QUẢNG TRỊ 1972 - HỒI ỨC CỦA MỘT NGƯỜI LÍNH
Phần thứ nhất: Đường vào Quảng Trị - Nhập ngũ Phần thứ nhất: Đường vào Quảng Trị - Huấn luyện tân binh Phần thứ nhất: Đường vào Quảng Trị - Về phép Phần thứ nhất: Đường vào Quảng Trị - Trên đường đi B (1) Phần thứ nhất: Đường vào Quảng Trị - Trên đường đi B (2) Phần thứ nhất: Đường vào Quảng Trị - Trên đường đi B (3) Phần thứ nhất: Đường vào Quảng Trị - Trên đường đi B5 |
Phần
Thứ Hai: Chiến Trận - Trận Thành Cổ (2)
Phần
Thứ Ba: Mặt Trận Nam Cửa Việt (1)
Phần
Thứ Ba: Mặt Trận Nam Cửa Việt (2)
Tôi tin rằng, trên đời này, mỗi người đều có một số
phận riêng, không ai giống ai.
Từ lâu, ca dao Việt Nam đã nói về thân phận con
người, đó là sự mặc định, thiên định:
Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày...
Tôi coi mình là người may mắn và hạnh
phúc khi được làm con bố mẹ tôi, những người không chỉ cho tôi cuộc sống, mà
còn dạy tôi biết hướng về những điều cao đẹp như chính cuộc đời của ông bà,
luôn nặng lòng với quê hương đất nước và tương lai của con cháu.
Tôi coi mình là người hạnh phúc và may mắn khi được
sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, Hà Nội hào hùng lịch sử, hào hoa cốt cách, thủ đô
của phẩm giá con người.
Tôi có Hà Nội lại được có Hà Tĩnh, Hương Sơn quê
hương. Cái vùng đất địa linh nhân kiệt; vùng đất của thơ ca, của sự trung dũng
kiên cường, đậm đà tình nghĩa ấy đã bồi đắp cho tôi những phẩm tính đặc biệt để
dễ dàng vượt qua những thử thách trong cuộc sống và biết chắt lọc niêm vui,
hạnh phúc ngay cả trong những ngày gian khổ nhất.
Bố tôi là Nguyễn Đình Kỳ, người Sơn Tân, Hương Sơn,
Hà Tĩnh; tham gia cách mạng năm 1946, vào Đảng năm 1948, trải qua nhiều công
tác, đến khi nghỉ hưu là Phó Trưởng ban Ban Quản lý Quảng trường Ba Đình, trực
thuộc UBND TP Hà Nội trước đây và thuộc Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
ngày nay.
Mẹ tôi là Đỗ Thị Nhu, người làng Mọc, Thượng Đình,
Hà Nội. Thuở nhỏ bà đã học hết Tiểu học thời Tây, có bằng Primaire Certificate
nên tiếng Pháp rất khá. Tôi được thừa hưởng nhiều trí tuệ và lòng đam mê văn
học của bà. Cho đến lúc nghỉ hưu mẹ tôi là Trưởng Phòng Tài vụ Sở Xây dựng Hà
Nội.
Tôi sinh năm 1954. Lính Hà Nội nhập ngũ 27- 04-1972
và vào Nam chiến đấu ở mặt trận B5, Quảng Trị. Nguyên là chiến sĩ Tiểu đoàn 3,
Trung đoàn 48, Sư đoàn 320B “Tử thủ Cổ thành”. Bị thương nặng, được đưa ra Bắc
điều trị tháng 01-1973, rồi đi học đại học. Hiện nay đang sống và làm việc ở
CHLB Đức.
Tôi không phải nhà văn và viết cuốn sách này không
để làm văn.
Nó chỉ là hồi ức của một người lính, kể về một đoạn
đời ngắn nhưng đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời tôi ở Mặt trận Quảng Trị, trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vô cùng ác liệt. Ở đó, cái sống và cái chết
tranh chấp nhau từng giây một. Ở đó, trắng đen rõ rệt. Trần trụi sự thật. Trần
trụi bản năng và mọi khía cạnh con người. Tất cả được phơi bày hết, phơi bày
đến tận cùng cái tốt và cái xấu; dũng cảm và hèn nhát; nhân đạo và nhẫn tâm;
cao cả và thấp hèn; có lý và phi lý... Cuốn sách được viết dựa trên những hồi
ức của tôi và các Đồng đội của tôi, đặc biệt là hai cuốn nhật ký của chính bản
thân tôi, ghi lại chân thực nhiều chi tiết.
Tôi biết ơn bố tôi, người đã giữ cho
tôi những cuốn nhật ký đó và nhiều tài liệu khác trong hơn 40 năm và khuyến
khích tôi viết cuốn sách này.
Tôi biết ơn, nhà báo Vũ Đình Hương, bệnh nhân cùng
phòng với bố tôi tại Bệnh viện Hữu nghị Hà Nội đã động viên tạo nhiều điêu kiện
để cuốn sách được hoàn thành.
Tôi trân trọng ghi nhận những đóng góp của nhà thơ
Nguyễn Sĩ Đại, người đồng hương Hà Tĩnh. Anh cũng từng là một quân nhân trong
chiến tranh chống Mỹ. Với tình cảm của một người đồng đội, đồng hương; anh đã dành
nhiều ngày tháng để biên tập, chú giải, liên hệ xuất bản, in ấn để cuốn sách
hoàn thiện hơn và ra đời được vào dịp kỷ niệm 30-4-2017, kỷ niệm 42 năm Ngày
giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành
tới ông Nguyễn Anh Vũ, bà La Kim Liên, lãnh đạo NXB Văn học, và anh chị em biên
tập của nhà xuất bản đã nâng đỡ rất nhiều để cuốn sách của tôi được ra mắt bạn
đọc.
Hy vọng các đồng đội tôi ở Trung đoàn
48, Sư đoàn 320B sẽ tìm thấy ở đây những kỷ niệm về một thời hoa lửa.
Hy vọng các bạn trẻ sẽ hiếu hơn về thế hệ chúng
tôi, những người đã sống và chiến đấu cho Tổ quốc như thế nào. Trong sách có sử
dụng một số hình ảnh tư liệu.
CHLB Đức, ngày 10-03-2017
Nguyễn Quang Vinh
Nguyễn Quang Vinh
Trong lịch sử dân tộc ta, có nhiều thời kỳ võ công
oanh liệt gắn liền với sự phát triển rực rỡ của văn học nghệ thuật. Thời Lý -
Trần; thời kháng chiến chống quân Minh; thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ cứu nước
là những thời kỳ như vậy.
Những bài thơ như Nam quốc sơn hà, những câu thơ
như “Người lính già đầu bạc/ Kể mãi chuyện Nguyên Phong” (niên hiệu vua Trần
Thái Tông, gắn với chiến thắng Nguyên Mông tần thứ nhất 1258); “Xã tắc hai phen
chôn ngựa đá/ Non sông nghìn thuở vững âu vàng” đã vượt qua mọi thử thách của
thời gian. Văn học, từ chỗ phản ánh hiện thực đời sống; đã trở thành giá trị
tinh thần, hào khí, cốt cách của dân tộc.
Đến nay, 2017, hòa bình đã được lập lại
42 năm. Nhưng ký ức chiến tranh vẫn còn tươi nguyên, nhất là với những chiến sĩ
đã trực tiếp cầm súng. Họ không chỉ xả thân vì độc lập dân tộc mà còn là những
nhà văn trung úy, những nhà văn binh nhì đã và đang làm nên những chiến tích
mới trong văn học nghệ thuật. Đã có hàng trăm, hàng nghìn tiểu thuyết đồ sộ, đã
có tủ sách “Mãi mãi tuổi hai mươi” rực lửa, chan chứa giá trị nhân văn khiến cả
thế giới kinh ngạc, khâm phục. Song vẫn chưa hết. Những hồi ức binh nhì tiếp
tục ra đời.
“Quảng Trị 1972” của Nguyễn Quang Vinh là một cuốn
sách như vậy, cuốn sách hấp dẫn từ đầu chí cuối, với những chi tiết hết sức
sống động và chân thực về chiến tranh, tôi nghĩ rằng, không phải người cầm
súng, không thể viết được. Nguyễn Quang Vinh, vốn là học sinh Trường Phổ thông
Công nghiệp Hai Bà Trưng, hăng hái ra trận năm 1972, như tất cả mọi thanh niên
thời ấy, với tâm thế “Chiến đấu là cao quý nhất. Cuộc đời đẹp nhất là trên trận
tuyến đánh quân thù” (Nhật ký Lê Mã Lương). Chân dung người chiến sĩ Giải phóng
quân hồi ấy được Nguyễn Quang Vinh vẽ ra thật lãng mạn: “Có đoạn đi bên sườn
núi, nhìn ra phía đông xuyên qua tán lá rừng, có thể nhìn thấy biển xa tít tắp.
Rồi những cồn cát trắng nhỏ xíu, đồng ruộng, làng mạc xanh mờ và một dòng sông
bạc đang uốn khúc, y như trên máy bay nhìn xuống. Tự nhiên lúc đó tôi thấy tự
hào vô cùng. Dầu sao đôi chân của tôi cũng đã in dấu trong rừng Trường Sơn, in
dấu lên con đường lớn của dân tộc, và lòng tôi cứ ngân lên hai câu thơ của Tố
Hữu: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai"...
Nhưng rồi thực tế chiến trường đã không chỉ có sự phơi phới. Anh là chiến sĩ
rồi Tiểu đội trưởng Tiểu đội 4, Trung đội 2, Đại đội 11, Tiểu đoàn 3 của Trung
đoàn 48, Trung đoàn Thép của Sư đoàn 320B tử thủ ở Thành cổ Quảng Trị và Mặt
trận Cửa Việt. Đường hành quân, chủ yếu đi bộ từ Bắc vào Nam đã được anh nhớ
lại: “Cả lũ đi mò trong đêm. Tôi bị ngã vào vũng nước, ướt sạch, quai dép bị
đứt, đành phải đi đất. Hình như bị lạc rồi, ánh hỏa châu chập chờn khắp nơi.
Đường bờ ruộng trơn như đổ mỡ, tôi nghiến răng dùng hết sức bấm ngón chân xuống
đất mà vẫn ngã. Mỗi bước đi là một bước ngã. Súng ống đồ đạc quật oành oạch,
quần áo bẩn thỉu như trâu vấy. Nhiều lúc mệt quá, tôi cứ chống hai tay ngồi
phệt dưới bùn mà nuốt nước mắt: cuộc đời chưa bao giờ bị cực khổ như thế
này"! Cuộc sống ở chiến trường có những điều mà bây giờ lớp trẻ không thể
hiểu nổi: “Sau bữa trưa chỉ có cơm với muối chúng tôi rửa bát bằng cách sục ca
nhôm vào cát rồi chùi. Ở đây thì lấy đâu ra nước mà rửa bát. Có nước ở hố bom
cách đó vài chục mét, nhưng ra lấy lại sợ bị pháo kích”...
Quảng Trị năm
1972 là đất của bom pháo và chết chóc. Đụng vào đâu cũng thấy xác chết, cả ta
lẫn địch. Tiểu đoàn 3 của anh đã hai lần bị xóa sổ trong vòng ba tháng. Chỉ có
tinh thần chiến đấu kiên cường của người chiến sĩ là không chết. Đây là một
đoạn viết về những người lính trẻ: “Từ cửa hãm đối diện, Lâm Thành xả một tràng
AK hạ gục tên địch vừa bắn Chí
Thành. Nhưng lúc này bốn bề đều có địch. Hai chiến sĩ trẻ
của C11, là Lâm Thành và Tường “Hải Phòng”, đã dựa lưng vào nhau, chĩa súng AK
ra hai phía bắn như điên. Mặc cho máu đang ròng chảy trên mặt một người và máu
thấm đẫm vạt sườn người kia, hai anh vẫn bắn không ngừng, bắn mãi... Cách đó
khoảng 100m, Tiểu đội trưởng Quế "Khương Trung” mang khẩu DKZ82 ra định
lắp vào giá súng, nhưng không kịp. Thấy xe tăng địch đang rầm rầm xông đến, Quế
hô chiến sĩ Quỳnh “Thái Bình” đem đạn ra ngay, nạp vào súng. Rồi không cần giá
súng, Quế vác nòng khẩu DKZ82 lên vai, nhằm thẳng chiếc M48 đang chạy xế trước
mặt bóp cò. Một quầng lửa da cam cùng tiếng nổ chói óc vang lên, chiếc xe tăng
bốc cháy ngùn ngụt, không một tên địch nào sống sót”...
Mọi sự thật của chiến tranh đều được
phơi bày một cách trần trụi. Cả dũng cảm và hèn nhát. Không ít cán bộ, chiến sĩ
đã thoái lui, không đập bệnh cũng đảo ngũ. Nhưng trên tất cả là bản anh hùng ca
của tuổi trẻ từ bộ đội chủ lực đến giao liên, du kích. Tác giả, trong hoàn cảnh
cụ thể của mình đã có những trang viết xúc động, rất đáng tự hào về tuổi trẻ Hà
Nội trong những ngày kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong đó có chính tác giả.
Văn học gần đây có khuynh hướng thiên về ký sự, mô
tả sự thật như nó vốn có. Sự thật cuộc chiến đấu Quảng Trị năm 1972 hào hùng và
tiêu biểu đến nỗi, không cần tới hư cấu, và bởi không cần đến hư cấu nên lay
động sâu xa tới người đọc. Cuốn sách này của Nguyễn Quang Vinh không chỉ có giá
trị lịch sử mà còn góp phần khẳng định một khuynh hướng mới có nhiều triển vọng
trong đời sống văn học hiện nay.
Nguyễn Quang Vinh kể lại những ngày tháng của các
anh ở Quảng Trị không để làm văn chương; mà là nén hương lòng tưởng niệm và tri
ân những đồng đội đã hy sinh vì Tổ quốc:
Thế hệ chúng con đi như gió thổi
Quân phục xanh
đồng sắc với chân trời
Chưa kịp yêu một người con gái
Lúc ngã vào lòng đất vẫn con trai.
(Trần Mạnh Hảo)
Khép lại trang cuối cùng của cuốn sách;
tôi hết sức khâm phục, biết ơn và càng thương nhớ các anh chị đã chiến đấu và
hy sinh ở Quảng Trị; trong đó hai người anh của tôi là Liệt sĩ Nguyễn Đức Thúy
và Liệt sĩ Nguyễn Sĩ Đường.
Tôi nhận thấy ở Nguyễn Quang Vinh một nhà văn -
chiến sĩ. Dù anh không viết gì nữa, tôi tin anh đã có một chỗ đứng trên văn
đàn.
Cuốn sách “Quảng Trị 1972" chắc
chắn sẽ ghi được dấu ấn đặc biệt trong lòng bạn đọc.
Hồ Gươm, 21-3-2017
Nguyễn Sĩ Đại
Nguyễn Quang Vinh
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Nhập Ngũ
Ngày 16-04-1972 máy bay Mỹ ném bom trở
lại Hà Nội, sau gần bốn năm ngừng oanh kích.
Khoảng 11 giờ trưa còi báo động từ phía Nhà hát Lớn
rú vang, rồi tiếng súng cao xạ nổ ầm ầm. Tôi chạy từ trong lớp học ra ban công
tầng 2 Trường Phổ thông Công nghiệp Hai Bà Trưng, ngó lên bầu trời. Những chiếc
phản lực Mỹ hình vỉ ruồi nhỏ xíu, mình bạc cánh đen, đang lao vun vút trên
thành phố, phía sau chúng là từng đám hoa khói của đạn cao xạ nổ lụp bụp. Nhà
trường cho học sinh nghỉ học. Thành phố ban bố lệnh sơ tán.
Ngày hôm sau chỉ mình tôi đạp chiếc xe đạp Mifa chở
theo đồ đạc lên chỗ sơ tán. Đó là làng Giang Xá, gần Trạm Trôi, huyện Hoài Đức
tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), nơi chúng tôi đã từng sơ tán từ tháng 06-1966
đến tháng 07-1969. Tôi lại đến nhà bà Phó Tiến ở Xóm Trong xin ở nhờ. Đó là một
bà già nông dân tốt bụng, ở một mình trong căn nhà lá 5 gian và một khu vườn
rộng. Các con bà, anh con trai cả và cô con gái thứ, đều đã có gia đình và ra ở
riêng cả. Bà chỉ xót xa cậu con út, chú Hinh, đi bộ đội đã mấy năm mà không có
tin tức gì. Bà vẫn thường kể từ ngày chú Hinh cùng đơn vị “kéo cờ lên đường”
sang Cao Miên (Căm-pu-chia) là bặt vô âm tín.
Đến hôm trước thì hôm sau tôi đã ra vườn giúp bà
làm việc: bóc lá mía, tưới khoai tây, trèo hái ổi cho bà đi chợ bán... Những
lúc nhàn rỗi tôi lại giở sách ra ôn tập, lòng bâng khuâng tự hỏi, còn vài tháng
nữa là thi tốt nghiệp lớp 10 và thi đại học, không biết rồi sẽ ra sao đây? Một
buổi chiều tôi ra ngồi câu cá ở ao sau vườn, nhìn bầu trời trong xanh phản
chiếu xuống mặt ao, lại nhớ hơn 4 năm về trước, từ chỗ này tôi đã quan sát cảnh
máy bay Mỹ lao vào ném bom Hà Nội. Khi bay vào thì hùng hổ, hàng ngũ chỉnh tề; khi
quay ra thì tán loạn, cái lao lên cái nhào xuống, lăn lộn cố thoát khỏi lưới
lửa phòng không nhiều tầng nhiều lớp. Khẩu thượng liên 12ly7 trên cổng làng
Giang Xá cũng nổ từng loạt giòn giã, xen lẫn những tiếng bì bọp của súng trường
dân quân. Đang mơ màng hồi tưởng thì chợt thấy phao nhấp nháy rồi bềnh lên, tôi
vội giật cần. Một chú trắm đen bằng cổ tay bị lôi lên bờ, giãy đành đạch và
phát ra những tiếng kêu chít chít nghe rất lạ. Chợt Huệ, cô bạn học cùng lớp sơ
tán hồi trước, sang chơi. Huệ người làng này, là em của Giang, người bạn thân
nhất của tôi thời sơ tán, tuy là hai anh em nhưng lại học cùng một lớp với tôi.
Từ hôm về đây tôi chưa tới thăm bạn cũ nào cả. Huệ cho biết Giang đã nhập ngũ
được mấy tháng, thanh niên làng này đã đi bộ đội vãn cả, ở làng hầu như chỉ còn
phụ nữ, trẻ con và người già. Ai ngờ đó là lần cuối cùng tôi biết tin Giang,
hai mươi mấy năm sau mới có dịp lần hỏi tin tức, thì được biết Giang đã hy sinh
ở chiến trường B5 rồi. Dạo này tình hình chiến sự ở Miền Nam đang cực kỳ sôi động.
Từ cuối tháng 03-1972 quân ta đã đồng loạt mở các cuộc tấn công lớn ở 3 mặt
trận Quảng Trị, Bắc Tây Nguyên và Lộc Ninh - Đông Nam Bộ.
Hàng ngày chiếc loa phóng thanh trên
nóc đình làng vẫn vang lên những tin thắng trận liên tiếp. Đặc biệt ấn tượng là
tin cả một trung đoàn quân ngụy do Trung tá Đính cầm đầu ra hàng Quân Giải
phóng (1). Kiểu này thì chắc sắp giải phóng Miền Nam đến nơi rồi. Tuy nhiên
buổi tối trước hôm đi sơ tán tôi có bật Radio nghe trộm đài Gươm thiêng ái quốc
của Sài Gòn, thì thấy nói “xác của hàng ngàn thiếu niên Bắc Việt đang rải khắp
các chiến trường Miền Nam trong cuộc tấn công này”.
(1) Về chuyện đầu
hàng của trung đoàn này, lịch sử chép như sau: 10 giờ
55 phút, ngày 30-3-1972, từ Sở chỉ
huy Bộ Chỉ huy chiến dịch, Tư lệnh mặt trận Lê Trọng Tấn phát lệnh "Bão
táp", mở màn chiến dịch tấn công giải phóng Quảng Trị. Trung đoàn pháo
binh Bông Lau (Trung đoàn 38) do Cao Sơn làm Trung đoàn trưởng và Trần Thông
làm Trung đoàn phó được giao nhiệm vụ chi viện cho Sư đoàn 304, tấn công ở hướng
chủ yếu, theo đường số 9 từ hướng Tây xuống Đông Hà. Mục tiêu đầu tiên là đánh
cụm cứ điểm kiên cố do Trung đoàn pháo binh 56 ngụy chốt giữ. Phía địch gọi là
căn cứ Carroll (Cà - ròn), phía ta gọi là cao điểm 241. Trung đoàn này doTrung
tá Phạm Văn Đính quê Thừa Thiên làm Trung đoàn trưởng. Trước tình trạng cá nằm
trên thớt, Đính liên lạc yêu cầu thương lượng nhưng ta không đồng ý, chỉ chấp
nhận đầu hàng. Đính triệu tập các sĩ quan và thông báo ý định đầu hàng Quân
Giải phóng. Hầu hết các sĩ quan đồng ý với quyết định này trừ Thiếu tá Tôn Thất
Mãn. Trong vụ đầu hàng này có hai chi tiết thể hiện sự nhân đạo của Quân Giải
phóng: Một là, khi binh lính kéo cờ trắng đầu hàng ra tập hơp trước sân thì có
hai trực thăng Mỹ đến bốc hai cố vấn Mỹ là Thiếu tá Joseph Brown và Trung tá
William Camper. Mặc dù ở trong tầm hỏa lực của ta nhưng Sư trưởng Hoàng Đan đã
không cho bắn để khỏi giết hại binh lính đầu hàng. Hai là, dù bị bức hàng, dù
để cố vấn Mỹ trốn thoát, Phạm Văn Đính và binh lính Trung đoàn 56 vẫn được giữ nguyên
quân hàm khi theo Quân Giải phóng và được bố trí công việc thích hợp (BT).
Ở nơi sơ tán được gần 1 tuần, bỗng một buổi sáng,
Tiến Dũng, người bạn cùng lớp thân thiết nhất của tôi tìm tới. Tiến Dũng thông
báo rằng tôi đã có giấy gọi nhập ngũ, và bố mẹ tôi nhờ Tiến Dũng vào báo tin
cho hộ. Tôi vội vàng thu dọn đồ đạc trở về ngay Hà Nội. Trong giấy có nói 9h
sáng ngày 27- 04-1972 tôi phải có mặt ở Tây Tựu, huyện Từ Liêm để nhập ngũ. Như
vậy là chỉ còn vài ngày nữa thôi. Thực sự hồi đó tôi cũng hơi bị bất ngờ. Cho
đến những ngày đó, chiến tranh đối với tôi dường như là sự việc của những người
khác, ở một nơi nào đó xa lắc, và chỉ tồn tại trong những bản tin của báo, đài.
Hơn nữa tôi chưa tròn 18 tuổi, là một trong những học sinh giỏi nhất trường.
Những học sinh như vậy sau khi tốt nghiệp lớp 10 thường được các trường đại học
của Quân đội hoặc Công an đến chiêu sinh, hoặc được các Binh chủng kỹ thuật như
Không quân, tên lửa, xe tăng, pháo binh đến thu nạp, chứ ít khi phải đi lính
trơn “Bò binh” như thế này. Tôi tranh thủ lên thăm gia đình cô An ở Nông trường
Tam Đảo một ngày. Những ngày còn lại lo mua sắm vài vật dụng cần thiết, và cùng
gia đình đi chụp ảnh kỷ niệm. Những bức ảnh chụp đại gia đình hồi đó, gồm bố mẹ
tôi, hai em Hà, Hiển cùng bà nội, bà ngoại vẫn còn đến ngày nay. Nhìn nét mặt
người nào cũng đượm vẻ lo âu và buồn rười rượi. Buổi sáng ngày 27-04-1972 cả
gia đình đưa tiễn tôi đến nơi tập trung tại xã Tây Tựu, ngoại thành Hà Nội. Đến
nơi đã thấy rất đông người.
Cùng lớp tôi có các bạn Chí Thành, Lê Thanh
Bình, Phổ Thọ. Bạn Tiến Dũng chạy theo chúng tôi suốt, và rất muốn đi cùng cho
vui, nhưng bạn ấy không có giấy gọi mà cũng không có tên trong danh sách. Sau
này tôi nghĩ chắc người họ hàng làm trên Khu đội đã ỉm giấy của bạn ấy đi. Nhà
tôi gần nhà Quang Vinh nên mẹ bạn ấy bắt hai đứa phải khoác chặt tay nhau để
“cùng đi cùng ở”. Tôi còn nhận ra một số khuôn mặt quen thuộc hoặc ở cùng Khu
tập thể như Mai Quý Cường, Dũng “Patinhom”, Vân số 6, Bình “Cống”, Châm “thối
tai”, Ngô Duy Minh, Bùi Ngọc Toàn 10A....
Có một tay đeo xắc-cốt lụng thụng, đi
lại bắng nhắng, làm bộ phỏng vấn mọi người, nói nhiều câu đao to búa lớn, có
biệt danh là Nhuận “nhà báo”. Không ngờ sau này hắn là một trong những tên đảo
ngũ đầu tiên. Sau khi nhận quân trang gồm quần áo, mũ dép, chăn màn, bi-đông.
tôi được phân về Tiểu đội 3, Trung đội 1, C49, D58, E59 Bộ Tư lệnh Thủ đô. Tiểu
đội trưởng Thành 19 tuổi, nhập ngũ trước chúng tôi một năm, mới đi học A trưởng
về, mặc bộ quân phục bạc phếch, hay cười khoe chiếc răng khểnh, và tỏ ra rất
thân thiện với tôi. Buổi tối đầu tiên trong đời bộ đội, toàn Trung đội tập hợp
ở sân đình, nghe Quyền Trung đội trưởng Nghĩa huấn thị. Anh Nghĩa 23 tuổi, là
người vui tính thích thơ ca hò vè, nhưng cũng rất nghiêm, làm chúng tôi nể sợ
răm rắp. Anh bắt nhịp cho chúng tôi đồng ca bài “Vì nhân dân quên mình”, rồi
đọc một bài vè rất ngộ về lính mới ở Bãi Nai, Hòa Bình làm mọi người cười vui
vẻ. Tôi được chỉ định làm A phó A3.
Sáng
hôm sau cả lũ kéo nhau ra giếng ao gần đó đánh răng rửa mặt, tôi gặp Lục Thế
Bảo và Định, tán gẫu vài câu, rồi mỗi đứa được phát một cái bánh mì để ăn sáng.
Đúng 7h30 Đại đội tập hợp điểm danh, phổ biến lệnh hành quân, sau đó theo đội
hình hàng dọc lên đường. Sau khoảng hai tiếng đồng hồ, tự nhiên tôi thấy mình
đang đi trên bờ một con kênh quen quen, giống như con kênh ở gần làng Giang Xá.
Tôi nghĩ bụng chắc sắp đi qua làng, biết đâu gặp được vài người quen nào đó.
Nhưng không, đi một lúc nữa thì thấy mình đang ở vùng Sấu Giá rợp bóng dừa
xanh, với những người dân nói tiếng trọ trẹ rất khó nghe. Ngày hôm sau, khi đã
tối mịt một lúc lâu thì chúng tôi mới tới nơi. Đó là một sườn đồi thoai thoải
trong vùng rừng núi Bãi Nai, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Một lô nhà lán lợp
nứa đứng xiêu vẹo. Chúng tôi chia nhau mỗi tiểu đội vào một nhà, đứa nào cũng
mệt rũ. Tôi lần mò lấy ra gói sữa bột, hòa vào bát nước chè để uống, rồi rải
chiếu ra nằm ngủ như chết.
Nguyễn Quang Vinh
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Huấn Luyện Tân
Binh
Sáng hôm sau nghe phổ biến nhiệm vụ: các Tiểu đội
chia thành tổ Tam tam vào rừng đẵn gỗ nứa về làm nhà. Tổ Tam tam của tôi ngoài
tôi làm tổ trưởng còn có Mai Quý Cường và Tôn, đều to cao như phi công cả. Chỉ
tiêu ngày đầu mỗi người một cây gỗ bằng bắp chân, những ngày sau mỗi người 20
cây nứa. Chúng tôi phải leo những con dốc dựng đứng, đi rất sâu vào rừng mới
tới nơi nứa mọc. Trai Hà Nội lần đầu thấy những con vắt nâu đen, đứng trên
những chiếc lá, quơ quơ cái vòi đánh hơi, thấy người đi qua thì nhảy tanh tách
đeo bám. Thấy những vạt rừng thưa có những cây bưởi dại, cây sung, cây vả quả
đeo lúc lỉu và cây dương xỉ đầy lông tơ vàng. Tôi chưa có kinh nghiệm chặt nứa
nên bị 1 cây xiên xuống trúng mu bàn chân trái, mấy hôm sau mưng mủ, đau nhức.
Bắp chân nổi hạch, sưng to, nhưng tôi vẫn cố gắng cà nhắc đi làm, nên được Đại
đội biểu dương. Sau hơn một tuần thì nơi ăn chốn ở đã ổn định. Mỗi tiểu đội ở
một nhà lợp nứa, vách nứa, và có một chiếc giường tập thể lát nứa chạy dọc căn
nhà. Ngoài ra chúng tôi còn làm một hội trường lớn, một nhà ăn tập thể và một
khu bếp cạnh suối. Sau đó chúng tôi đi nhận vũ khí, chủ yếu là AK47 và K63
(súng trường Trung Quốc) có gắn lưỡi lê. Tôi được nhận một khẩu AK Ba Lan có
tay nắm phụ ở ốp phía trên và một bao xe 3 băng đạn trước bụng. Mỗi người còn
phải đeo hai quả lựu đạn tập và tự làm vòng tre để cắm lá ngụy trang sau lưng.
Tôi đươc thuyên chuyển sang Trung đội 2 làm A phó A4. Ở Trung đội này tôi gặp
lại bạn thân Chí Thành và Ngô Duy Minh.
Mỗi buổi sáng sau kẻng báo thức, chúng
tôi xuống suối đánh răng rửa mặt, làm vệ sinh cá nhân rồi tập thể dục theo
Trung đội. Sau đó xuống nhà ăn ăn sáng, chủ yếu là bánh đúc ngô hoặc bột mì
luộc, rồi ra thao trường tập luyện. Đến 11h về nghỉ ăn trưa, cơm độn ngô với bí
đỏ xào, hoặc măng nứa xào, hoặc rau muống luộc, thỉnh thoảng mới có chút thịt.
Có một tiểu đội “chị nuôi” ở khu nhà bếp gồm các cô gái 18-20 tuổi, thỉnh
thoảng thấy mấy vị cán bộ Đại đội, Trung đội xuống tán tỉnh. Buổi chiều lại
tiếp tục ra thao trường. Sau bữa tối toàn đại đội tập hợp, sinh hoạt tập thể
như nghe đọc báo, văn nghệ cây nhà lá vườn hoặc nghe một vài cá nhân kể chuyện
bản thân. 21h kẻng tắt đèn đi ngủ. Các tiểu đội đều có lịch gác đêm. Mỗi lần
đến lượt tôi đều chọn một khẩu K63 gắn lưỡi lê, vừa gác vừa tập mấy bài cận
chiến bằng lưỡi lê và báng súng. Các bài huấn luyện cứ phức tạp dần, từ xếp đội
hình đội ngũ, lăn lê bò toài, kỹ thuật xạ kích, ném lựu đạn, đánh bộc phá..
.đến kỹ thuật ngụy trang, chiến thuật Tiểu đội, Trung đội giữ chốt.. .Tóm lại
là ngày nào cũng mệt nhoài, nhưng tinh thần chúng tôi rất hăng hái. Có những
hôm trên đường đi tập về, nghe mấy cậu lính gốc gia đình buôn bán thất thểu vừa
đi vừa rên rỉ mấy câu nhạc vàng: “Ngày mai anh đi/ Lòng xao xuyến xa nơi Hà
thành/ Đời lính chiến không mong ngày về/ Héo mòn cả tuổi xanh.” hoặc “Mai mốt
anh trở về/ Anh kéo lê chân què/ Cuộc đời anh sẽ bò lê/ Cuộc đời anh sẽ bò lê.”
là chúng tôi phản ứng dữ dội. Khi nghe một cậu hát “Yêu anh không phải vì đẹp
trai, không phải vì sang giầu, mà cùng chung chí hướng.” tôi quặc luôn: “Chí
hướng gì? Chí hướng Bắc tiến diệt Cộng hả?” làm cậu ta tịt ngóm. Đặc biệt là
mỗi tuần có hai buổi tập hành quân mang vác nặng. Anh nào cũng phải lèn gạch đá
vào ba-lô cho đủ 30kg, mang súng và tất cả trang bị trên người. Quãng đường
hành quân càng ngày càng dài, lên núi xuống đèo, băng qua đồng ruộng, sông
suối.Nhiều cậu mồ hôi ra như tắm, tôi thì lại không ra mồ hôi mấy. Buổi trưa
trời nắng chang chang, khát khô cổ, chúng tôi vục cả nước ruộng để uống, mà
không thấy đau bụng gì. Tuy nhiên tôi có cậu bạn nhà ở số 10 Đoàn Trần Nghiệp,
một hôm vì quá khát nên uống nước ở một mương nhỏ. Sau đó bị đau bụng khủng
khiếp, kêu khóc vật vã, mắt vàng da vàng, phải đưa đi Trạm xá cấp cứu, nghe nói
bị xoắn trùng. Có những buổi tập hành quân đêm trời tối đen như mực, người đi
sau phải bám vai người đi trước, thế mà vẫn có cậu thụt xuống hố nước. Dần dần
những địa danh Dốc Cun, Suối Mon, Bãi Nai... trở thành rất quen thuộc.
Ở Bãi Nai được khoảng ba tuần thì một buổi sáng chủ
nhật gia đình tôi, gồm bà nội, mẹ tôi và hai em Hà, Hiển lên thăm. Tôi được
Trực ban Đại đội gọi ra Trạm đón tiếp cách doanh trại khoảng 200m để gặp gia
đình. Tới nơi đã thấy nhiều người lố nhố, mỗi chỗ có một anh lính mới với người
nhà ngồi vây quanh, chuyện trò rôm rả. Gặp lại tôi cả nhà mừng rỡ, đặc biệt là
bà nội và mẹ tôi, những người có tình thương con cháu vô biên, gần như mù
quáng. Những anh lính mới như tôi được gia đình mang đủ thứ lên tiếp tế, nào là
xôi chả, thịt gà, thịt lợn, ruốc thịt, bánh dày, bánh giò. thứ ép ăn tại chỗ,
thứ cho vào bao để cất ăn dần. Mẹ tôi kể chuyến này cùng đi còn có mẹ Chí Thành
và mẹ Phổ Thọ. Phổ Thọ gốc Miền Nam tập kết, mẹ Phổ Thọ là Bác sĩ Bệnh viện
Việt Xô, thương con thì thôi rồi. Bà mang đòn gánh trên vai, một đầu treo hai
cái bánh tét, đầu kia treo một con vịt, tính lên đến nơi sẽ làm thịt cho thằng
Hai (Phổ Thọ) ăn. Ai ngờ khi lội qua Suối Mon, nước lên đến bụng, bà bị trượt
ngã, con vịt bơi theo dòng nước đi mất. Nói chung tôi biết các gia đình đều
phải tằn tiện chắt bóp để tiếp tế cho chúng tôi, vì tiêu chuẩn thực phẩm tem
phiếu thời chiến chẳng dư dả gì. Ngồi bên cạnh gia đình tôi là gia đình Mai Quý
Cường, bạn cùng khu tập thể Nguyễn Công Trứ. Mẹ bạn ấy làm ở Quầy đổi bánh mì
(thuộc ngành lương thực - đổi bánh mì thu tem gạo) nên tôi rất quen mặt. Cường
có cô người yêu mũm mĩm, nghe nói là nhân viên bán hàng ở phố Huế, đang ngồi
đút cho Cường ăn từng miếng xôi chả rất tình tứ. Tôi tranh thủ đưa em Hiển, em
út của gia đình, vào thăm chỗ chúng tôi ăn ở. Hiển hồi đó 11 tuổi, có khuôn mặt
bầu bĩnh, được tôi khoác khẩu AK vào cổ, đi đi lại lại, lấy làm khoái chí lắm.
Sau khi tiễn gia đình về, trên đường trở vào doanh trại, tôi đi cạnh Hoàng Hữu
Hạnh. Mỗi đứa đều ôm một bọc tiếp tế trước bụng, tôi nhìn sang thấy Hạnh đang
ngân ngấn nước mắt (Sau này Hạnh hy sinh ở chốt Làng 8, Thanh hội)...
Những tối thứ bảy,
chủ nhật, thường được nghỉ sinh hoạt, chúng tôi hay ra bản người Mường gần đó
chơi. Nhiều cậu có tiền thì trèo lên những ngôi nhà sàn, mua rượu sắn ngồi
uống, hoặc tán tỉnh trêu đùa các cô gái Mường. Người Mường rất hiền lành, thật
thà, các cô gái hay mặc váy đen, áo trắng dài tay nhưng vạt ngắn cũn cỡn. Khi
bị chúng tôi buông lời trêu ghẹo “Ủn ơi, ché Ủn có to không?” (Em ơi, l. em có
to không?) là các cô thẹn đỏ mặt bỏ chạy hết. Nhiều cậu khác hoặc không có
tiền, hoặc không muốn ra ngoài chơi, thì túm tụm đánh bài Tiến lên. Có hôm, tôi
cũng ngồi đánh bài cho vui, lúc tàn cuộc, quờ chân xuống giường tìm dép, thì
đôi dép đúc Trung quốc được cấp phát đã không cánh mà bay. Chắc bị thằng nào ăn
cắp đi đổi rượu uống rồi. Báo hại tôi phải báo về gia đình, nhờ ra Chợ Giời (1)
mua cho đôi khác gửi lên. Tôi có thói quen ngày nào cũng viết nhật ký, rồi đem
cái kèn Harmonica thổi những bài tôi yêuthích. Người bạn nằm cạnh tôi cũng hay viết
nhật ký, nhưng bằng tiếng Nga. Đó là anh Toàn già, người thấp bé, hơn chúng tôi
chừng dăm tuổi, để ria mép, khuôn mặt lúc nào cũng rầu rĩ. Anh kể anh đã đi học
nghề ở Nga ba năm về, giờ lại bị bắt đi lính, nên rất bất mãn. Anh thường cáo
bệnh nằm nhà, không đi tập luyện. Hình như về sau anh được loại ngũ, đúng như
mong muốn.
(1) Chợ Giời (Trời), hay còn có tên là Chợ Hòa
Bình, một chợ rất nổi tiếng ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, họp ngoài trời từ năm
1954 ở các phố Thịnh Yên, Chùa Vua, Lê Gia Định, Trần Cao Vân, Nguyễn Công Trứ,
Yên Bái 2, Đỗ Ngọc Du. Chợ Giời nổi tiếng vì có bán đủ mọi thứ trên đời, kể cả
hàng đặc dụng, hàng cấm (BT).
Từ hồi còn đi học tôi đã luôn nghiêm chỉnh gương
mẫu trong mọi việc. Mười năm liền là lớp trưởng, luôn đứng đầu lớp, nhiều lần
đoạt giải trong các cuộc thi học sinh giỏi, làm Đội trưởng Đội Cờ đỏ của
trường... Tôi thường tâm niệm: đã là học sinh phải học thật giỏi, là công nhân
phải sản xuất tốt, là người lính phải chiến đấu dũng cảm. Tuy nhiên cái nhìn và
cách hành xử thẳng băng như vậy trong cuộc đời thường gặp phải nhiều chống đối,
đặc biệt từ phía những kẻ xuất thân buôn bán, thành phần bất hảo, lưu manh
đường phố, vì nhiều đứa như vậy cũng được gọi nhập ngũ đợt này.
Chúng cho tôi là một tên “Bôn sệt”, và
nhiều khi tỏ ra khó chịu, khi bị tôi với tư cách A phó nhắc nhở chấp hành
nghiêm kỷ luật. Thậm chí có tên còn dọa sẽ “trùm chăn đánh hội đồng” tôi. Nhưng
sau lưng tôi luôn có nhiều người bạn chí cốt ủng hộ, đặc biệt là anh Long “cồ”.
Anh người to cao như gấu, khuôn mặt bèn bẹt có cái mũi sư tử trông rất ngầu.
Anh thường rủ tôi lên đồi tập võ Tàu, và lớn tiếng tuyên bố: “Tao với thằng
Vinh là anh em kết nghĩa, đứa nào đụng đến nó nghĩa là đụng đến tao, tao sẽ cho
ăn quết trầu bét nhè”. Thế là chả đứa nào dám đụng đến tôi cả. Tôi cũng rút ra
được phương châm hành xử trong đời lính, là luôn phải “Khôn ngoan đứng đắn/
Thân mật tươi cười/ Nắm được lòng người/ Kịp thời cương quyết”.
Anh bạn Chí Thành của tôi ở A5 cùng nhiều bạn học
sinh khác cũng phải chịu cảnh tương tự. Anh bị mấy tên bất hảo ở A5 đe dọa, ton
hót nhiều chuyện bịa đặt với A trưởng để cô lập anh. Anh rất buồn và thường gặp
tôi để tâm sự. Tình hình A6 cũng chẳng khá hơn. Tôi vẫn nhớ cậu Khánh ở Vân Hồ,
người thư sinh mảnh dẻ, có khuôn mặt như con gái, bị lão Lân A trưởng A6 rất
ghét, hay kiếm cớ chửi mắng, nhiều hôm bị lão phạt quỳ ở ngoài sân. A6 còn có
cậu Lâm Thành, thuộc loại thấp bé nhẹ cân, nhưng lại hay bị sai đi khiêng thực
phẩm.
Hòa Bình là tỉnh nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam của Thủ
đô, nên thỉnh thoảng thấy máy bay Mỹ đi tập kích Hà Nội bay qua. Có những hôm
thấy những sợi giấy bạc lấp lánh mỏng manh bay trắng trời, rơi phủ đầy cây cối
và mặt đất, về sau tôi mới biết đó là do máy bay Mỹ thả nhiễu thụ động để chống
Ra-đa phòng không.
Tình hình chiến sự ở Miền Nam ngày càng
căng thẳng. Ngày 01-05-1972 báo đài đồng loạt đưa tin giải phóng hoàn toàn tỉnh
Quảng Trị, nhưng sau đó phía đối phương liên tục phản kích trên các mặt trận.
Nhu cầu bổ sung sức người sức của cho tiền phương là rất lớn.
Chúng tôi đã bắt đầu bước vào giai đoạn huấn luyện
nước rút, gồm bắn đạn thật, ném lựu đạn thật, đánh bộc phá thật. Những buổi học
về kỹ thuật xạ kích ở hội trường do Đại đội trưởng Mạnh lên lớp rất tẻ nhạt.
Trung úy Mạnh gốc người dân tộc Tày thì phải, trình độ văn hóa không cao, nên
nói năng có phần lúng túng. Tôi nhớ mãi câu “từ từ lổ cò, từ từ lổ cò” của anh
khi hướng dẫn bắn súng. Ngược lại, anh Hồng, Chính trị viên đại đội, ăn nói rất
lưu loát. Các buổi học tập chính trị, anh hăng say diễn thuyết, nhiều lúc mắt
long lanh. Tôi rất quý anh Xuyên, Chính trị viên phó, người thấp nhỏ tính tình
điềm đạm. Tôi hay có dip làm việc với anh, vì tôi được anh em tín nhiệm bầu làm
Phó Chủ tịch Hội đồng quân nhân đại đội, còn anh là Chủ tịch, chuyên lo chuyện
ăn ở, kiểm tra vệ sinh trong đơn vị.
Một hôm chúng tôi
tiến hành tập đánh bộc phá thật. Mỗi người được phát 200g chất nổ dẻo, buộc hai
khúc cây thành hình chữ thập có cán dài. Sau khi gắn gói thuốc nổ vào giữa chữ
thập, chúng tôi cầm cán dài chạy lom khom tới áp nó vào tường lô-cốt, cạnh lỗ
châu mai, giật dây cháy chậm, rồi bò trở lại nơi ẩn nấp. Một tiếng nổ chát chúa
vang lên, cây chữ thập gỗ bay ngược trở lại đập bốp vào đầu anh Bính B trưởng
B2, may mà anh đội chiếc mũ cối Tàu nên không bị sao cả. Anh Bính rất đô con,
mặt lúc nào cũng nghền nghệt, quê một cục, nên bị anh em gọi là Bính “tẩm”.
Ngược lại với anh Đạm B phó, 20 tuổi, người nhỏ bé, ăn nói lí nhí như trẻ con.
Dạo này các B đã hoàn thiện tổ chức, có đầy đủ B trưởng B phó mới bổ sung về.
Ví dụ B1 trước kia chỉ có anh Nghĩa phụ trách, nay đã có anh Trọng về làm B
trưởng, biệt danh là Trọng “say rượu”. Hồi hộp nhất là hôm ném lựu đạn thật.
Quả lựu đạn chày dài khoảng 30 cm, đầu hình trụ bằng gang, chuôi gỗ. Tôi tay
phải nắm chuôi, tay trái vặn bỏ nắp bảo vệ, móc ngón tay trỏ vào vòng dây cháy
chậm giật “bép” 1 cái, rồi vung tay ngả người lấy đà ném quả lựu đạn về phía
trước. Đã có cậu vì quá hồi hộp đánh rơi lựu đạn về phía sau, làm anh em đồng
đội hoảng loạn chúi nhủi vào các hố đào. May mà anh A trưởng nhanh tay chộp
được ném ra xa, không thì đại họa. Thấm thoát đã đến ngày bắn đạn thật. Mỗi
người được phát 7 viên đạn AK, và sẽ nằm bắn 3 viên vào bia cố định tính điểm
(bắn phát một). Sau đó làm động tác quỳ bắn liên thanh điểm xạ 2 viên vào bia
xuất hiện bất ngờ, rồi tiến lên bắn điểm xạ nốt 2 viên vào bia dưới chiến hào.
Nếu ai bắn 3 viên đạt 27 điểm, bắn điểm xạ trúng cả 2 bia còn lại thì được
thưởng 3 ngày phép về thăm nhà, nên cậu nào cũng háo hức. Tuy nhiên kết quả
phần lớn không được như ý. Sau khi tôi bắn xong, người báo bia báo phát đầu
được 10 điểm, phát thứ 2 được 7 điểm, làm anh Hồng - Chính trị viên đứng sau vỗ
mạnh vào vai tôi nói: “Khéo thằng Vinh được về Hà Nội rồi”, nhưng phát thứ 3
lại tìm chim, làm cả lũ tiu nghỉu. Như vậy về cơ bản chúng tôi đã hoàn thành
tất cả các hạng mục huấn luyện.
Nguyễn Quang Vinh
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Về Phép
Một ngày giữa tháng 7-1972 chúng tôi được lệnh hành
quân.
Về mặt tổ chức cũng có một số thay đổi.
Các A trưởng được giữ lại để huấn luyện đợt lính khác. Các A phó như tôi được
đôn lên làm A trưởng. A tôi nhận thêm một số cậu từ A khác đến như Ngô Duy Minh
(từ A5 về làm A phó của tôi), Lâm Thành, Chính “con” từ A6...tổng cộng là 9 người.
Hôm rời doanh trại, tôi tặng A trưởng Ninh chiếc kèn Harmonica của mình, mặc dù
trong lòng hơi tiếc.
