
dân lao động các thuộc địa.
Quốc tế Nông dân mới đây họp Đại hội lần đầu tiên ở
Mátxcơva đã ra lời kêu gọi dưới đây để tỏ rõ sự quan tâm của mình đối với nông
dân lao động các thuộc địa:
Hỡi anh chị em nông dân lao động các thuộc địa!
Hỡi anh chị em nông dân thuộc địa, anh chị em là
những người nô lệ hiện đại: hàng triệu anh chị em ở ngoài đồng ruộng, trên thảo
nguyên và trong núi rừng của hai lục địa, đang rên xiết dưới hai tầng áp bức
của chủ nghĩa tư bản nước ngoài và bọn chủ bản xứ.
Họp lần đầu tiên ở Mátxcơva để thành lập một tổ
chức đấu tranh mà cho đến nay nông dân chưa có, Đại hội Quốc tế Nông dân kêu
gọi ý thức giai cấp của anh chị em và yêu cầu anh chị em hãy gia nhập hàng ngũ
tổ chức đó.
Anh chị em còn khốn khổ hơn các bạn nông dân ở
chính quốc, vì ngày công quá dài, vì đói khổ, vì ngày mai bấp bênh.
Anh chị em thường bị cưỡng bách lao động như khổ
sai, bị bắt đi khuân vác đến chết người và đi lao dịch không thời hạn.
Anh chị em bị đè bẹp dưới thuế khoá.
Chủ nghĩa tư bản bóc lột dìm anh chị em trong cảnh
tối tăm ngu dốt, áp bức anh chị em về mặt tư tưởng và tiêu diệt nòi giống của
anh chị em bằng rượu và thuốc phiện.
Chế độ bản xứ bỉ ổi do bọn đế quốc tư bản đặt ra,
tước mất của anh chị em mọi quyền tự do cá nhân, mọi quyền lợi chính trị và xã
hội, do đó, đã hạ anh chị em xuống thân phận trâu ngựa.
Đẩy anh chị em vào cảnh cùng khổ và phá sản như vậy
chưa đủ, chủ nghĩa tư bản còn bắt anh chị em lìa bỏ gia đình, đồng ruộng, đưa
anh chị em ra làm bia đỡ đạn, ném anh chị em vào những cuộc chiến tranh huynh
đệ tương tàn đánh lại nhân dân bản xứ khác hoặc chống lại nông dân, công nhân ở
chính quốc.
Hỡi anh chị em cùng khổ ở các thuộc địa!
Hãy đoàn kết lại!
Hãy tổ chức lại!
Hãy phối hợp hành động của anh chị em với hành động
của chúng tôi, chúng ta cùng nhau đấu tranh cho công cuộc giải phóng chung!
Công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa thành công muôn năm!
Quốc tế lao động muôn năm!
Quốc tế Nông dân muôn năm!
VII. Tổ chức Công đoàn ở thuộc địa
Trích biên bản phiên họp ngày 27 tháng 6 năm 1923,
kỳ họp thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Quốc tế Công hội đỏ.
Đấu tranh công đoàn ở thuộc địa
Chủ nghĩa đế quốc hiện đại đặt nền
móng trên sự bóc lột hàng triệu người lao động ở các nước thuộc địa và nửa
thuộc địa. Bởi thế, nó chỉ tan rã hoàn toàn và vĩnh viễn khi nào chúng ta phá
bỏ được nền móng đó của lâu đài đế quốc chủ nghĩa. Theo quan điểm đó, việc tổ
chức công đoàn ở các nước thuộc địa có một tầm quan trọng đặc biệt. Thế mà đoàn
viên của Quốc tế Công hội đỏ hầu như chưa hề làm được gì ở Ai Cập, ở Tuynidi và
ở tất cả các nước đương nằm dưới gót sắt của chủ nghĩa đế quốc Pháp. Mối liên
hệ hiện có giữa các nhóm công nhân ở các thuộc địa Pháp và các công đoàn Pháp
chỉ là do ngẫu nhiên. Không có một hoạt động có hệ thống nào cả, mà rõ ràng là
nếu chưa tranh thủ được quần chúng ở thuộc địa thì chúng ta không đủ sức phá
huỷ bộ máy đế quốc chủ nghĩa. Việc cần thiết hiện nay là phải phát động một
cuộc tuyên truyền rộng lớn để thành lập các tổ chức công đoàn ở các nước thuộc
địa và phát triển các công đoàn hiện có dưới hình thức phôi thai. Ngoài ra, chúng
ta cần phải tỏ rõ tình hữu ái giai cấp thực sự giữa những người lao động thuộc
mọi dân tộc, mọi chủng tộc để khắc phục sự nghi kỵ của những người lao động
thuộc địa đối với những đại diện của những chủng tộc thống trị. Mối liên hệ hữu
cơ giữa công đoàn thuộc địa và công đoàn chính quốc chỉ có thể là kết quả của
một quá trình công tác rất lâu dài trong các thuộc địa.