Chúng tôi hành quân qua suối Mon ra Bãi Nai, rồi
theo quốc lộ 6 hướng về Hà Nội. Đi được một đoạn thì thấy lố nhố nhiều người
dân từ các làng gần quốc lộ kéo ra. Đó là những người dân Hà Nội lên đây sơ
tán, ra tìm mong gặp lại người thân của mình. Cậu Lâm A6 nhà ở Chợ Giời, chợt
nhận ra mẹ mình cùng các em đang đứng bên đường. Mẹ con gặp nhau mừng mừng tủi
tủi, bác Hồng (mẹ Lâm) cố chạy theo dúi vào tay chúng tôi mỗi đứa một củ sắn
lùi, rồi đứng lại nước mắt lưng tròng nhìn đoàn quân đang xa dần.
Vì hành quân mang nặng nên nhiều cậu bị tụt hậu. Cứ
tưởng đi đường nhựa là sướng, nhưng không phải vậy. Đường nhựa rất cứng, bàn
chân đi cọ miết vào dép lốp, làm phỏng rộp lên từng đám, bỏng rát. A tôi có hai
cậu yếu nhất là Lâm Thành và Chính “con”, gần như lê đi không nổi. Đặc biệt là
Chính con, thuộc loại thấp bé nhẹ cân, gầy gò ốm yếu, cõng chiếc ba-lô to
tướng, bị tụt lại khá xa. Trong khi đó các B trưởng luôn đốc thúc các A trưởng
giữ vững đội hình. Cực chẳng đã tôi đành chạy xuống mang hộ ba-lô cho Chính
con. Ba-lô của tôi đeo sau lưng, ba-lô của Chính con tôi đeo trước ngực, để
Chính con đi không. Nhưng sức người có hạn, tôi cũng đâu có béo tốt gì, nên đến
chiều tối thì tôi gần như bị xỉu vì quá sức. Cũng may có lệnh ban ra cho bộ đội
tản vào các nhà dân ở một làng ven đường nghỉ qua đêm. Anh em dìu tôi vào đến
cái phản giữa nhà là tôi ngã vật ra, không còn biết trời đất gì nữa.
Ngày hôm sau chúng tôi lại tiếp tục
hành quân, đến khoảng 3h chiều thì tới làng Đại Mỗ, Từ Liêm. Mỗi tiểu đội đươc
phân vào một nhà. Sau khi nghe phổ biến lệnh cho về phép 7 ngày, chúng tôi mừng
rơn, từng toán lục tục kéo nhau ra đường, chặn các xe tải xin đi nhờ về Hà Nội.
Mấy ngày phép, tôi tranh thủ chụp rất nhiều ảnh.
Lúc thì chụp chân dung súng sính trong bộ quân phục mới, lúc thì chụp kỷ niệm
cùng gia đình, lúc thì chụp bên nhà Chí Thành. Nhiều đồng đội rủ tôi đi bát phố
hoặc về chơi nhà họ. Tôi đã đến chơi nhà anh Long cồ ở Bà Triệu, cùng anh đi ăn
kem Bốn Mùa và uống cà phê Quán Gió. Đến nhà Thành “Ma tịt” ở Bạch Mai ăn cơm.
Bà mẹ Thành buôn bán ở Chợ Mơ, luôn tay gắp thức ăn cho hai đứa, mắt ngấn lệ,
đeo vào tay Thành một chiếc nhẫn vàng, dặn nếu bị lạc trong rừng thì tháo ra mà
đổi cho người dân tộc lấy thức ăn. Tôi đã đến nhà Ngô Duy Minh ở 75 Mai Hắc Đế
và nhà Chính con ở P18 Hoàng Hoa Thám. Cũng ở phố Hoàng Hoa Thám này, trước đó
hai ngày mẹ tôi đã đưa tôi lên thăm nhà cô Hồng Minh, người cùng làm với mẹ tôi
ở Sở Xây dựng. Cô Hồng Minh có hai con gái rất xinh, Hồng Liên 17 tuổi và Hồng
Vân 15 tuổi, chắc mẹ tôi có ý nhắm nhe gì đó. Cô chị có nước da đậm đà chào hỏi
tôi rất niềm nở. Cô em nhỏ hơn nhìn tôi cười bẽn lẽn. Nhưng trái tim tôi hồi đó
đã bị choáng ngợp bởi hình ảnh một người con gái 16 tuổi học cùng trường, dưới
tôi một lớp. Lần đầu nhìn thấy T. H., tên người con gái đó, trong một buổi lao
động ngoại khóa, tôi đã bị tiếng sét ái tình đánh gục. Khuôn mặt trái xoan
trắng hồng, đôi mắt trong veo và đôi môi đỏ thắm, làm tôi sững sờ không nói nên
lời, mặc dù tôi là người phụ trách phân công lao động. Về sau dò hỏi được biết
T. H. ở cùng khu tập thể với tôi, tôi đã mấy lần làm như tình cờ đi qua gặp em,
nhưng không dám tỏ tình. Lần này vì không còn nhiều thời gian, tôi lấy hết can
đảm đến thẳng nhà em. Em ra mở cửa và rất ngạc nhiên nhìn tôi trong bộ quân
phục mới, rồi mời tôi vào nhà uống nước. Tôi nói: “Anh sắp đi B rồi. Chúc em ở
nhà khỏe vui và nhiều hạnh phúc”. Em cũng ấp úng chúc tôi lên đường mạnh khỏe,
nhiều may mắn. Thế rồi chúng tôi chia tay nhau không một lời hẹn ước. Khi về
đến nhà thì đã thấy một số bạn gái lớp tôi ngồi đợi sẵn:
An, Xuân Mai, Thu Mai, Nga, Giang, Liên.. .bạn thì
tặng tôi túi bàn chải đánh răng, bạn thì tặng khăn mu-soa, sổ lưu niệm.. .Tôi
biết bạn Chí Thành thích Xuân Mai lắm, nhưng cũng chưa dám ngỏ lời. Tất cả các
bạn đều chúc chúng tôi lên đường may mắn.
Ngày trả phép, bố tôi mượn chiếc xe com-măng-ca chở
cả nhà vào Đại Mỗ. Ngồi trong xe, tôi lơ đãng nhìn cảnh vật trôi vùn vụt, nhíu
mày khi thoáng thấy những hố bom kếch sù và những khu nhà đổ nát. Ngồi bên
cạnh, bà nội, mẹ tôi cùng bác Quýt vẫn thủ thỉ dặn dò tôi đủ mọi thứ. Bố tôi
ngồi đằng trước thỉnh thoảng mới ngoảnh lại góp chuyện. Sau một hồi lạc loanh
quanh, cuối cùng chúng tôi cũng tìm tới nơi tập kết. Tôi và anh Vân “số 6”
xuống xe đi bộ vào làng. Cả nhà đứng trên đường tàu nhìn theo mãi.
Vào tới nhà bác nông dân mà A4 của tôi đóng quân,
tôi thấy vẫn còn thiếu mấy cậu nữa: Đường “cóc”, Phái “con”, Đệ “người Mỹ”. Mãi
đến hai hôm sau các cậu ấy mò lên. Đến tối gặp anh Bính B trưởng, tôi cũng chỉ
bị phê bình qua loa vì chậm phép 3 ngày. Ấn tượng của mấy ngày phép vẫn choán
phần lớn tâm trí chúng tôi. Tôi và Ngô Duy Minh kể cho nhau nghe những cuộc gặp
gỡ vừa qua, đặc biệt là của Duy Minh với hai bạn gái Hòa và Dư Loan.
Chí Thành đã lên từ mấy hôm trước, nói
với tôi là mẹ Chí Thành và bạn Quốc Hùng sắp lên thăm. Chúng tôi đi lĩnh quân
trang mới: một bộ quân phục vải Tô Châu, xanh-tuya, bi-đông có ca, túi bơi. rồi
đi lấy gạo, nhận vũ khí. Nhìn những khấu AK kiểu mới (sản xuất năm 1971) sao
tôi thích thế: sơn xì đen bóng, thơm phức, đầu nòng trông như bị mẻ, không 1 tý
mỡ dầu. Riêng khoản dao găm và lưỡi lê thì ban chỉ huy vẫn đình lại, chưa muốn
phân phát.
Một số cậu thấy chưa lên đường, lại lẻn
về nhà chơi thêm vài hôm. Thành “ma tịt” và Quang “xỉu” ở A tôi cũng vậy. Kể mà
diện bộ đồ đi B vào cùng các thứ trang bị rồi về Hà Nội vênh váo thì cũng hay.
Tôi đã định về, nhưng nghĩ như thế còn ra thể thống gì nữa nên thôi.
Mẹ tôi lên chơi, nấu miến thịt và mang giò lụa cho
tôi ăn, để phần cho cả Duy Minh, Đường cóc, Quang, Duy Minh hình như được cử đi
học A trưởng, cậu ta được gọi lên gặp Tiểu đoàn. Tôi lo quá, mất Duy Minh thì A
tôi gay. Một hồi sau Minh về kể cho tôi nghe: Tiểu đoàn định giữ Minh lại ngoài
Bắc làm liên lạc, hoặc sẽ cử đi học A trưởng (gia đình Duy Minh là cán bộ thuộc
loại có cỡ). Nhưng Minh kiên quyết từ chối, một mực xin đi chiến đấu và được
toại nguyện. Cũng như tôi, Minh nghĩ: đã là học sinh thì phải cố học, đã là bộ
đội thì phải đi chiến đấu, và rất ngại đi học A trưởng. Nghe xong, tuy không
nói ra nhưng tôi rất mừng.
Bố mẹ tôi, mẹ Chí Thành và bạn Quốc Hùng lên thăm
chúng tôi. Quốc Hùng và bố tôi chăm chú xem những đồ trang bị. Tất cả đều hiện
đại, mới cứng, thơm phức: từ khẩu súng, bao đạn, đến mặt nạ, túi bơi... Đúng là
chúng tôi được trang bị đến tận răng. Tôi nói đùa: “12 nước nuôi một nước đánh
giặc mà lại”. Bố tôi bận nên phải về sớm, sau khi đã dặn dò tôi lần cuối. Được
biết chiều nay chúng tôi lên đường, mẹ tôi quyết định ở lại cho đến khi chúng
tôi đi. Công tác chuẩn bị thật gấp rút: phát dao găm, lưỡi lê, bật lửa và đá
lửa. cho từng cá nhân. Tôi sang chỗ Chí Thành, mẹ bạn ấy cũng đang dặn dò cậu
ta, bác nói với tôi cố gắng gần gụi Chí Thành để anh em giúp đỡ lẫn nhau khi có
hoạn nạn.
Nguyễn Quang Vinh
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Trên Đường Đi B
(1)
Chiều một ngày trung tuần tháng 8 chúng tôi lên
đường. Đúng 13 giờ. Lúc sắp xuất phát có một việc lôi thôi nhỏ: A4 được phân
công mang thùng đạn, tôi đưa cho Tỵ vì cậu ta không có súng, nhưng cậu ta không
chịu.
Anh Bính phải quát tháo một hồi mới ổn.
Mẹ tôi còn đứng nhìn theo chúng tôi đi mãi.
Chúng tôi tập trung toàn Tiểu đoàn, nghe Thượng tá
Ngô Ngọc Dương nói chuyện, rồi đại biểu nhân dân thành phố tiễn đưa. Lệnh hành
quân phát ra. Đoàn quân lỉnh kỉnh vũ khí, trang bị lên đường, nom như một con
rắn xanh khổng lồ bò qua những con mương, bờ ruộng... Chúng tôi đi xuyên qua
các làng mạc để xuống ga Thường Tín. Một em bé gái sơ tán đứng bên đường, chợt
nhìn thấy tôi, em hỏi: “Anh Vinh ơi, anh Bình em đâu?”. Tôi đang nghĩ đến Lê
Thanh Bình (bạn cùng lớp 10B) nên bảo em chạy lên phía trước. Tôi cũng không
hiểu tại sao em biết tôi, và em hỏi Thanh Bình hay Xuân Bình (10C, đang đi phía
sau). Tôi nhìn em chạy mà thương quá. Cứ đinh ninh là sẽ đi qua làng Nhị Khê,
nơi chúng tôi sơ tán một dạo, tôi rất ngạc nhiên khi thấy ga Thường Tín đã ở
trước mặt.
Có lệnh nghỉ giải lao. Người nhà của anh em đi theo
đoàn quân đông quá, ngồi rải rác suốt cạnh đường. Tôi rút dao găm ra mài cho
sáng, Lâm A6 thấy vậy cũng làm theo. Các thứ trên người thật lỉnh kỉnh:
xanh-tuya đeo Bi-đông, mặt nạ, bao đạn, dao găm, lưỡi lê.. .nặng trĩu, vậy mà
bọn tôi cảm thấy oai. Lính mới có khác. Bảy giờ tối, chúng tôi vào ga Thường
Tín lên tàu. Thiếu tá E trưởng huấn luyện Lê Thành Nhân bắt tay từng người:
“Các em đi khỏe nhé”. Tàu chuyển bánh, Thành “ma tịt” và Phái “con” khóc, tôi
cũng rơm rớm: “Không biết bao giờ mình mới trở lại Thủ đô?”.
Màn đêm đã buông xuống từ lâu. Trong
toa tầu chẳng có đèn đóm gì cả. Chúng tôi giở cơm nắm ra ăn với thịt kho. Trước
lúc xuất phát, thấy chúng tôi bận chuẩn bị, mẹ tôi đã kho thịt giúp và nắm cho
mỗi người một nắm cơm. Những tình cảm chia ly lưu luyến vẫn còn tràn ngập tâm
hồn chúng tôi. Khát nước quá. Mấy cậu uống nước ở vòi nước trong toa, lại múc
cả vào bi-đông nữa. Hôm sau trời sáng mới biết nước ấy rất bẩn, cặn đỏ lòm. C
bộ thông báo có bán bia và nước chanh, nhưng đến khi tôi lên mua thì chỉ còn nước
chanh. Tới 12 giờ đêm thì tàu phải tăng-bo. Chúng tôi xuống tàu đi bộ. Quãng
đường nhựa có nhiều hố nhỏ và đá lổn nhổn, chắc là vết bom bi. Đi qua một thị
trấn nào đó của Nam Hà (1) Nhiều ngôi nhà hai tầng đổ sập, các cửa sổ như những
con mắt đen ngòm, đờ dại. Chúng tôi vượt qua một cái cầu, tới nhà ga mới và lại
lên tàu đi tiếp. Đoàn tàu này tồi tàn hơn đoàn tàu ban nãy. Tôi cố ngủ mà không
được. Thò cổ ra cửa sổ, từng cơn gió lạnh hất tóc bay ra phía sau, thoảng trong
gió có những giọt nước phả ra từ đầu tàu. Trăng vàng đục khi ẩn khi hiện sau
lớp mây mù. Khoảng 3 giờ rưỡi sáng chúng tôi xuống tầu: đường tàu đến đây là
hết.
(1) Tỉnh Nam Hà thành lập ngày 21 tháng 4 năm 1965
trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Hà Nam và Nam Định. Ngày 27 tháng 12 năm 1975 nhập
thêm Ninh Bình thành Hà Nam Ninh. Nay lại chia ra ba tỉnh như cũ (BT).
Mắt cứ ríu lại. Bước chân khấp khểnh
trên con đường đất hai bên trồng cây phi lao. Cái hòm đạn thật sự vướng víu cho
tiểu đội, vì không ai muốn khiêng cả. cuối cùng chúng tôi phân công từng đôi
khiêng đạn theo giờ. Vào tới làng, tất cả mệt phờ. Tôi nhận chỗ ở của A, phân
công nhà cho các tổ, rồi về ở cùng với tổ 2. Gia đình bác chủ rất tốt, nhường
cho 4 chúng tôi cái giường to, phủ màn trắng, còn ấm hơi người. Mới đầu chúng
tôi cũng thấy ngại, nhưng rồi mệt quá, đành chui vào đánh một giấc quên chết.
Tôi dậy đầu tiên, trời sáng đã lâu. Anh
Đạm B phó gọi các A đi lĩnh thực phẩm. Tôi sang gọi Duy Minh mang quang gánh
cùng đi lĩnh với tôi. Xe ô-tô của binh trạm chở tới gạo, thịt, bí, miến... để
phân phát. Tôi gặp Phổ Thọ, hai đứa nói chuyện, tôi mua bánh tai voi mời nhưng
Thọ không ăn.
A phó Duy Minh đảm nhiệm việc chia thực phẩm cho
các tổ. Tôi lấy giấy bút viết bức thư đầu tiên về nhà. Buổi trưa còn thừa ít
gạo hôm trước, Minh đem bán để mua miến chiều nấu với thịt. Anh Bính tập hợp B,
sau một hồi kiểm điểm, tới mục đề nghị, tôi xin phát biểu về vấn đề mang đạn.
Thùng đạn 12kg, như vậy A tôi phải mang nặng hơn các A khác nhiều (mỗi A khác
chỉ phải mang một khẩu B40). Vì A tôi có nhiều người nhỏ yếu, tôi đề nghị mỗi A
thay phiên nhau mang đạn một ngày. Anh Bính không tán thành. Tôi bèn phân công
luôn cho Phái “con”, Đường “cóc” khiêng thùng đạn, nhưng hai cậu này không
chịu. Kết quả, buổi chiều khi chúng tôi đi, hòm đạn vẫn nằm trỏng trơ ở góc sân.
Ra đến chỗ tập hợp Đại đội, anh Đạm mới lễ mễ bê đạn chạy theo. Rốt cục anh
Bính và C bộ phải đồng ý mỗi A vác đạn một ngày, nếu đi bộ thì mỗi A vác 3
tiếng thay phiên.
Từ 4 giờ chiều chúng tôi bắt đầu hành
quân bộ. Trời xám xịt. Tôi cảm thấy khoảng cách ra đường cái rất gần, mà đêm
qua sao nó xa thế.
Trên đường đi, Chính con và Đường cóc hay đùa
nghịch, có khi chạy ra khỏi hàng quân, đuổi nhau rơi cả xuống hố. Tỵ đi cạnh
tôi, luôn mồm kể chuyện tiếu lâm. Tới nửa đêm thì tới một bến phà. Ngồi đợi phà
mà bụng ai cũng lo vì phà này hay bị đánh phá. Chắc đây thuộc địa phận Ninh
Bình hay Thanh Hóa rồi. Xe, người lộn xộn xuống bến. Anh Mạnh C trưởng có lúc
phải rút súng ngắn để ngăn xe lại cho lính của mình lên phà. Sàn phà có nhiều
lỗ thủng, thấy nói là vết đạn. Đông quá, đứng chen chúc, tôi cố gắng hết sức để
tập trung tiểu đội vào một chỗ. Ca-nô dìu phà từ từ qua sông. Ánh đèn gầm của
xe trên bến cũ le lói, xa dần. Thấy mờ mờ mấy khung sắt của cây cầu gãy nhịp.
Bóng đen của quả núi trước mặt như muốn đổ sập lên vai, gây cho mọi người cảm
giác rờn rợn. Từ phà lên bờ thật nhốn nháo. Tiếng ai đó hô vận động nhanh, vì
đây là khu trọng điểm đánh phá, lại trống trải. Tất cả cắm đầu chạy, không còn
biết đâu là B, là C mình nữa. Cái xoong của cậu nào đó gõ cành cạch liên hồi.
Thỉnh thoảng tôi lại gọi Duy Minh, người chạy cuối cùng của tiểu đội, Minh vẫn
trả lời đều đặn. Chúng tôi dần dần giảm tốc độ, rồi gặp anh Bính. Sau khi tập
hợp được đơn vị, tất cả được lệnh nghỉ giải lao. Chúng tôi nằm ngả ngốn hai bên
đường nhựa, thậm chí nằm cả trên mặt đường, xe ô-tô đến rất gần mới thèm bò
dậy. Mặc dù có lệnh cấm hút thuốc lá, khắp nơi vẫn lập lòe đốm đỏ. Sau đó lại
đi tiếp, đến 3 giờ sáng mới tới làng trú quân. Chúng tôi lăn ra ngủ li bì.
Có lệnh cử người đi lĩnh thêm quân trang:
Tăng, ni-lông và võng bạt, tất cả đều mới cứng, hàng của Trung Quốc. Chúng tôi
ở lại làng này nghỉ một ngày. Hôm sau anh Bính cử tôi ra gác ở cổng làng, không
cho lính đi ra chợ. Lúc về thấy trong nhà có bác bố của Lâm Thành đến thăm,
đang nói chuyện. Bác là Trung tá, Phó Chính ủy một trường quân đội nào đó. Bọn
tôi trước đây vẫn nghĩ rằng chắc Lâm Thành không phải đi B, ai ngờ cậu ta vẫn
đi. Bác đã đạp xe đuổi theo con tới tận đây mới gặp. Bác xem những khẩu AK kiểu
mới, nói rằng quân ngụy gọi AK là trung liên cá nhân. Rồi bác bảo Lâm Thành
mang ba-lô ra, tự tay sắp xếp lại cho gọn, lại còn nhờ anh em chú ý giúp đỡ, vì
cậu ta rất luộm thuộm.
Buổi tối chúng tôi ra xe. Cậu nào cũng tranh ngồi
gần cabin. Tôi lên trước sắp xếp ba-lô, ưu tiên cho các cậu mang nồi. Phái
“con” và Thành “ma-tịt” thường trèo ngang thùng vào xe để chiếm chỗ. Cả trung
đội hơn 40 người nhồi vào một thùng xe tải nên chật chội quá. Tới 10 giờ đêm
thì phải xuống đi bộ để chuyển sang xe khác. Được nghỉ ngơi một lúc, tất cả giở
cơm nắm ra ăn. Sau đó lại cuốc bộ trên con đường đất đỏ bùn loãng ngập đến mắt
cá chân. Đến khi có xe, lính ta cứ chân cẳng bết bùn leo lên thùng, ngồi bệt
xuống ba lô. Xe phóng nhanh kinh khủng, lại xóc nữa, nhiều lúc phải gào vào
ca-bin bảo đi chậm lại. Cậu Quý “tiết” A trưởng A5 ngồi cạnh ngủ gật, thỉnh
thoảng lại đè cả thân hình hộ pháp của hắn vào tôi, làm tôi nhiều lúc nghẹt
thở. Vốn không ưa Quý, tôi dựng khẩu AK lên, quay quy-lát về phía hắn. Mỗi lần
hắn nghiêng sang, thì cái quy-lát lại đâm sâu vào sườn, làm hắn tỉnh ngủ và
không dám đè sang nữa. Xe qua một thị xã, hình như Thanh Hóa thì phải. Xe vẫn
chạy điên cuồng. Đêm khuya lắm chúng tôi mới xuống xe, đi bộ vào nơi trú quân.
Đi mãi mà không tới nơi, ai cũng mệt và buồn ngủ. Cứ mỗi lần nhìn thấy một vệt
sẫm trước mặt, lại tự nhủ “Cố lên, làng kia rồi...”, nhưng lại không phải. Mưa.
Mưa nặng hạt, chúng tôi lấy ny-lông ra choàng. Tất cả đã đi lên phía trước, chỉ
còn Chính con và Lâm Thành khiêng thùng đạn lẹt bẹt ở phía sau. Cả hai cậu đều
nhỏ yếu, mặc dù tôi đã mang hộ hai khẩu súng, nhưng cũng không đi nhanh hơn
được. Lội lõm bõm vào tới rìa làng, tôi thoáng nghe: “. B1 rẽ phải!”. Thế là
tôi đưa cả hai cậu vào theo luôn. Tìm mãi không thấy B2, ba chúng tôi quyết
định ngủ lại một nhà nào đó, mai tìm sau. Chúng tôi gõ cửa một nhà. Một ông cụ
ra mở cửa từ chối, nói là trong nhà có bộ đội ngủ rồi. Chúng tôi định quay ra
thì từ cái nhà ngang, 1 bà cụ gọi chúng tôi vào nằm tạm. Tôi rút bật lửa châm
đèn, thì ra là một cái bếp. Cả ba đứa rút rơm trải ra sàn rồi lăn vào ngủ mê
mệt. Sáng hôm sau, để Lâm Thành và Chính nấu cơm, tôi ra khỏi bếp đi tìm đơn
vị. Lên tới đầu làng, thấy B1 nằm trong một cái đình, họ cũng bị lạc. Đi xuống
cuối làng cũng không tìm thấy, chỉ toàn lính D60. Quay về nhà, thấy Chính đang
cãi nhau với một anh bộ đội ở nhà trên. Mấy anh đó đều lớn tuổi hơn bọn tôi
nhiều. Chính gân cổ quát: “Anh bộ đội ở nhờ, tôi cũng bộ đội ở nhờ, anh bảo tôi
đi đâu?”. Sau được biết đó là anh Chính trị viên phó D60, còn nhà trên là Ban
chỉ huy Tiểu đoàn 60, chúng tôi mới sang nhà khác. Ở đây đã có hai cậu liên lạc
D60 ở, tôi làm quen với cậu da ngăm đen, vui tính. Cậu ta dạy tôi cách mắc võng
với cọc phụ. Rồi những người bị lạc lục tục kéo đến. Tôi gặp C trưởng Mạnh, anh
dặn cứ chờ ở đây. Rồi anh Bính dẫn B2 tới, tôi gặp lại tiểu đội. Thực ra Phái,
Đường, Thành ma-tịt lạc gần đó mà tôi không biết. Các cậu ấy đã kịp mua con vịt
chén rồi. A4 chuyển sang ở hai nhà mới. Tổ 1 gồm Quang, Thành, Phái ở nhà gạch.
Còn lại ở một nhà lá. Chúng tôi mua hai con vịt ăn chung cả tiểu đội. Tôi được
gọi đi họp cán bộ. Khi về, tôi quyết định củng cố lại tổ chức của tiểu đội, đề
ra phương án phân công mỗi ngày một tổ nấu cơm, một tổ mang nồi, một tổ đi lĩnh
thực phẩm. Tất cả nhất trí, tôi nhân đà chỉ định luôn Phái con và Thành ma-tịt hôm
sau đi lĩnh thực phẩm, vì các cậu này vốn rất lười. Hai cậu cứng lưỡi, đành
phải phục tùng. Nhà Tổ 1 ở mới có tang, bàn thờ còn phủ sô trắng với đôi câu
đối rất ai oán. Mấy cậu Tổ 1 thấy rờn rợn, cứ gạ tôi xin sang nhà lá ở.
Khoảng 3 rưỡi chiều chúng tôi ra đường cái đợi xe.
Các ông xe thồ mang dừa, chanh đến bán cho chúng tôi với giá cắt cổ. Chợt gặp
mấy chiếc xe chở lính bị thương từ chiến trường ra. Gặp nhau reo hò. Thấy mấy
cậu chạy theo xe để gửi thư, tôi cũng chạy và dúi thư vào tay một anh ngồi ở góc
thùng. Hầu như đến trạm nghỉ nào tôi cũng viết thư về nhà.
Mưa lâm thâm, chờ sốt cả ruột mới thấy xe tới. Lại
vẫn cảnh ngồi như lèn cá mòi trong thùng xe. Đường trơn, xe đi rất chậm. Bầu
trời xám xịt. Những chiếc xe 3 cầu đầy lính nặng nề phun bùn loãng sang 2 bên
đường. Không hiểu đây là Đường 15 hay Đường 22? Thật là những con đường gian
khổ, hết lên dốc lại xuống đèo. Suốt đêm, xe đi rất thận trọng. Chúng tôi sửng
sốt khi thấy trời đã sáng. Hình như đây là dốc Bò Lăn thì phải, vì hai bên
đường thấy nhiều xe lật nghiêng ngả. Đã 6 giờ sáng, chúng tôi đành rẽ vào những
cánh rừng cao-su gần đấy, giấu xe chờ đến tối.
Lần đầu tiên tôi vào rừng cao-su và nhìn thấy cây
cao-su. Tôi ngạc nhiên vì đó là một khu rừng rất sạch sẽ; cây cao-su to bằng
thân người, trồng rất thẳng hàng, cách nhau đều đặn. Mặt đất rất sạch, không hề
có một ngọn cỏ. Lá cao-su trông như lá sắn, nhưng to hơn và một bản chỉ có 3
phiến lá như 3 ngón tay; ngắt lá là nhựa trắng chảy ra ngay. Thân mỗi cây đều
có vết khía như rắn cuốn, ở cuối vết khía gần gốc có gắn cái bát đựng nhựa. Quả
là khu rừng đóng quân lý tưởng, mắc võng thuận tiện, củi tốt và dễ kiếm.. .Chỉ
gay nếu bị đánh bom cháy thôi. Buổi sáng, máy bay địch cũng rà qua mấy lần, bay
rất thấp. Buổi chiều trời mù nên chúng tôi khởi hành sớm. Hai bên con đường đất
đỏ là những nông trường cà-phê và chè bát ngát. Trời bắt đầu mưa. Nhìn chiếc xe
đằng trước tôi mới hình dung được đường trơn thế nào. Bánh xe của chiếc Hồng Hà
3 cầu quay tít mà xe vẫn đi rất chậm. Đến chỗ ngoặt thì đít xe hết dệ sang bên
này lại trượt sang bên kia, dường như tay lái vô tác dụng. Bên vệ đường mấy
chiếc xe Gaz đã nằm chết dí trong vũng lầy. Thật là những con đường gian nan và
quả cảm.
Đêm đã khuya chúng tôi mới đến Trạm. Tất cả xuống
xe, đi qua một bãi ngổn ngang những cây gỗ rất to. Vào một khu rừng già tối
đen, gọi nhau í ới. Tôi nhanh chóng bố trí cho anh em căng tăng mắc võng, rồi
ngả người đánh một giấc thẳng cẳng.
Trời vừa sáng, các A đã được báo thức.
Việc đầu tiên là tất cả phải đi kiếm củi để nấu ăn. Đây là khu rừng khách đông
người, nên việc kiếm củi không dễ. Hôm nay nấu cơm Trung đội, do chưa quen nên
nhóm lửa mãi không được. Anh Bính phồng mang trợn mắt, chảy cả nước mắt để thổi
mà cũng không ăn thua. Phải đốt rất nhiều giấy và giẻ dầu lau súng mới nhóm
được lửa. Người thông khói và quạt. Người ra suối lấy nước túm vào ni-lông vác
về. Nói là suối, thực ra chỉ là lạch nước nhỏ nhiều bùn và bẩn. Cuối cùng thì
cũng nấu được cơm chia cho các tiểu đội. Khu rừng khách này quả là rộng, chứa
được cả Tiểu đoàn 58 của tôi cùng mấy đoàn lính Thái Bình nữa. Mặt đất dưới vòm
cây cao khá quang đãng. Cọc phụ, dây song buộc cọc lô nhô khắp nơi. Vỏ đồ hộp
màu xanh lá cây vứt đủ mọi chỗ. Nhiều bếp Hoàng Cầm hỏng, trơ cành cây lát đen
sì.
Chúng tôi lĩnh quân trang bổ sung: quần áo dài vải
phin 1 bộ, quần áo lót cộc tay 2 bộ, 2 gói ruốc thịt, 1 hộp đường, 1 kg sữa
bột, 1 gói mì chính, rồi mũ mềm, tất, hộp thuốc cá nhân, ruột tượng gạo, túi
cơm nắm... Ba-lô bây giờ đầy có ngọn, không còn hở chỗ nào nữa.
Có lệnh tập hợp toàn tiểu đoàn. Tiểu đoàn trưởng
huấn thị, sau đó y tá tiểu đoàn hướng dẫn cách phòng chống sốt rét và cách sử
dụng hộp thuốc cá nhân. Chúng tôi đứng xa nên chả nghe thấy gì mấy.
Được lĩnh đồ mới, các đồ cũ lính ta đem cho lung
tung cả. Người xin chủ yếu là dân chúng quanh vùng, thuộc địa phận Nghĩa Đàn,
Nghệ An. Mai Quý Cường đưa cho một chú bé cái mũ cứng của mình, mặc dù chú ta
đã ôm trên tay tới 4-5 cái rồi. Nhiều người dân vào khu rừng bộ đội ở để hốt
cơm thừa, nhặt cơm nắm và nhiều thứ linh tinh khác.
Lại có lệnh lên đường. Hành quân bằng xe Giải
phóng, lốp to nên chạy khá êm. Trời mới sẩm tối, đoàn xe chạy trên con đường
đất đỏ hai bên mọc đầy cây sim. Nhiều sim quá, cây nào cũng đầy quả chín mọng,
khiến cho ta có cảm tưởng hai bên đường và các sườn đồi được phủ một lớp thảm
mầu tím sẫm (rất lâu sau này tôi mới biết có bài thơ Mầu tím hoa sim). Trời tối
đã khá lâu. Ngồi trước mặt tôi, sát ca-bin, là cậu Chính “cá gỗ” liên lạc Đại
đội, lúc nãy xe vừa chạy qua đường cái dẫn về quê cậu ta. Giờ đây cậu ta đang ngủ
gật, và bị Chính “con” nhẹ nhàng đánh tráo con dao găm, vì dao găm của Chính
“con” bị sứt cán. Tôi nhìn thấy hết nhưng không nói gì, vì đang buồn ngủ quá.
Chợt chiếc xe dừng lại. Hình như phía trước có bom nổ chậm. Nhưng rồi đoàn xe
lại tiếp tục chuyển bánh, các chiến sĩ lái xe đã quyết định đưa xe vượt qua bên
cạnh quả bom. Gió đêm mát rượi lùa vào thùng xe. Tới những chỗ ngoặt, nhìn ánh
đèn pha le lói của những chiếc xe ra tiền tuyến thật đẹp. Rồi xe chợt giảm tốc
độ, chúng tôi không hiểu có chuyện gì xảy ra. Thì ra phía trước đoàn xe là một
đoàn chiến xa đang ra trận. Các ông bạn này to lớn kềnh càng, lại chạy chậm.
Tôi ngó ra phía trước, thấy một chiếc T54 kếch xù đang án ngữ con đường, đèn đỏ
sau đít chói lên dưới ánh sáng đèn pha xe tôi. Thấy còi thúc đít ghê quá, chiếc
Tank gầm lên dữ dội, khói ma-dút phả ra mù mịt, rồi chồm lên phía trước lao
nhanh như một mũi tên. Trong chốc lát chiếc Tank đã bỏ xa xe tôi khiến chúng
tôi rất ngạc nhiên. Nhưng rồi đoàn Tank dừng lại, nhường đường cho đoàn xe chở
lính. Mỗi lần vượt qua 1 chiếc Tank chúng tôi lại hò hét inh ỏi, vẫy tay chào
các cậu lính Tank đang nhô đầu lên. Một vài cậu lính Tank mặc quần đùi áo lót
vừa chui ra khỏi xe đang sửa cái gì đó, điện trong thùng xe Tank sáng xanh.
Tôi lại ngủ gà ngủ gật. Chiếc xe ngoặt mấy lần.
Chợt ai đó nói: “Hình như đây có một thị trấn”. Tôi mở mắt nhìn xuống, chợt
thấy tòa nhà quét vôi trắng quen quen, và nhận ra đó là Cửa hàng Ăn uống Đô
Lương, bên cạnh có hiệu sách. Chiếc xe rẽ ngoặt xuống đường đi Phố Mới. Tôi kể
cho đồng đội nghe đây là nơi ông bà ngoại tôi ở. Tới Phố Mới, tôi nhìn vào nhà
bà Ba còn thấy đèn sáng ở quán nước trước nhà, và chỉ kịp thét lên “Bà Ba ơi”
thì chiếc xe đã vụt qua. Tiếc quá, giá xe dừng lại nghỉ giải lao thì hay biết
mấy.
Chúng tôi chạy thẳng về hướng Vinh, nhưng đến Nam
Đàn thì đoàn xe dừng lại. Được lệnh xuống xe hành quân vào làng có binh trạm.
Vì quân chưa tới đủ, anh Y Đại đội phó ra lệnh tạt vào một cái sân kho nghỉ để
đợi. Sân lát gạch rộng mênh mông, chúng tôi giở cơm nắm ra ăn. Đêm rất khuya,
đại đội mới tới chỗ nghỉ. Cô giao liên dẫn đường chỉ cho tiểu đội tôi hai nhà.
Tôi bố trí Tổ 1 và Đệ ở một nhà, còn lại ở nhà thứ hai. Nhà hơi chật nên tôi
mắc võng ra hè ngủ. Hôm sau Duy Minh đi lĩnh trứng muối, thịt tươi, bí, rau,
miến về nấu cơm cho tiểu đội. Binh trạm này nói chung hậu cần khá. Đây là xã
Nam Hòa, cách Nam Liên quê Bác khoảng 4-5 km và cách Nam Hùng, nơi hồi bé tí
tôi đã ở, khoảng 3-4 km. Ở đây có chợ sơ tán, nghe nói có phở, cà-phê, nước
chanh. Lính ta nhiều người đem bán quần áo, mũ, mì chính để lấy tiền ăn uống,
và cũng để ba-lô nhẹ bớt. Tôi cũng bán cái mũ cứng và một cái áo lót cùng với
Quang “xỉu”, rồi vào quán ở ven chợ ăn miến, uống nước chanh. Sau đó hai đứa đi
lên đê chơi. Dòng sông Lam ánh lên chói mắt dưới nắng trưa, bầu trời xanh ngắt.
Chúng tôi theo dõi những chiếc máy bay A6A của Mỹ đang nghênh ngang và hùng hổ
bổ nhào đánh phá rú Đụn bên kia sông. Không thấy có tiếng súng bắn trả. Tôi
nhìn những quả núi lô nhô, và tự hỏi không biết quả nào là rú Chung, rú Thành như
trong các sách tả cảnh quê Bác đã nói tới. Và tôi cũng rất muốn đến thăm quê
Bác một lần.
Hai
giờ chiều, anh Bính báo cho các A nấu cơm nắm và ăn cơm để 4 giờ hành quân.
Chúng tôi gấp rút chuẩn bị. Cũng may quần áo tắm giặt đã khô. Còn thừa một quả
bí chẳng ai chịu mang, đành biếu gia đình chủ nhà. May mà hòm đạn đã phá ra
chia mỗi người mang một ít, không cũng chết dở. Ra đến bến sông thì trời đã
tối. Tất cả lên sà-lan ngồi, chiếc ca-nô đi kèm nổ máy phành phạch. Hơn trăm
con người ngồi lọt thỏm dưới lòng tàu, một số cậu trèo lên thành đứng. Hình như
sà-lan đi ngược dòng sông Lam thì phải. Tôi dựa vào thành tàu ngủ gật, thỉnh
thoảng vài giọt nước từ ngoài mạn lại tóe vào lành lạnh. Hơn một giờ sau, chúng
tôi lên bờ. Cái cầu tầu nhỏ quá, trời lại tối đen như mực. Tôi gào thét trong
đám hỗn độn để tập hợp tiểu đội và tìm trung đội của mình. Chúng tôi như đi
trên một con đê rộng, mặt lát đá, hai bên vệ đê là nhà cửa. Một số bà bưng bánh
chưng ra bán cho bộ đội, hình như họ làm cái việc bán hàng ban đêm này thường
xuyên lắm rồi. Tôi cũng mua một chiếc. Các rổ bánh loáng cái đã hết. Cả đại đội
ngồi bên vệ đường nghỉ giải lao. Tôi ngồi ăn cơm nắm với Tỵ, Quang, Thành “ma
tịt”, Phái. Kiểm điểm lại quân số, thấy còn thiếu Minh, Đường, Chính. Gay quá,
tôi báo cáo anh Bính, rồi chạy ngược chạy xuôi tất tả tìm. Xuống mãi tới cuối
Tiểu đoàn mà cũng không thấy. Lúc chạy qua C50 tôi gặp Phổ Thọ, tranh thủ nói
với nhau được mấy câu. Tới khi về lại Trung đội thì nghe nói hình như các cậu
ấy đã đi lên trước rồi. Đêm đã khuya lắm mà con đường phi lao giữa cánh đồng
vẫn như bất tận. Đã nghỉ giải lao tới 2-3 lần. Càng về khuya, lính ta càng mệt
mỏi, buồn ngủ, lại mang nặng, nên chỉ đi được khoảng 2 km đã phải nghỉ. Chúng
tôi nằm vật xuống vệ cỏ. Lác đác gặp những người đi chợ sớm, gồng gánh nặng
trĩu. Khi đã mệt rũ thì có lệnh phía trên truyền xuống: dừng lại nghỉ để đợi
dẫn vào nhà dân. Các B khác đã được dẫn đi hết, riêng B tôi phải ngồi đợi tới
sốt cả ruột. Gặp lại Chính, Đường, Minh: các cậu đó yếu, lại đau bụng, nên phải
đi lên trước theo sát ngay sau cô giao liên. Kinh nghiệm cho thấy: người đi đầu
hàng quân sướng nhất, người đi cuối hàng quân thì thật khổ. Trong khi người đi
đầu bước rất thong dong, thì người đi cuối luôn phải chạy gằn, nhiều lúc phải
chạy hộc cơm ra mới đuổi kịp.
Nhận nhà xong, tôi sang ngủ cùng Tổ 2. Tôi hay đi
với Tổ 2, vì Tổ trưởng Lâm Thành còn non nớt quá, và tôi cũng thích tổ này. Hôm
sau Tổ 3 của Minh mua vịt về không biết làm sao lại dỗi với nhau, làm lông rồi
chẳng ai nấu cả. Hình như Chính “con” và Đường “cóc” cãi nhau về việc cắt tiết:
Chính áp dụng “phương pháp mới”, cắt tiết ở sườn bên dưới cánh. Kết quả là chả
có tý tiết nào mà con vịt chết ngoẻo. Thế là sinh chuyện, tôi phải dàn xếp mãi.
Tôi và Tỵ đi ra giếng tắm. Đây là cái giếng đất có
cắm bảng Cấm tắm gần nên tôi và Tỵ phải thay nhau xách nước cho nhau tắm. Vùng
này hình như vẫn thuộc địa phận Nam Đàn nhưng xa xa đã thấy núi non làng mạc
thuộc Hà Tĩnh. Buổi chiều chúng tôi ngồi nhìn những chiếc máy bay Mỹ vòng lượn
rồi bổ nhào về phía Phà Linh Cảm và cầu Thọ Tường. Không gặp hỏa lực bắn trả
nào, chúng bay một cách thản nhiên và ngông nghênh như bầu trời là của chúng.
Tôi lộn tiết nghĩ: “Nếu chúng mày mà bay chậm như vậy ở ngoài kia thì đã bị bắn
tan xác rồi”. Vừa lúc ấy có một đoàn thương binh đi ngược về phía chúng tôi.
Một anh hỏi: “Có lính Hà Nội không?”. Chúng tôi đáp: “Toàn lính Hà Nội thôi”
rồi xúm lại quanh anh nhờ gửi thư và hỏi chuyện. Lúc nào trong túi tôi cũng có
một lá thư đã viết sẵn nên có dịp là gửi được ngay. Hôm qua tôi cũng gặp một
đoàn thương binh đi ra, quần áo xộc xệch lem luốc, băng quấn trên đầu, trên
tay.
Tuy vẫn mệt nhưng đến chiều tối chúng tôi lại lên
đường. Đoàn quân vượt qua một cánh đồng và bắt đầu đi giữa những làng mạc của
Hà Tĩnh. Anh Bính hỏi: “Quê cậu ở đây phải không?”. Tôi nói: “Đây là Đức Thọ,
quê của bà nội tôi. Còn quê của ông nội thì ở chỗ những dãy núi trọc, thấp,
nhấp nhô kia kìa, đó là Hương Sơn”. Chúng tôi nghỉ giải lao trên đê. Tôi nói
chuyện với Bùi Ngọc Toàn A12, nhắc lại những kỷ niệm ở Trường PTCN Hai Bà
Trưng, nơi tôi là Đội trưởng Cờ đỏ, còn Toàn là đội viên. Tới một xóm nhỏ,
chúng tôi ngồi đợi đến lượt qua phà Linh Cảm. Lúc xuống bến tôi rất ngạc nhiên
khi thấy đó là một đoàn 4-5 toa như toa xe lửa, ở đầu có một cái ca-nô kéo. Qua
khỏi phà khoảng 3 km, đơn vị được lệnh dừng ăn tối bên đường, cơm nắm với ruốc
thịt. Mấy cái xe xích chạy qua ầm ầm, nghiến đường ken két, khói bốc mù mịt.
Đêm đã khuya lắm, chúng tôi vẫn tiếp tục đi, có đoạn qua làng, có đoạn đi giữa
sự mông quạnh dưới ánh trăng mờ. Một số cậu tách khỏi hàng chạy ra cái biển ở
ngã ba đường xem chỉ đi đâu. Biết bao lần tự đặt mục tiêu là cái làng trước mặt
để phấn đấu, nhưng mãi mà không tới. Chẳng ai buồn nói câu nào. Đoàn quân đi
rời rạc, đội hình cách quãng. Thỉnh thoảng một chiếc xe tải chạy vụt qua, để
lại phía sau cả khối bụi khổng lồ. Đoàn quân cứ xuyên bụi mà đi. Rồi chúng tôi
bỏ đường cái, xuống con đường dốc thoai thoải dẫn vào làng. Hai bên đường có
nhiều xe tải ẩn nấp. Lính ta nhiều anh chẳng còn biết A mình, B mình ở đâu nữa,
được nghỉ là quảng ba-lô nằm lăn ra vệ đường. Chúng tôi tập kết ở một bãi cỏ,
đợi những người đi sau lục tục kéo đến. Rồi lại đi tiếp. Quanh co một hồi trong
làng, đi xuyên qua sân và vườn mấy nhà, cuối cùng cũng đến nơi ở. Quá mệt, tôi
trải ni-lông ra sàn, làm một giấc li bì.
Hôm sau tôi đi lấy thực phẩm cho tiểu đội. Từ bãi
cỏ hôm qua phải đi men theo làng một quãng khá xa mới tới Binh trạm. Tôi ngồi
chờ dưới tán những cây cọ non thấp lè tè, xem mấy người phục vụ Binh trạm đang
dựng một khung nhà tre. Rồi chúng tôi vào nhận củi và gạo, tiếp đó đi nhận thực
phẩm ở chỗ khác. Dọc đường tôi mua bánh chưng và bưởi ăn vì đang đói. Phải lấy
thanh củi làm đòn gánh, dò dẫm qua một cái cầu lát ván hở hoác, chỗ có chỗ
không, lạc loanh quanh mãi đến dừ vai mới về được nhà.
Binh trạm này đóng ở xã Đức Lạc, Đức Thọ. Ở đây,
chúng tôi khoái nhất đi tắm sông. Thật là một con sông tuyệt đẹp, có cái tên
giản dị mà ấn tượng: Sông Ngàn Sâu. Ngàn Sâu từ Hương Khê và Ngàn Phố từ Hương
Sơn họp thành con Sông La thơ mộng của Hà Tĩnh. Ngàn Sâu không rộng lắm, nước
trong xanh êm đềm, ở dưới toàn cát, lội xuống không một chút vẩn. Sáng có thể
lội qua sông một cách dễ dàng. Nhưng đến chiều thì không thể lội qua được vì
thủy triều lên. Lâm Thành và Chính suốt ngày lặn hụp, mặc dù trời nắng chang
chang. Chúng tôi mang dao găm ra cắm phầm phập xuống cát và lấy cát đánh cho
tới khi sáng loáng. Các cậu B3, B4 cởi trần truồng như nhộng, cả bầy tồng ngồng
la hét đùa nghịch, lặn hụp, lấy cát vùi nhau chỉ còn thò cổ lên. Anh Hồng Chính
trị viên Đại đội ra thấy thế phải giơ tay la trời, hạ lệnh cấm tắm. Tuy vậy
chúng tôi vẫn trốn đi một cách kín đáo.
Quang và Tỵ rủ nhau đi chợ, tôi và Minh
cũng đi. Chợ khá nghèo nàn: rau, cá, một vài thứ hàng xén, bánh gói, bánh đa...
Chúng tôi dừng lại chọn bưởi, mít. Bưởi ở đây rất to, tép cũng rất to, có thể
bốc từng nắm bỏ vào mồm ăn như cơm vậy.
Buổi tối, tôi kể chuyện “Hầm bí mật bên bờ sông
En-bơ”, cả tiểu đội há hốc mồm ra nghe. Đêm đã khuya và tôi cũng thấm mệt,
nhưng bọn Thành, Phái cứ nhất định bắt kể hết mới được yên thân. Chủ nhà chúng
tôi ở là một người đàn ông cụt tay tới bả vai. Tuy vậy ông vẫn dùng tay còn lại
sử dụng cái vồ đập đất một cách thành thạo. Ông là người thẳng tính, ăn to nói
lớn. Còn bà vợ thì lại khó tính và hay cảu nhảu...
Chúng tôi ở đây đến ngày thứ 3 mà vẫn chưa thấy
động tĩnh gì. Chợt chiều hôm đó có lệnh tập hợp, nghe anh Mạnh - C trưởng, rồi
anh Hồng nói chuyện. Máy bay Mỹ đang gào rít trên đầu. Chúng tôi vẫn bình chân
như vại, ngồi ngắm những chiếc phản lực bổ nhào xuống ném bom vào một vùng cách
khoảng 4-5 km. Từng đụn khói trắng vàng cuộn lên từ từ. Đạn cao-xạ vun vút đi
sạt qua những chiếc máy bay, nhưng không chiếc nào trúng đạn. Thật là một cuộc
chiến đấu ác liệt mà cũng giống như một trò chơi.
Tới tối mịt vẫn chưa ra xe. Hình như hôm nay chỉ có
C50 và C51 đi thôi. Được lệnh trở lại nhà cũ, chúng tôi hơi ngượng vì đã chào
từ biệt gia đình lúc chiều.
Tôi đang đứng tập phi dao găm vào mấy
cây cọ thì Chí Thành đến. Thành phàn nàn với tôi là A5 đối xử với cậu ta rất
tệ, Thành gần như bị cô lập. Tôi rất thương Thành, bèn bàn với cậu ta thử xin
anh Bính cho chuyển sang A tôi xem sao. Lúc sau có Long “cồ” sang gọi đi lĩnh
thịt và đường cho tiểu đội. Lâm A6 đã chia phần sẵn, chỉ việc lấy. Lâm nói tôi
đi qua A5 nhắn Quý A trưởng đến nhận, nhưng Quý lại phân công Châm “thối tai”
đi, mặc dù Châm phản đối ầm ĩ.
Về
đến nhà thấy lính ta đang xôn xao bàn chuyện cậu Tụy B3. Cậu này gây chuyện
đáng xấu hổ với dân, bị ông chủ nhà tóm được. Cậu ta còn đâm mấy cậu cùng tiểu
đội, rồi bỏ trốn. Đại đội đang cử người truy tìm, cậu này dễ tự tử lắm.
Nguyễn Quang Vinh
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Trên Đường Đi B
(2)
Buổi chiều anh Bính nói cho các A nắm cơm sẵn.
Nhưng đến tối thì anh lệnh cho A tôi để một tổ ở lại, còn tất cả ghép vào B3
lên đường ngay. Tôi quyết định để tổ Minh ở lại. Mấy cậu Thành, Phái như trẻ
con, lúc đòi ở lại, lúc đòi đi.
Tôi dẫn Tổ 1 và Tổ 2 lên C bộ tập hợp. Hai cậu liên
lạc Đại đội là Chính “cá gỗ” và Toàn chọc bưởi chia cho cả bọn ngồi ăn. Anh Y
chính trị viên phó C sẽ phụ trách toán đi trước này. Ban chỉ huy Đại đội nói
chung sinh hoạt thoải mái hơn anh em lính nhiều. Cụ chủ nhà ở đây có con đi bộ
đội, trên tường thấy treo nhiều Giấy khen và Bằng Huân chương Chiến công hạng 3
tặng cho con của cụ. Rồi B3 đến, chúng tôi ngược đường hôm nọ ra bến ô-tô. Hai
bên đường trồng rất nhiều mía. Lại gặp một đoàn thương binh đi ra, tôi vội chạy
đến gửi thư về nhà. Trời tối đã lâu, chúng tôi ngồi nghỉ ở một bãi tha ma cạnh
đường cái. Rồi xe của binh trạm tới, toàn loại Vọt tiến (xe tải hai cầu của
Trung Quốc, theo kiểu Gas 63 của Liên Xô) và Molotova nhỏ nhắn. Chúng tôi được
xếp lên ngồi cùng hai tiểu đội của B3. Tôi gặp lại cậu Hòa cùng A4 trước khi đi
B. Xe thì chật chội, đường xóc kinh khủng, có lúc chúng tôi bị nhồi lắc tơi bời
như nhảy Rum-ba 15 phút liền. Thỉnh thoảng chiếc xe vấp phải „ổ voi“, chúng tôi
bị nâng bổng lên rồi dập mạnh đít xuống sàn xe đau điếng. Các bác sĩ mà bị nhét
vào đây hẳn phải la lên rằng. “Xương sống người ta sinh ra không phải để cho
những cú đập như vậy!”. Còn chúng tôi thì vẫn nghiến răng chịu đựng. Cái mạng
chúng tôi còn chả tiếc, tiếc gì đến cái xương sống. Xe nhãn hiệu “Vọtcứt” có
khác. Có lúc tôi thấy xe như cắm mõm xuống vực, thực ra là nó xuống ngầm đá qua
suối. Có lúc tôi lại nghe tiếng máy phành phạch ngay cạnh, nhìn sang tôi rất
ngạc nhiên thấy con đường giờ đây rộng ra hàng trăm mét. Một bãi trống thì đúng
hơn, xe đi hàng năm hàng bảy, đất tơi vụn màu trắng xanh dưới ánh trăng, chằng
chịt vết bánh xe. Mấy chiếc máy xúc đang bận rộn san ủi những hố bom mới.
Biđông của cậu ngồi cạnh tuột nắp, nước đổ ra ướt cả sườn tôi. Tôi sờ lại
bi-đông của mình, thấy nắp cũng đã lỏng. Trên ô-tô dù khát tôi cũng không uống
nước. Kinh nghiệm cho thấy: trước khi lên xe và trong quá trình đi, không nên
ăn uống, vì rất dễ bị nôn do xe xóc. Chiếc xe chợt dừng lại. Tôi ngó ra thấy
một ngã ba gần chân núi, bom đánh be bét. Anh lái xe chạy tới hỏi mấy người
Thanh niên xung phong ở ven đường cái gì đó, rồi lại lái xe đi tiếp. Mấy cậu xì
xào: “Ngã ba Đồng Lộc!”. “Thế à?”. Tôi ngó lại, cái ngã ba đã khuất sau xe mất
rồi. Xe vẫn chạy tiếp men theo núi. Chợt có tiếng máy bay: “Bọn săn xe!”. Chúng
tôi báo tin cho người lái. Bỗng “xoẹt! xoẹt!” hai chiếc máy bay to như tàu lá
chuối rà sát mặt đường, kéo theo màn tiếng động rền rĩ. Xe chúng tôi quặt ngay
vào lùm tre ven đường. Tất cả sẵn sàng phóc ra khỏi xe. Có tiếng bom nổ ì ầm. Sau
bom, xe chúng tôi chạy tiếp. Qua một quãng đường hai bên là rừng, tôi bỗng cảm
thấy ánh trăng như bị màn sương bao phủ, và mùi khét lẹt xộc vào mũi tôi. Thì
ra là khói bom. Xe chạy qua một hố bom mới nổ. Để bù vào thời gian phải dừng,
xe tôi luôn đòi vượt. Cậu phụ lái xin vượt không được, lôi AK ra bắn chỉ thiên.
Lẫn trong tiếng máy xe, tiếng súng AK chỉ nghe: “Pách! Pách”. Chúng tôi ngủ gà
ngủ gật. Rồi xe dừng hẳn: đã đến Binh trạm.
Tôi đứng dậy, thấy chân hơi tê. Kể cũng lạ, trước
đây tôi mà ngồi tư thế gò bó như vậy thì sẽ không đứng lên nổi, vì hai chân đờ
dại, đau nhói như có trăm ngàn mũi kim châm vào. Thế mà bây giờ không bị nữa,
có thể vì trước khi lên xe bao giờ tôi cũng uống vài viên Vitamin B1. Từ các xe
khác lính ta cũng đang lục tục nhảy xuống. Kiểm tra trên xe thấy thừa một khẩu
AK, anh Y hỏi khắp mà không ai nhận, anh đành phải vác. Chúng tôi im lặng đi
thành hàng dọc theo anh giao liên. Cỏ ướt đẫm sương đêm. Anh giao liên kể gần
đấy có một tiểu đoàn chủ quan không giữ bí mật, làm lộ nơi đóng quân. Máy bay
Mỹ đến đánh trúng vị trí, thương vong nặng, cả Tiểu đoàn trưởng cũng hy sinh.
Đi một lúc nữa thì thấy thấp thoáng có nhà trước mặt. Đây là khu đồng bào đi sơ
tán nên nhà cửa khá thưa thớt. Tới căn nhà đầu tiên, anh Y quay lại nói: “A4
vào đây!”.
Cả tiểu đội lặng lẽ đi vào sân. Tôi khẽ gọi cửa,
bác gái chủ nhà hình như đã quen với chuyện này, mời chúng tôi vào nhà. Nhà
nhỏ, nên mọi người chỉ cất súng vào, rồi ra ngoài sân mắc võng ngủ. Hôm sau
thức dậy, tôi thấy đây là một xóm nhỏ trên đồi thấp. Nhà cửa bé tí, cây cối mới
trồng. Máy bay Mỹ bắt đầu hoạt động, nhìn rất rõ.
Nhà không thấy bác trai, chỉ thấy bác gái trạc 50
tuổi, một chị khoảng 24 tuổi và mấy em nhỏ. Trong nhà có nhiều biđông, hăng-gô
và vài thứ lặt vặt khác, chắc của lính để quên rồi biến thành của gia đình. Tổ
trực nhật nấu cơm. Tôi đi gánh nước. Sau một hồi quanh co mãi, tôi cũng tìm
được khe, nước chỉ láng mặt, có chỗ trơ đất. Bên mép dòng nước, dân khoét những
hố nhỏ sâu xuống để chứa nước. Phải lấy gáo múc từng tý đổ vào thùng gánh về.
Bác chủ nhà rất tốt, nấu hộ cơm cho bọn tôi, lại nấu cả một nồi nước chè xanh
nữa. Ăn xong chúng tôi ngồi nghỉ trong nhà. Chắc chị thanh niên công tác phong
trào nên tôi thấy trên giá có vài quyển sách về thanh niên, Điều lệ Đoàn, Kỹ
thuật nông nghiệp. Đất ở đây cằn cỗi, cây cối chả ra gì. Đến chiều có lệnh
chuẩn bị đi, chúng tôi lại nấu cơm ăn và nắm cơm. Nhà ở đây thưa thớt nên tiểu
đội tôi hầu như bị tách ra khỏi nhóm anh Y và B3. Khoảng 6 giờ chiều, trời vẫn
sáng, chúng tôi chợt thấy Tiểu đoàn trưởng Khanh đeo ba-lô, cầm gậy đi trước,
mấy cậu liên lạc chạy theo sau. Tôi vội hô tiểu đội lên ba- lô, ngó ra đã thấy
anh Y tới. Chúng tôi chạy ra đường nhập vào đơn vị. Anh Y cho mọi người ngồi
tản mát hai bên đường, vì hình như còn phải đợi C50 ra nữa. Tôi sờ túi quần sau
thì thấy bị mất quyển sổ tay bìa ni-lông mầu xanh và chiếc bật lửa của tiểu
đội. Chắc là rơi trên xe tối qua rồi.
Trời tối đã lâu mà vẫn không thấy
giao liên đến, chúng tôi bèn hành quân ra đường cái. Cứ dò theo lối mòn giữa
hai vệ cỏ mà đi, xuống một khe nước bên trên có vòm cây phủ, sang đến bờ bên
kia thì hết lối. Lại phải leo ngược dốc lên, dò dẫm mãi mà không thấy đường,
chúng tôi ngồi phệt xuống cỏ nghỉ. Rồi giao liên cũng tìm được chúng tôi, may
mà lúc nãy không đi vào bãi bom bi nổ chậm. Thỉnh thoảng từ trên đầu hàng quân
lại truyền xuống: “Cho C50 vượt lên!” hoặc “Bám sát! Xuống dốc!”. Anh giao liên
có khi đi ngược lại hàng quân, vừa đi vừa hỏi: “C50 lên chưa?”... Ra tới đường
cái, sau một hồi lộn xộn, rồi chúng tôi cũng leo hết lên yên vị trên các thùng
xe. Ai đó nói: “Quãng đường sắp tới có nhiều bãi B52, phải cẩn thận!”. Tạm biệt
huyện Kỳ Anh, tạm biệt Hà Tĩnh quê hương!
Tôi ngồi sau anh Y, tay bám chặt vào thùng xe.
Nhiều thanh gỗ nẹp thùng xe đã biến mất, nên mỗi lần xe xóc, tôi phải bám thật
chặt, vì sợ mình sẽ bị văng ra ngoài. Nhưng mặt khác, nếu có máy bay địch, tôi
sẽ có thể tẩu ra ngoài rất nhanh. Anh Y cho tôi nắm Polyvitamin, ngồi nhai rau
ráu cũng khoái. Trăng đã lên, mờ mờ sau màn sương. Thỉnh thoảng xe lại bật đèn
và tôi có thể nhìn thấy bóng đen to lớn của chiếc xe lướt loang loáng trên
những bụi sim mua bên đường. Chợt chiếc xe phanh kít lại. Tôi đứng lên ngó thì
thấy phía trước mấy chiếc Zil 3 cầu đang rồ máy chậm chạp tránh nhau. Có người
nói: “Bãi B52”. Đây là lần đầu tôi thấy một B52. Hố bom trắng xóa trong đêm, đủ
các cỡ to nhỏ chi chít. Chiếc xe đang bò trên khúc cua khuỷa tay, có thể nhìn
rõ những chiếc xe khác đang chạy ở phía bên kia. Xe nhảy chồm chồm. Cái bi-đông
lúc chiều ở sau lưng, bây giờ đã ra trước bụng, mấy lần tôi phải siết lại nắp
cho chặt. Những khẩu súng đặt dưới sàn xe đập lạch cạch tơi bời. Chúng tôi
thường tháo băng đạn rồi để ngửa súng xuống sàn như vậy, không biết cái thước
ngắm hay cái đầu ruồi liệu có bị biến dạng không? Nhiều cậu lại cho rằng, vào
đến nơi người ta sẽ phát cho súng khác để chiến đấu?
Nửa đêm đến nơi trú quân. Chúng tôi nhanh chóng
xuống xe. Tiểu đoàn hành quân theo hàng một, có giao liên dẫn đầu. Tới ngôi nhà
có rào râm bụt, anh Y nói: “A4 vào đây“.Tôi dẫn A4 tách khỏi đội hình.
Cả nhà chủ đã ngủ yên, tôi khẽ gọi. Một
bà già lệt sệt đi ra, tôi nói xin ngủ nhờ, rồi cả bọn nhanh chóng mắc võng lăn
ra ngủ.
Sáng hôm sau tôi dậy sớm, lấy quang gánh đi nhận
thực phẩm cho Tiểu đội. Các A của B3 cũng cử người đến. Loanh quanh một hồi mới
tìm được kho Binh trạm. Lúc lấy gạo rất lộn xộn, người của C50 ra đông quá, gọi
nhau í ới. Tôi phải chạy mệt nhoài để lấy số gạo chung với C50, mỗi B của họ
phải san cho một ít. Sau đó tất cả lại sang nhà bên lấy thực phẩm gồm rau, bí
đỏ, thịt muối. Không có đường, họ phát cho chúng tôi kẹo bọc giấy bản để thay
thế.
Hôm nay đến tổ của Quang “xỉu” xuống bếp nấu ăn.
Dưới bếp thấy có rá trứng luộc, sau mới biết bà chủ nhà luộc bán cho lính. Tôi
phát cho mỗi cậu 4-5 cái kẹo, cho cả hai đứa con chủ nhà. Nhà có hai gian,
chúng tôi được nhường ở một gian. Tôi chợt nhìn thấy khắp nơi trên cánh cửa,
trên cột nhà, trên vách gỗ, trên các bức tranh dán tường.. .chi chít những dòng
chữ bằng mực, chì, bút bi, to nhỏ xiên xẹo đủ kiểu chữ. Một hàng chữ viết bằng bút
bi: “Đỗ Văn Tính, quê Đồng Tiến, Quỳnh Phụ, Thái Bình. Đã qua đây ngày 01-
08-72. Chúc các đồng chí đi sau mạnh khỏe, hẹn gặp lại ở chiến trường“. Một
hàng khác bằng bút mực: “Lê Tiến Chung, quê La Sản, Lý Nhân, Nam Hà. Qua đây
ngày 14.06.72“. Một hàng khác nữa có khung vuông đậm nét:“ Đặng Tài Đức, Phương
Liên, Hoài Đức, Hà Tây. Đã ở đây 2 ngày 16- 17.07.72“. Tôi cố tìm trong hàng
trăm cái tên đó xem có ai quen không, nhưng cả tiếng đồng hồ lò dò trên các bức
vách mà không kết quả gì. Bèn rút bút ra, nắn nót viết lên cánh cửa: “Nguyễn
Quang Vinh, B1 KTT Nguyễn Công Trứ, Hà Nội. Qua đây ngày.../08/72. Chúc các
đồng chí đi sau mạnh khỏe, hẹn gặp lại ở chiến trường“.
Bữa trưa có bí đỏ xào thịt khá ngon. Ăn
xong chúng tôi nằm nghỉ. Hình như có tiếng ai khóc, tôi dỏng tai lên nghe. Đúng
rồi, từ ngôi nhà phía sau chúng tôi có tiếng khóc vẳng tới. Vườn cây khuất nên
tôi không nhìn thấy gì, chỉ đoán đó là 1 bà mẹ đang khóc, dóng lên từng hồi nức
nở nghe rất lạ. Có tiếng ai đó an ủi, tôi nghe câu được câu chăng nhưng cũng
hiểu chuyện: Bà mẹ vừa nhận được tin con gái đi Hỏa tuyến (Dân công hỏa tuyến)
đã hy sinh. Lòng tôi chợt nao nao. Chiến tranh đã gây đau khổ cho biết bao bà
mẹ, biết đâu lại chẳng có mẹ mình... Tôi lắc đầu cố xua đuổi ý nghĩ ghê rợn đó.
Buổi chiều, đùa cợt với Thành “ma tịt” một lúc, tôi
tha thẩn tản bộ dọc đường cái. Đây là một cái làng gần sông. Chợt thấy Nghĩa
trang Liệt sĩ trên đồi thông tôi bèn rẽ vào. Có nhiều nấm mồ còn mới, mộ chí
bằng gỗ hoặc sắt tây. Phần lớn các mộ mới là của Liệt sĩ Thanh niên Xung phong,
nữ chiếm đa số. Quê các chị thấy ghi Nam Hà, Thái Bình, Nghệ An.
Từ trên Nghĩa trang tôi nhìn được ra sông. Ở phía
dưới ấy có một bến đò. Hố bom nham nhở trên bờ dốc, xới lên mầu đất nâu đen.
Hôm nay trời mù, mây xám xịt nên máy bay Mỹ ít hoạt động. Buổi tối cả tiểu đội
lại nhao nhao đòi tôi kể chuyện. Từ khi được nghe “Hầm bí mật bên bờ sông
En-bơ” ở Đức Thọ, các cu cậu đâm ra mê chuyện kể của tôi. To mồm đòi nhất là
Thành “ma tịt” và Phái “con”. Tôi bèn kể cho cả bọn nghe chuyện ngắn “Phát
súng” của Pushkin.
Hôm sau, trời vừa sáng đã thấy một chiếc F4 trinh
sát đến quần đảo. Tôi giở giấy bút ra viết thư về nhà, mặc cho tiếng máy bay
gào điếc cả tai. Rồi 2 chiếc A6A bay tới. Nghe tiếng súng 12,7 ly nổ “pách,
pách”, tôi vội chạy ra nhìn. Chiếc A6A thứ nhất đang bổ nhào xuống, to đến nỗi
tôi nhìn rõ cái đầu tròn rụt của nó với thanh kim loại cắm ở mũi. Nó bắn một
tràng dài rồi ngóc cổ bay lên. Đến lượt chiếc A6A thứ 2 bổ nhào, to nhanh một
cách kinh khủng lao xuống phía bờ sông. Tiếng súng 12,7 ly của ta vẫn bắn trả
liên hồi. Từ dưới cánh máy bay tách ra 4 đốm đen, nhanh chóng hiện nguyên hình
là 4 quả bom vun vút lao xuống. Tôi vội hô tiểu đội nằm và nhoài ra đất. Hơi
bom nổ phần phật, ngôi nhà lay chuyển kêu răng rắc. Một mảnh ván thuyền từ phía
sông bị văng lên rất cao, quay tít. Mẹ kiếp, nó phát hiện được bến đò của ta
rồi. Tôi quay trở vào tiếp tục viết nốt bức thư cho gia đình.
Đến chiều, chúng tôi lên đường, đi qua nghĩa trang
rồi xuống bến sông bị đánh lúc sáng. Trời tối sẫm, nhìn thấy lờ mờ hàng quân
của Đại đội đi trước. Vượt qua con đê nhỏ, chúng tôi xuống sát mé nước. Mấy cái
sà-lan to, kiểu toa tầu điện có ca-nô kéo, đã trực sẵn. Lính đông quá, chen
chúc lộn xộn. Tiểu đội tôi cứ chờ đến lượt mình, mặc dù B3 đã xuống hết rồi. Không
thể nhét thêm người vào khoang này nữa, người ta chỉ cho chúng tôi lên khoang
trên. Chen nhau đi trên miếng ván mảnh mai, bập bềnh như muốn hất mọi người
xuống sông. Còn khoảng 2-3 bước nữa, tôi chồm lên chạy bám vào sà- lan, suýt
ngã. Trong khoang tối như hũ nút, tôi nhảy đại từ trên cửa xuống sàn tàu. Hai
bên mạn có hai hàng ghế, bên trên có chỗ để đồ. Ở giữa, dọc theo tàu, hình như
có cái bàn dài cũng đã đầy lính. Tôi dò được một chỗ trống trên bàn, bèn ngồi
xuống, ngả người dựa lên ba-lô. Mệt thật, xung quanh toàn là lính xa lạ, A tôi
mỗi đứa tản một góc. Tôi nhìn qua cửa sổ trắng đục, thấy cái bóng đen thẫm của
bờ xa dần. Cậu phụ trách sà-lan kêu mọi người dịch ra để rút cái ván vào, gác
từ bậu cửa bên này sang bậu cửa bên kia. Tấm ván dầy, nặng, ướt và bùn nhớp
nháp. Con phà trôi đi chậm chạp. Một cậu nào đó ngồi gần cửa rút cái kèn
Harmonica ra thổi. Cậu ta thổi liến thoắng, hết bài này sang bài khác. Hắn thổi
khá thật, toàn theo bản năng, chỉ vấp váp lần đầu, còn lần sau trở đi bài nào
cũng trơn tru. Hết “Nổi lửa lên em” lại “Hoa Chăm pa”, “Niềm hạnh phúc” rồi
“Lăm tơi”, tiếng kèn rộn ràng náo nức. Cả khoang tàu bị lôi cuốn, lính ta dậm
chân xuống sàn, đấm bàn, gõ vào ghế cành cạch để nhịp theo tiếng kèn, tạo ra
những âm thanh ầm ĩ điếc tai. Tôi cũng bị lôi vào vào cái không khí cuồng nhiệt
ấy. Không một ai còn cảm thấy hơi lạnh của màn đêm trên sông.
Dòng sông hình như rộng mênh mông ra. Trông giống
như ngã ba sông, hay gần ra biển rồi? Đây là sông Gianh chăng? Một chiếc phà đi
ngược chiều chúng tôi, chỉ thấy một vệt đen sẫm trên mặt nước nhờ nhờ, nhận ra
phà nhờ có hai cái đèn xanh đỏ. Thủy thủ hai bên bắn đạn lửa lên trời báo hiệu
cho nhau. Hình như lúc chiều ở đây có bom từ trường. Xa xa một dãy đèn dù vừa
bật sáng. Chà, nếu bây giờ máy bay Mỹ chợt đến nhỉ? Kệ, không nghĩ tiếp nữa,
muốn đến đâu thì đến.
Chợt trên cao thoáng có những ánh chớp, rồi một
loạt tiếng “bụp, bụp” dội xuống. Cái gì thế? Về sau tôi mới biết đó là pháo
tăng tốc của Hải quân Mỹ, loại pháo nổ 3 lần. Lần đầu khi đạn ra khỏi nòng. Bay
được một quãng đường nhất định, quả đạn lại nổ lần thứ 2 ở trên không, đẩy đầu
đạn bay xa nữa. Rồi mới rơi xuống và nổ lần thứ 3. Pháo biển bắn hàng loạt, nên
đạn nổ tăng tốc trên không cũng hàng loạt. Như vậy đạn pháo biển có thể đi được
rất xa. Từ biển mà chúng bắn lên tới Cồn Tiên, cao điểm 135 và thậm chí tới
sườn Trường Sơn.
Tôi mò nắm cơm ra ăn với ruốc thịt. Ăn xong lại ngả
người nằm, gối đầu lên ba-lô cậu ngồi sau. Không hiểu hắn nhét cái gì vào đó mà
cứng khiếp, tôi ngủ gà ngủ gật.
Tới nửa đêm tàu cập bến. Cả bọn choàng dậy đeo đồ
đạc rồi chen chúc nhau trèo ra ván cầu. Trên bờ, một đám đông đang nhốn nháo.
Đó là đoàn thương binh đi ngược ra, ăn mặc đủ kiểu lộn xộn. Tiếng thăm hỏi nổi
lên rào rào, ai cũng thử tìm đồng hương. Thấy 1 cậu nhận là người Hà nội, tôi
dúi vào tay cậu ta mấy lá thư nhờ hắn gửi hộ. Chạy ngược chạy xuôi trên bãi cỏ,
gọi khản cả cổ tôi mới tập hợp được Tiểu đội vào 1 góc. Các đại đội khác vẫn
đang gọi nhau í ới thì bộ phận của chúng tôi đã lên đường trước. Vượt qua con dốc,
nhìn thấy những quả núi nhỏ trước mặt. Chúng tôi đi trên con đường đá đắp cao,
chắc là đường xe lửa hay xe goòng ngày xưa. Con đường dài thật, hai bên toàn là
những bụi cây lau lách rậm rạp. Chúng tôi nghỉ giải lao đã mấy lần, thỉnh
thoảng lại phải dạt vào vệ đường tránh một chiếc xe đi ngược lại. Mệt nhọc, vai
nặng trĩu, đôi mắt cứ díp lại. Tôi luôn tự nhủ rằng tất cả nỗi vất vả này rồi
sẽ qua đi, và hai chân cứ bước đều đều như cái máy.
Chợt thấy đường ô-tô bằng đất. Chúng tôi dừng ở một
ngã tư, có mấy cái xe đang đỗ. Cả bọn tản ra nghỉ, đợi những toán đi sau. Khi
đã dồn đủ đội hình, chúng tôi lại đi tiếp. Đến một chỗ ngoặt, đoàn quân bắt đầu
lội qua sông bằng một ngầm đá. Nước lạnh buốt làm chúng tôi tỉnh ngủ. Dưới ánh
trăng mờ tất cả xắn quần lên đến bẹn và lò dò thận trọng lội từng bước. Ngầm đá
này làm bằng những hòn đá to như chiếc mũ cối, bị ô-tô qua lại làm xáo lộn lổn
nhổn dưới nước. Khi dẫm lên, hòn đá dễ bị lật, hoặc bị thụt chân xuống kẽ đá,
làm lính ta với đủ thứ lỉnh kỉnh trên người vất vả lắm mới được thăng bằng. Tất
cả vịn vào sợi dây cáp ven ngầm để lội sang. Dây cáp nhiều người bám vào, nên
lúc nó chùng xuống, lúc lại căng lên, làm nhiều cậu vồ ếch. Có cậu ngã ngửa,
chân rút không lên, cứ đành nằm ngâm nước đợi người sau tới kéo dậy. Sang tới
bờ bên kia chúng tôi tranh thủ đi tiếp một quãng dài nữa mới nghỉ. Bên đường là
mấy ruộng rau muống lẫn cỏ, cá đớp tí tóp. Sao lâu tới thế nhỉ? Đã tới một ngôi
làng, bóng tre phủ tối om. Rẽ ngoặt một hồi, chúng tôi dừng lại cạnh kho binh
trạm ở giữa làng, đợi giao liên đưa đi nhận nhà. Hỏi chủ nhà xong, cả lũ nhanh
chóng mắc võng và chìm ngay vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau Tỵ và Quang đi lĩnh thực phẩm. Tôi
củng cố lại chỗ ngủ, sắp xếp lại đồ đạc cho gọn, rồi ra giếng ở góc vườn rửa
mặt. Sau nhà có cái chuồng gà cao như cái lô-cốt, đan bằng nứa. Chủ nhà là một
phụ nữ khoảng 37-38 tuổi, có đứa con trai khoảng 13-14, và mấy đứa nhỏ hơn.
Cũng như ở trạm trước, tôi thấy trên cửa và vách nhà chi chít những dòng chữ,
nên lại rút bút viết mấy dòng lưu niệm. Biết đâu Tiến Dũng đi sau sẽ bắt gặp
những dòng chữ này, tôi mỉm cười nghĩ vậy.
Bỗng anh Y và cậu liên lạc đi từ ngoài ngõ vào. Tôi
ngạc nhiên thấy anh mang cả ba-lô và đầy đủ lệ bộ cùng những thứ thực phẩm vừa
lĩnh. Nét mặt anh vẫn chưa hết bực bội. Thì ra anh có chuyện xích mích với chủ
nhà bên kia và hai ông bà già tỏ ý không muốn cho anh ở nhờ nữa. Anh bèn chuyển
sang đây, thỉnh thoảng lại lầm bầm nguyền rủa. Lúc này Quang và Tỵ đã về, nhìn
thấy đống thực phẩm anh Y mang sang, các cậu nháy nhau có vẻ khoái chí. Quả
thật suất thực phẩm của cán bộ bao giờ cũng tươi hơn của anh em nhiều lắm.
Vì đông người, chúng tôi dọn cơm ra
ngoài sân ăn. Đứa bé con chủ nhà cầm bát sắt chạy tới. Quang xới cơm và lấy
thức ăn cho nó. Hình như chú bé làm việc này đã quen lắm rồi. Nó bê cơm vào
buồng với mẹ, ăn hết nó lại chạy ra xin nữa. Anh Y phá cả gói ruốc thịt lợn nửa
cân bày ra mâm, làm chúng tôi lác cả mắt. Đến lượt gia đình dọn cơm ăn, họ đến
xin chúng tôi mì chính rất tự nhiên.
Trời mây chì. Chợt nghe 3 phát súng, hiệu lệnh báo
có B52 tới. Chúng tôi cũng chẳng biết nấp vào đâu, vì cái hầm chỉ đủ chứa gia
đình chủ nhà. May quá sau đó không có chuyện gì xảy ra.
Buổi chiều có lệnh đi, lại ngược ra kho binh trạm
hôm qua. Tới bãi xe thì trời đã tối, thấy có nhiều bóng người và đốm thuốc lập
lòe. Tất cả ngồi nghỉ dọc theo một con hào phòng không. Mãi hai tiếng sau xe
mới tới. Chúng tôi khẩn trương lên xe, vừa kịp ổn định chỗ ngồi thì chiếc xe đã
bật đèn rồ máy chạy luôn. Đường xóc nghiêng xóc ngửa, nhưng so với loại “Vọt
cứt” thì xe này đỡ hơn nhiều. Có thể loại ZIL130 này bánh sau là bánh kép nên
êm hơn chăng? Trăng đã lên, tỏa ánh vàng nhợt nhạt qua các đám mây mù. Chợt
chiếc xe dừng lại, có lệnh chặt lá ngụy trang cho xe. Anh Y nhảy xuống đường
rút dao găm chặt những cành lá to chuyền lên cho chúng tôi cắm vào thùng xe.
Trong đêm khuya tĩnh mịch chiếc xe của chúng tôi mở hết tốc lực lao trên con
đường giữa những cánh rừng nhỏ.
Đã khuya lắm rồi, xe từ từ giảm tốc độ, hình như đã
đến nơi. Chúng tôi dỏng tai nghe đối thoại giữa anh lái xe và 1 người nào đó
đứng dưới đường: Binh trạm đã chuyển sang chỗ khác. Anh lái không biết vì hôm
nay mới chạy lại đường này. Anh bèn cho xe tách khỏi con đường, chạy đè lên cây
cỏ, những bụi sim mua, có người dẫn đường đứng bên ca bin. Có lúc chiếc xe bị
dệ xuống hố, bánh sau quay tít mà không lên được, chúng tôi phải xuống đẩy. Rốt
cuộc rồi cũng tới được một con đường khác. Chay một lúc nữa thì anh lái tuyên
bố hết đường, tất cả phải xuống đi bộ vào binh trạm. Các xe sau chưa thấy cái
nào đến cả. Anh lái bèn cho xe thụt lùi để chuẩn bị đón một đoàn khách ra.
Chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy đoàn này toàn là những em bé 6-7 tuổi, đội mũ
Giải phóng (mũ tai bèo), cả trai lẫn gái. Giọng Miền Nam của trẻ nhỏ nói nghe
hay hay, chắc là con em cán bộ Miền Nam ra đi học.
Có
lệnh dừng lại đợi bộ phận đi sau. Đây là một quãng đường đất vắng vẻ, hai bên
toàn cỏ và những bụi sim lúp xúp. Chúng tôi đặt ba-lô xuống nghỉ rồi giở cơm
nắm ra ăn. Nhưng chỉ được một lúc, mọi người bỗng ồn ào xôn xao cả lên. Muỗi,
muỗi tấn công tới tấp. Tiếng phì phạch khắp nơi, vì lính ta lấy cành lá đập vào
chân tay hoặc lấy khăn mặt phe phẩy. Không ăn thua gì vì đây là loài dĩn chứ
không phải muỗi. Tất cả phải hạ ống quần, ống tay áo, nhưng chúng vẫn không tha
các ngón tay, bàn chân, gáy, mặt. Phát điên lên được, tôi chồm dậy đi đi lại
lại như một thằng rồ, nhiều người khác cũng vậy. Đến hơn giờ sau mới dồn đủ đội
hình, các A tới sau định ngồi nghỉ, nhưng rồi họ bật dậy ngay vì dĩn, và chúng
tôi vội vàng đi tiếp. Con đường dốc sỏi lổn nhổn, hai bên là đồi cao. Có tiếng
máy bay, rồi đột nhiên hai chiếc F4 xoẹt qua trên đầu, để lại sau một màn tiếng
động rền rĩ. Mấy cái pháo sáng bung ra, leo lét trong ánh trăng mờ. Tất cả bì
bõm lội qua con suối nhỏ. Sương đêm lạnh buốt, đọng lấp loáng trên lá cây hai
bên đường. Nhiều quãng vừa đi vừa phải gạt cành lá sang hai bên lấy lối. Thỉnh
thoảng bị tắc đường phải dừng lại hàng nửa giờ. Đang đà đi mà đứng lại lâu thì
chồn chân lắm. Nhiều cậu cứ phải dậm chân tại chỗ. Một số khác đưa súng ra sau
làm que chống nâng Ba- lô lên cho đỡ nặng. Vài cậu quăng mình nằm xuống vệ
đường, đè lên cả ba- lô, để rồi lại vội vã đứng dậy đi tiếp khi có lệnh. Tôi đi
như người mộng du. Hình như lại lội qua một lạch nước nhỏ và bắt đầu đi lên quả
đồi có nhiều cây cao to, âm u. Bãi khách (1) đây rồi, khắp nơi í ới căng tăng
mắc võng. Tôi và Đệ mắc hai võng liền nhau rồi chìm ngay vào giấc ngủ mê mệt.
(1) "Bãi khách“ là tên gọi một
kiểu trạm giao liên thời chống Mỹ, nơi nghỉ tạm của của bộ đội, TNXP, cán bộ...
giữa rừng, trên đường hành quân vào chiến trường và từ chiến trường ra. Nhà thơ
Xuân Sách có bài thơ "Trạm giao liên và bãi khách“ có những câu: Trạm giao
liên nhỏ như cái nấm/ Chủ có dăm người khách thì hàng vạn/ Lo ăn lo ở toát mồ
hôi/ Mà trước nhà còn có khóm hoa tươi/ Khách toàn những chàng trai trẻ đẹp/ Cô
chủ nhà giữ vẻ nghiêm trang:/ - Các anh ngủ, ngày mai còn đi tiếp/ Nhưng cả
rừng lại cất tiếng cười vang/ Giữa những khuôn mặt hiền như ánh trăng/ Nào có
biết ai sẽ là dũng sĩ/ Ai sẽ tung hoành trong trại đồn giặc Mỹ/ Ai là anh hùng
đốt cháy xe tăng?/ Ai ngày sau thám hiểm Trường Sơn/ Có còn nhớ trạm giao liên
mọc như cái nấm/ Và bãi khách, rừng cây mòn vết võng/ Đã đi qua một thời đại
anh hùng (BT).
Sáng hôm sau tôi
cử Đệ nhóm lò nấu ăn, còn mình cầm Ny-lông đi lấy nước. Cái lạch tối qua chúng
tôi lội qua rất bẩn, nước tù, xâm xấp mắt cá chân, ngập đầy lá cây mủn đen, hôi
thối. Tôi phải đi ngược dòng, tới 1 chỗ lòng lạch rộng hơn, 2 bên vòm nứa âm u,
nước khá trong, có rong lượn lờ ở dưới. Tôi vục nước vào Ny-lông túm lại vác
về. Đệ đã chọn bếp và nhóm lò xong, chúng tôi nấu cơm rồi hâm thịt hộp. Khắp
bãi khách cũng đang ý ới tiếng gọi nhau, tiếng chẻ củi... Bọn B3 mãi không nhóm
nổi lò, chắc chọn phải cái bếp Hoàng Cầm tồi quá. Tiểu đội tôi đã đàng hoàng dỡ
cơm ra ăn. Anh Y có vẻ hài lòng, mang 1 gói ruốc thịt nữa ra cùng ăn với chúng
tôi. Bọn B3 cuối cùng đành phải sang xin nấu nhờ bếp. Thành và Phái nằm 1 góc
sát với B3, chúng lười quá, lay mãi mới chịu dậy ăn cơm. Xong xuôi, anh Y đi
họp, tôi cầm nilông đi lấy thêm nước. Dọc đường tôi cố để ý xem có gặp Đại
Cường, Quốc Hưng hoặc Phổ Thọ (những người bạn cùng trường) không? Hưng tôi đã
gặp ở Nghĩa Đàn, đen và khỏe, ở trường cậu ta tập xà kép rất giỏi. Còn Cường và
Thọ thì chưa gặp. Khi trở về, anh Y ra lệnh nấu cơm nắm, chuẩn bị hành quân
ngay.
Mặc dù còn rất mệt, chúng tôi vẫn phải
thu dọn đồ đạc, tập hợp nghe anh Y phổ biến. Sẽ hành quân bộ, lá ngụy trang
được cắm vào ba-lô. Tôi lơ đãng nhìn chùm hoa phong lan đuôi sóc màu vàng nhạt
bám lủng lẳng trên một thân cây. Chợt nhớ bi-đông mình rỗng không, tôi vội chạy
đi lấy nước. Hỏi đường mấy cậu cầm bi-đông đi ngược lại, tôi chạy sâu vào rừng.
Tới một hồ nước nhỏ, xung quanh là vách đá, dây leo um tùm, tôi thận trọng trèo
xuống. Một tấm ván áo quan sơn đỏ đã phai dùng làm cầu, cạnh cầu có lạch nước
tuôn vào hồ làm nước hồ sủi lên ùng ục. Xung quang tĩnh mịch quá khiến tôi rờn
rợn: nếu bất chợt một mõm cá sấu nổi lên giữa hồ thì sao? Tôi vục bi- đông thật
nhanh rồi vội vã bám dây leo ngược lên, chạy biến về đơn vị.
Đoàn quân lên đường. Đi dưới tán lá của rừng già
Trường Sơn, chúng tôi rất yên tâm mặc dù máy bay Mỹ đang quần đảo trên đầu. Khi
nghỉ giải lao, cả bọn ngồi dạt vào các lùm cây ven đường cho các C sau vượt
lên. Ngồi nhìn từng khuôn mặt lướt qua để tìm người quen. Ba-lô, xanh-tuya,
súng đạn, thùng đạn lỉnh kỉnh diễu qua. Một cậu dáng thư sinh đi tới. Đôi mắt
cậu ấy đẹp quá, như mắt con gái, lông mi dài cong, lòng trắng trắng xanh. Tôi
nhớ ra cậu này là bạn của Duy Minh, tiếc là Duy Minh không có ở đây. Gặp cậu
Bình, trước học cùng Trường Đoàn Hoàng Văn Thụ, tay xiết chặt tay, ai ngờ lại
gặp nhau ở rừng Trường Sơn này. Chúng tôi lên ba-lô đi tiếp. Máy bay Mỹ vẫn
quần đảo trên đầu, tôi vừa đi vừa theo dõi chúng. Lính đại đội trước đã dạt vào
vệ đường nghỉ, các cậu ấy vừa cười nói vừa ngắm chúng tôi diễu qua. Cảnh như
vậy cứ lặp đi lặp lại mãi. Hình như bọn Mỹ đánh phá ở hướng chúng tôi đang đi
tới, tiếng bom ình ình, máy bay gào rú trên đầu. Qua vòm lá rừng già tôi thấy
một tốp 4 chiếc F4 chui vào mây. Tiếng rít váng óc lao qua cùng với một chiếc
F4 bay rất thấp, để lại dải khói đen dài. Tới một chỗ nghỉ khác, cả bọn ngồi
ngắm mấy chú sóc đang chuyền cành. Chúng nhỏ bé, màu đen hoặc vàng bẩn, không
đẹp như trong sách và phim ảnh thường thấy. Hành quân bộ tốn nước thật, tôi
phải uống hết sức dè sẻn. Từ sáng đến giờ thấy toàn lên dốc, hết cái dốc này
đến cái khác, chắc đang đi lên đỉnh một quả núi nào đấy. Ở một vài chỗ nghỉ,
tôi nói chuyện với anh Ngạn B3, trước là giáo viên cấp II (anh Ngạn về sau hy
sinh khi vượt sông Thạch hãn tháng 11.1972). Đội hình trở nên loạc choạc, mạnh
ai nấy đi, lính C này lẫn với lính C khác. Một số cậu nằm thẳng cẳng trong các
búi cây ven đường. Cái dốc hầu như vô tận, thỉnh thoảng nó chùng xuống để rồi
lại cao vút lên. Trước một đoạn dựng đứng, chúng tôi phải nghỉ lấy sức, ngồi
ngổn ngang trên các thân cây đổ. Cái dốc khủng khiếp thật. Mũi người sau chạm
gót người trước, và cái ba-lô người trước luôn lủng lẳng trên đầu người sau.
Phải dùng cả bốn chi, bám vào cây cối hai bên đã tơi tả mà nhích lên. Vô phúc
nếu có cậu nào ở phía trên tuột tay, chắc cả một dây người phía dưới sẽ gặp tai
họa. Tôi bò lên khỏi dốc, cố đi vài bước nữa rồi ngồi phịch xuống nghỉ. Xung
quanh đấy cũng có nhiều lính đang nghỉ. Tôi rút bi-đông nước lã ra, đem pha
đường sữa vào và uống luôn. Nhiều cậu khác cũng làm như vậy, mà chả bao giờ
thấy đau bụng cả.
Vùng núi chỗ này nhiều cây lá nón quá,
mới đầu tôi cứ tưởng lá cọ. Dưới tán lá cây cổ thụ rừng già là giang sơn của lá
nón. Sau này tôi mới hiểu câu thơ “...mà rừng lá nón đêm nay ngời ngời” là như
thế nào. Tôi và Tỵ uống nước xong lại đi tiếp. Đến chỗ có mấy người nghỉ, thấy
một cán bộ đang nói chuyện. Chúng tôi xem khẩu súng lục của anh và tý toáy học
cách sử dụng. Hình như đỉnh cao nhất đây rồi, vì sau nó tôi thấy con đường dốc
hun hút. Mặt trời đã ngả về tây, như vậy là lên đến đỉnh dốc chúng tôi đi mất
nửa ngày. Xuống dốc tốc độ có nhanh hơn một chút. Qua màn lá thoáng thấy đỉnh
quả núi bên cạnh, thấp hơn chúng tôi nhiều, đỉnh của nó xanh đen và mờ mờ như
phủ khói. Xuống dốc thường có xu hướng chạy, tất cả đồ đạc trên người mình đều
muốn kéo mình chạy. Cậu Tỵ lúc đầu còn chạy từ từ, sau mỗi lúc một nhanh và
cuối cùng thì vấp vào rễ cây ngã sóng soài ra đất, ba-lô cùng nồi xoong lộn qua
đầu bay xa gần chục mét. Tôi chạy lại nâng dậy, may không việc gì cả, chỉ trầy
da tí.
Xuống dốc cũng khốn khổ. Những người sống nhiều ở
rừng núi đều khẳng định rằng xuống dốc (nhất là dốc cao) khó nhọc hơn lên dốc.
Thật vậy, xuống dốc chồn chân không thể tả được, gân cứ phải chùng liên tục, bánh
chè muốn rơi ra ngoài. Nhiều đoạn phải ngồi bệt xuống, trượt đi từng tí một. Có
những chỗ đường dốc hẳn về một bên, lại nhiều người đi nên đã nhẵn thín, dễ
trượt xuống dưới lắm. Thỉnh thoảng lại cảm thấy như đang đi một mình, đằng
trước đằng sau chẳng có ai cả. Có đoạn đi bên sườn núi, nhìn ra phía đông xuyên
qua tán lá rừng, có thể nhìn thấy biển xa tít tắp. Rồi những cồn cát trắng nhỏ
xíu, đồng ruộng, làng mạc xanh mờ và một dòng sông bạc đang uốn khúc, y như
trên máy bay nhìn xuống. Tự nhiên lúc đó tôi thấy tự hào vô cùng. Dầu sao đôi
chân của tôi cũng đã in dấu trong rừng Trường Sơn, in dấu lên con đường lớn của
dân tộc, và lòng tôi cứ ngân lên hai câu thơ của Tố Hữu: “Xẻ dọc Trường Sơn đi
cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
Tôi đang ngồi nghỉ ở lưng dốc thì thấy
một toán lính C50 đi tới, trong đó có Phổ Thọ. Thoáng chút bất ngờ, Phổ Thọ
ngồi lại nói chuyện với tôi. Chắc 5h chiều rồi, chúng tôi đứng dậy. Thọ bảo tôi
đi sau nhé, vì cậu ta không thể đi lò dò xuống dốc được, chồn chân lắm, mà phải
chạy. Tôi chưa kịp can thì Phổ Thọ đã lao xuống dốc, với chiếc ba-lô kếch sù và
đủ thứ lệ bộ súng ống trên người. Cậu ta thoăn thoắt nhảy qua các rễ cây với
một tốc độ kinh người, và hun hút biến mất ở chân dốc. Một lúc sau tôi lại gặp
Thọ đang ngồi nghỉ ở ven đường. Chúng tôi pha nước đường chia nhau, nước hứng ở
một mạch đá nhỏ giọt gần đấy. Trời gần tối, xung quanh lính nghỉ ngổn ngang,
nhiều cậu mặt mày xanh xám. Một số khác kiếm củi nước tính chuyện nấu cơm ăn
nghỉ tại đây. Hình như binh trạm không còn xa lắm. Thọ lại đứng dậy đi trước,
cậu ta nói đến nhận chỗ ở để nấu cháo cho tiểu đội.