Không được quên
những người lao động thuộc địa, phải giúp đỡ các tổ chức của họ, đấu tranh bền
bỉ chống những chính phủ của chính quốc đang áp bức các thuộc địa, đó là một
trong những nhiệm vụ cấp thiết nhất của tất cả các công đoàn cách mạng, nhất là
ở các nước có giai cấp tư sản đi nô dịch và bóc lột các nước thuộc địa và nửa
thuộc địa.
*
* *
Tuyên ngôn của “Hội Liên hiệp
thuộc địa”, tổ chức của những người dân bản xứ ở tất cả các thuộc địa
"Hỡi anh em ở các thuộc địa! Năm
1914, vì phải đương đầu với một tai hoạ ghê gớm, những người cầm quyền nhà nước
đã quay về phía anh em và yêu cầu anh em đồng tình góp phần hy sinh của mình để
cứu vãn một tổ quốc mà người ta nói là của anh em, nhưng thật ra cho đến khi
đó, anh em chỉ biết có cái đầu óc thống trị của nó mà thôi.
“Để làm cho anh em không ngần ngại,
họ không quên làm loé lên trước mắt anh em những quyền lợi mà sự hợp tác với họ
sẽ đưa lại cho anh em. Nhưng qua cơn bão táp rồi, thì đâu lại hoàn đó, anh em
vẫn phải sống trong chế độ bản xứ, với những toà án đặc biệt, thiếu hẳn các
quyền lợi gắn liền với phẩm giá con người như quyền tự do lập hội, tự do hội
họp, tự do báo chí, tự do đi lại ngay cả trên đất nước của anh em. Đó là về mặt
chính trị.
“Về mặt kinh tế, anh em vẫn phải chịu
nạn sưu dịch nặng nề mà nhân dân oán ghét, vẫn phải đóng thuế muối, vẫn bị đầu
độc và cưỡng bách tiêu thụ rượu và thuốc phiện như ở Đông Dương, vẫn bị đi gác
đêm để canh giữ tài sản cho bọn cá mập thực dân, như ở Angiêri.
"Lao động như nhau, nhưng công
sức của anh em lại bị trả tiền ít hơn các bạn người Âu của anh em.
"Cuối cùng, người ta hứa hẹn với
anh em đủ mọi thứ trên trời dưới biển, nhưng giờ đây anh em thấy toàn là những
lời lừa dối cả.
"Anh em phải làm thế nào để được
giải phóng?
"Vận dụng công thức của Các Mác(9),
chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực
hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em.
"Hội Liên hiệp thuộc địa thành
lập chính là để giúp đỡ anh em trong công cuộc ấy.
"Với sự giúp đỡ của các đồng chí
ở chính quốc đồng tình với sự nghiệp của chúng ta, Hội tập hợp tất cả những
người quê ở thuộc địa hiện sống trên đất Pháp.
“Biện pháp hoạt động: Để thực hiện sự nghiệp chính
nghĩa ấy, Hội quyết định đưa vấn đề ra trước dư luận bằng báo chí và ngôn luận
(tổ chức nói chuyện, mít tinh, thông qua các bạn dân biểu mà đặt vấn đề ra trên
diễn đàn các nghị viện) và bằng tất cả mọi biện pháp mà chúng ta có thể làm.
"Hỡi các bạn bị áp bức ở chính quốc! Giai cấp
tư sản trong nước các bạn đã lừa dối các bạn, dùng các bạn làm công cụ đi xâm
lược đất nước chúng tôi. Ngày nay, vẫn dùng cái chính sách quỷ quyệt ấy giai
cấp tư sản nước các bạn lại định dùng chúng tôi để đàn áp mọi cố gắng tự giải
phóng của các bạn.
"Đứng trước chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế
quốc, quyền lợi của chúng ta là thống nhất, các bạn hãy nhớ lời kêu gọi của Các
Mác:
"Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!".
"Hội Liên hiệp thuộc địa"
1) Bản tiếng Pháp xuất bản năm 1946: "... et du
matériel humain pour sa contre révolution" (sử dụng nhân lực để chống lại
cách mạng).
2) Bản tiếng Pháp năm 1946: "Un foyer qui
date..." (một trung tâm đã tồn tại).
3) Alep, Damas, Alaouites. Alep là một thành phố của
Xyri; Damas là thủ đô của Xyri; Alaouites là lãnh thố của Xyri bị thực dân Pháp
cắt ra thành một khu vực tự trị từ năm 1924 đến năm 1930.
4) Bizerte. Quân cảng của nước Tuynidi.
5) Hammanlif. Một thành phố của nước Angiêri.
6) Tước của thái tử thời Nga hoàng
7) Bản tiếng Pháp xuất bản năm 1946: "... La
démocratie bourgeoise et la démocratie ouvrièreì" (nền dân chủ tư sản và
nền dân chủ của công nhân).
8) Nguyên bản: Ils n ’ont pas du tout l ’air
boulevardier et quartier latiniste. Có nghĩa là: Họ không có vẻ hạng ngồi rong
chơi trên các đại lộ hoặc ở khu phố latinh.
9) Nguyên bản: Formule de Karl Marx. Công thức này Mác
nêu trong Điều lệ của Hội Liên hiệp lao động quốc tế: "Sự giải phóng của
giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân ".
Kim Yến
Không có nhận xét nào