Trời tối hẳn. Chúng tôi dò dẫm từng bước như đi
trong hũ nút. Rồi bỗng nghe thấy nhiều tiếng í ới, thỉnh thoảng lại lóe lên vài
đốm sáng của bật lửa. Tôi căng mắt nhìn, thấy cạnh các gốc cây lô nhô nhiều cọc
phụ. Tôi gọi to để tập hợp tiểu đội, rồi nhanh chóng căng tăng mắc võng. Đói và
mệt, chúng tôi cũng chẳng buồn nấu ăn nữa, leo lên võng ngủ luôn.
Sáng, đi tìm bếp nấu ăn. Hôm nay đến
phiên Thành “ma tịt” và Phái “con”, hai cậu lười nhất tiểu đội làm cơm. Qua một
ngày mệt nhọc và một đêm li bì, hai cậu không muốn dậy. Tôi kiên quyết dựng cổ
hai tên này lên bắt làm việc. Cả A được lệnh đi kiếm củi, giúp nhóm bếp. Tôi
xách ni-lông đi xuống suối. Có chỗ dòng suối đang hẹp bỗng phình rộng ra và sâu
xuống, bốn xung quanh và đáy toàn đá rất to, màu đen, được nước mài nhẵn thín.
Lính ta tụ tập khá đông để rửa mặt và lấy nước. Chúng tôi đào 1 hố gần bếp, lót
ni-lông làm bể chứa và đổ nước vào. Sau đó tôi cũng cầm dao đi chặt củi. Nói
chung củi khô rất hiếm, những cành nằm dưới đất thì cong queo và còn tươi cả.
Chúng tôi phải tìm những cọc phụ cũ, giá ba-lô cũ, và tốt nhất là những bếp
Hoàng cầm cũ, phá ra để lấy củi. Nước uống trở thành nhu cầu cấp thiết, có bếp
đun, tội gì mà uống nước suối. Mọi người tranh nhau xoong nước sôi để đổ vào
Bi-đông. Vài cậu còn lấy ống coóng (ống bơ) đun nước riêng.
Cơm chỉ có món độc nhất là canh đồ hộp, vị gây đến
buồn nôn. Tôi ăn chẳng được mấy, cảm thấy hơi mệt. Hôm nay mà đi tiếp thì thật
là gay, may quá, anh Y đi họp về tuyên bố hôm nay nghỉ. Tôi thơ thẩn đi ra
suối. Lính ta đang tắm khá đông. Nhảy trên các phiến đá, tôi ngược lên phía
thượng nguồn, nơi quang cảnh rất vắng lặng. Tôi ném vài hòn cuội đuổi các chú
cá con rồi quay về. Mấy hôm nay bắt đầu có triệu chứng đi ỉa lỏng. Tôi sờ đến
hộp thuốc cá nhân, sực nhớ còn có con sâm cao-ly gia đình trang bị cho, bèn lấy
mấy miếng vụn để ra ngoài để khi cần dùng được ngay. Trên đường về gặp Tiểu
đoàn trưởng Khanh đang chỉnh mấy cậu lính ỉa bậy bừa bãi.
Đến chiều có lệnh nấu cơm nắm chuẩn bị sáng mai đi
sớm. Tôi cảm thấy mệt vô cùng bèn lên võng nằm. Chợt nghe có ai gọi tên mình,
nghe như tiếng của Duy Minh. Đúng thật, bộ phận đi sau đã tới. Tôi ngồi dậy đón
Duy Minh với Lâm Thành, Chính, Đường. Họ rất mệt, không hiểu mai có hành quân
tiếp được không?. Tôi động viên họ và giúp tìm chỗ căng tăng mắc võng. Tôi nằm
nhưng không ngủ được. Mệt quá, có lẽ ta ốm chăng? Hậu quả của mấy ngày leo núi
cật lực chăng?. Đêm trong rừng già Trường sơn thật tĩnh mịch. Nhiều lúc mở căng
mắt mà không thấy gì, bóng tối đặc quánh tưởng có thể xắn ra được. Tôi nằm nghe
tiếng sương rơi lộp độp trên mái tăng mà lòng nhớ nhà da diết. Không biết mình
có bao giờ còn được trở về nhìn thấy ngôi nhà bé nhỏ ấm cúng, thấy cái nhà Quàn,
thấy phong cảnh Hà nội từ trên gác thượng nhà Tiến Dũng nữa không?. Rồi biết
bao hình ảnh cũ lại diễu qua: bạn bè, nhà trường, phố phường. Nhớ nhung đến đau
xót, nhiều lúc tưởng không chịu được. Đây chính là lúc đấu tranh tư tưởng căng
nhất: Đảo ngũ hay không Đảo ngũ?. Trời ơi, mệt quá, nặng nhọc từng hơi thở, mặc
dù người cảm thấy nhẹ tênh, môi khô, miệng đắng. Ở nhà mà hơi mệt một tý thì
phải biết, hết mẹ đến bà, nhất là bà, lo cuống lên, nào xông hơi nào cháo hành
nào thuốc cảm. Ở đây thì nằm cô đơn co quắp trong 1 xó rừng, chết cũng chẳng ai
hay. Nhưng chẳng lẽ vì vậy mà đảo ngũ? Dù sao suốt 10 năm trời tôi đã luôn là
học sinh tiên tiến, từng viết những bài văn rất hay với những câu kết hùng hồn,
mà tôi thì không quen nói một đằng làm một nẻo. Tôi nhớ đến Bác và những lời
hứa trong ngày Quốc tang, nhớ đến danh dự của Gia đình, của bố mẹ. Không, chết
thì thôi chứ không chịu làm điều nhục nhã, phải làm 1 người chân chính, có nghị
lực như Pavel Corsaghin. Và đâu phải chỉ có mình tôi trải qua cảnh ngộ này. Bao
năm nay, hàng triệu người đã từng nằm võng trong đêm tối âm u của núi rừng,
cũng đã chịu những dằn vặt âm thầm ghê gớm. Nhưng họ đã đứng vững, để rồi sáng
hôm sau những tin chiến thắng vẫn dồn dập gửi về. Không, tôi nhất định không
chịu thua kém họ. Càng nghĩ càng thấm thía câu nói đơn giản: “Dân tộc ta là 1
dân tộc anh hùng”. Đúng là 1 dân tộc anh hùng, vì đã có hàng triệu người con
anh hùng, mà chỉ cần họ chiến thắng họ trong một đêm như đêm nay cũng đã đủ
xứng đáng với danh hiệu đó. Tôi cứ nằm như vậy, mắt mở trừng trừng nhìn vào đêm
tối và người mệt mỏi rã rời.
Khoảng 4 giờ sáng
có lệnh chuẩn bị, tất cả tất bật cuốn tăng võng xếp vào ba-lô. Người mệt bã,
thở phào phào như hết hơi, tôi lo lắng nhấc thử cái ba-lô nặng trịch, rồi mở ví
lấy một mảnh sâm cho vào miệng. Trong bóng đêm, chúng tôi lên đường, người nọ
bám vào ba-lô người kia. Thỉnh thoảng lại vấp vào rễ cây đau điếng. Quái, sao
mà đi nhanh như ăn cướp thế này? Vượt qua một cái lạch nhỏ, lách mấy hòn đá,
lính ta đi vội vã, thở hổn hển. Đại đội tôi đi thứ ba nên vất vả, vì vậy khi có
lệnh nghỉ 15 phút, tôi tranh thủ vượt lên phía trên đầu đội hình. Đường hẹp,
lính nằm ngổn ngang, tôi lách qua rất khó khăn, đi đến đâu tiếng phản đối ồn ào
đến đó. May thay có một cán bộ, theo sau là liên lạc, đang cần lên gặp ban chỉ
huy Tiểu đoàn ở phía trên. Tôi vội bám luôn vào sau cậu liên lạc, thành ra đi
đến đâu người ta nhường đường đến đó. Ban chỉ huy Tiểu đoàn vẫn đang nghỉ, anh
Khanh thỉnh thoảng lại nhắc truyền xuống: “C52 lên đủ chưa, báo cáo?!”. Trong
bóng tối, mấy cậu liên lạc tiểu đoàn cũng không nhìn rõ mặt nhau, nên tôi đi
lẫn vào họ.
Nguyễn Quang Vinh
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng
Trị - Trên Đường Đi B (3)
Đường nhiều chỗ
trơn, mỗi người một gậy dò chống. Đi đầu là người dẫn đường, rồi đến D trưởng
Khanh, một cậu liên lạc và tôi. Đằng sau là mấy cậu liên lạc nữa rồi tới C51.
Chúng tôi đi rất chậm, nhưng vẫn biết là ở phía cuối đội hình đang phải đi như
chạy, nên thỉnh thoảng anh Khanh cho dừng lại nghỉ một lúc. Ra khỏi cửa rừng,
đoàn quân lội trên một con suối, thỉnh thoảng nhô lên vạt cỏ lác. Nước lạnh
buốt, nhiều chỗ chảy xiết. Chả hiểu sao mà suối mỗi lúc một sâu hơn, anh Khanh
đã bị nước ngập đến bụng. Anh nghi ngờ, gọi cậu dẫn đường lúc này cũng đang ngơ
ngác ở phía trên. Cuối cùng rồi cũng ổn, chúng tôi đi theo lối mòn trong thung
lũng lớn, hai bên có những bụi cây nhỏ. Chúng tôi ngồi nghỉ khá lâu để chờ dồn
đội hình. Cậu dẫn đường đã đi lên trước để liên hệ thuyền, hình như chúng tôi
sắp vượt sông thì phải? Tôi cảm thấy người hết mệt mỏi, lúc này mới thấy tác
dụng kỳ diệu của sâm Cao- ly. Mảnh sâm trong mồm đã tan hết, tôi lấy tiếp một
mảnh nữa ra ngậm. Vị nó nhàn nhạt và ngọt lờ lợ, nhưng nếu không có nó thì đoạn
đường vừa qua tôi gay rồi. Đã thấy mặt người mờ mờ, biết không trà trộn được
nữa, tôi trở về đại đội của mình. Ra đến bờ sông thì thấy nhiều con thuyền đã
đợi sẵn. Mỗi con thuyền trông dường như nhỏ bé ấy không ngờ lại có thể chở gần
hết một đại đội cả trăm người. Lính lên thuyền lộn xộn. Tôi thấy có một thuyền
ít lính chen lên, bèn trèo vào. Thì ra đây là thuyền chở bộ đội tỉnh Quảng
Bình. Chậc! miễn là sang được bờ bên kia, tôi nghĩ. Nghe mấy anh lính này và
mấy o Quảng Bình nói chuyện, thăm hỏi và đối đáp nhau với cái giọng miền Trung
ríu rít, tôi thấy vui vui. Thuyền chưa cặp bờ, tất cả đã nhảy ào xuống nước.
Dưới đáy toàn cát, nước trong vắt, lính ta hăm hở tháo bi-đông nhấn xuống sông
lấy nước. Đây là sông Nhật Lệ chăng?
Tất cả chạy qua bãi cát lún lên bờ, tập hợp và lại
đi hối hả. Bắt đầu leo dốc, luồn lách trong đám lau sậy và những bụi cây nhỏ
rậm rạp. Leo được nửa tiếng thì có lệnh nghỉ 15 phút. Chúng tôi giở cơm nắm ra
ăn. Anh Bính tuyên bố đi theo đội hình trung đội, anh đi đầu, không ai được
vượt. Lại bắt đầu xuống dốc, tới mỗi chỗ nghỉ, ai cũng mệt nhoài. Tôi mò đến
chỗ Chí Thành, hai đứa giở cục cơm nắm còn lại ra ăn hết. Anh Bính rất bực với
mấy cậu đi chậm. Ở một chỗ nghỉ, chúng tôi ngồi đã khá lâu mới thấy Long “già”
A6 lò dò đến, trông thật nhếch nhác. Khẩu súng đập lủng củng vào chân cậu ta,
cái nắp xoong sau đít đưa qua đưa lại, mặt thiểu não trông thật “già”. Anh Bính
quát tháo, Long “già” cự lại, kết quả là cậu ta bị ăn một cái tát nên thân.
Nhìn cảnh ấy chúng tôi ôm bụng cười, tuy thâm tâm không hài lòng lắm.
Lại men theo một khe suối. Chúng tôi
uống nước kinh thật. Đây là cái suối tù, nhiều chỗ nước rất bẩn. Nhưng khát quá
nhiều cậu vẫn phải múc và cho thuốc lọc vào uống. Tôi cũng định múc, nhưng Long
“cồ” ngăn lại và san cho một ít nước sông trong bi-đông của cậu ta.
Chúng tôi lần theo một con đường ô-tô
đang mở trong rừng. Một con đường chưa có vết bánh xe, bí ẩn dưới vòm lá cây
rừng, đất mới đào màu vàng ướt. Tất cả những gốc cây trên nền đường đều được
trốc đi, nhiều chỗ phải cắm lá cây lên mặt đường để ngụy trang. Chúng tôi rất
ngạc nhiên và kính cẩn nhìn ngắm con đường, thành quả của sức lao động phi
thường. Bắt đầu đi trong rừng lau, hình như ô-tô cũng đi được theo những lối
này. Tất cả vừa đi vừa ngắm những hòn núi đá đơn độc nhô lên trên cánh rừng lau
bạt ngàn. Chợt gặp hai anh bộ đội Giải phóng (1) mặc bộ đồ vi-ni-lông mầu nâu
đi ngược lại, cả bọn trầm trồ khen những con dao găm đẹp của họ.
(1) Trong chiến tranh chống Mỹ, bộ đội chủ lực chia
làm hai. Quân Giải phóng do Mặt trận DTGP Miền Nam Việt Nam quản lý, có trang
phục riêng khác với bộ đội Miền Bắc; cờ và sao nửa đỏ nửa xanh, nhưng thường
không đeo quân hàm, quân hiệu. Trên thực tế, lãnh đạo thống nhất, quân đội
thống nhất.
Tôi thấy lính ta xúm quanh một người dân tộc đứng
sau hàng rào gỗ. Ông ta bán cam trong vườn. Cam còn non và xanh, ăn như chanh
mà ông ta bán những năm hào một quả. Lúc này tôi mới nhận thấy trên vách núi có
một hang đá. Mấy người dân tộc và một lũ trẻ con lau nhau đứng ở cửa hang ngắm
nhìn bộ đội. Tôi thấy họ có cả súng CKC. Hai anh Giải phóng, một già một trẻ,
đang đứng ở phía dưới, tay cầm mấy mớ rau và con gà, đang nói chuyện với họ, ý
chừng hai bên trao đổi gì đó cho nhau.
“Người Vân Kiều!”, ai đó nói. À, ra đây là người
Vân Kiều. Họ có vẻ nghèo khổ, đen đúa, ăn mặc lam lũ, nhưng tôi đã được nghe
nhiều về tinh thần cách mạng của họ.
Dọc lối đi thấy nhiều vết đạn 20ly của máy bay bắn
xuống. Lại nghỉ 15 phút, tôi ngồi nói chuyện với Lâm Thành và Chí Thành. Con
đường vẫn men theo vách núi đá, nhiều chỗ đá tạo thành những bãi chông nhọn sắc
đâm thẳng lên trời, đi qua phải hết sức cẩn thận. Có những hòn đá trên mặt rỗ
hoa tạo thành nhiều lỗ có gờ rất sắc, vô ý bám tay vào là chảy máu. Nghe tiếng
từ lâu, giờ mới thấy mặt đá tai mèo, quả là ghê thật.
Tôi đang đi chợt thấy phía trước xôn
xao. Thì ra có một hàng mía bán ở hốc đá ven đường. Thảo nào lúc nãy đi qua
rừng lau thấy con đường phủ kín bã mía. Mía nhỏ như cây sậy mà cũng lăn vào
mua, một hào hai tấm. Long “cồ” xông vào mua được sáu tấm, chúng tôi mỗi đứa
cướp một tấm.
Đoàn quân đang đi dọc con suối khá rộng, nước
trong, hiền hòa. Hai bên bờ có những cây lá giống lá trúc đào, xòa xuống là là
mặt nước trông thật đẹp. Gặp một đoàn người đi ngược ra, hóa ra toàn tù binh
mặc quần áo rằn ri, mấy cậu vệ binh súng cắm lưỡi lê lăm lăm áp giải. Cậu Hòa
“chó” nhặt mấy hòn đá ném tới tấp vào đám tù binh, làm mấy người đó phải giơ
tay che đầu.
Thấy điệu bộ hoảng sợ của họ, tôi bảo Hòa:
“Mày thôi ngay đi. Mày có muốn khi mày bị bắt người ta ném vào đầu mày như vậy
không?” Cậu này trước khi nhập ngũ thuộc loại lưu manh đường phố, hay ăn cắp
vặt của anh em trong đơn vị.
Đã quá nửa ngày rồi, tất cả đều thở không ra hơi,
thì tới một khu vực giống như bãi khách. Chúng tôi tách khỏi con suối lớn, đi
men những theo những lạch nước bẩn thỉu. Khắp nơi vỏ đồ hộp lăn lóc, bên các
thân cây lô nhô cọc phụ và các giá ba-lô đã khô nỏ. Vẫn chưa có lệnh dừng, đoàn
quân đi lê lết, rời rạc. Tôi và Chí Thành tạt sang một bên ngồi. Tôi chạy xuống
khe lấy nước rồi đem đường sữa của Chí Thành ra pha uống. Nghỉ cho đỡ mệt một
chút, hai đứa lại lên đường.
Mãi gần tối mới tới chỗ dừng chân. Chúng tôi căng
tăng mắc võng cạnh đường đi, trên triền đồi, phía dưới là khe nước. Tổ trực
nhật mang nồi xuống khe nấu cơm, tôi xuống theo. Nước bẩn thật, thỉnh thoảng
mới có một hốc đào bên rìa suối, nước sạch hơn một tí. Dọc khe, các B khác cũng
đang nổi lửa. Có lệnh phải nấu bếp Hoàng Cầm, nhưng chả A nào đào, rốt cuộc vẫn
kê đá lên nấu. Vất vả lắm rồi cuối cùng cũng được ăn, tôi bảo Duy Minh lấy hai
hộp thịt ra chia cho anh em. Võng tôi nằm cạnh Phái “con” và Thành “ma tịt”.
Hai cậu này chuyên môn nấu ống coóng, khi thì nước, khi thì cháo. Nấu như vậy
là phạm kỷ luật, vì khói lên dễ lộ vị trí, máy bay sẽ đến đánh bom, tôi đã nói
mãi mà hai cậu ấy không nghe.
Hôm sau củng cố lại tăng võng. Cậu Phát A5 nằm gần
đấy bị đứt dây võng, ngã dúi đầu xuống đất mãi không dậy được. Hình như Lâm và
Chí Thành có điều gì đó không bằng lòng nhau. Chí Thành phàn nàn với tôi là mất
mũ mà Lâm có hai cái lại không cho mượn. Duy Minh bận túi bụi với bếp nước. Bọn
Thành, Phái kiếm củi đun riêng thì giỏi, chứ kiếm củi cho A hoặc làm chung thì
rất lười. Sao tôi ghét tụi này thế. Nhưng với tư cách A trưởng, tôi vẫn phải
nói cười ngọt nhạt với chúng để động viên chúng lao động. Hình như chúng đã ăn
riêng số đồ hộp của A phát cho chúng mang, thật là tồi tệ.
Vấn đề đun nấu là một vấn nạn. Từ dưới khe, nhiều
lúc khói bay lên làm chúng tôi phải kêu ầm ĩ. Anh Hồng, Chính trị viên đại đội,
chạy lồng lộn ngược xuôi quát tháo những cậu đầu bếp. Những cậu này mặt mũi đỏ
gay, nước mắt dàn dụa, đang phồng mang trợn mắt thổi mà lửa vẫn không lên, khói
bốc mù mịt. Có chỗ như bếp B4, anh đã phải dội nước vào dập vì quá khói, mặc dù
mấy cậu đầu bếp nhìn anh đầy căm tức. Biết làm thế nào được, nhiều khi phải tàn
nhẫn. Anh từng nói, có mấy cậu Dũng sĩ “đù mẹ đù cha” đun ống coóng, máy bay
đến ném bom chết mất xác, lại còn chết thêm cả mấy đơn vị bên cạnh. Giữ được
chuyện khói lửa quả là vất vả.
Có lệnh chiều đi. Nấu cơm nắm, nước uống đàng
hoàng, sẩm tối tất cả cuốn tăng võng lên đường. Lại những cây lá nón, những cái
dốc, những khúc gỗ mục ngang đường. Chúng tôi đi thoăn thoắt, thấy bảo còn 2km
nữa thì ra đến đường ô-tô. Sắp được đi ô-tô nữa rồi, tuy có xóc thật, nhưng còn
hơn cuốc bộ. Đột nhiên từ phía sau truyền lên: “Phía trước dừng lại”. Thấy cậu
liên lạc dẫn đường đi ngược hàng quân, vai vác khẩu AR15, chúng tôi ngồi ngả
ngốn bàn tán về khẩu súng lạ. Chợt có lệnh truyền: “Quay lại” làm cả bọn sửng
sốt. Chúng tôi trở về cũng nhanh như lúc đi mặc dù không được vui lắm.
Lại căng tăng mắc võng vào chỗ cũ. Sao mà nhớ nhà
thế. Biết bao sự việc ngày nào ở trường ở lớp hiện ra như mới hôm qua, vậy mà
bây giờ tôi đã nằm đây, trong bãi khách của một cánh rừng Trường Sơn này.
Nửa đêm mưa to, sáng hôm sau thấy hai đầu võng bị
ướt. Chẳng sao, đến chiều khô ngay mà. Hình như tối qua Duy Minh bị ướt hết,
phải sang nằm chung võng với Đường “cóc”. Lại cảnh đun nấu ầm ĩ về chuyện khói
lửa. Mấy hôm nay bắt đầu phải dè sẻn gạo. Nhiều chỗ mấy cậu xúm quanh ống coóng
cháo húp xì xụp. Đến chiều lại có lệnh nấu cơm nắm. Tôi và Chí
Thành mượn xoong nấu 1 nồi cháo húp với
nhau, rồi nấu nước nóng đổ đầy bi-đông 2 đứa.
Lại con đường hôm qua. Ra khỏi rừng già, đi giữa
rừng thưa, rồi ngồi tản mạn ven đường cái đất đỏ chờ xe. Trời sẩm tối thì xe
tới, cả loại Vọt tiến lẫn Hoàng hà. Sau một hồi chạy ngược xuôi, chúng tôi trèo
lên 1 chiếc Hoàng hà. Trời tối hẳn, chiếc xe nhảy chồm chồm trên đường. Có chỗ
nó bò chậm rì rì, thận trọng. Có chỗ bất ngờ nó chổng mông lên trời, làm tất cả
chúng tôi bị dồn tụt xuống phía ca-bin. Rồi nghe có tiếng nước rào rào dưới
bánh xe, chắc đang lội qua hố bom hoặc ngầm. Xe có mui bạt nên chẳng nhìn thấy
gì, cả bọn ngủ gà ngủ gật. Xe chạy chắc đã lâu lắm rồi. Chúng tôi chợt tỉnh khi
thấy xe dừng lại, đến nơi rồi ư? Tất cả xốc lại trang bị rồi nhảy xuống xe.
Sương lạnh, cả bọn co ro bên con đường lầy lội. Thì ra xe không vào được nữa vì
đường xấu, chúng tôi phải đi bộ đến bãi khách. Muỗi bắt đầu tấn công, đoàn quân
men theo ven đường mà bước, bùn lép nhép. Rồi tới một cái bãi rất rộng, có mấy
người đang đi ngược lại, họ nói sắp tới bãi khách. Chưa tỉnh ngủ hẳn, lại thêm
trời tối đen như mực, nên tôi bước như trong mơ. Mấy vũng nước sáng trắng trong
đêm tối.
Chợt có tiếng máy bay ì ầm. Rồi đột nhiên một chiếc
máy bay xoẹt qua rất thấp trên đầu chúng tôi, kéo theo màn tiếng động rung óc.
Tất cả đang bối rối thì có tiếng “pục!” khô nhẹ phát ra ngay phía trên. Một ánh
chớp lóe lên, và lập tức mặt đất bị chiếu sáng đến khủng khiếp. Mọi vật phơi
bày trước mắt tôi, rõ đến nỗi tưởng cái kim dưới đất cũng nhìn thấy.
Tôi thấy mình đang đứng dưới lòng đường trống trải,
nghĩ bụng: “Thôi hỏng rồi, thế này thì nó nhìn thấy mất, thế là hết!” và chạy
vội vào bên đường. Quả pháo sáng vẫn cháy xèo xèo, vừa rơi vừa quay chậm chạp
trên đầu chúng tôi, kéo theo một cái đuôi khói trắng lơ lửng. Trước mặt tôi,
một toán lính ta đang chạy tán loạn dưới ánh pháo sáng. Tôi bực bội nghĩ: “Sao
chúng nó ngu đến thế, chạy vậy thì chết hết!” Tiếng máy bay vẫn rền rĩ. Phía xe
chúng tôi lúc nãy xuất hiện hai quả pháo sáng, rồi tiếng bom bi nổ rầm rầm.
Không hiểu mấy xe đi sau có làm sao không? Anh Bính quát tất cả tìm hố hai bên
vệ đường mà nằm. Quả pháo sáng trên đầu chúng tôi bắt đầu lụi dần, chiếc dù đưa
nó đi khá xa. Lợi dụng lúc máy bay vòng xa, ánh pháo sáng chưa tắt, chúng tôi
lẩn nhanh vào đường rừng. Lần đầu tiên bị pháo sáng rọi thẳng trên đầu kể cũng
hốt thật. Rõ thế, tưởng nó nhìn thấy hết, không ngờ mắt phi công Mỹ cũng thường
thôi.
Quái, sao lại dừng hết cả lại thế này? Từng bước
nhích lên chậm chạp. Tới nơi thì mới thấy một cái lạch khá sâu, hai bờ bị sụt
lở. Anh Bính đang rọi đèn cho từng người một bò xuống, rồi dò dẫm lội qua lạch.
Tôi thận trọng bám lấy mấy cái rễ cây chìa ra từ bờ, tụt dần xuống nước. Ô, sao
sâu quá, càng đi càng sâu. Tôi loạng choạng lùi lại, kêu anh Bính rọi đèn. Thì
ra qua lạch có một gờ đất ngầm, bước chệch khỏi gờ đất sẽ bị thụt sâu. Đi 1
đoạn nữa trong rừng thưa, chúng tôi dừng lại nghỉ để dồn đội hình. Trời bắt đầu
mưa, tất cả giở ni-lông loạt xoạt. Lại đi tiếp, gần như chạy. Tối quá, đường
lại trơn nữa, nhiều chỗ ngoặt gấp, không cẩn thận rất dễ lạc.
Hình như lạc thật, mỗi C một nẻo rồi, thôi đành mai
tìm vậy. Có lệnh nghỉ, chúng tôi tản vào hai bên đường tìm chỗ mắc võng. Cây
nhỏ bằng ngón chân cái, mọc san sát, ướt đẫm, chạm vào đâu nước mưa rơi ào ào ở
đó. Chọn được cây, tôi đặt ba-lô xuống nền lá mục ẩm ướt lấp lánh ánh lân tinh,
căng tăng mắc võng. Không làm cọc phụ nên sáng hôm sau hai đầu võng ướt sũng.
Chúng tôi gấp rút cuốn tăng võng đi tiếp. Con đường mòn hai bên thỉnh thoảng có
vài bụi lau. Một con suối to chắn ngang, nước chảy cuồn cuộn. Từ bờ này sang bờ
kia chăng một sợi cáp, tất cả bám vào lóp ngóp lội qua. Nước suối trong, chảy
xiết, đáy toàn cuội sỏi. Chúng tôi vục nước uống, rửa mặt. Sang bên kia lại leo
dốc ngay, đi men theo một sườn đồi dựng đứng, rất trơn. Mấy cậu đi trước mất
hút, may có vài người ở bếp gần đó chỉ cho bọn tôi đuổi theo. Một cái cầu qua
khe sâu, làm bằng thân mấy cây gỗ tròn, đi trên cũng kinh. Đi mãi, nhìn trước
nhìn sau chẳng thấy ai, tôi phân vân dừng lại
đợi. Thấy anh Nghĩa B phó B1 đi tới, tôi bám theo luôn. Hết
men theo sườn dốc đứng rừng già, lại xuống khe đá có dòng nước nhỏ chảy. Hình
như C52 đóng ở đây, thấy lính lăng xăng chạy quanh mấy cái bếp mới dựng tạm.
Leo qua bờ khe cao như quả đồi bên trái, rồi đi qua mấy cái hầm thùng (hố to
như căn nhà, mắc võng nằm dưới đó được) bỏ không, chúng tôi tới nơi.
Tất cả nhốn nháo tìm chỗ mắc võng. Anh
Hồng tới, phân bổ khu vực từng B, thế là lại phải di chuyển. Bây giờ mới tính
đến chuyện nấu ăn, tôi chạy đi giục Duy Minh. Theo lời chỉ dẫn của anh Đạm B
phó, chúng tôi chạy đến một ngôi nhà tranh gần đó. Ngôi nhà thấp, chật, tối,
bên trong rất đông người. Giữa nhà là mấy cái bếp đang đỏ lửa, vài cậu A6 ngồi
quanh nấu cơm. Đành đợi cho họ nấu xong đã. Ngoài hiên có mấy thùng lương khô
đựng nước và hứng nước mưa từ giọt gianh rơi xuống. Không khí ẩm lạnh, buồn tẻ.
Đây là nhà của dân công hỏa tuyến, trên sạp nứa bên phải, mấy người đàn ông
đang ngủ lăn lóc. Một bác già khoảng 50 tuổi đang ngồi hút thuốc lào cùng hai
người nữa. Thấy chúng tôi đến, họ chẳng nói gì, nhưng xem ý họ không đồng ý cho
chúng tôi nấu nhờ, gay thật. Bác già nói nhà chật, mấy anh em đi làm suốt đêm
giờ đang nghỉ, có người đang sốt rét, đừng vào đông. Chúng tôi đành nói khó với
bác xin nấu nhờ. Bác nói phải tự túc củi nước, chúng tôi đồng ý. Bọn A6 bở
thật, chúng nấu trước nên cứ sẵn củi khô trong nhà đem đun. Tôi quay ra bảo anh
em kiếm củi và đi lấy nước. Trời mưa thế này kiếm đâu ra củi khô bây giờ? Lội
xuống con lạch gần đó xem có củi trôi không, cuối cùng cũng chỉ vớ được vài
cành nhỏ. Tôi trở vào bếp thì thấy Quang và Duy Minh đã nhóm được lửa, sau khi
đốt hết cả mớ dẻ dầu lau súng. Tôi liếc xem mấy ông dân công đánh cờ. Mưa vẫn
rơi lác đác, người ướt át, vừa lạnh vừa buồn. Nhìn những ngôi nhà lá khác trên
sườn đồi cây, tôi càng thấy phục những con người đã sống bao năm qua giữa cảnh
rừng sâu nước độc, heo hút buồn tẻ này.
Cuối cùng cũng nấu xong hai nồi cơm. Chúng tôi
khiêng lên chỗ nằm của Đệ, cuốn võng hắn lại và tất cả chui vào dưới mái tăng
ngồi. Thế mà khi khiêng, hai cậu lúng túng thế nào để rơi nồi cơm to, đổ mất
một ít. Suốt đời không thể nào quên được bữa cơm giữa rừng già ấy. Mưa rào rào,
mưa như trút nước. Mái tăng thì hẹp, bên dưới đặt hai nồi cơm và 8 đứa chúng
tôi xúm xít chung quanh. Tăng lụp xụp không che đủ kín người, nên đứa nào cũng
bị ướt 1 phần. Chúng tôi ngồi ăn, nước mưa ròng ròng trên vai, trên cổ. Mặc, vẫn
xúc cơm chén lu bù. Lúc đó tôi đã nghĩ nếu sau này còn sống thì phải tả lại bữa
cơm hôm nay mới được. Ăn xong, mỗi đứa xúc thêm một ca để dành.
Tôi đã kiếm được một chỗ mắc võng khá
tốt, thì Quý A trưởng A5 đến nói đây là khu vực của A5. Lúc này anh Bính đang
chia khu vực cho các A, Quý hét to với anh: A5 ở đây phải không? Anh Bính chưa
biết thế nào cứ gật bừa. Tôi không muốn cãi cọ bèn dọn đi, nhưng trong bụng rất
tức, nhất là tức Quý, và ghét cả ông Bính nữa. Lâm Thành mắc cạnh đó dứt khoát
không đi. Tăng Lâm Thành mắc lụp xụp không tưởng được, nhăn nhúm, võng thì gần
trệt mặt đất, tăng thì như đắp lên võng, thế mà hắn ngủ được. Tôi đã giục hắn
buộc lại, nhưng hắn lười, không nghe.
Tôi tìm được hai cây để mắc võng khá đẹp, nhưng
xung quanh là bụi rậm, bèn rút dao găm chặt lia lịa. Phần lớn là bụi cây lá
nón, giống như những tàu cọ cắm xuống đất, nên việc phát quang cũng nhanh. Làm
cả cọc phụ đàng hoàng, nhưng khi nằm thử thì dây bị đứt, phải buộc lại. Cuối
cùng cũng được chỗ nằm thoáng đãng, thoải mái. Gần võng tôi là võng Châm “thối
tai” và Hùng “Di-gan” của A5. Hai chân lấm bùn nên trước khi lên võng bọn tôi
phải lấy khăn mặt ra lau, buồn cười thật.
Ở triền đồi bên kia con khe là B1. Có tiếng í óe về
gạo củi, tiếng Huy Ninh A trưởng A3 đang phân công gì đó. Đi theo con khe vào
sâu hơn 1 tý hình như là C50.
Trời vẫn mưa. Có chỗ mái tăng trũng, nước đọng
nhiều, từ từ đè mái tăng nghiêng đi, trút ào 1 cái xuống đất. Tôi nằm trong
võng, nhìn cảnh ấy lặp đi lặp lại nhiều lần. Mỗi khi ngớt mưa, lại phải điều
chỉnh mái tăng: để doãng quá thì hay bị tạt bụi nước vào mặt, nhưng thoáng
đãng; để cụp quá thì không bị hắt nhưng bí hơi. Nhìn nước giọt xuống quanh mái
tăng, sao mà nhớ nhà thế.
Hôm sau trời nắng. Có lệnh sang tập
trung bên quả đồi B1 nghe nói chuyện. Một cán bộ chính trị của mặt trận B5 đăng
đàn. Anh cán bộ này người Quảng Trị, trạc ngoài 40, thấp béo, sau hông đeo khẩu
K54, và một túi mìn Claymore đựng tài liệu. Anh ta nói hào hứng, sôi nổi, khích
lệ tinh thần chiến đấu của chúng tôi. Nghe xong ai nấy đều thấy hừng hực, muốn
lao ngay vào mặt trận.
Vừa về đến khu vực của trung đội thì được lệnh
chuyển chỗ ở. Chán gớm, thế là phải bỏ chỗ nằm tôi đã tốn nhiều công sức mới
có. Chúng tôi cuốn đồ đạc, đi ngược lại đường hôm nọ theo con khe khoảng 200m
rồi leo lên một sườn đồi hạ trại.
Võng của tôi, Duy Minh, Lâm Thành mắc
liền nhau thành một vệt ven khe nước. Bên dưới gần khe hơn là đường đi, bếp và
võng của anh Đạm B phó. Mưa liên tục, chúng tôi phải tốn nhiều sức để làm một
cái bếp kiên cố, tất cả ni-lông bếp của các tiểu đội đều được huy động.
Sáng hôm sau chúng tôi xuống khe đánh răng rửa mặt,
nước chảy khá xiết. Sau đó tôi và mấy cậu nữa theo anh Đạm đi lấy gạo. Chí
Thành đi bên tôi phàn nàn về tệ phân công không hợp lý của A5. Đi ven khe, vượt
một cái cầu nhỏ, lên dốc, chúng tôi chợt thấy những chiếc lán của một bệnh viện
dã chiến. Các thương bệnh binh đang ngồi ăn quanh những chiếc bàn ghép bằng cây
sậy ở ngoài sân. Họ ăn khá sang, có cá khô và bột trứng. Lại xuống dốc, lội khe
một quãng dài. Đi qua một túp nhà gianh, tôi tò mò nhìn những cuộn dây điện to
nhỏ, đủ loại đồng nhôm, dây cáp, dây trần. Hình như đây là trạm bảo dưỡng đường
dây. Những hàng cột điện thẳng tắp chạy ven đồi, ven suối, từ đồi này sang đồi
khác, hoặc ở lưng chừng núi, với những ống sứ trắng như những bông hoa, khiến
ta phải khâm phục công sức của những chiến sĩ đường dây. Chúng tôi sắp ra khỏi
rừng thì máy bay Mỹ đến quần đảo trên đầu ầm ĩ. Đành phải ngồi chờ vậy, bây giờ
mà đi ra nơi trống trải thì nguy hiểm lắm. Tôi và Chí Thành ngồi dưới một gốc
cây, vừa ăn cơm nắm vừa nói chuyện. Chỗ này rừng toàn cây to, chúng tôi có thể
nhìn thấy những chiếc F4 lao sạt ngon cây, phun khói đen kịt và gào tưởng rách
màng nhĩ.
Ra khỏi rừng tôi nhập bọn với Mai Quý
Cường, Nhuận “nhà báo”, Sinh A3... Chúng tôi đi giữa vùng cỏ gianh, thỉnh
thoảng có những bụi de hay bụi tre cao vóng lên, lá phơ phất. Con đường đất đỏ
quạch, hai bên có những gốc cây đen sì, thấy gọi là con đường tăng, chắc để xe
tăng đi.
Cả vùng này thuộc khu vực Bãi Hà lừng danh mà tất
cả chiến sĩ mặt trận B5 đều biết. Bắt đầu rẽ vào rừng có kho quân nhu. Gạo vãi
dọc dường nhiều vô kể, chỗ thì mốc xanh, chỗ thì đã thành những hạt đen sì.
Trên một bãi mua mọc cao vượt đầu, có một vạt cháy đen: mấy chiếc xe trúng đạn
rúm ró, nằm chổng vó. Đi dọc đường ô-tô quang cảnh làm tôi suy nghĩ nhiều. Những
viên thuốc đạn pháo vung vãi khắp nơi, ủng nước. Rất nhiều hòm đạn pháo vứt
tung tóe hai bên đường, hòm rỗng nằm lẫn với hòm còn nguyên. Vỏ đạn đồng lăn
lóc khắp nơi, đủ các cỡ: 85ly, 122ly, 130ly... Những cái vỏ đạn 130ly to tướng,
bằng đồng vàng chóe, có in chữ Liên Xô, Trung Quốc ở ngoài, mỗi cái phải nặng
tới 7-8kg. Loại này đem đúc mâm hay chậu thì tốt phải biết. Thế mà giờ nằm bừa
bộn trong cỏ, có cái đã rỉ xanh. Thậm chí còn có cả quả đạn nguyên vẹn nằm lộn
trong đó. Tôi đau lòng vì biết rằng mỗi quả đạn đó trị giá hơn một năm tiền
lương của bố tôi. Người ta rất có lý khi nói rằng, dù trong lao động hòa bình
có lãng phí mấy đi nữa, thì cũng không thể so sánh nổi với những tổn phí trong
chiến tranh. Nhân dân ta còn nghèo khổ lắm. Tôi ao ước nếu những quả đạn kia
biến thành tiền phúc lợi cho dân tộc thì hay biết mấy. Đi lạc ra đường 15, lại
phải lộn vào, ngồi nghỉ ở một bãi gỗ, những cây gỗ to đùng. Cạnh đó là một bãi
xếp những ống thép tròn mầu xám trắng, thấy nói là ống dẫn dầu. Cuối cùng thì
chúng tôi cũng tìm được đến kho gạo. Rừng cây ẩm ướt, những thân cây mọc đầy
tầm gửi, đẫm nước, đen xì. Sắp đến kho gạo có khác, gạo rắc đầy đường, mốc xanh
mốc vàng. Càng gần kho càng nhiều gạo vãi, thậm chí nhiều chỗ gạo còn trắng
tinh, mới nguyên. Những đôi dép lính đầy bùn đất dẫm lên gạo mà đi. Nhìn thật
đau xót, nhưng không biết biểu lộ thế nào: xung quanh tôi mọi người đều mệt
nhoài, nhễ nhại mồ hôi và bận túi bụi. Anh Đạm hét tôi inh ỏi để cùng chia nhau
chỗ gạo cuối cùng. Tôi rời khỏi kho gạo với tâm trí nặng nề.
Trên đường về qua bệnh viện, tôi chợt thấy trong
lán có một khuôn mặt quen quen. Tôi kêu lên: “Cao Thành!”, anh ta quay lại
nhìn. Tôi bèn vẫy Chí Thành cùng chui hàng rào vào thăm anh ta. Cao Thành là
học sinh trường tôi, học trên tôi một lớp, lớp của thày Thung dạy thể dục chủ
nhiệm. Còn nhớ hồi chúng tôi mới vào lớp 8, anh ta được thầy Thung cử đến điều
khiển lớp tôi tập thể dục. Anh ta chơi thể thao rất khá, một lần họp trong Hội
trường tròn Bách khoa, anh ta giã giò trên xà kép 32 cái liền làm bọn tôi lác
hết cả mắt. Hồi đó nhìn anh ta rất đẹp trai, khỏe mạnh và là học trò cưng của
thầy Thung. Cái lán trong bệnh viện trống hoác, sạp nằm được ken bằng thân cây
sậy. Cao Thành ngỡ ngàng nhìn tôi nói: “Trông cậu quen lắm mà tớ không nhớ ra”.
Giới thiệu là học cùng trường xong, chúng tôi ngồi nói chuyện lúc lâu. Cao
Thành bị thương vào mông, vẫn béo tốt dù có hơi chậm chạp. Lớp Cao Thành có 3
cậu cùng đi, đến nay Cao Thành bị thương đi Viện, 1 cậu vẫn ở đơn vị. Còn cậu
thứ 3 trong 1 trận đánh phối thuộc với xe tăng ban đêm, bị trúng thương rơi từ
xe trước xuống, và chiếc tăng đi sau nghiến lên luôn. Đang nghe chuyện, chợt
một cậu lính bước vào làm tôi ngẩn cả người. Má hồng môi đỏ, da trắng, mắt sáng
long lanh, anh em sinh đôi với T.H chăng? Tôi phải lắc đầu xua đuổi, định thần
nhìn lại. Trông cậu ta dáng lử khử, thì ra đó chỉ là vẻ đẹp bệnh hoạn của một
con người đang lên cơn sốt. Cậu ta là trai Hà Nội, nhà ở Hàng Than hay Hàng Gai
gì đó, và chả có họ hàng gì với T.H của tôi cả. Tôi săm soi nhìn những chiếc
ba-lô ngụy, trông rất lạ mắt, với những đai, những khóa lỉnh kỉnh, và chỉ có
hai túi cóc.
Hôm sau tôi và Chí Thành lại tới chỗ
Cao Thành để nghe chuyện và hỏi thêm những kinh nghiệm trong chiến trận. Cao
Thành cho biết sắp chuyển viện ra ngoài Bắc, mà trong túi chẳng có xu nào. Tôi
bèn cho cậu ta 5 đồng và nhờ chuyển hộ mấy phong thư. Kể nhiều chuyện, nhưng
rốt cuộc Cao Thành dặn tôi chủ yếu là phải khôn ngoan, trong chiến đấu không
chỉ nhìn về phía trước mà còn phải nhìn ngang xem đồng đội như thế nào nữa,
phải tùy tình thế để “ứng phó” thì mới mong giữ “gáo” (đầu) được...
Một số cậu lính mới vào đóng gần đó đang ồn ào xem
mấy cái màn tuyn của ngụy. Mấy cái màn tuyn này màu xanh đen, mắt tuyn nhỏ,
đình bằng vải và thấp tịt. Sở dĩ thấp thế vì phần dưới bằng vải đã bị cắt đi.
Đùa chán, mấy cậu đó lại xúm vào ăn nốt thức ăn thừa của các thương bệnh binh
bỏ lại trên bàn. Cao Thành nhìn chúng lắc đầu, tôi cũng cảm thấy ngượng lây.
Đúng là dạo này chúng tôi sinh hoạt rất kham khổ, ăn uống chẳng có gì. Nhiều cậu
lính đã phải đổi thắt lưng đỏ, quần áo mới, võng... lấy mấy cân lương khô.
Thương bệnh binh được ra Bắc rất thích những thứ đó, và họ cũng có nhiều lương
khô để đổi.
Hôm sau khi chúng tôi lại đến, thì Cao Thành đã
chuyển đi rồi. Tôi nhớ cậu ta có nói là ra đến Thanh Hóa sẽ tìm cách trốn về
thăm nhà mấy ngày.
Ở Bãi Hà chúng tôi ăn cơm theo Trung
đội. Mỗi buổi sáng các A góp gạo, cử người xuống cùng anh Đạm nấu ăn. Tôi cắt
việc xuống bếp một cách lần lượt, hai người một ngày. Còn gạo, lúc đầu cũng cắt
lần lượt, hôm nay lấy gạo cậu này nấu, mai cậu khác. Về sau để tránh tình trạng
người phải mang nặng, người mang nhẹ, tôi quyết định mỗi bữa cậu nào cũng phải
bỏ ra một ca gạo. Thức ăn chả có gì, ở đây họ chỉ phát cho mấy hộp ruốc tôm,
vừa mặn vừa xáp. Mỗi bữa chỉ có một xoong canh to, nấu bằng ruốc tôm với lá bứa
chua chua. Thêm vào đó là món ruốc đi B của từng người. Thế mà chúng tôi ăn
khỏe kinh khủng, mỗi đứa 4-5 ca cơm là chuyện bình thường. Ăn xong còn lèn thêm
một ca để dành, lúc đói lại dở ra ăn.
Mấy hôm nay tôi không được khỏe vì bị
đi ỉa lỏng. Hình như đang có dịch, vì nhiều người cũng bị như vậy. Cảm thấy mệt
mỏi, thở không ra hơi. Đành phải giở hộp thuốc cá nhân ra, chọn lọ thuốc đi ỉa
uống dần, sau vài ngày thì khỏi.
Anh Bính kêu gọi mọi người đi kiếm củi. Những ngày
mưa thế này, củi khô rất khó kiếm. Chúng tôi có kinh nghiệm là đi tìm các bếp
Hoàng Cầm cũ, phá ra thì tha hồ.
Một số cậu xuống làm giếng, bằng cách
lấy đá xếp cao lên quanh 1 hố nước cạnh khe. Trời mưa nước khe to thì không
sao, nhưng bình thường nước khe cạn và bẩn vì nhiều người dùng vô ý thức, thậm
chí phóng uế cả xuống khe, nên việc đào giếng là cần thiết.
Mưa liên tục, sao mà buồn thế. Chợt nghe Duy Minh
nằm gần đó hát bài “Bạn ơi tôi tin tưởng”. Bài hát Nga lời Việt về nghề phi công
nghe cũng hay hay. Ở nhà tôi cũng có đĩa hát này, nhưng lời Nga nên không hiểu
gì. Tôi bèn đề nghị Duy Minh dạy hát. Cứ thế Duy Minh đọc câu nào tôi nhắc lại
câu ấy cho đến khi thuộc thì thôi. Lâm Thành nằm gần đấy cũng phụ họa theo cho
đỡ buồn.
Võng tôi không có cọc phụ nên nước mưa chảy dọc
thân cây truyền theo dây võng làm ướt sũng hai đầu. Anh Mùi chính trị viên Tiểu
đoàn đi qua thấy vậy dừng lại hỏi: “Tại sao cậu không mắc cọc phụ? Nằm thế này
ướt hết không bảo đảm sức khỏe”. Anh ra lệnh cho tôi và Duy Minh phải làm lại
chỗ nằm thật tử tế, đi họp về anh sẽ kiểm tra. Báo hại hai thằng phải đi tìm
cọc và buộc dây mất cả buổi.
Sau bữa cơm, thấy đám lính xúm xít quanh mấy người
đang kể chuyện, tôi lại gần nghe. Mấy người này mặt mũi hốc hác, mặc quần áo lính
cộc tay nhem nhuốc, kể về chiến trận và cối cá nhân M79 với một vẻ khiếp đảm.
Ai đó rỉ vào tai tôi: “Mấy thằng đảo ngũ đấy”.
Chợt có lệnh thu hết súng và bao xe,
chỉ để lại mấy khẩu của các A trưởng. Mấy cậu ngại mang nặng cười hí hửng: “Tớ
biết mà, vào chiến đấu phải phát súng khác chứ”! Quả thật vừa rồi trên đường
hành quân nhiều cậu quăng quật súng ghê quá, sợ có khẩu bị cong nòng.
Tiểu đoàn 60 đã mang súng đi nộp từ chiều, giờ đến
lượt tiểu đoàn tôi. Tất cả phải đi trả súng, mỗi A chỉ để lại một người trông
đồ đạc. Anh Đạm gọi tôi xuống, bảo tôi nằm vào cái võng ni-lông của anh mà
nghỉ, và trông nồi xoong bếp núc luôn.
Buổi tối nào cũng vậy, khi tất cả nằm
vào võng là tiếng chửi nhau vang lên í ới. Thật là một cách giải trí kỳ quặc.
Chửi nhau không phải vì xích mích nhau, mà chỉ để cho đỡ buồn. Chửi lẫn nhau
chán, lại réo tên B trưởng các B khác để chửi. Chẳng hạn lính B1 đồng thanh hô:
“Bính “tẩm“!” (Bính là B trưởng B2), thì lính B2 đồng thanh hô lại: “Trọng “say
rượu“!” (Trọng là B trưởng B1). Cán bộ đã nhắc nhở mãi nhưng chẳng ăn thua gì.
Hôm sau anh Bính lệnh cho những người nằm gần khe
suối phải di chuyển lên chỗ cao hơn. Anh giải thích là máy bay địch hay đánh
dọc khe suối. Như vậy là tôi, Duy Minh và Lâm Thành phải chuyển đi. Chúng tôi
rất bực, Lâm Thành chửi đổng ầm ĩ. Tôi và Duy Minh cuốn đồ lề leo tít lên cao,
nơi chưa có ai ở cả. Sau một buổi phát quang cật lực, rồi cũng được một chỗ nằm
tươm tất, hai đứa mắc võng châu đầu vào nhau. Sau đó tôi đi kiếm củi, nhân dịp
nhòm ngó tìm hiểu khu vực xung quanh luôn. Khắp nơi cứt đái vung vãi, toàn cây
lá nón, không một bóng người. Tôi nảy ra ý định thử súng, để xem khẩu súng của
tôi qua một hành trình như vậy có bị kém chính xác đi không? Thế là nhằm đỉnh
đồi bươn tới, luồn qua các bụi cây rậm rạp và nhiều dây leo chằng chịt. Có lúc
cũng hơi sợ, nhỡ quơ phải một con rắn hay đạp phải một con trăn thì sao? Đi hồi
lâu tới một khe đá cạn, đoán từ đây tiếng súng khó lọt tới nơi đóng quân, tôi
bèn dừng lại, rồi chọn một cái cây bằng bắp chân làm đích. “Đoành đoành!”, cây
súng nẩy lên trên tay. Tôi chạy tới xem, hai viên đạn đều trúng cây, nhưng lỗ
trên cách lỗ dưới tới 50cm. Phấn khởi, tôi bắn tiếp “Đoành đoành”. Mùi thuốc
súng tỏa ra khét lẹt, tôi xách súng băng về. Đang tháo súng ra lau, chợt giật
mình thấy anh Bính đến. Anh nhìn tôi với cặp mắt dò xét: “Cậu vừa bắn hả?”. Tôi
định chối thì anh đã cầm cái kim hỏa lên ngửi làm tôi cứng họng. “...Vâng... Em
xin lỗi”. Anh nói: “Cậu thử nghĩ xem, tôi tin tưởng cậu là A trưởng... Thế mà
cậu lại làm như vậy...”. Tôi bối rối vô cùng. Vốn không ưa anh Bính, nhưng lần
này mình trái lè lè, đành phải xin lỗi anh mãi. Một lúc sau anh bỏ đi.
Hầu như suốt ngày tôi và Duy Minh nằm trên võng
trong lãnh thổ riêng của hai thằng. Cả hai đứa đều là học sinh nên rất thông
cảm và tâm đầu ý hợp. Trong những ngày lê thê đó, tôi và Duy Minh đã tâm sự cho
nhau nghe tất cả những nỗi niềm riêng tư thầm kín, những suy nghĩ ước mơ. Khó
mà quên được cảnh hai thằng trên hai cánh võng trong rừng già, bên những bụi lá
nón xào xạc, thì thầm kể lại cho nhau nghe về quãng đời học sinh của mình và
những ngày nghỉ phép vừa qua.
Hai nhân vật nữ mà Duy Minh nhắc tới nhiều nhất là
Hòa và Dư Loan. Hòa đẹp, thông minh, học cùng lớp. Dư Loan là bạn cũ, không đẹp
lắm nhưng ngoan, có bố là Đại tá xe tăng. Qua câu chuyện, tôi thấy Duy Minh yêu
Hòa hơn, và vẫn còn cay đắng về mấy ngày phép vừa rồi. Khi biết Minh là lính bộ
binh, Hòa nói: “Tôi tưởng bạn đi xe tăng, tên lửa, chứ ai ngờ bạn trở thành một
anh lính “bò binh ”. Tuy không nói ra, nhưng tôi không tán thành Hòa lắm. Minh
còn say sưa kể cho tôi nghe những chuyện trong trường lớp, những tối tập văn
nghệ ở ngã năm Trần Hưng Đạo-Lê Thánh Tông, những ngày đi học múa...
Tôi cũng kể hết cho Minh nghe những kỷ niệm trong
đời học sinh của mình, nhất là về mối tình thầm lặng với T.H. Hai đứa cùng mơ
ước sắp tới vào đánh một vài trận rồi được quay ra đi học lại, biết đâu Tết này
còn được ăn Tết ở nhà cũng nên, vì năm 1972 là năm bản lề mà. Gia đình mà thấy
con về chắc sẽ mừng lắm. Có lần tôi nói đùa với Minh: “Làm trai thời đại này mà
không biết bắn AK, thụt B40, ném lựu đạn, thì không phải là thân trai!”...
Đang mơ màng, tôi không để ý tới những tiếng loạt
soạt khả nghi. Chợt thấy Minh nói khẽ, gần như rít lên: “Vinh! Khỉ...!”. Tôi
chưa kịp hiểu Minh nói gì, thì cậu ta chỉ lên ngọn cây. Theo hướng đó, tôi nhìn
thấy cả một đàn khỉ cộc đuôi, con thì lông vàng, con thì hung hoặc xám... Nhưng
bọn chúng tinh lắm, vừa thấy chúng tôi là bọn chúng chuyền cành biến mất hút...
Chợt có tiếng Chí Thành gọi đi ăn cơm. Chúng tôi xuống
dốc, đi ngang qua võng cậu ta. Những hôm trời mưa, trông Chí Thành loay hoay
trong cái ổ của mình rất buồn cười. Võng mắc ngang dốc nên một bên gần như sệt
xuống đất, bùn bắn lên bê bết, phải rải lá nón làm thảm chống bẩn. Xung quanh
tăng của Thành lủng củng những dây chằng cọc chống, lại đặt mấy cái thùng sắt
tây để hứng nước. Đại khái Thành tìm mọi cách tạo đủ tiện nghi cho chỗ ở. Tôi
và Thành ăn xong thường cất thêm một ca cơm để dành, lúc đói lại đem ra ăn.
Những lúc chuyện gẫu, hai đứa thường giở ảnh ra xem. Thành có cái ảnh chụp cả
lớp 10B quý thật, tôi định xin mà không được.
Buổi tối có lệnh nấu cơm nắm chuẩn bị
sáng mai lên đường.
Nguyễn Quang Vinh
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng
Trị - Chiến Trường B5
Một ngày thượng tuần
tháng 9-1972 chúng tôi rời Bãi Hà. Đoàn quân xuất phát từ sáng sớm, lúc còn
chưa rõ mặt người. Xuyên qua nhiều cánh rừng rậm, rừng thưa, tầm trưa chúng tôi
tới một con suối cạn khá rộng. Lòng suối đầy sỏi và những hòn đá cuội tròn nhỏ,
có vài lạch nước chảy song song, nơi sâu nhất lội chỉ đến đầu gối. Ai đó nói:
“Sông Bến Hải!”. Tôi ngạc nhiên ngắm nhìn, không ngờ con sông lừng danh chia
cắt đất nước 20 năm trời lại nhỏ bé thế này. Ở thượng nguồn nó không khác gì
một con suối, lội hai phút là qua. Nước trong vắt, mát lạnh, lính ta tranh thủ
dìm bi-đông lấy nước uống và vục nước rửa mặt. Sang bờ bên kia chúng tôi lẩn
nhanh vào cánh rừng thưa mọc đầy cây mua cao ngang đầu người, xen lẫn những bụi
lau lách. Những bước chân đầu tiên trên đất Miền Nam làm tôi bồi hồi khôn tả.
Dường như trời đất cỏ cây vẫn vậy, mà không phải vậy. Đây là chiến trường, cái
đích mà chúng tôi nhắm đến và bây giờ đã đến. Ở đây có thể chạm địch và đổ máu
bất cứ lúc nào. Ở Bãi Hà người ta đã cảnh báo chúng tôi về hoạt động của bọn
Thám báo, tránh đi chệch đường mòn vì dễ dẫm phải mìn hoặc bom bươm bướm.
* B5 là mật danh chiến trường Bắc
Quảng Trị. Năm 1961, các địa bàn quân sự được quy định: A-Miền Bắc, B-Miền Nam,
C-Lào, K-Campuchia. B1 từ vĩ tuyến 17 dến Khánh Hòa, B2 từ Ninh Thuận đến Cà
Mau. Sau, do chiến tranh phát triển, chia thành các mặt trận nhỏ hơn: B3 là Tây
Nguyên (Đắc Lắc, Gia Lai, Công Tum); B4 là Trị Thiên - Huế; B5 là Bắc Quảng
Trị, Đường 9 được thành lập tháng 6-1964. Tư lệnh đầu tiên là Đại tá Nam Long.
Tư lệnh chiến dịch Quảng Trị năm 1972 là Thiếu tướng Lê
Trọng Tấn (đến 6- 72), sau là Thiếu tướng Trần Quý Hai (BT).
4 giờ chiều, chúng tôi rời cánh rừng thưa, đi xuống
một trảng cỏ tranh rộng bát ngát. Mỗi người phải chặt một cành lá che trên đầu
để ngụy trang, tránh cặp mắt cú vọ của chiếc máy bay trinh sát OV-10 đang ò ò ở
phía xa. Có thể nói suốt thời gian ở chiến trường, tôi đã quen với hình dáng
như chiếc bừa và tiếng ò ò lúc xa lúc gần của nó, đến nỗi những hôm thời tiết
xấu, OV- 10 không bay, cảm thấy như thiếu một cái gì. Có lúc nó rống lên, bổ
nhào bắn một trái đạn khói vào đâu đó, chỉ điểm cho máy bay đến ném bom. Trong
không gian nghe như có tiếng vọng ì ầm của chiến trường. Trời bắt đầu sẩm tối. Chợt
ở phía xa lóe lên ánh chớp, rồi một quả cầu mầu xanh lá cây bùng lên, bắn ra
hàng vạn tia sáng mầu lá mạ. “Bom lân tinh đấy”, anh Bính nói. Lại một quả bom
lân tinh nữa nổ, sáng rực cả góc trời. Tối mịt thì chúng tôi tới bãi khách, nằm
trong một khe cạn, cây cối mọc um tùm. Chúng tôi sẽ đóng quân ở đây, chờ đơn vị
mới tới tiếp nhận.
Hôm sau tôi đi vòng quanh bãi khách xem xét địa
thế. Thấy nhiều hầm chữ A bỏ không, trong vài hầm có một số vật dụng bỏ lại,
đặc biệt cả một hòm lựu đạn. Tôi bèn lấy 2 quả đem về chờ có dịp sẽ dùng.
Tối tối lại diễn ra cảnh tiêu khiển kỳ quái như ở
Bãi Hà, đó là lính ta nằm trên võng chửi nhau cho đỡ buồn. Lính B1 đồng thanh
réo tên B trưởng B2 ra chửi, lính B2 cũng đồng thanh chửi lại B trưởng B1. Long
“cồ” to mồm nhất, tự xưng là “Đài phát thanh A6”, giọng sang sảng liến thoắng
bịa đủ thứ chuyện chửi bới lung tung. Một số cậu bị chạm nọc chửi lại, làm Long
“cồ” nóng tiết thét lên: “Đ.mẹ thằng nào chửi Đài!”.
Vài cậu khác thì hát nhạc vàng ông ổng
suốt ngày. Cậu Phát A5 nằm gần tôi chuyên môn hát bài: “Tôi với nàng, hai đứa
nguyện yêu nhau/ Tha thiết từ đây cho đến ngày bạc đầu...” và bài: “Hôm nay tôi
trở về thăm trường cũ. Nhiều nét đổi thay tường mái rêu mờ...Thầy đó trường đây
bạn hữu đâu rồi?”.
Nghe riết rồi tôi
cũng đâm thuộc.
Có hiện tượng là các cán bộ thi nhau
lăn ra ốm. Hôm hành quân đi khỏi Bãi Hà tôi đã thấy Tiểu đoàn trưởng Khanh có
vẻ mệt mỏi, đi đứng chậm chạp, thỉnh thoảng ho. Mấy cậu liên lạc rỉ tai nhau:
“Thủ trưởng ốm”. Ở đây thì toàn bộ ban chỉ huy đại đội đều ốm, nhưng nhìn anh Y
và anh Hồng cố làm điệu bộ rất mệt, tôi đâm nghi ngờ. Bây giờ thì thậm chí anh
Bính B trưởng, to khỏe như voi, cũng đổ bệnh, cả ngày nằm trên võng, không quan
tâm gì đến Trung đội, thỉnh thoảng ho khúng khoắng, làm tôi thật sự suy nghĩ.
Hình như vào đến chiến trường là tất cả các cán bộ huấn luyện đều bị bệnh cũ
hoặc vết thương cũ tái phát, họ chỉ chờ bàn giao xong lính cho đơn vị mới là
quay trở ra Bắc “điều trị” ngay.
Một sự thật buồn khác là lính Hà Nội ở đây không có
“giá”, không được các đơn vị mới săn đón lắm. Chỉ huy các đơn vị đang chiến đấu
ở đây không mặn mà với việc nhận lính bổ sung từ Hà Nội. Họ cho rằng lính Hà
Nội hay Hải Phòng sướng quen, không chịu được gian khổ, thuộc loại mồm miệng đỡ
chân tay, trói gà không nổi. Họ đặc biệt thích lấy lính vùng Thanh-Nghệ- Tĩnh,
vì cho rằng lính vùng này chịu khổ quen, chiến đấu gan dạ, dù có phần bướng
bỉnh. Nếu không thì lính từ các vùng nông thôn khác cũng được. Vì vậy các đoàn
lính Thái Bình, Hà Tĩnh... vào chiến trường cùng đợt với chúng tôi đã được nhận
hết, mà chúng tôi vẫn nằm dài chờ đợi. Và như vậy chúng tôi bị lâm vào hoàn
cảnh “chân không đến đất cật không đến trời”: Một mặt chúng tôi đã tách khỏi
đường dây binh trạm, không nhận được tiếp tế từ các binh trạm nữa; Mặt khác lại
chưa được đơn vị mới tiếp nhận, nên cũng chưa có tiếp tế từ đơn vị mới. Hậu quả
là chúng tôi đói, đói dài mỏ, đói quay quắt giữa rừng.
Đã gần tuần nay chưa có hột cơm nào vào bụng. Còn
nhúm gạo ít ỏi chúng tôi phải dè sẻn nấu cháo ăn dần. Tôi và Chí Thành hay ra
ven suối hái rau vòi voi về độn thêm vào cháo. Nhìn những dây leo giống lá
khoai lang bò trên các bụi cây nhưng không dám hái, vì nghe nói rất độc. Nhiều
cậu hết sạch gạo, phải ra đứng ven rừng, ngửa tay xin từng nhúm gạo của những
cán binh tình cờ đi qua. Tôi là người rất sợ đói, nên thường cất một phong
lương khô “Tổng dự bị chiến lược” dưới đáy ba-lô, chỉ khi nào tự vấn lòng thấy
không chịu đựng nổi nữa mới đem ra dùng. Nhưng khi lấy ra định ăn, thì nhìn
thấy Lê Thanh Bình ngồi ở gốc cây gần đó còn đói hơn tôi, mặt mày xanh xám sắp
xỉu. Tôi gọi Bình lại bẻ cho một nửa. Hai đứa ngồi cạnh nhau vừa nhai lương khô
vừa khóc.
Một buổi chiều tôi rủ Ngô Duy Minh ra suối La La
tắm và ném cá. Tôi lấy hai quả lựu đạn nhặt được hôm nọ, đưa cho Duy Minh một quả.
Tắm xong, chúng tôi đi tìm chọn một đoạn suối sâu, nước lặng. Hai đứa thỏa
thuận là sẽ cùng rút chốt và cùng ném cả hai quả lựu đạn xuống vũng suối này.
Nhưng Duy Minh làm nhanh quá, tôi chưa kịp vặn nắp chuôi thì cậu ta đã giật
chốt đánh “bép” một cái rồi ném tòm xuống suối. Tôi hoảng quá cũng quăng luôn
quả lựu đạn chưa kịp giật chốt xuống theo. Hai đứa nằm rạp trên bờ suối chờ lựu
đạn nổ. Nhưng chỉ có một tiếng “ục” vang lên, sóng nổi cuồn cuộn. Duy Minh vẫn
nằm chờ tiếng nổ thứ hai, thì tôi đã bò dậy nói “chắc xịt rồi”, rồi đi xuống
suối xem có con cá nào nổi lên không. Chợt một chiếc F4 lao xoẹt qua trên đầu,
kéo theo tiếng động xé óc và trải ra một dải khói đuôi đen xám. Trong bóng
chiều chạng vạng, thấy có vài viên đạn lửa bắn lên vuốt đuôi chiếc máy bay. Tôi
và Duy Minh xem xét kỹ đoạn suối, nhưng không tìm được con cá nào.
Bần cùng sinh đạo tặc, chúng tôi tìm cách ăn trộm
gạo của một đơn vị đóng gần đó. Trong một buổi lang thang sục sạo khắp nơi, mấy
cậu A6 tình cờ thấy trong rừng le cách chỗ chúng tôi chừng 2-3 km có vài căn
nhà lợp cỏ tranh, về sau mới biết đó là hậu cứ của Phẫu 88, Quân y Quảng Trị.
Chúng tôi lặng lẽ bò tới gần từng nhà xem có người không, nếu không thì chui
vào lục lọi tìm gạo. Khắp nơi không một bóng người, các căn nhà đều trống rỗng.
Đang tuyệt vọng thì từ căn nhà cuối cùng có tiếng reo nhỏ. Có anh tìm thấy mấy
bao gạo còn nguyên. Cả lũ thay nhau cõng gạo chạy như ma đuổi về chỗ đóng quân
để chia nhau.
Hôm sau nghe nói có một kho gạo ở chếch về phía
Nam, tôi, Duy Minh và Chính “con” bèn lên đường tìm kiếm. Đi mấy tiếng đồng hồ
mà chỉ thấy trảng cỏ mênh mông, loại cỏ rất lạ, không phải cỏ tranh, cao ngang
thắt lưng, có bông như bông lúa lép. Thấy một đoàn thương binh đi ngược ra,
người băng đầu, người băng ngực băng tay, quần áo nhem nhuốc còn dính máu khô.
Mặt mũi ai cũng thiểu não, xanh xám. Một anh thở khò khè, dừng lại xin tôi
miếng nước. Giọng đầy bất mãn, anh nói anh bị thương thấu phổi mà vẫn phải lê
lết tự đi thế này. Xẩm tối thì ba đứa tôi tới bờ suối, gần đó có một túp lều
lụp xụp. Trong lều chúng tôi tìm được hai bao gạo, mỗi bao khoảng 50kg, bên
ngoài bọc bao tải có in chữ Tàu, bên trong bọc hai lần ni-lông nữa. Chúng tôi
đổ mỗi đứa một ba-lô gạo đầy, còn lại đổ ra đất để lấy bao ni-lông đem đi. Lính
ta rất thích những bao ni-lông này vì chúng dày dặn, làm bao bơi để vượt sông
rất tốt.
Trên đường về trời tối như mực, chúng tôi bị lạc,
lại mưa như trút nước. Ba đứa đành chui vào bao gạo, phủ thêm áo mưa lên người,
nằm giữa đồng cỏ định ngủ qua đêm. Nhưng mưa vẫn rơi nặng hạt, lại bị ngộp thở
trong bao ni-lông, chúng tôi đành bò dậy, đi tới gần sáng mới tìm được đơn vị.
Trong thời gian này rất nhiều người đảo ngũ. Cứ mỗi
buổi sáng dậy lại thấy trống vài chỗ mắc võng. Họ âm thầm tích trữ gạo muối, bí
mật rủ nhau từng nhóm nhỏ biến mất trong đêm. Tiểu đội tôi có 10 người, thì 5
người đảo ngũ là Thành “ma tịt”, Phái “con”, Đường “cóc”, Tỵ, Đệ, tỷ lệ 50%
(1)!. Những tiểu đội, trung đội khác tình trạng cũng tương tự. Sau này có lần
gặp lại họ ở Hà Nội, tôi làm lơ không chào hỏi. Tới tận bây giờ tôi vẫn không
thể tha thứ cho những người phản bội như họ.
Rồi cuối cùng chúng tôi cũng được đơn
vị mới tới tiếp nhận. Đó là Trung đoàn 48 mật danh “Quang Sơn”, sau đổi thành
“Thạch Hãn”, thuộc Sư đoàn
320B, đang chiến đấu
trong Thành cổ Quảng Trị (2).
(1) Trong mọi cuộc chiến tranh, lính đảo ngũ là hiện
tượng phổ biến. Chiến tranh chống Mỹ lâu dài, khó khăn, ác liệt, bộ đội ta dù
rất có lý tưởng, rất anh dũng "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" nhưng
không tránh khỏi có nhiều người sợ chết, nản lòng. Lính Khu Bốn thường trụ lại.
Lính Miền Bắc đảo ngũ nhiều hơn. Hồi đó có câu: "Nam (Nam Hà) chuồn, Hà
(Hà Tây) lủi, Thái Bình bay/ Hải Hưng anh dũng trốn ban ngày/ Thanh Hóa mất mùa
xin ở lại/ Quảng Bình thấy thế cũng giơ tay (BT)
(2) Trung đoàn 48 (Thăng Long) có từ thời kháng chiến
chống Pháp cùng với Trung đoàn 64 (Quyết Thắng) là hai đơn vị đầu tiên thành
lập nên Đại đoàn Đồng Bằng tháng 1-1951, sau bổ sung thêm Trung đoàn Tây Tiến.
Trong chống Mỹ, Đại đoàn sau đổi thành Sư đoàn. Đại đoàn Đồng Bằng đổi thành Sư
đoàn 320. Sư 320 sau phát triển thêm có 320B. Trung đoàn 48 trong 81 ngày đêm
Thành cổ mang mật danh Quang Sơn với lời thề "Quang sơn còn, Quảng Trị
còn. Nói đến bộ đội, nhân dân ta, trong đó có Trung đoàn 48 là nói đến huyền
thoại về sức chịu đựng vững vàng của con người, mà như cố Tổng Bí thư Lê Duẩn
đã từng đánh giá: “Chúng ta đã chịu được không phải chúng ta là gang thép; vì
gang thép cũng chảy với bom đạn địch; mà chúng ta là những con người thực sự,
con người Việt Nam với truyền thống hàng nghìn năm, đã giác ngộ sâu sắc trách
nhiệm trọng đại trước Tổ quốc, trước thời đại" (BT).
Tới đón chúng tôi là hai cán bộ đại đội
người Thanh Hóa: anh Tráng, Đại đội phó khoảng 25 tuổi và anh Nguyễn Viết Thiệu
Chính trị viên phó khoảng 21 tuổi. Anh Tráng tính tình vui vẻ, hoạt bát, rất
thích làm thơ và đọc thơ cho chúng tôi nghe. Anh Thiệu thì trầm tính hơn, nhưng
rất tình cảm. Anh đến ở với Tiểu đội tôi, và thường kể nhiều chuyện về Trung
đoàn 48 “Quang Sơn” của mình. Lính Trung đoàn này hầu hết người Thanh Hóa, đã
chiến đấu rất gan dạ từ đầu chiến dịch. Nhiều trận đánh giữa đồng cỏ tranh, họ
không thèm nằm tránh đạn, mà đứng thẳng người vừa bắn xối xả vừa xông lên dũng
mãnh, làm bọn lính Sư đoàn 3 ngụy hoảng sợ chạy tán loạn. Đặc biệt anh rất ca
ngợi Trung tá Trung đoàn trưởng Trần Minh Vân, 28 tuổi, người Quảng Đà, một
Triệu Tử Long của mặt trận Quảng Trị. Anh Vân không chỉ là người chỉ huy mưu
trí dũng cảm, mà còn rất gần gũi hòa đồng với binh lính.
Vào thời gian này tình hình của ta dần dần xấu đi.
Một mặt, bọn Mỹ bắt đầu can thiệp, tăng cường hỏa lực bắn phá bằng pháo biển,
bằng không quân.
Máy bay Mỹ oanh kích ngày đêm, hết bổ nhào lại đến
tọa độ. B52 ném bom rải thảm dữ dội, bầu trời Quảng Trị lúc nào cũng thấy dọc
ngang những lằn khói trắng từ “Pháo đài bay”.
Chính quyền Sài Gòn tung hai đơn vị thiện chiến
nhất của họ là Sư đoàn Dù và Sư đoàn Thủy quân lục chiến ra Quảng Trị. Mặt
khác, sức tấn công của quân ta suy giảm dần, vì hậu cần không theo kịp để tiếp
tế. Hậu phương bị bom rải thảm liên tục, kho tàng bị phá hủy hầu hết. Nhiều đơn
vị không đủ đạn dược, lương thực; xe tăng, cơ giới hết xăng, hết đạn. Lại thêm
tổn thất về người và vũ khí trong quá trình tiến công chưa được bổ sung. Hậu
quả là cuối tháng 6-1972 các mũi tiến công của ta bị chặn lại ở bờ sông Mỹ
Chánh, giáp ranh với Thừa Thiên. Có chỗ 11 chiếc xe tăng của ta hết xăng, sa lầy
ở bờ sông, bị địch tiêu diệt hết.
Chúng tôi được dẫn đi xuống phía đồng
bằng. Lần đầu tiên tới một ngôi làng Quảng Trị, tôi sững sờ vì vẻ đẹp của nó.
Từ trên đồi nhìn xuống, ngôi làng như ngập trong thảm cây cối xanh tươi, những
hàng cau xanh mướt, thấp thoáng những mái nhà lợp tôn trắng toát, đầy vẻ thanh
bình. Tuy nhiên trong làng không một bóng người. Đây thuộc địa phận xã Cam
Thanh, huyện Cam Lộ. Những ngôi nhà ở đây thường có hình vuông, bốn mái bằng
nhau, ở giữa thót lên thành chóp nhọn như chiếc bát yêu úp. Cột nhà bằng gỗ
tốt, nhiều nhà quây cót gian giữa làm thành bồ đựng lúa. Lúa đổ đầy tràn cả ra
ngoài, bắt đầu mọc mậm xanh. Quần áo vứt vung vãi khắp nơi, có nhà còn có cả tủ
lạnh. Mâm ngũ quả rất đẹp, màu sắc sặc sỡ, nhưng hóa ra hoa quả toàn bằng nhựa.
Thấy mấy cái xe đạp hiệu Lincon còn trơ vành nằm lăn lóc, chúng tôi ngứa nghề
nhảy lên đạp bừa vài vòng. Là một học sinh mới rời mái trường chưa lâu, tôi đặc
biệt chú ý đến những quyển sách vở nằm rải rác trong nhà. Giấy trắng tinh, in
rất đẹp, chẳng bù cho những quyển vở giấy đen sì ngoài Bắc. Tôi không ngờ mức
sống trong Nam lại cao đến như vậy.
Tối hôm đó có
lệnh tiếp tục hành quân. Chúng tôi lặng lẽ đi theo đội hình hàng một, nhiều
đoạn đi trên đường nhựa, sau mới biết là Đường 9, qua Ngã tư Sòng, hướng về
Thành cổ.
Nguyễn Quang Vinh
Phần Thứ Hai: Chiến Trận - Trận Thành Cổ (1)
Trong bóng đêm chúng tôi đi ngang qua
sân bay Ái Tử. Đường băng rộng mênh mông. Dưới ánh sáng nhờ nhờ của những quả
hỏa châu xa xa, cả bọn rất ngạc nhiên thấy hàng hàng lớp lớp những tấm tôn đứng
thẳng. Có thể đó là những tấm tôn lót đường băng, dưới tác động của thời tiết
nắng nóng nên bị cong vênh lên như vậy. Chân trời thỉnh thoảng lại bừng lên ánh
pháo sáng, hoặc những nháng lửa của đạn bom và tiếng ì ầm từ phía Thành cổ vọng
lại. Càng gần đến Thành cổ, dấu vết đạn bom càng ác liệt. Nhiều làng mạc bị B52
đánh tan tác, vệt bom lỗ chỗ đầy đồng. Chúng tôi bị B52 rải thảm lần đầu tiên khi
tới một làng nhỏ có tên gọi Nhan Biều, là nơi tập kết trước khi vượt sông Thạch
Hãn để vào Thành. Chỉ nghe một tiếng rít “Ú...Ù” thì hàng loạt tiếng nổ đã vang
lên đinh tai nhức óc, cát bụi mù mịt, khói bốc đầy trời, mùi khét lẹt. May thay
vệt bom đi cách chúng tôi chừng 300m, nên không gây thiệt hại gì đáng kể. Chưa
kịp hoàn hồn sau trận bom rải thảm, chúng tôi đã được lệnh chuẩn bị để vượt
sông. Tất cả đồ đạc phải bỏ lại nên ba-lô trở nên lép kẹp. Trong đó chỉ có ít
gạo muối, lương khô, 200 viên đạn, 4 quả lựu đạn và túi thuốc men. Mấy hôm nay
bầu trời luôn xám xịt, những cơn mưa nặng hạt đổ xuống liên tiếp. Nhìn mặt sông
Thạch Hãn mênh mông, nước lũ chảy cuồn cuộn, lòng tôi bỗng dấy lên một nỗi sợ
hãi mơ hồ.
Bờ bên Nhan Biều là bờ bồi, bờ phía Thành cổ là bờ
lở. Khúc sông này hay bị bắn phá dữ dội, hết pháo bầy lại đến bom tọa độ, tưởng
không lúc nào dứt. Lại có khẩu đại liên của địch đặt trên chiếc cầu sắt bị sập
cách đó vài trăm mét, thỉnh thoảng bắn chéo sang mỗi khi chúng thấy nghi ngờ.
Thường thì bộ đội ta vượt sông bằng cách buộc túm đồ đạc vào túi ni-lông làm
phao bơi, gác súng lên trên, rồi cứ bám vào chiếc phao như vậy vượt sang bờ bên
kia. Nhiều người đã hy sinh khi bị địch pháo kích bất ngờ, chết vì trúng mảnh,
chết vì sức ép, chết vì phao thủng... không biết bao nhiêu mà kể. Sau này chiến
sĩ Lê Bá Dương đã có những câu thơ cực kỳ xúc động về cảnh này:
“Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm...”
Dần dần quân ta nhận thấy một quy luật, là cứ tầm
2h sáng thì mọi hoạt động của địch bỗng nhiên ngừng hẳn. Thế là trong khoảng
2-3 h sáng chúng ta đẩy mạnh công tác vận chuyển qua sông, bổ sung quân, tiếp
tế lương thực, đạn dược vào Thành và chuyển thương binh ra. Mỗi ngày có chừng
một đại đội lính mới và hơn một tấn đạn dược được chuyển vào Thành, chủ yếu là
đạn B40-B41. B40-B41 là súng chống tăng, nhưng trong Thành quân ta dùng để bắn
cả bộ binh. Với sức nóng 1650°C, bắn chạm nổ trước tuyến xung phong của địch,
mỗi quả đạn tạo ra hiệu ứng mìn định hướng rất khủng khiếp, có thể thổi bay cả
một tiểu đội ngụy. Những xác chết cháy thành than, cong queo, gần như bị bốc
hơi. Chỉ có như vậy mới ngăn chặn được những đợt xung phong vũ bão của lính Dù
hoặc Thủy quân lục chiến. Và đó cũng là câu trả lời thích đáng cho loại súng
phóng lựu M79 của chúng, tục danh là súng “cạch - oành” hay “cối cá nhân”, loại
vũ khí đã gây ra những thương vong khủng khiếp cho bộ binh ta. Tuy nhiên thời
gian này, cán cân trận chiến trong Thành đã nghiêng về phía địch. Mưa liên tục,
nước sông Thạch Hãn lên to, làm việc tiếp tế hầu như là không thể, hầm hào bị
ngập lụt hết. Lại thêm ưu thế hỏa lực của địch quá dữ dội, pháo bầy, pháo biển,
B52, bom tọa độ, bom bổ nhào... suốt ngày đánh phá. Thời gian trước đó, địch
còn sử dụng loại bom đặc biệt “Daisy cutter” 7 tấn có sức công phá khủng khiếp.
Một máy bay vận tải C-130 lặc lè tha quả bom này tới thả xuống, có chiếc dù
trắng bung ra hãm quả bom tới độ cao cách mặt đất 30m thì nổ. Cả một góc thành
phía đông nam bị san bình địa. Nhiều chiến sĩ ta bị chôn sống dưới hầm hào. Từ
đây địch tăng cường lấn dũi vào trung tâm, dùng súng phun lửa bắn vào các chốt
của ta. Số phận quân ta ở Thành cổ gần như được báo trước và sự cầm cự cơ hồ
chỉ còn được tính từng giờ.
Lại nói về đơn vị chúng tôi. Tầm 10h đêm ngày
13-9-1972 ngớt mưa, có lệnh vượt sông. Đồ đạc và trang bị gọn nhẹ được chúng
tôi cho vào tấm tăng che mưa hoặc bao gạo nilông, buộc túm lại thành phao ôm ra
bờ nước. Một số cậu không chịu xuống nước, viện cớ không biết bơi. Anh Khả, cán
bộ đại đội, người Hà Tây, lồng lộn chửi bới mấy cậu này, quy cho tội hèn nhát
đảo ngũ, phản bội Tổ quốc, thậm chí anh rút súng ngắn ra dọa: “Thằng nào không
xuống bơi tao bắn vỡ sọ!”. Mấy cậu A trưởng phải can vào, chứng nhận bọn ấy nó
không biết bơi thật, anh mới hạ hỏa. Những người này được lệnh lui về hầm Nhan
Biều chờ đợi, đến khoảng 2-3 giờ sáng sẽ có thuyền cao-su chở tiếp vào Thành
(hóa ra các cậu đó lại gặp may, vì 10h đêm 13-9-1972 là đợt vượt sông cuối
cùng, sau đó có lệnh dừng mọi tiếp tế để chuẩn bị rút ra).
Tất cả chúng tôi đều chỉ mặc quần đùi lội xuống
dòng nước lạnh buốt, gác súng lên phao và bắt đầu bơi. Dòng sông mênh mông đen
ngòm, bầu trời cũng đen ngòm, vô tận. Còn cách bờ khoảng 30m thì bất chợt đất trời
rực sáng, hàng chục quả hỏa châu địch bắn lên, soi rõ từng lá cây ngọn cỏ. Rồi
một trận mưa đạn chụp xuống đoàn người đang lóp ngóp bơi trên dòng sông. Hàng
trăm quả đạn pháo bắn cấp tập, mặt nước sôi lên sùng sục. Lại thêm hàng tràng
đại liên và đạn DKZ M40 bắn thẳng từ phía chiếc cầu sắt. Đạn kêu chiu chíu,
mảnh pháo bay vù vù. Nước sông lập tức bị nhuộm đỏ bằng máu của hàng chục chiến
sĩ bị chết và bị thương. Họ chết vì đạn xuyên, mảnh chém, vì sức ép, bị thủng
phao, sặc nước... Ôi những chàng trai trẻ của khu Hai Bà và Hoàn Kiếm Hà Nội,
họ chết khi còn quá trẻ, nhiều người chưa một lần biết yêu. Tiếng gọi cuối cùng
trên môi là tiếng gọi “Mẹ ơi” trước khi chìm vào bóng đêm vĩnh cửu. Nhưng chẳng
người mẹ nào có thể cứu được con mình trong cơn bão lửa trên dòng Thạch Hãn ấy.
Có thể qua thần giao cách cảm, họ sẽ khẽ giật mình, có biết đâu trong giờ phút
đó, máu của những đứa con của họ đã thắm đỏ một khúc sông rồi...
Hoảng loạn, chúng tôi giãy đạp và sải nước bơi như
điên. May quá, ngón chân đã chạm đất, những người sống sót lóp ngóp bò lên bờ,
nằm dúi vào mấy gờ đất ven sông. Hàm răng đánh lập cập, lạnh thấu xương, tôi
nằm thẳng cẳng nhắm mắt thở, mặc đạn bay pháo nổ. Rồi cơn bão lửa cũng qua đi,
chúng tôi được lệnh chạy thật nhanh về phía Thành cổ.
Qua khoảng vài trăm mét thì bóng một ngôi nhà lớn
lờ mờ hiện ra. Ai đó nói: “Tòa Tỉnh trưởng đấy”. Hình như đó là tòa nhà 2 tầng,
nhưng phía trên đã bị hư hỏng nặng. Tuy nhiên tầng hầm kiên cố và khá rộng thì
vẫn còn nguyên vẹn, và được dùng làm Chỉ huy sở của lực lượng bảo vệ Thành.
Chúng tôi tản ra ẩn nấp dọc những giao thông hào đào quanh nhà. Một số theo anh
Khả vào bên trong xuống tầng hầm nhận lệnh. Bên trái cầu thang là nơi Ban chỉ
huy làm việc, mấy cán bộ Tham mưu đang xúm xít quanh tấm bản đồ trên chiếc bàn
nhỏ, được rọi bằng đèn măng-sông và đèn pin. Chuông điện thoại đổ liên hồi. Vài
chiến sĩ thông tin vô tuyến nói liên tục vào ống Tổ hợp: “Tinh cầu đây, Địa cầu
đâu, nghe rõ trả lời” hoặc “Vạn Tường gọi Plây- me, nghe rõ trả lời”.... Bên
phải cầu thang là Phẫu quân y dã chiến, nơi thương binh nằm la liệt, nhiều
người rên rỉ hoặc thở khò khè. Không khí đặc quánh mùi mồ hôi, mùi máu, cả mùi
phân và nước tiểu...
Được lệnh đi tiếp, tôi bám chặt anh Thiệu, người
trực tiếp phụ trách Trung đội. Trong bóng đêm, thỉnh thoảng được chiếu sáng
bằng ánh hỏa châu, chúng tôi chạy men theo những bờ tường đổ, những đống gạch
vụn, hoặc những đoạn hào nông choèn. Một mùi khăn khẳn xộc vào mũi, chỗ nào
cũng ngửi thấy mùi này. Về sau tôi mới hiểu đó là mùi xác chết. Xác chết ở khắp
nơi, xác ta có, xác địch có. Có xác được vùi sơ sài, nhiều xác nằm phơi mưa
phơi nắng, trương phềnh, thối kinh khủng. Có xác chỉ còn trơ xương, có xác đã
khô đét. Nhiều xác bị chết đi chết lại nhiều lần, tức là bị bom pháo hết quăng
lên lại quật xuống, không toàn vẹn.
Trời đã nhờ nhờ sáng. Thấy cuối đoạn
hào nông choèn có một cái hầm, chúng tôi ghé vào hỏi thăm đường. Bốn chiến sĩ
trong hầm thuộc Trung đoàn 95, F325. Biết chúng tôi muốn tìm Đoàn “Quang Sơn”
(Trung đoàn 48, F320B), họ chỉ cho chúng tôi chạy thêm lên 50m nữa. Tiểu đội
tôi và anh Thiệu được chỉ định vào chiếc hầm chữ A gần chân Thành. Nhìn mặt đất
lổn nhổn đầy hố bom hố pháo, đầy những mảnh tôn lợp nhà và sắt đá, gỗ vụn, ít
ai ngờ rằng dưới đó có những chiếc hầm kiên cố, nơi lính ta trú ngụ. Gọi là hầm
chữ A, vì mặt cắt của nó giống như hình chữ A. Trên đỉnh hầm có xà gỗ chạy dài
như xương sống, dọc 2 bên có những kèo gỗ cắm chéo xuống như xương sườn. Đất
trên nóc hầm dày cả mét, nên có trúng pháo cũng chẳng hề hấn gì, chỉ trừ phi bị
bom đánh đáo trúng, thì chịu. Được cái khu vực Thành cổ ít bị B52 “rải thảm”,
vì bọn nó sợ đánh cả vào quân mình. Đã có vụ máy bay địch bổ nhào đánh trúng
vào đội hình lính Dù đang xung trận, làm chết cả một đại đội Dù ở chân thành.
Trong hầm đã có sẵn 4 chiến sĩ. Hai người quê Thanh
Hóa, một anh bị thương nhẹ, quấn băng trắng trên đầu tên là Vĩnh. Còn hai anh
lính Hà Nội là Cao Dũng ở phố Lò Đúc và Hưng ở Lê Văn Hưu. Người nào cũng quần
đùi áo cộc, mặt mày lem luốc, vì đất nền hầm qua nhiều trận mưa to đã thành bùn
nhão nhoét. Hai người đang dùng vỏ thùng đại liên tát nước ở đáy hầm. Thấy lính
mới đến, họ hỏi ngay có gì ăn thì cho họ một ít. Cả tuần nay, vì tiếp tế khó
khăn, mỗi người mỗi ngày chỉ được một nắm cơm chấm muối. Chúng tôi chia cho mỗi
anh một phong lương khô 701, họ bóc ra nhai ngốn ngấu ngon lành. Trời mới hừng
sáng mà pháo bầy đã dập đến. Pháo bầy là pháo kích được bắn bằng nhiều chục
khẩu pháo cùng một lúc vào một mục tiêu. Nghe những tiếng “Tùng tùng tùng
tùng...” tưởng như không bao giờ dứt, mảnh bay vù vù, chém phầm phập vào vách
đất. Đơn vị nào đang hành quân mà bị pháo bầy thì coi như đi đứt. Mặt đất chi
chít lỗ pháo, đến ngọn cỏ cũng không nguyên vẹn nói chi là người. Nói chung,
pháo ở Quảng Trị là hiện tượng độc nhất vô nhị trên thế giới này. Mưa pháo đầy
trời, mưa pháo ngập đất, đủ tầm đủ cỡ. Pháo chụp, pháo mảnh, pháo khoan, pháo
khói.... không còn biết là pháo ta hay địch nữa. Có những ngày Thành cổ phải
chịu hàng chục ngàn trái pháo. Mỗi tiếng nổ như một mũi dùi xuyên vào hệ thần
kinh, có thể làm phát điên lên được. Tôi ngồi trong căn hầm chao đảo bần bật,
nhìn anh thương binh tên Vĩnh đang bịt tai nhắm mắt, miệng lẩm bẩm gì đó. Chợt
anh hét lên: “Đ. mẹ chúng mày bắn gì mà bắn lắm thế. Im ngay, không thì ông cho
chúng mày biết tay!”. Mắt anh trợn ngược, mồm sùi bọt mép, chồm lên định lao ra
cửa hầm. Chúng tôi kịp tóm anh lại, cho anh uống vài ngụm nước, để anh tĩnh
tâm. Khi pháo tạm ngừng, anh Thiệu cử tôi ra hốc chiến đấu ở bên ngoài trinh
sát. Đó là cái hố nhỏ vừa hai người ngồi, sâu khoảng một mét, nằm sát chân
thành, được ngụy trang bằng những tấm tôn và gạch ngói đổ nát, nhìn từ ngoài
vào rất khó phát hiện. Thành cổ Quảng Trị trước kia cao 5m dày 5m, được xây
bằng gạch vồ rất chắc chắn, xung quanh có hào nước sâu rộng bao bọc. Nhưng bây
giờ đã bị bom đánh tan nát, nhiều chỗ tường thành đổ sụp xuống lòng hào lấp nó
thành bằng địa, nên quân địch có thể dễ dàng băng qua hào để đột nhập. Tôi nhìn
xuống mép hào nước, thấy hai cái xác địch chắc chết đã lâu, lòi cả xương trắng
trong bộ quân phục rằn ri, nằm đè lên 1 miếng giẻ màu vàng bẩn. Sau mới biết đó
là lá cờ 3 sọc đỏ nhuốm bùn. Anh Thiệu đã bò ra ngồi cạnh tôi từ lúc nào. Thấy
trên vai bộ quân phục rằn ri của xác chết có phù hiệu tròn mầu đỏ, tôi hỏi anh:
“Lính gì thế?”. Anh nói: “Lính dù đấy. Bọn này đánh nhau dữ lắm, còn định trèo
lên Thành cắm cờ. May mà quân ta phát hiện kịp thời tiêu diệt. Bọn Dù bị thiệt
hại nặng, đã phải rút ra ngoài củng cố. Bây giờ đến lượt bọn Thủy quân lục
chiến xung trận, cũng dữ dằn không kém. Cậu phải căng mắt ra mà quan sát, lơ mơ
là nó xin gáo (đầu) mình ngay”.
Cách chỗ tôi khoảng 10m có một hố chiến đấu của
lính bắn tỉa. Anh xạ thủ tên Dần, người Hải Hưng, ngụy trang rất khéo. Trên nóc
hố anh phủ một tấm tôn lợp nhà to, che cả nòng súng đang thò ra. Nếu từ phía
địch nhìn tới thì không thể nào phát hiện ra được. Tôi bò theo đoạn hào nông
choèn sang làm quen với anh. Khẩu súng Đragunôv của anh trông rất lạ, dài
ngoẵng, báng rỗng. Băng đạn 10 viên to thô lố, loại đạn súng K44, cho phép bắn
trúng mục tiêu ở cự ly 1200m. Đặc biệt ấn tượng là ống ngắm quang học gắn trên
súng. Trong đó có đường kẻ ly chữ thập và đồ thị loằng ngoằng. Tôi nhòm qua ống
kính sang phía quân địch cách khoảng 400m, thấy vài tên lính đang chạy qua chạy
lại giữa các đống đổ nát, thấy cả những cúc áo trên bộ quân phục của họ. Chỉ
cần tên lính nào bất cẩn đứng yên một chỗ, anh sẽ nhằm đúng chiếc cúc áo ngực
thứ 2 và bóp cò, vậy là hắn chắc chết. Từ sáng đến giờ anh đã thịt được 3 tên,
có ngày cao điểm anh thịt được trên 10 tên. Các xạ thủ bắn tỉa đặc biệt “quan
tâm” đến những tên lính đeo máy bộ đàm PRC25 với cần ăng-ten ngất ngưởng và
những tên quanh đó, vì chúng thường là sĩ quan chỉ huy. Dọc tường thành phía
nam này có khoảng 10 tay súng bắn tỉa như vậy, đủ thấy mỗi ngày họ gây ra biết
bao thiệt hại cho quân địch.
Trên bầu trời, thỉnh thoảng chiếc L-19 Tâm lý chiến
mang loa phóng thanh công suất lớn ra rả kêu gọi chiêu hồi: “Hỡi các cán binh
Cộng sản thuộc Trung đoàn 48 đang tử thủ Cổ thành! Chốt là gì? Chốt là Chết!
Liệu các bạn có thể đem thịt xương của các bạn ra mà chống chọi với B52 và pháo
bầy Hạm đội? Các bạn hãy mau mau tỉnh ngộ, quy hồi về với Chánh nghĩa Quốc gia.
Các bạn sẽ được khoan hồng!”. “Khoan hồng cái con c... ông đây. Chúng mày hãy
mở mắt to ra mà nhìn những người lính Bắc Việt chiến đấu và chết như thế nào!”.
Tiếp theo là hàng tràng AK của lính ta bắn về hướng chiếc L-19.
Trời gần tối chợt thấy mấy chiếc Tank M48 đến gần
trận địa. Chúng dừng lại ngoài tầm đạn B40, rồi chĩa pháo bắn phá bờ thành.
Chúng tôi rút hết vào hầm tránh pháo. Trời tối đã lâu chúng mới ngừng bắn, anh
Thiệu và tôi lại bò ra quan sát. Dưới ánh hỏa châu leo lét, chợt thấy có những
bóng đen chuyển động, lúc ẩn lúc hiện. Bọn địch đang men theo những đống đổ
nát, các bức tường đổ, hố bom, hố pháo... tiến lại gần chúng tôi. Anh Thiệu lập
tức ra lệnh khai hỏa. Tất cả các loại súng của chúng tôi bắn dữ dội về phía
địch. Tôi vừa bắn hết một băng AK thì anh Thiệu nói: “Vào mang thùng lựu đạn ra
đây!”. Chúng tôi chuyển sang ném lựu đạn, ném vào tất cả các hố bom hố pháo gần
trận địa, ném vào bất cứ chỗ nào mà chúng tôi thấy nghi ngờ. Hàng loạt ánh chớp
nhằng nhịt và tiếng nổ chát chúa vang lên. Nghe thấy có những tiếng thét đau
đớn bên phía địch. Lập tức chúng trả đũa bằng pháo tăng và đạn “cạch - oành”.
Sở dĩ gọi M79 là súng “cạch - oành”, vì vừa nghe tiếng đạn ra khỏi nòng “cạch”
một cái là nó đã nổ “oành” bên cạnh mình. Đạn của nó bằng quả trứng vịt (cỡ
40mm), chứa nhiều mảnh nhỏ, khi nổ mảnh văng tung tóe, nên tính sát thương rất
cao. Ngoài ra nó có thể bắn cầu vồng để tiêu diệt mục tiêu nấp sau tường hoặc
dưới chiến hào. Cao Dũng nằm gần đó nhắc tôi: “Cậu đừng bắn cả loạt AK dài quá,
bắn điểm xạ 3 viên một thôi. Nếu không lửa đầu nòng dễ bị phát hiện, cạch oành
nó sẽ rót đến xin gáo ngay”.
Phải nói Cao Dũng là một cựu binh cực kỳ dày dạn.
Nhập ngũ tháng 9- 1971, anh đã tham gia chiến đấu ở Quảng Trị từ đầu chiến
dịch. Anh bắn giỏi tất cả các loại súng, từ AK, RPD, B40, B41 của ta, đến M16,
M60, M79...của địch. Dọc đoạn hào gần hố chiến đấu của mình, anh đặt sẵn nhiều
khẩu súng đầy đạn. Khi địch xông lên anh bắn liên tục, khẩu này hết đạn anh lấy
khẩu khác, và thay đổi vị trí thường xuyên. Một lính mới như tôi được chiến đấu
bên cạnh anh, tự nhiên thấy rất yên tâm.
Đêm đó địch còn tổ chức thêm một đợt tấn công nữa rồi
mới chịu ngừng hẳn.
15-9-1972. Trời vừa hửng sáng đã nghe
tiếng ò ò của chiếc máy bay trinh sát OV10. Nó quần đảo nghiêng ngó cả tiếng
đồng hồ, xoi mói khắp xó xỉnh. Thỉnh thoảng nó rồ lên 1 tiếng rồi chổng mông
bắn trái khói vào những chỗ nghi ngờ, chỉ điểm mục tiêu cho pháo và máy bay.
Rồi hai chiếc A37 thình lình bay tới.
Chúng lượn một vòng, bất ngờ tăng độ cao rồi bổ nhào về hướng chúng tôi. Bốn
quả bom đen trũi lao xuống. Tôi vội hô cho mọi người rút vào hầm. Chiếc hầm
rung rinh chao đảo, hơi gió phần phật, khói xám khét lẹt xộc vào. Tai chúng tôi
gần như điếc đặc, bụi đất trên trần rơi xuống rào rào. Đoán rằng chúng đã bay
xa, tôi lóp ngóp bò ra quan sát trận địa. Cách đó 50m, chiếc hầm của 4 chiến sĩ
Trung đoàn 95 trú ẩn, bây giờ chỉ còn là 1 hố bom sâu hoắm. Thịt xương của các
anh đã tan vào cát bụi.
Chợt nghe từng tràng đại liên M60 của địch bắn xối
xả phía bên phải trận địa. Chỗ đó thuộc khu vực của Đại đội 1, E48, nơi có anh
bạn Phạm Hùng Phong nhà ở phố Phan Bội Châu trấn giữ. Tôi ngó sang thấy 4 chiến
xa của địch, 2 M48 và 2 M113, đang yểm trợ một đại đội Thủy quân lục chiến xông
lên. Các chốt của ta bắt đầu bắn trả, tiếng súng AK và 12ly7 nổ giòn giã xen
lẫn tiếng ùng oàng của B40/B41. Mấy quả B40, B41 đều trượt mục tiêu, nên 2
chiếc M113 tiến được đến gần công sự của ta và dùng súng phun lửa bắn dữ dội.
Lại thêm pháo 90ly từ 2 xe M48 bắn thẳng vào các điểm chốt, nên sức kháng cự
của ta yếu dần. Đại đội tôi dùng 12ly7 bắn chéo cánh sẻ sang hỗ trợ, nhưng cũng
bị địch phát hiện ra, quay pháo từ 2 xe M48 bắn áp chế. Một lúc sau trận địa
của Đại đội 1 bị địch tràn ngập, chỉ còn thấy những bóng áo rằn ri thấp thoáng.
Mãi về sau này có dịp gặp anh Phạm Hùng Phong thì mới được nghe anh kể lại
những gì đã xảy ra bên đó...
Phía phải chúng tôi vừa tạm yên tiếng súng thì phía
trái súng lại nổ dữ dội. Hàng tràng liên thanh không dứt, chêm vào tiếng ùng
oàng của B40, B41 và những tiếng “cạch -oành” chát chúa. Khu vực đó là phạm vi
trách nhiệm của các chiến sĩ bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị. Trong Thành cổ,
ngoài các đơn vị chủ lực, còn có 2 Tiểu đoàn bộ đội địa phương là K3 và K8 cùng
tham gia phòng thủ. Những người con của quê hương Vĩnh Linh-Quảng Trị chiến đấu
cực kỳ dũng cảm. Không phải ngẫu nhiên mà bên địch loan truyền câu chuyện về
xác các Việt cộng mặc quần áo đen, chân bị xiềng vào những khẩu súng máy. Đúng
là họ thường chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, địch phải bước qua xác họ mới
chiếm được chốt, nhưng chuyện bị xiềng vào súng thì không có. Vả lại ở đây tôi
thấy họ được trang bị và ăn mặc y hệt chúng tôi. Ví dụ K3 “Tam Đảo” thực chất
là một Tiểu đoàn của Sư 312 được chuyển về cho Tỉnh đội Quảng Trị. Tuy nhiên
không phải ở đâu cũng vậy. Sau này tôi có dịp tiếp xúc với các đơn vị bộ đội
địa phương khác, thì thấy nhiều người đội mũ tai bèo, mặc quần áo bà ba đen
thật. Bộ bà ba của họ thường được may bằng vải ni-lông tét-rông mỏng, nhẹ nhưng
rất bền và giặt mau khô. Đặc biệt họ trang bị hầu như toàn bằng vũ khí của Mỹ.
Tôi có hỏi tại sao, thì họ trả lời là bộ đội địa phương một thời gian dài phải
tự cấp tự túc. Họ ít nhận được sự trợ giúp của hệ thống hậu cần và đường dây
559 như các đơn vị chủ lực, nên phải lấy súng đạn địch đánh địch là chính.
Nhưng điều đó không hề ảnh hưởng đến lòng dũng cảm hầu như huyền thoại của họ.
Cả đại đội Thủy quân lục chiến sau vài đợt xung phong đã phải bỏ lại nhiều xác
chết trước phòng tuyến, ôm đầu máu tháo chạy. Chúng điên cuồng gọi Không quân
và Pháo binh bắn phá dữ dội vào trận địa của ta.
Hàng chục ngàn quả pháo cùng nhiều
chiếc máy bay dội bom liên tục xuống đầu chúng tôi. Đất trời điên đảo, tưởng
như ngày tận thế đã đến. Các quả bom được thả theo hướng từ phía trong chéo ra
phía ngoài tường thành. Như vậy khi tường thành sụp đổ sẽ bị hất ra lấp những
hào nước ở chân Thành, tạo điều kiện cho lính địch thâm nhập vào dễ dàng. Nằm
trong hố chiến đấu, chúng tôi cũng bị phủ một lớp tro bụi dày hàng xăng-ti-mét.
Vừa mở mắt ra sau đợt pháo, tôi chợt thấy một toán
lính Thủy quân lục chiến ngay trước mặt. Khoảng 5-6 tên ngoi lên từ sau đống
gạch, trên người mặc áo giáp xanh rêu, đầu đội mũ sắt bọc vải rằn ri, tay nắm
chặt những quả lựu đạn mỏ vịt. Lợi dụng lúc pháo kích, bọn nó đã tiến lên,
trong khi chúng tôi còn chúi đầu tránh đạn dưới các hố. Chúng chưa nhìn thấy
tôi, vì không thể ngờ rằng trong đống đổ nát phủ đầy bụi đất cách đó vài mét
lại có một họng súng và một đôi mắt đang nhìn chúng. Đến khi một tên nhận ra
thì đã muộn. Lập tức theo bản năng tự vệ, tôi xả một tràng AK vào đám mũ sắt.
Những tiếng rú rùng rợn vang lên, những tấm thân đổ phịch
ra sau đống gạch. Không biết mấy người chết, mấy người bị thương, chỉ nghe bên
đối phương những tiếng la hoảng: “Đ. má, Việt cộng... Lùi lại tụi bay.. .Việt
cộng...”.
Thế rồi lại pháo, lại bom, tưởng như
bất tận. Giữa ban ngày mà địch tổ chức tấn công liên tiếp. Cứ mỗi lần bị đánh
bật ra, thì chúng lại gọi phi pháo bắn phá. Các ổ hỏa lực của ta dần dần bị lộ,
địch dùng pháo tăng bắn thẳng vào những vị trí này.
Anh Dần bắn tỉa đã chết tự lúc nào. Một quả pháo nổ
ngay cạnh hố chiến đấu của anh, thổi tung tất cả những tấm tôn ngụy trang. Không
hiểu anh hy sinh vì mảnh pháo hay sức ép, máu từ mũi và mồm cũng dính bụi nhoe
nhoét, mắt anh vẫn mở trừng trừng.
Sau mỗi lần đánh lui quân địch, Cao Dũng lại nhắc
tôi nhồi thêm đạn vào các băng đạn và chuẩn bị một lô lựu đạn để trước mặt. Học
tập anh, tôi cũng dùng lựu đạn là chính. Bên địch cũng vậy. Chúng thường lợi
dụng lúc bom pháo đang bắn phá các chốt để bò lên tiếp cận, rồi ném lựu đạn vào
hầm hào của chúng tôi.
Trời đã ngả chiều. Thêm cậu Hưng “Lê
Văn Hưu” bị mảnh pháo chém xả vào bả vai. Vết thương rất khó băng bó, tôi lúng
túng quấn bao nhiêu băng mà vẫn bị tuột. Chúng tôi đưa cậu ấy vào hầm nằm cùng
các thương binh khác. Lực lượng của đại đội tôi đã bị tổn thất quá nửa. Cao
Dũng đưa cho tôi bao cơm sấy chiến lợi phẩm, rồi hai đứa cùng nhai trệu trạo.
Cả ngày nay chưa được hột cơm nào vào bụng.
Đêm đến. Pháo sáng địch bắn đầy trời. Lại một đợt
tấn công mới của tụi Thủy quân lục chiến. Những dây đạn sáng lòe đủ mầu bay
ngang dọc trong đêm, cộng thêm từng đợt vòi rồng lửa phun ra từ mấy xe M113 của
địch. Chúng tôi bắn đến đỏ cả nòng súng, đạn dược vơi dần. Không hiểu bọn nó mà
tấn công một đợt nữa thì lấy gì để chống trả đây? Chả lẽ dùng răng mà cắn vào
cổ họng chúng như Anh hùng Lâm Úy à? Chợt nghe một quả “cạch - oành” nổ ngay
trên hố chiến đấu của Cao Dũng. Cảm thấy có chuyện chẳng lành, tôi vội bò sang
chỗ anh. Một cảnh tượng kinh hoàng hiện ra trước mặt. Nửa đầu bên phải của Cao
Dũng đã bay mất, máu và óc lầy nhầy tung tóe trên miệng hố. Tay và chân vẫn còn
giật giật trong cơn giãy chết. Tôi ôm chầm lấy anh, miệng la lên thảng thốt:
“Cao Dũng ơi!”, nhưng anh đã ra người thiên cổ mất rồi. Vĩnh và tôi lấy tấm
võng phủ lên xác anh, rồi vội vàng bò về hố chiến đấu của mình.
Ngồi trong hố mà nước mắt tôi chảy dàn giụa. Cao
Dũng vẫn thường nói với tôi: “Nếu trận đầu cậu không chết, thì sẽ không bao giờ
chết.”. Anh đã trải qua hàng chục trận, trên người không hề có một vết xước.
Vậy mà bây giờ một thằng lính mới khù khờ như thì tôi vẫn ngồi đây, còn anh lại
chết rồi. Đúng là trời thương kẻ ngù ngờ, thông minh không khỏi số giời..
Thương thay cho một người con anh dũng của phố Lò Đúc, một Héc-to của Thành
cổ.. Anh đâu còn biết, giờ này chỉ có một người duy nhất, một cậu lính trẻ 18
tuổi, mặt mũi lấm lem quần áo bê bết, đang gục đầu bên khẩu súng khóc thương
cho anh.
Đêm đã khuy lắm rồi. Tôi vẫn ngồi miên man chìm đắm
trong những suy nghĩ về cái chết của Cao Dũng, không để ý đến sự im ắng đáng
ngờ trên trận địa. Đại bác vẫn nổ cầm canh, pháo sáng vẫn hết quả này đến quả
khác, nhưng tiếng súng bộ binh thì không. Chợt thấy anh Thiệu lom khom chạy
tới. Nhìn thấy tôi anh nói: “Vinh, sao các cậu còn chưa rút đi? Các đơn vị khác
người ta rút hết rồi.”. Tôi đáp: “Có ai nói gì với chúng em đâu.”. Chúng tôi
vội thông báo cho mọi người trong hầm. Những thương binh nào còn vận động được
thì tự nhằm hướng Dinh Tỉnh trưởng mà đi, còn những người yếu thì chúng tôi
phải dìu. Tất cả tử sỹ đều bỏ lại. Trong bóng đêm chập chờn ánh hỏa châu, chúng
tôi vội vã rút ra phía bờ sông.(1)
(1) 81 ngày đêm Quảng Trị hay là Cuộc
chiến đấu bảo vệ Thành cổ được tính từ ngày 28-6 đến ngày 16-9 năm 1972 (BT).
Ở bến vượt cảnh tượng khá nhốn nháo. Có lệnh vứt bỏ
xuống sông tất cả vũ khí nặng mà không thể mang được. Các thương binh được ưu
tiên chở bằng xuồng cao-su, những người bơi yếu thì bám xung quanh xuồng.
Có một sợi dây cáp được chăng ngang sông, các xuồng
bám vào đấy mà vượt sang bờ Bắc. Còn tất cả mọi người khác lại phải làm phao
bơi bằng tăng (hoặc bao gạo) ni-lông, để súng lên trên và bơi cật lực. Nước
sông vẫn chảy cuồn cuộn, lạnh buốt, đen ngòm. Ba đợt vượt sông an toàn, đến đợt
thứ tư thì bỗng nhiên pháo bầy dập đến. Một cảnh tượng hãi hùng phơi ra dưới
ánh pháo sáng: Xuồng chìm, phao thủng, tiếng la thét của thương binh và những
người bị trúng mảnh... Mặt sông Thạch Hãn lại đỏ ngầu máu tươi...
Bờ Bắc là bờ bồi nên cách khoảng 50m chân tôi đã
chạm đất. Tôi lội bì bõm như người mộng du, hầu như không nhận biết được gì
nữa. Lên bờ, chúng tôi chạy thục mạng về hướng Bắc. Cho tới khi thấy bóng đen
mờ mờ của cây cối làng mạc chúng tôi mới dừng lại. Có tiếng người nói lao xao,
các đơn vị gọi nhau tập trung lại đội hình. Tiểu đoàn 3 của tôi quân số còn lại
chưa đầy một đại đội. Nhưng có những đơn vị còn thảm thương hơn nhiều. Trung
đoàn 27 (Đoàn Triệu Hải) phối thuộc cho Sư đoàn tôi, khi rút ra khỏi Thành chỉ
còn 10 chiến sĩ. Tất cả các đơn vị tham chiến ở Quảng Trị đều thiệt hại rất
nặng nề. Chúng ta mất hàng trăm súng lớn đủ loại, hàng chục xe tăng, và trên
hết, hàng chục nghìn người con ưu tú của đất nước. Chẳng hạn Sư đoàn 325, chiến
sĩ phần lớn là những sinh viên các Trường ĐH Miền Bắc, thành phần tinh hoa của
dân tộc, thế mà thương vong gần hết. “Ôi những người con trai khỏe đẹp/ Có thể
biến thiên nhiên thành điện thép/ Cho con người hạnh phúc hôm nay.. .”(Tố Hữu,
Ê-mily, con). Nhiều lúc tôi đắng cay thầm nghĩ, một mảnh đất chó ăn đá gà ăn
sỏi có đáng để chúng ta phải trả giá quá đắt như vậy không? Mỗi ngày đưa vào
Thành một đại đội đủ (140 người) mà khi ra chả còn bao nhiêu. Tuy nhiên, mỗi
người, dù là người trực tiếp tham gia, cũng không thể hiểu hết cục diện chiến
tranh và không thể đo đếm giá của chiến tranh bằng cái giá thông thường.Thấy
nói hồi đó ta đang đàm phán trên bàn Hội nghị Paris, việc giữ vững Thành cổ và
tiếng súng ở chiến trường có một tiếng nói rất quan trọng.
Sau khi củng cố lại đội hình, chúng tôi
được lệnh hành quân về hướng tây bắc. Lại qua những địa danh quen thuộc: Ái Tử,
Đông Hà, Cam Lộ.. Những lúc nghỉ giải lao, đoàn quân xôn xao bàn luận: “Đơn vị
bị thiệt hại nặng như vầy, chắc đợt này sẽ được rút ra Bắc nghỉ ngơi, bổ sung
quân số.”. Nếu được thế thì mừng quá. Mấy đứa Hà Nội chúng tôi đã mơ có thể
được về phép vài ngày, vì Hậu cứ của Trung đoàn là ở vùng Nông Cống/ Thọ Xuân,
Thanh Hóa. Từ đó về Hà Nội chả mấy ngày đường. Lê được tấm thân tàn này về gõ
cửa nhà, chắc bà và mẹ ngạc nhiên lắm.
Nhưng chúng tôi đã nhầm. Đơn vị chỉ rút ra vùng
chân điểm cao 241 thì dừng lại. Vẫn mưa rả rích suốt ngày. Cả buổi chúng tôi
lội dọc một con suối nhỏ, nước đục ngầu, ngập ngang bụng. Hai bên bờ mọc đầy
những cây mâm xôi và sâm đất. Lá những loại cây này đem nấu trà uống rất thơm
và bổ. Cả lũ đã mệt phờ, ướt như chuột lột, thì được lệnh tản ra tìm chỗ nghỉ.
Chúng tôi mắc võng trong một cánh rừng thưa, xung quanh là những đồi cỏ tranh
bao bọc. Anh Thiệu đi ngoại giao ở đâu về được một gói ruốc thịt, chia cho mỗi
đứa một ít. Anh kể gần đó có một đoàn tân binh đóng, anh đến làm quen, và gặp
bất cứ ai cũng nhận đồng hương. Lúc thì anh quê ở Hải Hưng, lúc thì Thái Bình,
lúc lại Thanh Hóa. Kết quả là anh kiếm được cũng kha khá. Tân binh mới vào còn
“giàu có” lắm. Họ sẵn lòng chia sẻ với người cựu binh đồng hương vài thìa mì
chính, ít ruốc bông, phong lương khô hoặc gói thuốc lào..
Đơn vị nhận tân binh bổ sung ngay tại đây. Chủ yếu
là lính Hà Nội, Thái Bình và Hải Phòng. Tiểu đội tôi có 4 người. Tôi làm Tiểu
đội trưởng. Quang
“Bạch mai” (Quang “xỉu”) Tiểu đội phó. Hai chiến sĩ là
Chính con “Hoàng Hoa Thám” và Bích (Quỳnh phụ, Thái Bình). Bích giữ khẩu B40
hỏa lực của tiểu đội, còn lại 3 người 3 khẩu AK. Cán bộ Trung đội có anh Thanh
(Hà Tĩnh) mới bổ sung về làm quyền Trung đội trưởng. Cán bộ Đại đội thì anh
Thiệu được cử đi học Quân chính, về thay là anh Hưởng (quê Gia Lâm) làm Chính
trị viên phó, tạm thời là người chỉ huy cao nhất và duy nhất của Đại đội.
Trong tiểu đội tôi, người nhiều tuổi nhất là Bích,
19 tuổi, và đã có vợ. Hình như thanh niên nông thôn miền Bắc hồi ấy có lệ là
sau khi huấn luyện tân binh 3 tháng, được nghỉ phép 7 ngày trước khi đi B, hầu
hết họ về quê lấy vợ. Trong 7 ngày ấy họ đã kịp làm đám cưới, hưởng tuần trăng
mật, và nhiều người còn kịp để lại một giọt máu trong lòng người vợ trẻ. Nhiều
phụ nữ trẻ chỉ được hưởng hạnh phúc làm vợ có 7 ngày, rồi sau đó là cả cuộc đời
dài chờ đợi. Nhiều đứa trẻ suốt đời không biết mặt bố, không được gọi một tiếng
“Bố ơi”!
Vì đã có vợ, nên đối với chúng tôi Bích là cáo cụ
trong chuyện đàn bà. Mỗi lúc nhớ nhung cậu ta lại kể chuyện làm tình với vợ. Vợ
nằm ngửa ra sao, dạng chân thế nào, cái mu khum lên, cái lưng cong ưỡn. Rồi hơi
thở gấp gáp, cậu ta dập dồn dập.... Rồi tất cả nổ tung.... Lũ trai tơ chúng tôi
cứ há hốc mồm nghe, mắt sáng lên háo hức.
Anh Thanh 24 tuổi, Thượng sĩ Trung đội phó, nhưng
vì chưa có Trung đội trưởng nên anh tạm thời chỉ huy. Anh người gầy, dong dỏng
cao, da tai tái, hai mắt như hai hột nhãn, hàm răng hơi sún và xỉn màu vì hút
thuốc lào. Trước đó anh có vài năm công tác ở Tỉnh đội Hà Tĩnh, và có người yêu
tên là Định. Thỉnh thoảng anh khoe với tôi chiếc khăn tay do người yêu tặng, có
thêu hai chữ ĐT ở góc. Hiểu là “Đượm tình” hay “Định - Thanh” đều được cả. Anh
là người dạy tôi hát Ví giặm, ngâm thơ và kể vè Nghệ Tĩnh. Cho đến nay thỉnh
thoảng ngồi một mình tôi vẫn hát những bài này. Tôi rất thích bài
Ví giặm:
“À.. .ơi... Sông Lam Giang nước càng ngày càng rộng
Núi Hồng lĩnh mỗi bậc mỗi cao
Bấy lâu nay Mận nỏ thấy Đào
Hỏi thăm con chim Hồng nhạn
Anh Bộ đội ở phương nào lại đây?...”
Vì quý chúng tôi nên anh hầu như là tay súng thứ 5
của Tiểu đội 4. Dần dần anh được toàn Trung đội quý mến, thực sự là thủ lĩnh và
chỗ dựa tinh thần cho toàn thể chúng tôi.
Anh Hưởng cán bộ Đại đội cũng rất quý tôi. Trước
đây anh thuộc Sư 324, chiến đấu ở miền Tây Thừa Thiên, vùng A Sầu, A Lưới. Sau
khi đi học Quân chính, anh được phân công về đơn vị này. Anh cũng cao dong
dỏng, da ngăm đen, thích kể chuyện và ăn nói nhẹ nhàng. Anh biết tôi có khả
năng đặc biệt, đó là rất nhớ đường. Đường dù quanh co đến đâu, tôi chỉ đi một
lần là nhớ. Ở vùng rừng núi này, những trảng cỏ tranh bạt ngàn, lính ta dẫm cỏ
mà đi tạo thành đường. Nhưng nhiều chỗ đường cắt ngang cắt dọc, không tinh ý
rất dễ lạc. Lớ xớ là đạp phải bom bướm hoặc đụng Thám báo ngay. Anh cực kỳ tin
tưởng tôi, vì vậy đi đâu anh cũng kéo theo tôi đi đầu. Mà anh thì đi rất nhiều.
Nào họp hành, nào chỉ đạo lấy gạo, thực phẩm, súng đạn bổ sung.. Chính vì đi
nhiều nên tôi có dịp gặp lại nhiều bạn bè cùng huấn luyện ở C49 D58. Duy Minh
bây giờ là A phó ở Trung đội 1. Chí Thành và Bình “cống” đeo máy Thông tin vô
tuyến 2W có cần ăng-ten vắt vẻo. Long “cồ” làm lính Trinh sát. Hoàng Hữu Hạnh
ôm khẩu cối 60 ở A10. Lâm “Chợ Giời” và Bùi Ngọc Toàn về Đại đội 10.
Một buổi đi lấy gạo, chúng tôi nhằm
hướng Cồn Tiên bươn tới. Căn cứ này nằm trên một ngọn đồi cao, lại có một tháp
canh cũng cao ngất ngưởng, nên đứng chỗ nào ở Bắc Quảng Trị cũng đều nhìn thấy
nó. Đi loanh quay mấy tiếng đồng hồ, đói mềm người, mới biết kho gạo nằm ở chân
Dốc Miếu gần đó. Căn cứ này cũng rất lớn, bây giờ trông cả vùng đồi lở loét vì
đạn pháo và xe ủi húc nham nhở. Mỗi đứa lấy một ba-lô gạo xong, đói quá, bèn
bàn nhau nấu cơm ăn tại chỗ. Vấn đề là không có nồi, đành phải lấy vỏ thùng
lương khô để nấu. Nhưng vỏ thùng bằng sắt tây mỏng dính, lại đổ đầy gạo nước,
nên không thể chín được, mặc dù đã đun lửa to hết cỡ. Kết quả là phía dưới thì
khê đen mà phía trên thì còn sống. Đúng là một nồi cơm “trên sống dưới khê tứ
bề nhão nhoét”, khét lẹt, nhưng chúng tôi vẫn cố nhai để lấy sức.
Trên đường về, trời đã ngả chiều, trần mây thấp nên
càng nhanh tối. Cả lũ đang đi, chợt nghe tiếng “Ú.ù” rợn người, rồi một dây
tiếng nổ xô ngã tất cả. “B52.”. Chỉ nghe hơi gió phần phật, vì tai đã điếc đặc.
Một loạt, hai loạt, ba loạt! Thoát rồi, mình không bị dính rồi.. Cả lũ lại đứng
lên, rũ bụi đất, hối hả bước tiếp.. B52 thường bay 3 chiếc như hình mũi tên,
những ngày đẹp trời có thể thấy ba dải khói trắng trườn trên mây biếc. Những
lúc chúng bay thấp, trông như ba chiếc phản bằng bạc. Thường đến mục tiêu là
chúng cắt bom rồi quay ngoắt về ngay. Thế nên thấy ba dải khói trắng quành lại
là bom đã rơi rồi đấy. Không gì có thể tồn tại trong ba thảm bom ấy. Biết bao
kho tàng, xăng dầu, bến bãi, xe cộ, pháo binh, thiết giáp.của ta đã tan thành
tro bụi. Nhiều đơn vị không còn một mẩu xương.
Sau vài tuần nghỉ ngơi củng cố dưới chân điểm cao
241, đơn vị tôi được lệnh về đóng chốt ở vùng Quán Ngang. Cả đại đội hành quân
giữa ban ngày, đi ngoài trảng cỏ tranh, anh nào cũng che cành ngụy trang trên
đầu. Chập tối thì chúng tôi tới một xóm nhỏ ven đường tàu, rồi chia nhau vào
các nhà dân nghỉ. Căn nhà lợp tôn nơi Tiểu đội tôi đóng chỉ có hai ông bà già,
bọn tôi gọi là Bọ, Mạ. Người Quảng Trị nói tiếng trọ trẹ rất khó nghe, nhưng
theo tôi hiểu thì gia đình này cũng chia làm hai phe. Anh con cả là Biệt động
quân, đã chạy vào Huế, trong khi hai người em là Bộ đội địa phương và Du kích.
Chúng tôi đưa gạo, đồ hộp cùng mắm ruốc khô nhờ Bọ Mạ nấu
cơm hộ. Trong góc nhà chất nhiều thùng đạn đại liên M60, xếp chồng lên nhau từ
sàn tới nóc. Tôi tò mò bật mở một thùng ra, thì thấy toàn là ớt bột, hơi bốc
lên sặc sụa. Buổi tối, trong ánh đèn dầu leo lắt, bữa cơm được dọn ra. Thấy bát
canh khoai sọ đỏ lòm, tưởng bột cà chua, hấp dẫn quá, chúng tôi đứa nào cũng
húp 1 thìa to. Ối cha mẹ ơi, tôi vội phun ngay ra. Cay kinh khủng, môi bỏng,
mồm bỏng, cổ họng bỏng. Thì ra là toàn ớt bột. Suốt buổi hầu như tôi chỉ ngồi
há mồm chảy nước mắt, nhìn Bọ Mạ ăn bát canh ngon lành. Người Quảng Trị ăn cay
khiếp thật.
Hôm sau chúng tôi được lệnh vào đóng ở
trong căn cứ Quán Ngang, một trại lính cũ của địch.
Đó là một cứ điểm lớn ngự tọa trên một quả đồi
thấp, cách đường tàu cũ khoảng 400-500m. Đây nguyên là bản doanh của Trung đoàn
57, Sư đoàn 3 Bộ binh Việt Nam Cộng hòa. Bên cổng doanh trại còn dấu vết phù
hiệu của Sư đoàn này: 3 ngôi sao trắng trên nền xanh dương, cùng dòng chữ “Bến
Hải” bên dưới. Phù hiệu của Trung đoàn 57 thì có con đại bàng đang sà xuống.
Tôi thật sự choáng vì quy mô của doanh trại này. Nó
rộng mênh mông, có nhiều lô cốt kiên cố trấn giữ các hướng. Xung quanh căn cứ
là bãi rào thép gai trải dài đến tận chân trời. Đủ loại hàng rào: mái nhà, cũi
lợn, căng ngang ống chân, bùng nhùng.... Những cuộn dây thép gai được trải ra
loằng ngoằng vô tận. Đặc biệt chúng không có gai, mà lại được gắn những miếng
thép mỏng nhỏ, sắc như dao cạo. Xen giữa các hàng rào thép gai là bãi mìn đủ
loại: mìn chống bộ binh, mìn nhảy, mìn chống tăng, mìn định hướng. Tôi không
hình dung nổi, làm sao mà có thể tấn công chiếm được cứ điểm này. Nếu có chiếm
được thì phải sử dụng lực lượng hàng sư đoàn và chắc phải trả bằng một giá hy
sinh rất đắt. Nhưng không, chúng ta đã chiếm được nó quá dễ dàng. Đơn giản là
sau vài đợt bị ta pháo kích, địch nghe tiếng xe tăng của ta từ xa đã hoảng
loạn, rùng rùng kéo nhau tháo chạy, bỏ lại căn cứ hầu như còn nguyên vẹn.
Trên đường vào
căn cứ, thấy hai bên hàng rào có rất nhiều tiền Miền Bắc do địch rải xuống. Đây
là tiền giả, chúng thả từ máy bay như thả truyền đơn vậy. Chủ yếu là tờ tiền 5
đồng mầu xanh nước biển có in hình Cụ Hồ, bên mép là tờ truyền đơn nhỏ. Thấy
tiền, mấy đứa chúng tôi vui mừng hớn hở, tung tăng lượm nhặt như những đứa trẻ.
Chính con và Quang thích thú lèn chặt hai ba-lô tiền, phấn khởi bàn nhau phen
này mà được về phép thì tha hồ uống bia Thủy Tạ, ăn kem Bờ Hồ. Tôi không muốn
làm vẩn đục những phút giây vui sướng hiếm hoi của họ, mặc dù nhìn một cái biết
ngay là tiền giả. Chỉ nhắc họ cẩn thận để không dẫm phải mìn.
Nguyễn Quang Vinh
Phần Thứ Ba: Mặt Trận Nam Cửa Việt (1)
Đại đội tôi hành quân theo một hàng dọc, nhằm hướng
đông nam thẳng tiến. Đang đi có lệnh tạt vào một làng tìm chỗ nghỉ, đợi cho C10
phía trước qua sông hết đã. Lại nhờ Bọ, Mạ thổi cơm hộ. Lại một bữa cơm đỏ lòm
ớt bột, mà tôi chỉ ngồi há mồm chảy nước mắt không ăn được vì cay quá. Mỗi mình
anh Thanh B phó là chén tốt.
Tối mịt cả đại đội mới ra tới bờ sông. Bãi ruộng bị
B52 đánh tơi tả, đầy bùn nước, lội thụt tới đầu gối. Mưa to, cả lũ chạy vào mấy
ngôi nhà hoang ngồi chờ thuyền. Ngôi nhà nhỏ có hầm ở dưới nền, chật cứng người
cả trên lẫn dưới. Tối om, ướt, lạnh. Gió mưa đập vào mái tôn rào rào. Ngồi cạnh
Trường “Khâm Thiên” A6, nó hát bài “Cuộc đời sương gió/ Chiến chinh nơi miền
xa/ Qua những vùng xa lạ quá...”. Nghe buồn não ruột.... Đến nay thỉnh thoảng
nhớ những ngày mưa Quảng Trị tôi vẫn hát...
Lúc ra thuyền, Chính “con” để thụt mất dép. Thuyền
máy khá to, chở được cả trung đội. Lên bờ, gặp Chí Thành đeo máy 2W xuống phối
thuộc cho đại đội tôi, cậu ta cho Chính con một đôi giày cao cổ. Cả lũ đi mò
trong đêm. Tôi bị ngã vào vũng nước, ướt sạch, quai dép bị đứt, đành phải đi
đất. Hình như bị lạc rồi, ánh hỏa châu chập chờn khắp nơi. Đường bờ ruộng trơn
như đổ mỡ, tôi nghiến răng dùng hết sức bấm ngón chân xuống đất mà vẫn ngã. Mỗi
bưới đi là một bước ngã. Súng ống đồ đạc quật oành oạch, quần áo bẩn thỉu như
trâu vấy. Nhiều lúc mệt quá, tôi cứ chống hai tay ngồi phệt dưới bùn mà nuốt
nước mắt: cuộc đời chưa bao giờ bị cực khổ như thế này!
Tôi đi men xuống bờ cỏ cho đỡ trơn, nhưng mà sao
nhiều gai xấu hổ thế.
Chỉ một chân có dép nên bước thấp bước cao, một tay xách
chiếc dép đứt quai kia, thất thểu như bại trận, Chính con phải dắt đi. Được
nghỉ giải lao ở một bãi tha ma, hai đứa cùng chui xuống một ngôi mộ, nằm lăn ra
cạnh hai cậu lính 12ly7 chốt ở đó. Đấy là hầm của họ, vách hầm còn thấy một góc
quan tài chòi ra. Những người khác thì nằm dọc lề đường mà ngủ vì quá mệt, mặc
ướt, mặc sương và muỗi.
Đến lúc nghe có tiếng gọi í ới, tôi và Chính chui
lên thì không thấy ai cả. Hai thằng cắm cổ chạy, Chính bắn đạn lửa để liên lạc.
Thấy nhiều lối rẽ, chúng tôi đã hoảng, nhưng cứ đi bừa. May quá, gặp anh Phùng,
Chính trị viên đại đội và cậu liên lạc đang đứng đợi. Anh xạc cho một trận, tôi
cúi đầu nghe nhưng trong lòng rất mừng vì không bị lạc.
Trời đã sáng bảnh mà chúng tôi vẫn loanh quanh hết
làng này đến làng khác. Qua một đêm đứa nào cũng mệt phờ râu. Có lệnh tản ra
nghỉ. Chí Thành và cậu Bắc thông tin treo ăng-ten lên cây thông, mở máy vô
tuyến 2W liên lạc với Tiểu đoàn, nhưng không được. Tôi xin mấy hột cơm sấy của
bọn B3, ngồi nhấm nháp. Mọi người đã định nấu ăn thì có lệnh đi tiếp vì đã tìm
được tiền trạm. Như vậy là ngày hành quân thứ hai bắt đầu.
Đoàn quân băng qua đồng, qua làng, qua
nghĩa địa công giáo với những ngôi mộ đen to tướng có cắm thập ác. Đến gần một cổng
làng, thấy bên trên có hàng chữ đắp nổi đã tróc sơn “Tri ân Ngô Tổng thống”.
Làng này cũng bị B52 đánh be bét, tre chuối rũ rượi, cành lá vương vãi khắp
nơi. Đất hố bom mới đào xám đen, địa hình trống trải. Ở đây chúng tôi gặp anh
Khuông “Quảng Bình”, trước là B trưởng B1, nay vừa lên Đại đội phó, người chỉ
huy đi tiền trạm. Tất cả tập hợp ở một ngôi nhà gần đấy. Chí Thành lại mở máy
gọi Tiểu đoàn bộ. Tôi ngồi ngay cạnh, chợt nghe có tiếng léo nhéo trong máy:
một giọng nói lạ, một tên địch!. Chí Thành đối đáp cò cưa với hắn vài câu, rồi
tắt máy.
Trung đội tôi được dẫn sang làng
khác, đóng ở mấy nhà ven làng. Một nhà có cây khế rất sai, quả to, cả bọn ào ào
vượt qua mương vào vặt ăn. Khế rất ngọt. A5 và A6 được bố trí ở hai nhà khá
tốt. A4 được phân vào một nhà chả ra sao: một cái hầm thì có nước, một cái khác
thì trơ sườn. Tôi rất cáu với ông Trung, B trưởng, nhưng anh Thanh thì lại đang
đi hội ý vắng, biết nói với ai.
Cái làng này bị bỏ hoang trông thật
điêu tàn, không một bóng người. Cỏ dại mọc tùm lum trong vườn và trong các ngõ
xóm, cao đến đầu gối. Đường làng bị tay tre ngả ra che kín lối, muốn đi nhiều
chỗ phải chui, gai tre cào rách cả da.
Trên sân nhà tôi ở, lúa đã mọc thành bụi. Khi bước
vào nhà, một mùi ẩm mốc xông lên. Cả gian giữa là cót thóc, ở một góc mạ đã mọc
xanh rì. Quần áo cũ một đống; bát đũa nồi xoong vung vãi, dưới bếp còn có cả
một chĩnh đậu đen. Chúng tôi nấu cơm ăn. Anh Thanh vừa về cũng rất bực kiểu
phân nhà của ông Trung.
Tôi lội vườn sang mấy nhà bên cạnh xem xét, thấy
cũng hoang tàn như vậy, còn có thêm vài cái xe đạp hỏng nằm chỏng gọng. Nhưng
được cái có mấy cây ổi con mà nhiều quả chín, ăn ngọt phết. Lại thêm mấy vạt
rau muống mọc lẫn cỏ và một luống rau dền to, non.
Buổi chiều tập hợp Trung đội để công bố
một cái lệnh làm tất cả chúng tôi ngạc nhiên: Ông Trung được điều đi công tác
khác, anh Thanh lên làm B trưởng. Việc ông Trung được điều đi làm chúng tôi rất
mừng, nhưng ngoài mặt ai cũng tỏ ra như không có chuyện gì cả. Một số cậu xỏ lá
cứ ca cẩm: “Anh Trung mất đi, tổn thất này thật là lớn lao, đau thương này thật
là vô hạn...”. Một Trung đội phó mới được cử về, tên là Tài, người Thanh Hóa.
Anh khoảng 20-21 tuổi, dáng vẻ lù đù, rất ít nói, và sẽ thường xuyên đi với A6.
Còn anh Thanh vẫn tiếp tục đi với A4 của tôi.
Cái nhà A6 là tươm
tất nhất. Xây bằng gạch, có tràng kỷ, giếng nước đàng hoàng. Vườn ổi trái to và
sai.
Hôm nay đến lượt Quang “Bạch Mai” nấu
cơm. Rỗi rãi nên tôi nhặt mấy quyển sách giáo khoa trong nhà lên xem. Đây là
sách của các lớp dưới, tương tự quyển Luân lý và Khoa học thường thức ở Miền
Bắc, được in nhiều mầu khá đẹp và giấy rất tốt. Thấy có chồng báo mốc meo ở góc
nhà, tôi đem ra đọc. Báo “Sóng thần” thì phải, trong đó có bài tường thuật trận
đột kích của đơn vị Biệt động quân Cọp rằn vào một Trạm Giao liên trên đường
mòn Hồ Chí Minh. “.Bị đánh bất ngờ, các con cháu của Đảng và Bác đã quăng cả
súng mà chạy, quên mất lời thề thứ 8 của họ là đến chết không rời vũ khí. Cọp
rằn tịch thâu được 4 súng Cộng đồng và 12 súng cá nhân.”. Nội dung không có gì
mới nhưng cách hành văn buồn cười quá.
Buổi tối, tôi và Chính chui xuống hầm dưới tát cạn
nước rồi trải rơm nằm ngủ. Còn anh Thanh và Quang, Bích thì nằm trên hầm hở
sườn.
Đã sang ngày thứ ba của đợt hành quân.
Sáng sớm Quang đi với Bích lên D bộ lấy
gạo. Tôi tha thẩn lượn ra ven làng chơi. Cái xóm trước mặt sao mọc nhiều chuối
thế. Chợt tôi thấy trên bờ ruộng cách khoảng 200m có một con chó đang chạy lon
ton. Tôi vội lao vào nhà vớ lấy khẩu AK, nhưng tới nơi thì nó đã lủi đâu mất,
tiếc thật. Đành tự an ủi: xa quá, có bắn chưa chắc đã trúng. Thực ra bọn chó
hoang nhiều con ăn cả thịt người chết, nhưng lính ta bắn được vẫn đem chén ngon
lành. Có cậu bên C10 bắn được con lợn hoang to tướng, đen sì. Nhưng nhìn cái
mặt nó ghê quá, có 2 răng nanh dài, vểnh lên, chẳng ai dám ăn.
Anh Thanh về gọi tôi đi họp. Cậu Minh người Thái
Bình, A trưởng A5 và ông Tin người Hải Phòng, A trưởng A6, đã đứng đợi sẵn. Cả
bốn người khoác súng đi loanh quanh mãi mà không tìm thấy C bộ. Một cuộc tham
quan phong cảnh bất đắc dĩ. Chúng tôi vào xem cả đình làng, băng qua hết hàng
rào này đến vườn cây khác. Chợt nghe có tiếng ì ầm như máy bay phản lực.
Nhưng không phải, đó là tiếng xay lúa ở ngôi nhà gần đấy.
Hóa ra có hai o du kích địa phương cùng một ông già đang xay và sàng gạo. Chúng
tôi ghé vào hỏi đường. Hai o du kích tuổi chừng đôi tám, xinh lắm, miệng tươi
như hoa, nói cười ríu rít. Nhưng tôi chẳng hiểu họ nói gì cả, ví dụ: “Ô tề ôông
tra tề... Răng tui nhủ ôông ngồi lổ ni ôông lại đi ra tê rứa?” Theo tôi hiểu
thì một o chế o kia là quan tâm đến tôi quá mức, hay là mê tôi rồi.... O kia
tức quá đỏ mặt quát: “Tau xán cho mi một đọi trửa mặt bây chừ...” (???).
Chúng tôi lại phải loanh quanh đi tìm mất một lúc
nữa, tưởng muộn rồi nhưng khi đến nơi thì cuộc họp mới bắt đầu. Anh Hộ Đại đội
trưởng đã đi chuẩn bị trận địa từ mấy hôm trước, nên anh Phùng Chính trị viên
chủ trì. Anh nói về tình hình của E64 và D1 của Trung đoàn tôi đang tác chiến.
Chúng ta đã đánh bại bước đầu cuộc hành quân “Sóng thần 36” của địch, các Tiểu
đoàn 2, 4, 8 thuộc Sư đoàn Thủy quân lục chiến ngụy đang hoảng loạn. D1 đâu đã
diệt được một đại đội địch và đánh thiệt hại nặng một đại đội khác. Nghe anh
nói chúng tôi rất phấn khởi. Sau đó đến mục đăng ký diệt địch: B này chỉ tiêu
phải diệt bao nhiêu tên, bắn cháy mấy xe tăng, A kia bắt sống mấy tên, bắn cháy
bao nhiêu xuồng máy... Thực sự thì tôi không tin vào tiết mục này lắm. Mấy cậu
A trưởng của Trung đội 1 ngồi bên cạnh tôi đang xem hai quyển sách Giáo khoa
lớp 6-7, nội dung cũng hay hay. Cuối cùng anh Phùng phổ biến kế hoạch hành quân
tối nay và lệnh cho các A nấu cơm nắm.
Trên đường về, bốn đứa B2 chúng tôi còn bươn ra
ngoài làng, nhảy lon ton trên mấy cái mả to tướng, hái được một lô rau muống.
Quang và Bích mới đi lấy gạo về còn mệt nhưng cũng phải chuẩn bị hành quân.
Bích không phải làm anh nuôi trung đội nữa, nên đi lĩnh vũ khí là một khẩu AK
“mẻ nòng” về. Như vậy cả ba khẩu AK của tiểu đội tôi đều là loại “mẻ nòng”. Sở
dĩ gọi thế vì nòng loại AK này vát nhọn ở phía dưới, thân súng sơn xì đen,
không gỉ bao giờ. Súng này nhẹ, báng và ốp che tay bằng gỗ dán, thước ngắm 10,
đạn đi rất căng. Tôi rất quý khẩu súng của tôi mang từ Hà Nội vào, còn nhớ số
súng là 0057.
Mỗi tay súng AK mang 200 viên đạn và 4
quả lựu đạn. Khoảng 5 giờ chiều, trời mù vì trần mây thấp, thế mà vẫn có một
loạt bom tọa độ đánh trúng vào cái làng nơi chúng tôi sắp tới tập trung. Tuy
vậy tất cả vẫn nai nịt gon gàng và lên đường.
Tôi bước đi, trong lòng rất thanh thản, vui vẻ ngắm
cảnh vật bên đường, có biết đâu những nguy hiểm khủng khiếp sắp xảy tới với
mình. Hình như có điềm xấu báo trước thì phải. Khẩu AK đeo trước ngực thỉnh
thoảng khi đi tôi vẫn nghịch bóp bóp cò súng. Hôm nay vừa sờ đến cò thì “đoàng”
1 phát, viên đạn lửa lao vút ra khỏi nòng, bay đi xa mãi. Tôi hết cả hồn vía.
May mà không có ai đi bên cạnh, vì đoàn quân theo đội hình hàng một, không thì
chắc có cậu đã bỏ mạng. Anh Thanh đi ngay trước tôi, quay lại nhìn có vẻ trách
móc nhưng không nói gì.
Qua mấy cái vườn mới bị bom tọa độ, đất đen thui
khói còn khét lẹt, chúng tôi bước vào chỗ tập trung. Thấy mấy người lính B3
đang xúm quanh Châm “Bà Triệu”, còn gọi là Châm thối tai, băng bó đầu gối bị
thương vì mảnh bom cho cậu ta. Châm nằm trên thềm nhà, mặt tái nhợt, thỉnh
thoảng kêu khóc đau đớn, máu ở đầu gối vẫn thấm đỏ qua mấy lần băng trắng. Chúng
tôi tản vào mấy ngôi nhà quanh đó ngồi chờ. Tất cả đều cảm thấy một nỗi sợ mơ
hồ.
Gần tối mới tập trung đủ, chúng tôi tức
tốc lên đường. Đi đầu là B1 rồi tới B2. Vừa đi khỏi làng khoảng 200m thì một
loạt hơi phần phật thổi tới làm cả bọn nằm bẹp xuống đất. Lại bom tọa độ rồi.
Tôi ngoảnh lại nhìn, thấy hoa cà hoa cải vung lên tung tóe ở đội hình B3. Mảnh
bom bay vèo vèo trên đầu, một mảnh rơi xịt vào vũng nước cạnh tôi. Cũng may khi
dứt loạt bom, chỉ có Dũng “Pa-ti-nhom” bị sức ép, còn toàn đơn vị không sao cả.
Chúng tôi đi rất nhanh. Khổ nhất là mấy cậu khiêng
cáng Châm, đã nặng lại còn phải chạy. Đi mãi mà không đến nơi, hình như bị lạc
rồi. Trời tối như mực, đường bờ ruộng thì nhỏ, lính ta trượt chân ngã oành
oạch. Khi tôi ngã, thường Chính con quay lại nâng. Lúc Chính ngã, tôi phải lôi
mãi cậu ta mới dậy được. Ngã đau nên cậu ta hay cáu vô cớ. Đôi dép đúc bị tuột
quai liên tục, cứ mỗi lúc nghỉ đều phải tranh thủ rút lại. Bắt đầu lội xuống
ruộng nước, nhưng may không có bùn, kiểu ruộng khô mọc cỏ mới bị ngập nước.
Chúng tôi cứ băng đi ào ào. Rét quá, lác đác có hột mưa. Chợt hiện ra mấy cái
gò nhỏ, hình như sắp tới sông, tất cả lăn ra trên gò nằm nghỉ. Rồi lại vội vàng
choàng dậy vì anh Thanh đã hô: “B2, đi!”.
Mưa. Gió. Trời tối đen, rét căm căm.
Những bàn chân lội nước ào ào, đoàn quân đã ra đến bờ sông Thạch Hãn.
Đó là đêm 28-11- 1972. Bến Gia Độ thì phải.
Những chiếc xuồng cao su cập bến, mỗi tiểu đội lên
một chiếc. Xuồng của tôi có 6 người: cậu công binh chèo thuyền ngồi một đầu,
anh Thanh B trưởng ngồi một đầu. Tôi với Bích ngồi đối diện ở hai mạn thuyền,
đứa này bá vào vai đứa kia. Chính và Quang làm thành một cặp tương tự. Khẩu
súng tôi đặt xuống đáy thuyền. Vừa bước lên, xuồng đã bập bềnh chao đảo, cậu
công binh phải gò người giữ. Anh Thanh lội đẩy xuồng ra rồi nhảy lên. Nó chòng
chành rất mạnh làm chúng tôi sợ. Tuy vậy tôi vẫn nói cứng với cậu công binh:
“Ra khơi nhờ tay lái vững, lo gì!”. Trời vẫn tiếp tục mưa. Ra đến giữa sông,
sóng to quá, ào cả vào xuồng làm ướt hết quần áo. Bất thần một cơn sóng dâng
cao làm nghiêng xuồng, chúng tôi hốt hoảng nhổm cả dậy. Nhưng đã muộn, tôi cảm
thấy mình ngã lộn qua đầu Bích, rơi tõm xuống nước, miệng vẫn còn thảng thốt:
“Ô.. .chìm à?”. Đối với tôi lúc đó cái chết tưởng như không gì cứu vãn nổi. Thứ
nhất, tôi là người bơi rất kém. Bình thường thì từ đây vào bờ cũng không thể
bơi nổi, huống hồ sóng to gió lớn lại tối mịt như lúc này. Thứ hai, cái ba-lô
quá nặng với 200 viên đạn và 4 quả lựu đạn đang như tảng đá kéo tôi chìm xuống.
Lại thêm tấm vải mưa cứ quấn lùng nhùng vào đầu trong khi tôi quẫy lộn ùng ục.
Một ý nghĩ đau đớn thoáng qua: “Không có lẽ mình chết? Mình chết một cách vô
lý, một cách uổng phí như thế này ư?”. Cái chết như 1 bóng đen khổng lồ đang
lạnh lùng ập đến...
Nhưng số tôi chưa chết. Lúc đó tôi vẫn giữ được
bình tĩnh, nín thở, ra sức khỏa tay nhoi lên. Cái túi ni-lông bọc quần áo cho
khỏi ướt trong ba-lô trở thành 1 chiếc phao giúp tôi ngoi tới mặt nước. Tình
thế vẫn tuyệt vọng, thì bỗng một cái gì đó đập vào đầu tôi. Ngoảnh lại, tôi
thấy chiếc xuồng cao su tuy bị lật nhưng vẫn nổi. Tôi vội vàng bám vào ngay.
Lần lượt anh Thanh, Bích, Chính, Quang cũng bám vào
được. Tôi dùng một tay tháo ba-lô cho trôi theo dòng nước, đành phải bỏ của cứu
người. Cảm thấy mệt lắm rồi, hai tay bíu xuồng cứ từ từ rời ra. Tôi sờ được một
đoạn thừng buộc thuyền bèn quấn chặt cổ tay mình vào đó. Cả lũ kêu cứu nhưng
không hét to được vì mệt và rét. Những tiếng kêu run run trong đêm nghe thật
thảm thương. Nghe rõ cả tiếng hàm răng anh Thanh đập cành cạch. Tôi vẫn động
viên mọi người giữ bình tĩnh.
Rồi cuối cùng một chiếc xuồng khác cũng đến cứu.
Tôi phải đạp vào người Bích mới lên được, sau này Bích cứ trách tôi mãi. Xin
lỗi bạn nhé, tôi không cố ý.
Tới bờ, cả bọn ướt lướt thướt run rẩy
bước lên. Đồ đạc súng ống mất hết, tôi chỉ còn độc một chiếc dép. Hàm răng
người nào cũng gõ liên hồi.
Từ đó hàng năm ngày 28-11 trở thành ngày Phục sinh
của tôi. May là cái bến có tên gọi Gia Độ, chứ không phải Tiền Đường...
Tìm mãi mới thấy đơn vị. Năm đứa lê gót
như mộng du vào một ngôi nhà, nằm vật xuống sàn đất ướt lạnh và thiếp đi.
Sau một đêm ngủ như chết, sáng dậy tôi đi lĩnh khẩu
súng mới. Phải mượn dép Ngô Duy Minh A5 mà đi vì trời mưa, đường trơn. Tới B1
người ta đưa cho tôi khẩu AK của Lâm Thành, một cái bao đạn kiểu đeo trước bụng
và 60 viên đạn. Nói là súng mới, nhưng thực ra khẩu AK Trung cộng này rỉ ngoèn,
và đã qua tay Chí Thành, Lâm Thành trước khi tới tôi. Nhưng thôi, có còn hơn
không. Biết tôi bị mất hết đồ đạc, Lâm Thành xé cho một nửa cái võng.
Khi quay lại, thấy cả tiểu đội đang nấu cơm. Anh
Thanh cử tôi ra bờ sông hôm qua lấy về cho mỗi người một quả cối 60 nghĩa vụ
(mang hộ cho Tiểu đội hỏa lực A10). Dọc bờ sông thấy hàng hóa chất đống. Bao
gạo ngổn ngang trên bờ, dưới sông. Hòm đạn đủ loại đủ cỡ: 6,72ly, 7,9ly,
12,7ly, rồi ống nhựa đựng đạn cối 60ly, 82ly, B40/B41, liều phóng.. ..xếp chồng
lên nhau. Đầu tiên tôi tranh thủ phá hai bao gạo lấy mấy túi ni-lông về làm
ba-lô cho tôi và cho Chính. Rồi lục tìm lấy đủ số đạn cối 60 về cho tiểu đội.
Chợt thấy mấy cái ống trụ màu vàng bằng sắt tây cỡ cổ tay, có đề “Đạn phóng
dùng cho AK”, tôi xách về hai hộp. Tới nhà tôi và anh Thanh mở ra, thì là mấy
quả phóng lựu AT Việt Nam. Loại của Tàu tôi đã thấy ở Cam Lộ, đựng trong hộp
nhựa. Xem quyển sổ nhỏ hướng dẫn sử dụng, thấy súng AK của mình thiếu phụ tùng
lắp ở đầu súng để phóng. Chúng tôi bèn quẳng đi tuốt, chỉ giữ lại mấy viên đạn
hơi đem bắn chơi. Nói chung cái loại AT này không thông dụng bằng B40.
Đang ăn cơm thì cậu liên lạc đại đội xuống kêu anh
Thanh mang đầy đủ trang bị đi trinh sát trận địa. Anh gọi ông Tài sang bàn giao
Trung đội, và chỉ định tôi làm B phó thay Tài.
A5 được phân sang nhà bên cạnh để ở,
nhưng các cậu ấy không muốn đi vì sang đấy phải dọn hầm bẩn. Anh Thanh phải
quát lên ra lệnh họ mới đi.
Anh Thanh đi rồi, A nào chỉ biết A nấy, ông Tài
không có ý kiến gì cả làm tôi rất bực.
Buổi chiều tôi cùng Chính con ra vườn
hái rau, còn Bích và Quang nấu ăn. Cái nhà mà bọn tôi ở nằm ngay ven làng, phía
trước có con đường chạy ngang rồi tới một cái ngòi dài nối với sông vượt hôm
qua. Một toán lính của đơn vị nào đó đang đi lấy gạo qua chỗ chúng tôi. Chợt
nhận ra cậu Đạt, trước cùng huấn luyện ở C49, sau được bổ sung về D1, tôi vội
chạy ra hỏi tình hình và hỏi về Lê Thanh Bình, bạn học cùng lớp 10B của tôi.
Đạt cho biết, địch đang ở cách đây khoảng 7 km, vùng này hay bị bom tọa độ, còn
Lê Thanh Bình thì đã bị thương hỏng một mắt, và đã ra Bắc rồi. Biết vậy nhưng
tôi lại thấy mừng cho Lê Thanh Bình từ nay thoát nạn, và vội đi vào nhà giục
mọi người củng cố hầm hố.
Trời mù nên máy bay địch không hoạt động nhiều. Tôi
và Chính con đang hái những cây rau muống còi cọc đã mọc hoa tím, chợt “X..
.é.. .t! X.. .é.. .t”, hai tiếng rú khủng khiếp làm chúng tôi vội nằm mọp
xuống. Rồi nghe có tiếng lao xao, thì ra các cậu pháo binh DKB gần đấy vừa phát
hỏa. Dù biết như thế, nhưng mỗi lần nghe phóng DKB, một loại đạn phản lực cỡ
122ly, chúng tôi vẫn không kìm được nỗi hoảng hốt. Quân địch khiếp sợ DKB của
ta cũng phải. Các chiến sĩ DKB khi bắn phải nút tai, nên họ hô khẩu lệnh rất
to, chúng tôi ở cách đó vài trăm mét mà vẫn nghe rõ.
Buổi tối, Bích và Quang xuống cái hầm bé tí nằm
ngủ. Tôi và Chính đành tặc lưỡi: “thôi nằm trên vậy, chết bỏ!...”. Hai thằng
rút rơm từ cây rơm ngoài sân đem vào rải ra sàn rồi mắc màn ngủ. Tôi nói với
Chính: “ D3 của ta sắp vào thay D1. Hai đứa mình phải bám chắc nhau trong chiến
trận, nếu một thằng bị chết hoặc bị thương thì thằng kia phải cố sức mang ra.
Không ai thương mình đâu. Phải học thuộc địa chỉ của nhau ở Hà Nội: Chính, Tập
thể P18 Hoàng Hoa Thám; Vinh, nhà B1 KTT Nguyễn Công Trứ, để có gì còn về báo
cáo với gia đình.”. Đã thấy nhớ anh Thanh. Tiếng pháo kích vu vơ lúc xa lúc gần
đưa chúng tôi chìm dần vào giấc ngủ.
Buổi sáng hôm sau chúng tôi đi lấy thêm gạo rồi lau
chùi vũ khí. Đến gần trưa thì anh Thanh về. Tối qua các cán bộ của C11 đã bò
vào gần làng địch để trinh sát. Anh báo tin vui là anh đã có Quyết định kết nạp
Đảng ký hôm 28-
11-1972, thật là một ngày khó quên.
Tiểu đội tôi vừa ăn cơm xong thì liên lạc đại đội
xuống báo chuẩn bị hành quân ngay. A5 vẫn chưa ăn xong, A6 thậm chí còn chưa
thổi cơm. Anh Thanh cáu quá, quát ông Tài ầm ĩ.
B2 ra tập trung chậm, bị anh Khuông C
phó xạc cho 1 trận. Cả bọn phải chạy để đuổi kịp đại đội.
Phía bên phải là một con sông nhỏ, chúng tôi đang
đi xuyên qua những làng ven bờ. Nhà cửa nhiều chỗ tan hoang quá. Trên một số
bức tường đổ, được quét vôi xanh dương hoặc xanh trời, còn thấy các khẩu hiệu
“Quân dân Triệu Phong quyết đập tan cuộc hành quân tái chiếm của địch” hoặc
“Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”. Nhưng tôi cũng từng thấy những khẩu hiệu
khác, trong một ngôi nhà của Lý trưởng hay trụ sở Hương thôn gì đó. Khắp nơi
dán những băng giấy ghi “Người cày có ruộng”, “Cần kiệm liêm chính”, “Nhân vị”
(Vì dân)... nghe quen quen. Cả những khẩu hiệu đao to búa lớn hơn như kiểu “Tổ
quốc trên hết”, “Tổ quốc, Danh dự, Trách nhiệm”... Có cảm tưởng hình như Lý
tưởng của bọn nó cũng giống của mình, chỉ có điều bọn nó thực hiện sai?...
Chúng tôi đi qua một làng D1 đang đóng, thấy mấy
cậu C49 cũ vẫy tay, trong đó có cả Mai Xuân Hiển. Dọc đường hành quân nhiều lần
phải dừng lại để dồn đội hình. Nghe nói sắp phải vượt sông. Đoàn quân đi trên
đồng, gió thổi ù ù. Tôi vẫn một chân dép, một chân không, khổ quá. Chợt thấy
mấy cậu lính đi ngược lại, toàn người quen cả, trong đó có Luận gẩy ghi-ta giỏi
ở C49. Các cậu ấy đang gánh chiến lợi phẩm, một đầu là bó súng M16, đầu kia là
hai khẩu đại liên M60.
Gặp nhau tay bắt mặt mừng, tuy nhiên tôi cũng nghe
tin thêm là một số bạn đã chết: anh Ngạn giáo viên, cậu Ngọ. vv. Luận đang đi
một đôi giày Thủy quân lục chiến Mỹ, sau cóc ba-lô nhét 1 đôi dép đúc. Tôi bèn
xin đôi dép, nhưng Luận lại cởi đôi giày ra đưa cho tôi. Đôi giày Mỹ này cỡ 5W,
màu đen, đế cao su, hai bên mép có lỗ thoát nước, lội nước rất tốt, tôi đi rất
vừa. Tới bờ sông, cả bọn tản vào mấy cái lôcốt xây liền nhau ở đó. Tôi khoe đôi
giày với Ngô Duy Minh, người cũng đang khổ sở vì tuột dép. Sông quãng này hẹp,
chúng tôi lại vượt bằng xuồng cao-su. Trên xuồng vẫn đủ thành phần 6 người như
bữa nọ. Nhiều lúc xuồng tròng trành mạnh, tôi đưa mắt nhìn anh Thanh, thấy anh
cười. Cuộc vượt sông an toàn, tôi ngồi nói chuyện với Duy Minh. Cậu ta hỏi:
“Tao tưởng mày lên B phó rồi chứ?”. Anh Thanh quay sang bảo Duy Minh: “Thằng
Vinh nó sắp thay tao được, B phó là cái gì...”. Khi lội qua những đoạn đường
ngập ngụa, tôi thấy đôi giày Mỹ tốt thật, thoát nước rất nhanh. Anh Hưởng,
Chính trị viên phó đã đứng đợi sẵn, bảo bọn tôi vào một ngôi nhà gần đó ngồi
đợi. Trong nhà chất đầy những bao tải thóc gạo. Hộp ghi-gô, bát đũa, xoong nồi,
lưới đánh cá.. .quăng khắp sân. Tôi nói chuyện với anh Đạm B phó C49 cũ.
Đại đội lại tiếp tục hành quân. Chúng tôi đi men
theo con sông, lúc này đã ở bên trái. Tới chỗ này nó trở thành mênh mông, giữa
dòng nổi lên một hòn đảo rộng, cỏ mọc xanh rì. Một đàn trâu rất đông đang ung
dung gặm cỏ trên đảo, vì ở đó chúng cảm thấy an toàn. Nếu chúng ở bên này, thể
nào cũng bị lính ta bắn rồi xẻ thịt. Tôi đã nhìn thấy những xác trâu trương
phềnh, hai đùi sau bị cắt mang đi mất. Gió thổi ào ào, thoáng nghe tiếng ì ầm
của biển, sóng đánh oàm oạp vào bờ. Bãi cát ven sông thấy nhiều con cá biển bị
dạt lên đã chết khô, cùng nhiều bèo bọt rác rều.
Chúng tôi đi vào một làng có tên gọi Vân Tường hay
Lệ Xuyên gì đó. Trong làng còn thấy hai gia đình dân và một tổ du kích trụ lại.
A4 được phân vào một nhà có cái hầm khá tốt. A5 và A6 bị phân vào 2 cái nhà
hoang, phải đào hầm, nên các cậu ấy có vẻ bực bội. Buổi chiều ăn cơm theo Trung
đội, nấu nướng ở nhà A6. Có lệnh tối nay đi chiến đấu, nên phải nấu thêm cơm và
nắm cho mỗi người 1 nắm. Ăn xong tất cả về sửa soạn vũ khí. Anh Thanh ra lệnh
cho mọi người tìm vải trắng buộc vào cánh tay để nhận ra nhau khi chiến đấu ban
đêm. Tôi đi vào 1 nhà bỏ hoang để tìm vải. Vẫn cảnh ngổn ngang quen thuộc, và
rất nhiều quần áo vứt bừa bộn. Tôi lôi ra 1 cái áo dài trắng. Một mình trong
ngôi nhà vắng, trong khung cảnh tịch mịch của hoàng hôn, cái áo dài trắng lay
lắt như sống động làm tôi thấy rờn rợn. Tôi bèn vứt nó đi và lấy 1 cái may-ô
trắng mang về.
Buổi tối, chúng tôi nai nịt gọn gàng, ngồi đợi lệnh
dưới hầm trong nhà. Cái hầm chữ A này rộng thật, hai đầu là hai thùng phuy to,
đỡ một cây cột vuông dài làm đòn nóc. Hai sườn hầm toàn là những súc gỗ to
nặng, vuông vắn, đất đắp lên như cái gò con. Thấy hầm chắc chắn, cậu Trường
“Khâm Thiên” ở A6 chạy sang rúc vào ngồi với chúng tôi, bị anh Thanh đuổi về.
Cuối cùng lệnh tập hợp cũng đến. Cả Trung đội nhanh
chóng mang vũ khí ra khỏi hầm. Trời tối như mực, lại hơi mưa, tôi bị vấp vào
dây thép gai ở hàng rào, may không việc gì.
Các trung đội khác cũng đã tới, cùng tản vào mấy
ngôi nhà của tổ du kích ngồi nói chuyện. Còn phải đợi bộ phận đại liên và DKZ
phối thuộc tới nữa. Lệnh tập hợp đại đội phát ra. Chúng tôi nhanh chóng đứng
vào đội hình, im lặng. Trước trận đánh đêm nay, sao tôi thấy hồi hộp thế. Đó
cũng là tâm trạng chung của mọi người. Chỉ mấy tiếng nữa thôi, ai trong số
những chiến sĩ đang đứng thẳng người nghe mệnh lệnh này sẽ vĩnh viễn ngã xuống?
Có thể là mình chăng?...
Anh Phùng, Chính trị viên đứng trước
hàng quân động viên đơn vị. Tôi tự nhủ thầm: “Anh cứ yên tâm, tôi sẽ chiến đấu
một cách xứng đáng”. Tiếp đó anh Hộ, Đại đội trưởng, lên phổ biến kế hoạch tác
chiến. Đại khái B2 của tôi có nhiệm vụ đánh chiếm một đồi cát nhỏ nào đó. Nhưng
cái giọng nói bình thản, thân ái của anh đã làm cho chúng tôi ấm lòng. Anh nhắc
mọi người kiểm tra tất cả lại lần cuối, dặn chúng tôi bình tĩnh. Chiến đấu cùng
một đại đội trưởng như vậy thấy rất yên tâm. Thực ra chúng tôi chỉ ngại mỗi vấp
phải mìn, nhất là mìn định hướng.
Tất cả lại lên đường. Trời tối nhanh thật. Tôi nhìn
những ngọn hỏa châu ở góc trời, bụng tự hỏi: địch ở đó chăng? Ta đang đi đến đó
chăng?... Hành quân vất vả quá. Chẳng hiểu ai dẫn đường mà phải lội nhiều thế,
nhiều chỗ lội tới bụng, nước lạnh buốt. Mưa bắt đầu nặng hạt. Tôi quàng tấm
nilông làm bằng bao gạo, rồi trùm mũ mưa lên. Cái mũ mưa vải bạt này là do Lâm
Thành cho, vì tôi bị mất cả mũ tai bèo lẫn mũ cối.
Bắt đầu bước lên một doi cát dài. Thấy có mùi vừa
tanh vừa thối: chắc quanh đây có xác trâu bò chết. Chúng tôi đi ven theo rìa
cát. Hàng rào của dân cũng làm bằng dây thép gai, vấp vào đau điếng. Đoàn quân
đi đã rất lâu, nhiều người bị lạc, cán bộ phải bấm đèn pin gọi. Cuối cùng cũng
có lệnh nghỉ. Quân ta chui hết vào hai ngôi nhà gần đấy. Mưa rơi rào rào. Trong
ngôi nhà tôi trú, lính đông nghẹt. Anh Hộ và anh Phùng đang ngồi cạnh cậu thông
tin 2W, tìm cách bắt liên lạc với Tiểu đoàn. Chợt có lệnh gọi các A cử người đi
lấy thêm đạn: mỗi A phải mang thêm 3 quả B40 hoặc DKZ nữa. Tôi và anh Thanh đi
lĩnh về giao cho anh Tài phân phát. Lính mình lười thật, cứ đùn nhau, chẳng ai
chịu nhận. Sao đợi lâu thế không biết? nửa đêm rồi còn gì. Cuối cùng anh Phùng
tuyên bố hoãn cuộc tập kích tối nay, tất cả thở phào nhẹ nhõm. Lúc đi ra khỏi
nhà, tôi vớ nhầm tấm ni-lông của ai khá rộng, lại thắt nút quanh cổ rất khít.
Thấy anh Hộ cứ loay hoay tìm mãi mà chỉ thấy tấm ni-lông của tôi bỏ lại, tôi cứ
lờ đi. Bây giờ thấy ngượng quá, xin lỗi anh nhé...
Đoàn quân quay trở về. Lại ngòi nước ngập bụng lạnh
giá, lại doi cát, mùi hôi, và mưa. Mưa ào ào. Những giọt mưa to thô lố, quất
phũ phàng vào mặt. Nhiều lúc rát quá, tôi phải nhắm mắt lại. Có một lần vì thế
mà bị lạc. Khi Chính con đi sau gọi, tôi mở mắt ra thì chẳng thấy người trước
đâu, mà phía sau là cả một đoàn người. Tiếng mưa át hết tiếng chân người đi
trước. Chúng tôi phải chạy, thỉnh thoảng lại gọi to và cúi sát đầu xuống đất
nhìn lên để tìm bóng người. Thấy bốn bề đều như nhau, tiếng chửi bới phía sau
cất lên ầm ĩ.
May quá, cuối cùng cũng theo kịp người
đi trước. Hú vía, lơ mơ dễ đi lạc vào làng có địch chứ chả chơi.
Chúng tôi lại chui vào căn hầm quen thuộc, nằm lên
cái dát giường bằng tre ọp ẹp, bên dưới sàn toàn nước, che nilông hai cửa hầm
và ngủ mê mệt.
Ngày 01-12-1972
Buổi sáng chúng tôi dậy muộn. Trời mây
mù, không gian yên tĩnh. Tiếng pháo biển bắn suốt đêm qua, bây giờ im hẳn. Chỉ
nghe tiếng hàng thông vi vu và tiếng ì ầm của sóng biển đâu đây. Tôi ngồi buộc
lại chiếc gùi, trong đó có nửa cái võng, một quả đạn cối 60 nghĩa vụ, và một ít
truyền đơn địch vận...
Đến chiều nghe phong thanh rằng tối nay lại đi tập
kích. Một đơn vị mới đến, muốn tiếp nhận mấy cái hầm của chúng tôi. Đó là các
chiến sĩ của Sư đoàn 325. Anh Thanh chỉ cho họ sang mấy ngôi nhà hoang chưa có
lính ở.
Chúng tôi nấu cơm ăn no, cho cơm nắm vào gùi, buộc
khăn trắng vào tay. Vừa sẩm tối lại tập trung đại đội. Vào nhà C bộ đóng tôi
thấy có mấy o du kích và hai đứa trẻ con. Ba lô của B1 xếp đống trong nhà. Anh
Hộ, Đại đội trưởng cao lênh khênh, chân đi giày cao cổ, thắt lưng Mỹ gài lựu
đạn mỏ vịt, cổ quấn võng dù, đang gọi mấy cậu lính hỏa lực phối thuộc ra tập
hợp.
Đại đội xuất phát. Hôm nay nhất định đánh rồi. Đi
hơn một tiếng thì có lệnh nghỉ. Cả bọn tạt vào một ngôi nhà. Tối om, mấy cán bộ
đại đội đang tụ họp ở cái hầm trong góc nhà bàn bạc. Tôi vào bếp, thấy còn đốm
đỏ, bèn cời than ra sưởi. Quang, Bích thì châm thuốc hút. Tôi đang buồn vì
không có Chính đi cùng hôm nay. Lúc sắp lên đường thì tự nhiên cậu ta đau bụng
dữ dội, Y tá phải chạy đến khám, nên cu cậu nằm nhà. Dù sao có Chính cùng chiến
đấu tôi vẫn yên tâm hơn.
Hơn 20h rồi, sao vẫn chưa đi? Hay lại
quay về? Nhưng rồi lệnh đi được truyền ra, chúng tôi bám sát nhau bước gấp,
trong lòng thấy hồi hộp. Lội qua một ruộng nước đầy cỏ, phía trên truyền xuống:
“Vượt nhanh qua đường cái!”. Đây rồi, con đường nhựa phẳng lì, rộng thênh
thang. Nghe vang lên những tiếng động dồn dập, khô khốc dưới gót chân người
lính. Đường này tốt thật, nó chạy thẳng ra cảng Cửa Việt. Đường 4 thì phải...
Chúng tôi đi trên bãi cát trống. Tất cả
bước gấp. Bỗng một quầng vàng rực lóe lên trước mắt, chưa kịp hiểu gì thì tiếp
đó là hai tiếng nổ xé tai. Tôi nằm bẹp xuống. Mảnh bay vù vù. Bây giờ mới nghe
tiếng rít xoèn xoẹt của đạn pháo và mấy quầng lửa lại lóe lên gần đó. Tất cả
chạy tán loạn. Không kịp nghĩ gì, tôi cũng chồm dậy chạy. Thấy có mấy cậu vẫn
đang nằm. Hình như có tiếng rên. Tôi vẫn cắm cổ chạy. Tới lúc hoàn hồn, cả bọn
mới tập hợp lại. Nghe nói có hai người bị thương là cậu Đăng liên lạc và anh
Đạm (B phó huấn luyện của tôi, nay là B phó B3, bị vào chân). Rồi chúng tôi lại
đi vào một làng và gặp anh Phùng đứng đón. Còn thiếu một trung đội và A10 Hỏa
lực.
Đành phải đợi thôi, tất cả chia nhau tản vào các
mảnh vườn ven đường ngồi nghỉ. Bị cú vừa rồi cũng hơi hoảng, nhưng nó càng
chứng tỏ rằng tôi không thể chết vì đạn pháo (ở Quán Ngang cũng đã bị một cú
tương tự). Anh Phùng từng nói: “Bị pháo kích, có chết thì thường chết vì quả
đạn đầu, chứ ít chết vì những quả sau.” Ai ngờ câu nói đó sau này lại vận đúng
vào anh.
Cứ như vậy, chúng tôi đi suốt đêm, lội giữa những
cánh đồng đầy cỏ, nước ngập đến gối. Làng mạc bốn phía tối đen, chẳng hiểu của
ta hay của địch. Tối quá nên cậu dẫn đường bị lạc, không tìm thấy cái làng C
tôi phải tập kích. Xa xa thấy một đoàn người cũng đang lội. Đó là C12, C hỏa
lực của Tiểu đoàn tôi. Các cậu ấy còn phải khiêng vác nặng, vất vả hơn nhiều.
Đã gần sáng rồi, có lẽ phải quay về thôi. Mà có lẽ
chúng tôi cũng đang quay về thật. Một làng gần đấy đang bị pháo kích. Những
bựng khói màu da cam chói lọi cuộn lên sau ánh chớp, tiếp theo là tiếng nổ ùng
oàng. Không hiểu khẩu cối cá nhân từ đâu cứ “cạch oành”, “cạch oành” bắn mãi ra
đồng nước.
Còn chúng tôi thì
vẫn lội giữa cánh đồng. Gần 3h sáng rồi, bóng đêm đã nhạt dần. Đoàn quân đang
đi ven theo một cái làng đen thẫm. Xung quanh thấy có hầm kèo, ụ cát nhô cao
như những cái mả. Hồi hôm chúng tôi cũng đã gặp một cái hầm giữa bãi cát, to
như một quả đồi con, trong đó có hai cậu lính thông tin. Cả bọn lúc đó ngồi
nghỉ và tôi đã ngủ gật. Đang đi tự nhiên tất cả dừng lại, tôi bèn vọt lên trước
thì thấy mấy cán bộ chỉ huy đang nói chuyện với nhau (về sau tôi nhận ra trong
đó có anh Căn, quyền D trưởng). Hình như đây là Tiểu đoàn bộ. Rồi có lệnh cho
C11 cấp tốc quay lại tập kích! Chúng tôi hết sức sửng sốt, lập tức tất cả tỉnh
như Sck)...
Nguyễn Quang Vinh
Phần Thứ Ba: Mặt Trận Nam Cửa
Việt (2)
Cả đoàn quân lại lội nước oàm oạp đi
theo người dẫn đường. Đôi giày Mỹ đắc dụng thật, tôi cảm thấy rất thoải mái,
còn xung quanh thì mấy cậu lính ta đã phải xách dép tuột quai. Bắt đầu đi trên
mặt cát nước xâm xấp. Lúc này đã nhờ nhờ nhìn thấy mặt người. Trời ơi, sáng
bạch thế này mà cũng tập kích ư?
Chợt thấy hai quả pháo hiệu màu đỏ bay vọt lên
không, và tiếp đó là hàng loạt dây đạn lửa đỏ lừ từ làng chếch bên trái chúng
tôi bắn sang làng trước mặt. Làng 8 đấy.
Chính trị viên Phùng quay lại đoàn quân, hét lớn:
“Xung phong!... Vì Tổ quốc, tiến lên!...”.
Giữa muôn ngàn tiếng nổ, tôi cũng thét
lớn: “Tiểu đội 4... Vì Tổ quốc, tiến lên!”.
Tất cả chúng tôi bật dậy, lao thẳng về phía làng trước
mặt, cùng đồng thanh hét lớn: “Xung ph...o...ng...”.
Nắm chắc súng, tôi băng nhanh trên bãi
cát, tinh thần bị kích động mạnh và hừng hực ý chí chiến đấu. Nhưng cũng chưa
bao giờ tôi thấy bình tĩnh bằng lúc này. Trên bãi cát, đạn đỏ lừ bay ngang bay
dọc. Không còn biết đạn từ đâu tới và của ta hay địch. Tôi ngạc nhiên vì hầu
như không nghe thấy tiếng đạn nổ nữa. Ngay cả dòng lửa tuôn từ phía trái sang
kia, tôi biết là của mấy khẩu 12ly7, mà cũng chỉ nghe phùn phụt... phùn phụt...
rất kỳ lạ. Tôi vừa chạy, vừa ngây thơ nhìn những viên đạn đỏ đòng đọc bay trên
cát ướt, bay đến đâu chiếu sáng đến đó. Có viên bay thẳng được một đoạn thì
bồng bềnh lướt lên cao, có viên thì nhẹ nhàng chạm xuống mặt cát, rồi lại nhẹ
nhàng nẩy lên, bay đi xa mãi...
“Ta đang xung phong đấy ư? Đây là một cuộc xung
phong ư?...” Tôi ngạc nhiên tự hỏi.
Thật ra trên bãi cát lúc này đang râm ran tiếng
thét xung trận. “A...a...a...”, tiếng kêu man rợ của thần chết, đang lạnh lùng
vung lưỡi hái thu hoạch một mùa gặt dồi dào....
“A...a...a...”, miệng tôi thét lớn theo
tiếng thét của đồng đội, chân tôi lướt nhanh và đầu tôi quay cuồng ý nghĩ...
Có lúc tôi nhìn lại, và về sau rất lấy làm lạ, là
tại sao đại đội tôi, trên bãi cát rộng chỉ là một toán ngót nghét 60 người, vừa
chạy vừa hò hét, vừa bắn AK và B40 vào làng, vậy mà các xạ thủ đại liên của bọn
Thủy quân lục chiến không quét ngã một người nào? Chắc là chúng quá bất ngờ vì
cuộc tập kích hầu như giữa ban ngày, khi chúng bắt đầu nghỉ ngơi sau một đêm
canh gác căng thẳng. Đến lúc tỉnh ra thì chúng tôi đã vào quá gần, chúng chỉ
còn cách chém vè.
Những dòng đạn lửa vẫn bay trên bãi cát, và mỗi lần
dòng đạn bay đến gần, thì chúng tôi lại chạy dạt về 1 phía khác.
Cậu dẫn đường người Quảng Trị chạy lẫn trong chúng
tôi, là người hét khỏe nhất. Cậu ta vừa chạy vừa quay bốn phía thúc dục: “Xông
lên! Địch ở mấy gò cát đó... Xông lên! Đứa nào quay lại tao bắn chết”!
Cát ướt rượt. Đang chạy, bỗng hai chân
tôi thụt cứng xuống vũng cát mềm ngập tới gối. Cả thân người đổ nhào ra đằng
trước. Tôi thở hồng hộc, quay lại nhìn. Cái gùi đã tuột quai từ bao giờ, mất
ráo cả nắm cơm lẫn quả đạn cối. Hai dây gùi cứ lòng thòng sau tôi như hai cái
đuôi từ nãy đến giờ. Tôi quài tay giật chúng vứt đi. Cậu Quảng Trị, về sau mới
biết tên cậu ta là Mốc, chạy lại hỏi: “Sao đó? Sao nằm rồi đó?”. Tôi gằn giọng
trả lời: “Không sao cả!”, và lại chồm lên chạy tiếp.
Chợt một tràng đạn chói óc nổ sát sau
lưng, tôi quay lại, thấy cậu Quang “xỉn” mặt mày trắng bệch, súng còn bốc khói.
Tôi gắt: “Mày bắn vậy có ngày giết tao!”. Đúng là trong lúc xung phong nhiều
khi thằng nhát bắn phải thằng gan như thế đó...
Tôi cảm thấy đội hình chạy thật hỗn loạn, nên luôn
mồm gọi A mình, và luôn giữ chặt Bích, cây B40 của A, ở bên cạnh. Lúc này B2 đã
phân tán đâu cả, chỉ còn A4 của tôi và anh Thanh. Tất cả vừa chạy vừa bắn như
điên.
Chúng tôi đã xông tới rìa làng. Từ trong lùm cây
trên 1 gò cát nhỏ có luồng đạn lửa phụt ra. Tôi bèn quỳ xuống bắn 2 loạt ngắn
vào đó, rồi quay ngoắt lại gọi Bích: “ Hỏa điểm đó! Mày thui cho tao!”. Bích
quỳ xuống giương B40 lên bóp cò. Không nổ. Bích xoay quả đạn lại, bóp cò. Vẫn
không nổ. Anh Thanh giằng súng, loay hoay bắn, vẫn tịt. Tôi sốt ruột định bắn
thử, thì Bích đã đưa súng lên và bất ngờ “Ùng oành”, quả B40 nổ điếc tai, lao
vụt đi. Tôi chồm ngay dậy vừa bắn vừa hét: “Thủy quân lục chiến cũng phải thua
lính Bắc Việt Nam!”.
Ngô Duy Minh chạy cạnh tôi từ bao giờ,
nói nhỏ: “Máu vừa vừa thôi, Vinh ơi!”...
Chúng tôi đã lên được những gò nhỏ, bắt đầu chạy
dọc theo doi cát dài. Chỗ hỏa điểm lúc nãy bị trúng quả B40 của Bích, còn thấy
hai xác địch cháy đen thui nằm cạnh khẩu đại liên cong queo.
Có những quả đạn nổ gần đấy, khói mù mịt. Sau mới
biết là Cối 82 của C9 bắn nhầm vào chúng tôi. DKZ 82 của C11 cũng lập tức quay
nòng phang trả C9. May mà mấy xạ thủ này bắn khá tồi nên lính cả 2 C không ai
bị
chết!...
Quân địch đã rút chạy từ lúc nào, công sự hầm hào
bỏ trống cả. Qua mỗi cửa hầm chúng tôi đều tọng một quả lựu đạn vào, thằng nào
bị thương mà nằm dưới đó thì chắc chết. Thấy có vài cái xác mặc quần áo rằn ri
nằm dưới hào. Nhưng một cái xác nằm trên doi cát mới làm tôi chú ý. Đó là một
cái xác không đầu đã hơi trương, mặc quân phục vải Tô Châu đeo thắt lưng đỏ,
một tay bị cụt còn quấn băng trắng. Chắc chắn đó là xác lính mình. Bọn chó đẻ,
không có lẽ chúng nó chặt đầu tù binh?
Lúc này hai cánh quân C9 và C11 đã hợp
lại với nhau, cùng chạy trên doi cát truy kích địch. Hết doi cát, một quãng
đồng nước trống trải mở ra, và bờ bên kia là Cao điểm Tám Cát sừng sững đứng
chắn. Từ cao điểm này, quân địch tổ chức phòng ngự chống lại cuộc xung phong
của chúng tôi. Tiếng “cạch oành” của cối cá nhân liên tiếp vọng đến, chen lẫn
từng loạt M16 cực nhanh “chíu chíu” bắn vào các chiến sĩ ta đang ngoi ngóp dưới
đồng nước lầy. Một vài người trúng đạn, giãy đành đạch. Thấy tất cả quay lui, tôi
cũng chạy trở lại doi cát.
Chúng tôi nằm trong một đoạn hào do địch đào từ
trước bên sườn doi cát. Cạnh tôi là Quang “xỉu” và hai cậu lính C9 người Thanh
Hóa. Cả bọn chăm chú quan sát mấy bóng người đang băng đồng chạy về phía chúng
tôi, bùn đất lấm lem, cái băng trắng ở tay cũng không thấy, không hiểu là ta
hay địch. Hai cậu C9 giương súng lên định bắn, tôi gạt đi, bảo để họ đến gần
thêm đã. Hơn nữa, đạn địch vẫn bắn không ngừng, và nhiều quả cối cá nhân nổ
trùm lên đám người đó. Tôi tưởng họ chết cả, nhưng không, họ lại nhoi lên và
chạy tiếp.
Đang nghển đầu lên quan sát, chợt tôi
cảm thấy có một ngọn roi sắt quất vào tai trái, gió rít vù qua, nửa mặt bên
trái tê dại. Tôi ôm vội tai, chúi người xuống hào và nói: “Quang ơi, tao bị cụt
tai rồi...”. Nhưng khi Quang bảo bỏ tay ra để băng, thì không phải bị thương
vào tai, mà viên đạn sượt qua cổ, hớt đi 1 tý da, làm chảy máu. Hơi gió quá
mạnh làm tôi có cảm giác như vậy. Cũng may, nó mà đi chệch vào bên trong khoảng
1-2cm, trúng động mạch cổ, thì đã “Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng” rồi...
Mấy người ngoài đồng đã chạy tới gần.
Toàn quân C9 cả, cái băng trắng bị bùn lấm che mất. Hú vía, suýt nữa thì bắn
nhầm...
Chạy đầu toán là Lượng, cùng B1 huấn luyện với tôi.
Tới nơi, cậu ta thều thào: “Vinh ơi, băng cho tao với... Tao bị thương rồi...”.
Má phải của Lượng có 2 vết sượt rất sâu, mà không chảy máu. Tôi nói: “Tao cũng
bị thương, Quang đang băng đây. Mày chạy vào tí nữa, thằng Thịnh băng cho...”.
Tôi chỉ xuống cuối hào, nơi Thịnh “rượu” đang ngồi, mặt mũi tái xanh không còn
hột máu.
Quang “xỉn” lúng túng cứ quấn chặt băng
vào cổ tôi. Một lúc sau tôi phải chạy lên phía trước tìm anh Thanh, thở hồng
hộc mà cái băng cứ thít vào cổ, bực mình quá bèn giật phắt ra quẳng đi. Rồi
cũng tìm được anh Thanh và anh Hưởng (Chính trị viên phó đại đội) ở trên đầu
doi cát. Chỗ đó có một cái hầm cũ của địch. Trong cái hố nơi cửa hầm, tôi thấy
Mai Quý Cường đang ngồi, hai mắt băng kín, từ bên mắt trái còn mấy dòng máu
đang chảy xuống mặt. Ngồi bên cạnh là Hoàng Nghĩa Hạnh. Lúc này từ dưới đồng
nước một cậu lính C11 tất tả chạy lên, quần đùi áo cộc, mặt trắng bệch và méo
xệch vì hoảng hốt. Một bên đùi cậu ta đẫm máu, màu máu đỏ tươi nổi bật giữa màu
bùn bẩn thỉu. Tôi không hiểu làm sao cậu ta vẫn tiếp tục chạy được về phía sau.
Mai Quý Cường cũng đi rồi. Cường ở cùng Khu tập thể Nguyễn Công Trứ với tôi,
thế là không kịp dặn gì cậu ta cả. Tôi nhảy xuống hầm cạnh Hoàng Nghĩa Hạnh.
Hạnh đang ăn một mẩu lương khô, bèn bẻ cho tôi một nửa. Miếng lương khô chỉ
bằng 2 đốt ngón tay mà sao ngon ngọt thế.
Trong hầm đã chật ních lính Trung đội 3 của anh
Hạnh “Quảng Bình”. Tôi và Quang, Bích đành phải ngồi ngoài. C trưởng Hộ đã đến
đây từ lúc nào, đang đứng quan sát địch với anh Hưởng và mấy cán bộ Trung đội.
Anh có vẻ hài lòng. Địch bắt đầu giã cối cá nhân vào chỗ chúng tôi, và đạn pháo
của chúng nổ tới tấp phía mạn trái. Tất cả phải ra khỏi hầm đào công sự cá nhân
chuẩn bị đánh phản kích. Tôi được lệnh bò lên trên cùng, đào hố chốt ở đó. Đang
bò, chợt thấy một khẩu B40 có đạn vứt bên cạnh, tôi nhặt luôn và nghĩ bụng:
“Càng nhiều súng, chốt càng tốt”. Tới sau một lùm phi lao thấp lè tè, tôi rút
dao găm ra đào hố. Đất toàn cát nên bới cũng dễ.
Trước mặt tôi là Tám Cát. Phía bên trái, đạn pháo
kích càng lúc càng nổ dữ dội. Nghe có cả tiếng B40 và những tiếng gào ầm ĩ vọng
đến: “Xung phong!... Xung phong!...”. Tôi nhìn sang bên đó, thấy thấp thoáng có
bóng người. Không hiểu ai đang xung phong, ta hay địch?.
Khi cái hố đã tạm ổn, tôi đưa mắt quan sát xung
quanh. Những khóm phi lao lùn mọc đầy trên doi cát hạn chế tầm mắt khá nhiều.
Hình như có mấy tên địch chạy từ Tám Cát xuống đồng múc nước. Yên ngựa phía
phải Tám Cát được nối liền với nhiều mỏm đồi thấp lè tè, kéo dài tới tận làng 6
xa xa. Qua yên ngựa thấy thấp thoáng bóng địch đi lại. Sau Tám Cát là biển.
Chếch về trái Tám Cát là những gò cát nhỏ liền nhau, nhìn qua chúng có thể thấy
sóng biển vỗ ào ào. Sau các gò thấy nhiều lính địch đang nhô lên quan sát.
Chúng toàn mặc quần áo rằn ri xanh, phần lớn để đầu trần. Có mấy tên dáng chừng
chỉ huy, đang tụm lại phía sau, giơ ống nhòm quan sát. Những chiếc chăn dù bọn
chúng khoác trên vai tung bay theo chiều gió. Tôi giơ B40 lên toan bắn 1 phát,
nhưng rồi thôi, vì khoảng cách xa quá. Cả quãng đồng nước phải hơn 300m, B40
bắn chưa chắc trúng, lại dễ lộ vị trí. Hơn nữa chúng di động liên tục nên rất
khó ngắm. Tôi báo cáo với anh Hưởng, anh chỉ nhắc mọi người sẵn sàng. Nhìn theo
hướng bọn địch đang quan sát, tôi quay cổ ra sau, chếch phía trái, thấy trên
một mỏm đồi nhỏ lính C nào đó đang kéo vào. Trời đầy mây mù, mưa lâm thâm.
Những bóng lính ta im lặng, đi cách thưa, mặc áo mưa màu xám. Pháo địch từ làng
6, làng 5 vẫn bắn tới dữ dội, nhiều quả nổ gần chỗ tôi. Nghe tiếng đạn rít thật
dễ sợ.
Tôi kiểm tra lại súng đạn, nhất là khẩu
B40. Lúc nẫy cậu Lượng đã bị toác nòng B40 vì súng đầy cát. Tôi thử rút quả đạn
ra mà không được, bèn nằm ngửa, 1 chân đạp phần cò, một chân đạp thước ngắm,
hai tay lôi hết sức. Cuối cùng thì quả đạn cũng bật ra, nhưng một nửa ống liều
phóng bị gãy còn nằm lại trong nòng. Thế này mà bắn thì bỏ mẹ thật. Tôi bò ra
sau, nhờ anh Hưởng chọc thông nòng súng, lấy thêm hai quả đạn mới, rồi lại bò
về. Khi kiểm tra khẩu AK, giơ lên ngắm thử, tôi chợt thấy ngay trước đầu ruồi
có một khuôn mặt người. Ngạc nhiên quá, tôi hơi rướn lên nhìn cho kỹ. Đúng là
có một khuôn mặt ẩn trong lá, đôi mắt đang nhìn tôi. Tôi gằn giọng hỏi khẩu
lệnh: “3?”. Đáng nhẽ phải trả lời “2!” để cộng lại là 5, thì kẻ kia im lặng.
Tôi lặp lại câu hỏi 2 lần nữa, vẫn thấy hắn im lặng, bèn ra lệnh: “Bò lại gần
đây!”. Một người đeo túi y tá có chữ thập bò ra. Hóa ra là cậu Y tá C9, người
Thanh Hóa. Tôi bực quá gắt: “Cứ câm như thế có ngày tao bắn mất mạng!”. Cậu ta
trườn xuống hố, thều thào: - Em bị thương... Anh băng cho em với... - Không có
băng! (Cuộn băng ở cổ tôi đã giật vất đi). - Ở trong túi của em ấy... Cậu ta bị
thương vào lưng, mấy vết chém khá sâu, miệng há toang hoác, nhìn vào còn thấy
mảnh đạn pháo trăng trắng. Mùi máu và nước ruộng tanh nồng. Tôi quấn vội vài
vòng quanh bụng cho cậu ta, rồi chỉ đường cho bò ra phía sau. Khi nãy, lúc chạy
về nhờ anh Hưởng thông nòng B40, tôi ẩn vào một cái hầm đầy người, bên ngoài
hào dựa rất nhiều súng. Khi quay lên, tôi đã cố ý “xách nhầm” một khẩu AK “mẻ
nòng” mới cứng đi, để khẩu AK ghẻ lở của tôi ở lại.
Đói quá, mấy đứa
chia nhau hăng-gô cơm của anh Thanh. Hình như tối nay C10 vào tập kích Tám cát.
Khoảng chập tối, một khẩu 12ly7 của C12 được khiêng đến đặt dưới hố trước cửa
hầm tôi. Mấy cậu xạ thủ lấy đường ngắm sẵn vào mục tiêu Tám Cát, khóa tầm khóa
hướng lại. Anh Thanh nói có cả bộ đội địa phương cùng tập kích, giải quyết xong
Tám Cát rồi sẽ rút. Chúng tôi rất hy vọng mọi chuyện sẽ được như vậy. Đêm ấy ở
dưới hầm rất chật. Tôi ngồi hết sức co quắp, mà vẫn bị ép chặt, nhiều lúc chỉ
muốn đứng phắt dậy hét lên vì quá bức bách. Phải ngồi suốt đêm thế này thì điên
mất.
Bên ngoài đạn pháo vẫn nổ ùng oàng.
Khoảng 10h đêm, tiếng nổ bỗng rộ lên. Cối 82 của ta đã phát hoả. Lập tức khẩu
12ly7 trên đầu chúng tôi cũng nhả đạn: “Pùng pùng pùng... Pùng pùng... Pùng
pùng...”. Các xạ thủ thay nhau bóp cò, mà cũng chỉ kéo được khoảng 6-7 viên
liền thôi. Khẩu 12ly7 gần đó cũng bắn dữ dội. Tôi ngồi dưới hầm, lắng nghe trận
chiến sôi động bên Tám Cát, rồi thiếp đi lúc nào không biết.
Sáng hôm sau thức giấc, pháo địch vẫn đang nổ ầm ĩ.
Cuộc tập kích của C10 tối qua hình như đã thất bại. Tôi lại tiếp tục bò lên cái
hố chiến đấu ở trên đầu doi cát. Qua yên ngựa của Tám Cát vẫn thấy thấp thoáng
bóng địch đi lại. Một vài tên đang chạy xuống ruộng lấy nước. Tôi cặm cụi dùng
dao găm đào cho hố thêm sâu. Chợt anh Hưởng chạy đến sau lưng hỏi: “Vinh chưa
rút à! Rút nhanh đi! Đuổi theo anh Thanh kìa!”.
Tôi ngạc nhiên và rất bực vì họ rút mà chẳng gọi
tôi gì cả, đành xách khẩu AK chạy lui theo doi cát. Trước đó một quãng, bóng
Bích, Quang và anh Thanh đang thấp thoáng chạy sau những lùm phi lao thấp. Tôi
cắm cổ đuổi theo. Cái xác lính ta cụt đầu vẫn nằm vắt người cạnh doi cát như
hôm qua. Lính C9 đã đào hào chốt dọc theo doi. Chợt thấy Hoàng Nghĩa Hạnh dưới
hào, tôi nhảy vào ngồi cạnh và nói: “Tao đói lắm, mày có gì ăn cho tao với”.
Hạnh rút cái túi cơm đựng gạo rang cạnh khẩu cối 60 ra. Tôi bốc 1 nắm gạo cho
vào mồm nhai trệu trạo. Lúc này mới thấy Đàm Mạnh Toàn ngồi gần đấy, đang nhìn
tôi, miệng nở một nụ cười nhợt nhạt. Tôi bốc thêm một nắm gạo, từ biệt Hạnh rồi
nhảy ra khỏi hào để đuổi theo nhóm anh Thanh. Đang chạy trên bãi cỏ ngập nước
lúp xúp, chợt nghe một tiếng “ục” rất nhỏ. Theo linh tính, tôi nằm bẹp xuống,
thì quả đạn đã rít ở trên đầu. “Xẹt oành...”, bựng khói nổ cách tôi 3-4m. Liên
tiếp mấy quả nữa rơi xuống, khói mù mịt, khét lẹt. Dứt tiếng nổ cuối cùng, tôi
chồm dậy lao ra khỏi đám khói. Cái quai mũ cối gió thổi rít lên, làm tôi tưởng
là tiếng đạn nên lại nằm bẹp xuống. Lần thứ hai, vừa thoáng nghe tiếng ục đầu
nòng, tôi lại nhoài ra, mặc nước ruộng làm ướt hết người và bao đạn. “Xẹt
oành...”, “xẹt oành...”, hơn chục quả pháo nổ liên tiếp, có quả chỉ cách tôi
vài mét, mảnh bay nóng lưng. Suốt đời không bao giờ tôi quên được cảm giác
khủng khiếp khi nghe tiếng rít của những quả đạn đang lao thẳng xuống đầu mình.
Cứ mỗi tiếng rít là một lần cơ thể cứng ra chờ đợi: “ Chết này! Nó trúng này!
Nó trúng này...”.
Mấy cậu C9 phía sau cứ nhìn những quả pháo nổ trùm
lên ruộng cỏ mà ái ngại cho tôi. Nhưng nhờ hồng phúc ông bà, cuối cùng tôi cũng
chạy thoát khỏi cái bãi cỏ khủng khiếp đó. Tới cây phi lao cao to, có mấy cậu
công binh đang đào hầm dưới gốc cây. Họ nhìn những nét khiếp sợ trên mặt tôi
một cách bình thản. Tôi hỏi họ xem toán người trước đó đi về hướng nào? Theo
hướng họ chỉ, tôi chạy lên một gò cát mọc đầy cây chổi xể, chân nọ đá chân kia
trong những đoạn hào vừa nông vừa chật hẹp. Rồi cũng thấy toán anh Thanh đang
ngồi ăn cơm nắm bên doi cát. Tôi trách anh đã bỏ rơi tôi, rồi nhận nắm cơm ăn
luôn. Lúc này, đạn pháo địch vẫn nổ cách đó chừng 3-4 chục mét. Chưa hết cơn
sợ, nên đến việc nhoài lên lấy túi muối tôi cũng ngại. Gần đó có cái hầm cũ của
địch, ông Khuông, cậu Y tá Quý và cậu Tường liên lạc C11 đang ở. Mấy cậu Tiểu
đội 6 chui vào đó nấp, ông Khuông có vẻ không bằng lòng. Những người khác đào
hố chiến đấu bằng cách khoét vào thành hào. Tôi còn đào sâu xuống để làm ổ nằm
luôn.
Mưa. Che tấm ni-lông lên miệng hố, cũng tạm ổn. Anh
Thanh và bọn Quang, Bích đào một hố to hơn, lát mấy cành thông trên miệng rồi
lấp đất lên. Tôi ngả người, định ngủ mà không được. Mỗi cơn gió thổi tới là cát
lại chảy xuống ào ào. Cứ đà này chả mấy chốc cái hố của tôi sẽ bị lấp. A6 và B
phó Tài được điều lên chốt với B1. A5 cùng A trưởng Minh lúc nãy thấy đào hầm
trên đỉnh đồi, bây giờ được điều sang mỏm gò bên cạnh. Hầm của họ đã có mấy cậu
C16 khiêng khẩu 12ly7 đến đặt. Chiều tới, tôi và anh Thanh chạy về phía làng 9
để lấy cơm. Qua hầm A5 thấy cu Cập đang rên rỉ. Cậu ta bị hắc lào nặng ở bẹn
gây nhiễm trùng nên rất xót khi vận động. Anh Thanh có vẻ khinh ghét những hiện
tượng như thế. Tôi chạy băng qua một ruộng khoai bỏ hoang, thỉnh thoảng thấy
vài cái mương nhỏ, hai bên mọc những cây phi
lao còi cọc. Đang chạy chợt thấy trên ruộng cỏ nước có mấy
quả B40 và 1 cái túi đã ướt, tôi nhặt lên. Trong túi có một bọc gạo rang và một
gói cơm nếp đỗ đen, tôi và anh Thanh chia nhau ăn luôn. Anh Thanh còn nhặt được
một cái dù pháo sáng, quấn vào cổ làm khăn quàng. Vượt qua mấy hố bom to, hai
anh em vào đến rìa làng 9. Ở đây có hầm Tiểu đoàn bộ, rồi hầm Thông tin, Trinh
sát... Ngay cạnh hầm D bộ có một cái bếp dựng sơ sài bằng mấy tấm tôn. Một
người đàn bà khoảng ngoài 30 đang ngồi nấu bếp.
Dưới cái rãnh có nhiều đạn B40 và cối 82 nằm lăn
lóc. Lúc sau, thấy anh Mứt, trước cũng ở C11 giờ lên Trợ lý hậu cần tiểu đoàn,
cùng một cậu nữa khiêng bao cơm nắm đến bàn giao cho chúng tôi. Nhận bao cơm
xong tôi cùng anh Thanh lại nhanh chóng vượt qua cánh đồng quay về, chia cơm
cho các B. Bính được phân công mang cơm lên tuyến trên cho A6 và B1. Tối hôm
đó, cả mấy đứa rúc vào nhau ngủ trong cái hầm tạm bợ, sau khi đã thống nhất là
ngày mai sẽ đi tìm vật liệu để làm cái hầm kèo cho tươm tất. Trời vừa sáng
chúng tôi đã mỗi người mỗi ngả đi kiếm vật liệu làm hầm. Tôi chạy theo những
con hào nông và ngoằn ngoèo ra phía biển. Dọc thành hào thỉnh thoảng lại thấy
những hố chiến đấu sụt lở, những đống đạn M16, M72, M79 của địch bỏ lại. Ngang
một cái hố, chợt thấy bên trong có một băng AK đầy đạn đã hơi gỉ, tôi định thò
tay lấy. Nhưng 1 mùi hôi thối xộc lên và hình như có mấy sợi tóc đen trong cát
làm tôi phải bịt mũi chạy tiếp. Cái mà tôi quan tâm là những tấm tôn để lát hầm
và những thanh tre, gỗ để làm sườn hầm hoặc đòn nóc. Chạy mệt phờ râu mà rốt
cuộc chỉ kiếm được vài miếng tôn nhỏ, tôi đành trở về. Địa hình chưa quen, lớ
xớ dễ lạc lắm. Tình cờ lại gặp hầm của mấy cậu trinh sát D, trong đó có Quý
“tiết”. Cạnh hầm có mấy hố bom rất to mà mấy cậu đó không sao cả. Quang “xỉu” A
tôi đã ngồi đây tự lúc nào, đang nói chuyện với Quý. Tôi chỉ hỏi thăm qua loa
rồi nhắm quả đồi có hầm của mình phóng về. Chạy qua một vườn cây cao, trụi lá
khẳng khiu, thấy lạ là làm sao mấy cây này chưa bị pháo đốn ngã. Cả làng 8 đã
bị san phẳng, chỉ còn thấy những nền nhà, và mãi gần làng 7 mới có một cái nhà
đổ. Cỏ dại mọc khắp nơi, xen giữa những cây thông lùn tịt. Trong vườn cây tôi
tìm được một hầm kèo bị sập. Nhưng lay mãi mà không nhổ được cọc, phải chạy về
kêu anh Thanh ra giúp, cũng chẳng ăn thua. Đã trưa rồi, chúng tôi đành phải bỏ,
định đến chiều sẽ vào làng 9 tìm kiếm tiếp.
Ông
Khuông mang đến cho mỗi đứa một phong lương khô Mặt trận B5 tặng. Anh Thanh có
vẻ không thích ông Khuông lắm, có lẽ ông ấy cũng lắm điều thật. Bỗng nghe phía
Tám Cát, nơi địch đóng, rộ lên từng tràng súng đại liên. Rồi thấy hai chiếc
xuồng máy, có mấy tên lính mặc áo phao mầu da cam ngồi trên, lướt đi lướt lại ngoài
biển. Vừa lướt chúng vừa xả súng vào những đám gì đen đen đang trôi ngoài đó.
Về sau mới biết đó là những bao gạo của ta thả trôi trên biển, để tiếp tế cho
những vùng khó khăn mà hậu cần trên bộ không vào được. Chiếc tàu Hồng Kỳ của
Trung Quốc đậu ở ngoài khơi Vĩnh Linh đã thả 10 nghìn tấn gạo xuống biển như
vậy. Những bao gạo bị địch bắn thủng sẽ ngấm nước, thối hoắc. Nhưng chúng cũng
không thể phá hủy được hết các bao gạo. Thật khó mà hình dung nổi hình ảnh hàng
nghìn bao ni-lông chứa hàng vạn tấn gạo được thả trôi trên biển. Nhưng cứ mười
bao thì may ra mới có một bao dạt vào bờ và quân ta lượm được.... Buổi chiều cả
tiểu đội tôi đi vào làng 9, thấy mấy cái hầm của C14 và D47 tùm hụp như những
quả đồi con. Chỗ này bị pháo kích thường xuyên. Cát trên đường chúng tôi đi
cháy xém từng đoạn, chứng tỏ đạn mới nổ. Những cành thông và lá dứa dại bị phạt
đứt nằm rải rác trên mặt đất. Cả bọn cắm cổ đi thật nhanh vì bất cứ lúc nào đạn
pháo cũng có thể rơi xuống. Có chỗ phải lội, nước trong leo lẻo nhìn rõ cả cát trắng
dưới đáy, nhưng tôi vẫn ngại vì vết sầy chân từ Quán Ngang còn chưa khỏi. Mấy
hôm nay lội nước liên tục khiến nó bợt trắng ra. Mấy cậu lính của đơn vị nào đó
cũng đang đi lảng vảng như chúng tôi. Nhiều ngôi nhà gỗ đã bay mất, để lại đủ
thứ ngổn ngang trên nền nhà: thùng chậu, nồi niêu, quần áo các màu, lưới đánh
cá... Thấy dưới mấy cái hố có nhiều ống đạn B40 và cối 60, anh Thanh nháy mắt.
Tôi bèn nhảy xuống dùng dao găm của Bích lột lấy vỏ nhựa để tối về đốt đèn và
nấu ăn. Cả bọn kiếm được mấy tấm tôn, một bao khoai khô và một ống mắm tép
biển.
Khi quay về, ra gần đến chỗ lội thì bị pháo kích.
Lúc nằm tránh đạn tôi mới chợt nhớ ra để quên con dao găm. Mất dao thì còn làm
ăn gì nữa, nên tuy rất sợ, vẫn phải lộn lại tìm bằng được. Cả tiểu đội hì hục
làm xong cái hầm kèo. Đòn nóc bằng gỗ phi lao cong queo, sườn hầm cũng vậy, phủ
tôn lên rồi lấp đất cát thật dầy. Sau đó mới moi súng ống lên lau lại. Mấy ngày
nay cũng chủ quan quá, cứ để súng nằm dưới hào, cát chảy xuống phủ gần hết.
Nhưng phải công nhận những khẩu AK cũng bền và dễ tính thật. Cát đầy nòng vẫn
bắn tốt. Lội ruộng lên nước chảy tong tỏng từ nòng vẫn bắn ngon. Không như mấy
anh súng Mỹ M16 khó tính, có tí cát tí nước vào toác nòng như chơi. Đạn M16 thì
nhỏ, gió biển thì to, đặt cái mũ sắt cách 50m bắn cả băng chẳng trúng phát
nào...
Chúng tôi bẻ những cây chổi xể mọc đầy
xung quanh cắm lên nóc hầm để ngụy trang. Thấy Ngô Duy Minh từ trên chốt B1 đi
xuống, vẻ mặt đầy chán nản. Đành nói vài câu an ủi bạn thôi. Dao găm thiếu trầm
trọng. Tôi chạy sang hầm 12ly7 gần đó, rút đại một con dao đang treo ở bên
ngoài đem về dùng. Một lúc sau lại chạy sang, thấy mấy cậu xạ thủ vẫn rúc trong
hầm, bèn mượn cái ống nhòm của khẩu đội để quan sát địch. Phía làng 6 thấp
thoáng hai thằng lính thông tin đeo máy có cần ăng-ten vắt vẻo. Một chiếc xe
tăng được ngụy trang nằm trong công sự, nòng phủ lá chuối khô. Phía đồi Tám Cát
thấy bóng lính địch đi lại thấp thoáng. Dạo này chúng di chuyển rất cẩn thận,
vì nhiều đứa đã ăn đạn bắn tỉa của tổ xạ thủ do Mặt trận B5 cử xuống.
Nhìn ra biển thấy bốn chiến hạm của Mỹ sơn màu bạc.
Một chiếc vào gần bờ quá, thấy rõ cả những lớp sóng vỗ vào mạn tàu, cả con số
to tướng trên thân tàu và chiếc ra-đa trên nóc đang quay quay. Bỗng nhiên thấy
khói phụt ra từ các khẩu đại bác, rồi mới nghe tiếng nổ: “Panh...ù ù...oành”...
“Panh...ù ù...oành”... Suốt đêm ngày tiếng pháo biển vang dội. Đến trưa, tôi và
anh Thanh lại vào làng 9 lấy cơm. Đói quá. Hai anh em đến cái bếp cạnh hầm D
bộ, xin người đàn bà cho cạo cháy. Chúng tôi vét đi vét lại đáy nồi. Sau này
mỗi lần đi lấy cơm tôi đều đến đó xin cháy. Người đàn bà biết vậy nên cũng
để cơm dính cháy khá
nhiều.
Ăn xong tôi chạy đi tìm hầm thông tin. Gặp Lâm Nghệ
An, cậu ta chỉ đường cho đến hầm Chí Thành. Dễ đến hơn tuần nay hai đứa chưa
gặp mặt. Chí Thành cũng vừa hút chết, vì đi công tác về thì cái hầm có bốn cậu
trong đó cùng tất cả ba-lô chỉ còn là một hố bom sâu hoắm. Thế là cả hai thằng
đều trắng tay, nhưng đều cho là may vì số mình có lẽ không chết nữa. Ôi sao mà
ngây thơ quá... Một tin buồn Chí Thành báo cho tôi là Lâm Chợ Giời ở C10 đã hy
sinh. Thật đau xót, vì cậu ta rất hiền lành và tốt tính. Lâm bị thương vào
bụng; cùng đêm tập kích đó, Hà Minh Hòa bị thương vào chân. Hai cậu được đưa
vào một cái hầm chờ trời sáng. Lâm luôn mồm rên rỉ và nói với Hòa: “Hòa ơi tao
chắc chết... Tao thương mẹ tao quá...”. Hòa nói: “Yên tâm, mày không chết được
đâu. Đến sáng tải thương sẽ đưa mày về Phẫu...”. Nhưng đến sáng thì Lâm đã chết
cứng. Người ta khiêng Lâm đi như khiêng một khúc gỗ vậy... Cho đến tận hôm nay
người nhà vẫn chưa tìm được mộ Lâm. Mẹ Hồng của Lâm cho đến ngày qua đời đêm
nào cũng khóc vì chưa được một lần ôm hài cốt của con... Tôi vẫn nhớ củ sắn lùi
mẹ Hồng dúi vào tay tôi và Lâm trên đường hành quân từ Bãi Nai về Hà Nội ngày
nào.... Cả anh Nghĩa, B phó huấn luyện của tôi cũng đã hy sinh. Thật đáng tiếc
cho một cán bộ trẻ đầy triển vọng. Anh bị thương vào đầu, ra đến Phẫu thì bị
bom B52 mất xác. C10 vừa rồi tập kích Tám Cát tổn thất quá lớn.
"Cùng đêm tập kích đó, Hà Minh Hòa bị thương
vào chân..." Vinh và Hòa sau chiến tranh. Cách hầm tôi khoảng 30m có một
khẩu đội cối 82ly. Thỉnh thoảng tôi ngó xem cách họ tác xạ. Năm cậu xúm quanh
khẩu súng cối, một cậu bỏ quả đạn vào nòng, cả lũ lập tức bịt tai lại. Quả đạn
kêu lanh canh tụt xuống đáy nòng, rồi bỗng “Púch”, một cột khói xám nhạt phụt
mạnh ra đầu nòng. Khẩu cối bắn liền 5-6 phát. Chỉ một lúc là bọn địch phản pháo
ngay. Tất cả lập tức chui vào hầm ngồi. Pháo chúng bắn trả nhiều kinh khủng.
Mảnh bay vù vù, rơi lịch bịch. Hai cậu đang ngồi ỉa ngoài bãi cát, vội kéo quần
lao tọt vào hầm. Tôi nhíu mũi hỏi: “Chúng mày không chùi đít à?”. Một cậu đáp
tỉnh bơ: “Không. Để khô nó rụng...”. Buồn cười thật, chính tôi cũng đã bị vài
cú như vậy.
Anh Thanh chia cho mỗi đứa một phong lương khô 701,
phần thưởng của Mặt trận B5. Dạo này việc tiếp tế rất khó khăn. Đồng thời anh
báo tin vui là C11 được thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhất,
được tặng danh hiệu là Đại đội Thép. Cũng đúng thôi, vì C11 là chủ công trong
chiến thắng giải phóng hai làng 7, 8, tiêu diệt 39 tên địch. Anh Thanh được
thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng ba. Tôi và Bích được tặng Bằng
khen của Sư đoàn 320B. Đêm ấy mọi người đang mơ màng, chợt nghe “ ịch” một
tiếng, cái hầm rung ùng ục. “Chắc lại pháo khoan rồi”, cả bọn tự nhủ và ngủ
tiếp. Sáng hôm sau trèo lên xem mới thấy khiếp: một quả pháo biển 203ly to như
quả bom con, màu bạch kim trắng lóa, nằm ngóc cổ chình ình trên nóc hầm. Có lẽ
chúng bắn từ biển ở cự ly gần, phải hạ nòng thấp quá nên đạn đi sượt, thật hú vía...
Bọn địch thay quân giữa ban ngày. Đầu
tiên một chiếc trực thăng cá lẹp bay tới, đảo vài vòng rồi bắn ba trái pháo
khói màu hồng phía trước Tám Cát. Tiếp đó pháo địch từ Làng 5, Làng 6 bắn đạn
khói tới tấp. Cả trận địa bên địch được bao phủ bằng một lớp khói trắng xám,
không nhìn thấy gì nữa. Đó là lúc Tiểu đoàn 2 “Trâu điên” của chúng vào thay
Tiểu đoàn 8 “Ó biển”. Sau này được nghe nói tôi mới biết, chứ lúc ấy chỉ thấy
khói mù mịt, chẳng hiểu chúng định giở trò gì. Đêm mùng 5 rạng mùng 6-12-1972
chừng 4h sáng đến phiên tôi gác.
Trời tối đen như mực. Chợt phía Làng 6 bùng lên
hàng loạt tiếng nổ cùng ánh chớp sáng lòe, đạn bay như hoa cà hoa cải. Một lúc
sau thấy tất cả im lặng. Mặc dù vậy tôi vẫn căng mắt nhìn ra cánh đồng giáp
Làng 6. Lẫn trong tiếng gió biển thoáng nghe có tiếng người nói lao xao và
tiếng chân lội nước lõm bõm. Chẳng nhìn thấy gì cả, tôi cứ phân vân không biết
có nên báo động hay không? Hay cứ thử bắn một loạt đạn vào đó? May mà tôi không
làm như vậy, vì lúc sau mới biết đó là một toán trinh sát của ta định đột nhập
Làng 6 mà thất bại. Rồi thấy anh Hưởng, Chính trị viên phó đại đội và anh Căn,
Tiểu đoàn phó xuất hiện, yêu cầu tôi và Quang “xỉu” giúp vận chuyển một thương
binh về phía sau. Người bị thương nằm trong một chiếc võng bạt, đang rên la.
Một thanh gỗ to, nguyên là đòn nóc của một ngôi nhà, được dùng để khiêng võng.
Cái đòn này nặng kinh khủng, cộng thêm trọng lượng của thương binh nghiến lên
vai rất đau. Thương binh hóa ra là cậu Mốc người Quảng Trị, thường dẫn đường
cho chúng tôi trong các trận tập kích. Cậu ta dẫm phải mìn nát bàn chân trái,
máu thấm đẫm mấy cuộn băng. Tôi và
Quang loạng choạng khiêng thương binh lội trên đồng
nước, hướng về Làng 9. Trời nhờ nhờ sáng, nhưng sương mù dày đặc chẳng nhìn
thấy gì hết. Kiểu này khéo lại đi lạc vào chốt của địch thì chết. Vừa mệt, vừa
đói, vừa lo lắng, đòn thì nặng, thương binh rên la suốt, làm Quang nổi quạu.
Cậu ta quát lên: “Ông im mẹ nó cái mồm ông đi, không thì tôi quẳng ông xuống
ruộng bây giờ!”. Cậu Mốc nghe thế chỉ còn dám rên khe khẽ. Rồi cuối cùng cũng
đến được Trạm cứu thương của Tiểu đoàn, chúng tôi bàn giao thương binh cho C25
Vận tải khiêng đi tiếp. Tầm 11h trưa thì anh Phùng Chính trị viên Đại đội bị
chết. Lúc đó anh đang ở tuyến hào B1, và gọi Ngô Duy Minh ra cùng quan sát
địch. Anh hỏi Duy Minh: “Có chiếc xe tăng ở Làng 6 phủ lá chuối khô ngụy trang.
Cậu xem từ đây đến đấy liệu B41 bắn được không”? Duy Minh vừa trả lời: “Em sợ
xa quá anh ạ...” thì một quả pháo lao tới nổ trúng chỗ anh đứng. Anh Phùng bị
tan xác, Duy Minh bị mảnh pháo vào đầu, máu chảy ròng ròng xuống cổ. Cậu ta la
hét thảm thiết, nhưng bọn B1 nhát quá, rúc hết trong hầm, không thằng nào ra
cứu Minh cả.
Tôi nằm ở tuyến B2 phía sau, cách đó khoảng 50m,
nghe tiếng bạn kêu xót ruột quá, bèn quyết định bò lên cứu. Sau khi băng bó cho
Duy Minh, tôi cầm hộ bạn cái bòng (một kiểu túi đeo, giống ba lô) bò trước,
Minh bám theo vết chân bò phía sau. Bò qua chỗ anh Phùng hy sinh, chỉ thấy hố
pháo, máu đọng thành vũng, còn một ít mảnh xương thịt vụn lổn nhổn trong đó.
Mùi tanh tưởi bốc lên, đúng là không thịt gì tanh bằng thịt con người. Thương
anh Phùng quá, vẫn nhớ lời anh nói: “Có chết vì pháo thì thường chết từ quả đầu
tiên...”. Hào cát chật hẹp, nhiều đoạn nông choèn, chúng tôi hầu như phơi lưng
trên mặt đất. Pháo địch vẫn rít tới tấp trên đầu, đạn nổ liên tiếp, khói mù
mịt. Rồi cũng ra khỏi được bãi pháo địa ngục, tôi dìu Duy Minh chạy trên quãng
đồng trống về phía Làng 9.
Tới rìa làng, hai đứa tạm biệt, tôi cầm tay Duy
Minh nói: “Cậu bị thương nặng như thế này chắc được ra Bắc. Về Hà Nội nhớ ghé
nhà mình, Minh nhé...”. Cả hai đứa đều không cầm được nước mắt... Mãi sau này
mới biết Duy Minh chỉ được chuyển thương ra đến Viện 112 Quảng Bình điều trị.
Vết thương đỡ, Ngô Duy Minh được giữ lại làm Y tá, rồi năm 1973 được cử đi học
Quân y....
“Cậu bị thương nặng như thế này chắc
được ra Bắc. Về Hà Nội nhớ ghé nhà mình Minh nhé...”. ND Minh và Vinh.
Những ngày nằm chốt ở Làng 8, Thanh Hội, thật buồn
thê lương. Tôi hay mò đến hầm Chí Thành cách đó khoảng 100m để tán gẫu. Đợt này
cậu ấy đeo máy vô tuyến 2W xuống phối thuộc ở đại đội tôi. Chí Thành có tấm ảnh
chụp cả lớp 10B quý quá. Tấm ảnh tuy bé, nhưng những khuôn mặt các bạn Tiến
Dũng, Tiến Quỳnh, Bích Đào, Xuân Mai... và nhiều người bạn thân thương khác nữa
vẫn rõ mồn một. Hai đứa lần điểm từng khuôn mặt, cùng nhắc lại những kỷ niệm
vui buồn liên quan đến các bạn đó.
Rồi Chí Thành dạy tôi hát mấy bài nhạc vàng. Khi
buồn người ta học nhạc vàng nhanh lắm. “... Thôi nhé, từ nay cách xa nhau rồi/
Nỗi buồn theo tháng ngày trôi/ Nụ cười khô héo trên môi... Ngày mai tan trường
mình không chung lối/ Yêu thương nhiều biết gửi về mô/ Kỷ niệm cũ trôi vào hư
vô”... Nghêu ngao hát chán nhạc vàng, hai đứa lại bày trò ra nghịch. Chí Thành
nhặt được ở đoạn hào trước cửa hầm một khẩu M16 nửa vùi trong cát. Khẩu súng đã
rỉ ngoèn, gỉ bịt kín cả nòng súng, nhưng cậu ta vẫn quyết định bắn thử. Tôi sợ
sẽ bị toác nòng gây nguy hiểm nên can. Nhưng chưa kịp nói hết câu thì cậu ta đã
cầm súng một tay thò ra ngoài cửa hầm bóp cò. “Đoành”, viên đạn nổ chát chúa,
thế mà súng không sao cả. Tôi nhìn vào nòng súng, thấy nòng sáng loáng...
Đến giờ nhất định, Chí Thành mở máy liên lạc với
Tiểu đoàn. Nhiều khi đang dò sóng và nói “ Vạn Tường gọi Ấp Bắc... Vạn Tường
gọi Ấp Bắc” thì có một tên địch nói chen vào. Có những tên ăn nói rất lịch sự,
nhẹ nhàng, hỏi thăm quê quán, gia đình, nói những chuyện bâng quơ. Có tên lại
chửi bới cục súc, hằn học gào ông ổng: “ Đ. má... Việt Cộng tụi bây là tay sai
của Tàu cộng vô xâm lược Miền Nam...”. Thế là chửi nhau như hát hay. Cũng là
một cách giải khuây...
Một buổi sáng bỗng thấy Chính “con” lò dò lên chốt.
Gặp lại Chính con, người mừng nhất là tôi. Thú thật trong chiến trận, có Chính
con bên cạnh tôi yên tâm hẳn. Cậu ta có thể xấu với người ngoài, nhưng với tôi
thì chân tình hết sức. Hai đứa cùng cạ, đã thề sống chết có nhau. Trường hợp
của Ngô Duy Minh cho thấy, không có bạn cùng cạ nguy hiểm như thế nào. Lúc
thắng không sao, lúc thua người ta sẵn sàng quẳng mình mà chạy. Với Chính con,
tôi có thể chắc chắn rằng, nếu bị thương cậu ta sẽ cõng tôi đi, nếu bị chết cậu
ta sẽ lôi xác ra bằng được.
Bọn
địch đón Chính con bằng một trận pháo kích khủng khiếp. Tôi ngồi đối diện với
anh Thanh gần cửa hầm, đất cát rơi ào ào xuống đầu xuống cổ. Chợt một mảnh pháo
bay vù vào, chém trúng bắp tay trái của anh Thanh, rồi rơi xuống đất. Anh Thanh
ôm vội bắp tay. Tôi lấy băng ra băng cho anh. Vết thương dài gần 5cm, sâu
khoảng 1cm, máu chảy không nhiều, chắc vì mảnh đạn đã hết tầm. Nhưng sờ vào
mảnh đạn sắc lẹm vẫn thấy bỏng rẫy. Tuy bị thương nhưng anh Thanh không đi
Phẫu. Tất cả chúng tôi cũng vậy, bị thương nhẹ không thằng nào đi Phẫu. Chẳng
phải dũng cảm gì, đơn giản vì ra
Phẫu
cách đó vài km dễ bị B52 rải thảm tan xác lắm. Nằm chốt ở đây gần địch chỉ bị
ăn pháo thôi, chứ không bị bom B52 hoặc tọa độ. Tấm gương của anh Nghĩa B phó
C49 còn rành rành ra đó...
Nguyễn Quang Vinh
Phần Thứ Ba: Mặt Trận Nam Cửa
Việt (3)
Đêm 16 rạng ngày 17-12-1972, sau hơn hai tuần chốt
ở Làng 8, Thanh Hội, C11 của tôi được lệnh rút quân. Khoảng 9h tối tất cả chạy
tới tập hợp ở gần hầm chỉ huy đại đội. Các chiến sĩ ngồi rải rác dưới đường hào
nông choèn. Đột nhiên pháo sáng địch bắn rộ lên, có thể chúng đánh hơi được cái
gì chăng? Dưới ánh pháo sáng, cả đại đội chạy nhanh về phía Làng 9. Phía ven
biển, nhiều quả đạn pháo đang nổ, hoa cà hoa cải bắn vung ra đỏ rực trong đêm.
Bỗng “xoẹt, xoẹt... oành, oành...”, hai quả pháo nổ giữa đội hình, khói bay
khét lẹt. Cả bọn chết khiếp nằm bẹp xuống, rồi lại nhổm dậy chạy tiếp. Chúng
tôi không vào Làng 9, mà đi ra ngoài bãi cát ven làng.
Đêm tối như mực, nhưng bãi cát lại nhờ
nhờ trắng như tuyết. Thỉnh thoảng lại bị thụt chân xuống những chỗ cát ướt hoặc
lạch nước lạnh buốt. Cứ thế đi mãi. Hình như ra đến Đường 4 rồi thì phải, đã
thấy những phiến bê tông to tướng bị pháo bật lên, chân vấp vào đau điếng.
Đường này thời bình chắc tốt lắm. Mấy cán bộ đại đội tạt vào hầm của bộ đội địa
phương gần đó để hỏi đường. Bị lạc rồi, tất cả quay lại. Thấy lô nhô mấy gò cát
có hầm bên dưới, chắc của C12, vì thấy mấy khẩu 12ly7 ngoài cửa hầm. Cả Đại đội
tiếp tục đi theo hàng một. Bỗng lại ánh chớp vàng rực và hai tiếng
“oành...oành...” ngay bên cạnh. Cả lũ chạy táo tác. Hốt thật, mà cũng may,
không ai bị sao cả. Pháo địch vẫn tiếp tục bắn vu vơ. Quanh quẩn một hồi lại
lộn ra Đường 4. Hình như bên phải chúng tôi là Làng 9? Chính con bị vấp vào đá
ngã đau điếng, tôi chạy tới đỡ dậy. Nghe xa xa từ phía Làng 5 có tiếng đề-pa
đầu nòng “Tùng... tùng tùng...tùng”, rồi tiếng đạn bay trên cao “viu... viu
viu...viu”. Lập tức ở phía Làng 9, hầu như từ đầu làng đến cuối làng mọc lên
những bựng lửa màu da cam đỏ rực trong đêm tối. “Oành... oành oành... oành”,
pháo dàn của chúng khiếp thật. Vô phúc mà trúng vào đội hình bọn mình thì cái
xương chẳng còn... Cuối cùng chúng tôi cũng nhìn thấy hàng rào thép gai, doi
cát và rặng phi lao quen thuộc. Mùi hôi thối của xác chết thoang thoảng trong
không khí.
Đã đến làng Tường Vân (?), chúng tôi
lại tìm đến cái hầm quen thuộc. Cả lũ lăn ra ngủ một giấc mê mệt. Sáng hôm sau
tỉnh dậy, chúng tôi được chén một bữa thịt bò kho, có cả hành, rau, ngon quá.
Đã tưởng sẽ được nghỉ ở đây vài hôm, ai ngờ đến trưa có lệnh hành quân gấp. Tôi
sang nhà cũ của Ngô Duy Minh, định lấy cái ba-lô của cậu ta. Không ngờ, bọn nào
đó đã lục lọi lấy hết đồ đạc rồi, quân tồi tệ thật. Thực ra tôi cũng chẳng cần
ba-lô lắm, đã có cái bòng với 5kg gạo sau lưng, thế là đủ. Cả đại đội lại đi
trên con đường dọc bờ sông to, sóng vỗ ì ầm.
Chúng tôi đang đi lên hướng bắc, không lẽ được ra
Bắc thật? Xa xa, khói đạn pháo đang bốc lên vàng vàng từ các làng mạc. Xác
những con trâu mộng đen sì, bị trúng bom đạn nằm chết dọc bờ sông, nhưng vẫn
vươn cặp sừng trông như đang sống. Mấy cậu lính của đơn vị nào đang tắm ở một
bến đá và dùng lựu đạn ném cá. Một cái đập ngang dòng sông đã bị phá hủy, nhưng
người ta vẫn bắc những tấm ván nối các nhịp làm cầu qua sông. Tôi thận trọng bò
trên những tấm ván bập bềnh trên cầu. Sang đến bờ bên kia, vừa thở phào nhẹ
nhõm thì bỗng “Xoẹt xoẹt...
Oành oành...”, hai tiếng nổ to khủng khiếp, điếc
hết cả tai. Đạn cỡ này chắc phải Pháo hạm hoặc “Vua chiến trường” 175ly chứ
chẳng chơi. Bờ sông đã bị bom B52 đánh be bét, vậy mà địch vẫn pháo kích thường
xuyên. Cả lũ vẫn cắm cổ đi, càng xa chỗ này càng tốt. Bị thương ở đây chỉ có
chết, vì chẳng biết Phẫu ở đâu cả. Đã đến làng Gia Độ rồi, Tiểu đội tôi lại vào
cái nhà cũ để ở. Anh Thanh cử tôi và Quang xỉn lên C bộ để đem súng đi trả.
Kiểu này chắc được nghỉ dài ngày ở chỗ này đây. Thấy Long cồ, giờ là Trinh sát
Tiểu đoàn, đang nói chuyện với mấy cán bộ đại đội. Tôi và
Quang được giao mang 6 khẩu B40, B41 đi bàn giao cho Tiểu đoàn 1. Ra đến bờ
sông phải gọi một lúc mới có thuyền cao su chở sang. Hai đứa băng qua một cánh
đồng trắng xóa những lá truyền đơn kêu gọi chiêu hồi, rồi gặp anh Lộng, Chính
trị viên phó D1. Anh chỉ cho nơi bàn giao súng. Trên đường về tôi và Quang thấy
một đống súng đạn chất ngổn ngang bên lề một con lạch nhỏ. Mỗi thằng bèn lấy ba
quả lựu đạn ném xuống sông để kiếm cá, mà chả được con nào. Quang rút dao găm
lột mấy ống nhựa đựng đạn DKZ82 cùng liều phóng để về thắp đèn.
Không ngờ tối hôm ấy có lệnh cho đại đội tôi vào
chốt Long Quang ngay. Lúc bò qua ván cầu ở đập đá sập, tôi suýt nữa bị rơi
xuống sông. Ra đến giữa cầu thì đột nhiên tấm ván gãy, làm tôi phải vội vàng bò
bám lết lên bờ. Vùng bãi sông này bị B52 đánh nát bét. Những hố bom chi chít,
lổn nhổn dưới ánh trăng. Chúng tôi dừng lại nghỉ ở một ngôi làng hoang vu (Lệ
Xuyên?). Tiểu đội tôi được phân vào cái hầm rất hoành tráng, trần và vách đều
phủ dạ. Nhưng hầm đào sâu quá, nên khi chui vào có cảm giác ngột ngạt như chui
xuống hầm mộ. Kiểu này mà bị sập thì chỉ có chết. Sáng hôm sau tôi thơ thẩn
lượn sang xem xét mấy ngôi nhà bên cạnh. Xe đạp hiệu Lin-côn vứt khắp nơi,
nhiều cái đã gỉ ngoèn. Sách vở vất lung tung, có cả mấy quyển Toán của lớp 11
và 12.
Lúc về thì A tôi được lệnh di chuyển sang chỗ khác.
Tôi và Chính con được phân một cái hầm nhỏ hơn, lát bằng tre, của lính Tiểu
đoàn 2 bỏ lại. Tôi sang nhà Quang xỉn ở, kiếm được một ít khoai khô đem về, rồi
đi tắm. Sau đó cả Trung đội tới nhà A6 ăn cơm. Cái nhà của A6 rất rộng rãi, có
bình hoa nhựa, có cả mâm đồng, bát yêu đàng hoàng. Tôi cùng Chính con khoác
súng đi chơi thơ thẩn trong làng, nhìn thấy mấy con gà đã định bắn, thì nghe có
tiếng người nói. Hóa ra ở đây có một Tổ Thông tin hữu tuyến của Tỉnh đội Quảng
Trị. Hai đứa ngồi nói chuyện một lúc với cậu lính thông tin trẻ, tên Tâm, nhà ở
phố Trần Hưng Đạo, Hà Nội. Sau đó chúng tôi sục sạo vào các hầm trong những
ngôi nhà mà Tiểu đoàn 2, E48 vừa bỏ lại tối qua. Vớ được một cái mũ cối, bình
tông và nhiều thứ lặt vặt khác... Buổi tối, Chính con quấn nùi rơm lục tục hun
muỗi mãi mới ngủ được. Tầm 4h sáng chợt nghe súng nổ rầm rĩ, đêm thanh vắng nên
nghe khá gần. Hôm nay Tiểu đoàn 2, E48 tung toàn lực tấn công nhằm chiếm đồi
Cây Ba Chạc ở bãi cát Long Quang. Rồi tiếng súng thưa dần. Chúng tôi
Chính con chui ra. Hai cậu lính C7 Tiểu đoàn 2 đang
ngồi ở thềm nhà. Thì ra đây là cái hầm cũ của các cậu ấy. Cả 2 nói: “Cơ sự hỏng
bét cả rồi. D2 chết và bị thương nhiều lắm. Có lẽ C11 của các cậu sẽ được tung
vào đấy”. “Nhưng chúng tớ không có B40, B41 thì làm ăn gì được?”. “Ôi dào, trên
đường rút ra bọn tớ quẳng lại nhiều lắm. Các cậu tha hồ lượm. Còn khối thương
binh, tử sĩ chưa lấy ra được...”.
Cả ngày hôm ấy chúng tôi chuẩn bị đi chiến đấu. Đến
tối thì có lệnh tập hợp. Mưa. Cả bọn chui vào cái hầm cạnh nhà C bộ, chật như lèn.
Mấy cậu DKZ82 xuống phối thuộc đang tán chuyện gẫu. Có lệnh lên đường. Cậu
Trường “Khâm Thiên” A6 vác khẩu RPD đi bên cạnh thở dài sườn sượt. Không thể
nào quên được hình ảnh đoàn quân ra trận đêm ấy. Những cái bóng đen thẫm đi vội
vàng trên con đường đắp cao, nổi bật trên nền sương mù đùng đục của đêm trăng
sáng nhờ nhờ. Cả đại đội hành quân gần như suốt đêm. Rồi đi dọc một con lạch,
qua một cây đa to, hai bên đường cây gì như cây vừng.
Đến gần sáng thì tới chỗ nghỉ. Đó là một dãy hầm ở
bãi cát lúp xúp những cây nhỏ. Nhiều cây giống như rễ chay, vừa mềm vừa dai. B1
được lệnh đi ngay lên phối thuộc với C9 tập kích Cây Ba Chạc. Phía đó bỗng
nhiên pháo sáng rực trời, đạn nổ như bắp rang, những đường đạn đỏ lừ bay ngang
bay dọc. Sáng rõ mặt người thấy ông Khuông C phó quấn băng ở tay lò dò mò về.
Ông này vẫn hay bị lính cho là nhát. Thực sự chúng tôi rất khinh thường những
vị chỉ huy hèn nhát. Giữa trận tiền, sự mất bình tĩnh của họ sẽ đưa binh lính
vào chỗ chết. Tiếng súng tiếp tục nổ liên hồi. Tôi nhìn ra bãi cát xa xa, thấy
một xác xe tăng cháy đen thui. Khói xám cuồn cuộn bốc lên ở phía đồi Cây Ba
Chạc. Anh Thanh B trưởng vào ở cùng hầm với tiểu đội tôi. Tôi nhặt được cái bật
lửa lẫn trong cát ở đáy hầm, anh mượn luôn. Anh là vua thuốc lào mà. Thỉnh thoảng
lại có người đi qua, rẽ vào hầm xin một điếu thuốc lào.
Tôi mò sang hầm Lâm Thành ngồi chơi. Lâm Thành mới
được điều lên làm liên lạc cho anh Hưởng, Chính trị viên phó C11. Thực ra đó là
một dạng cần vụ điếu đóm cho các sếp, nhưng cậu ta chẳng biết làm gì cả. Thậm
chí nhiều lúc anh Hưởng còn phải nấu cơm cho cậu ta ăn. Tuy nhiên đối với bạn
bè chí cốt từ hồi huấn luyện thì cậu ta cực tốt. Lâm Thành kiếm được cho tôi
cái bi-đông kèm ca-bô làm bát ăn cơm. Phía trước hầm, Đại đội trưởng Hộ đang
hỏi chuyện một cậu liên lạc tiểu đoàn về tình hình tuyến trên. Cậu này nói ta
đã chiếm được Cây Ba Chạc rồi, và đưa ra khoe chiến lợi phẩm là mấy hộp thịt
nhỏ. Lính ta trên ấy còn kiếm được nhiều thuốc lá, cà phê bột và võng dù lắm.
Mặc dù như vậy là vi phạm chính sách, nhưng anh Hộ vẫn cười độ lượng. Anh sẵn
sàng tha thứ cho binh lính mấy vụ này, miễn là họ đánh thắng.
Tôi được giao nhiệm vụ cùng một người
nữa lên chốt tuyến trên gặp anh Căn, Quyền Tiểu đoàn trưởng để báo cáo tình
hình C11. Hai đứa cứ lần theo đường dây thông tin hữu tuyến, đi dọc theo mọt
doi cát dài, bên trên có những gò đống lổn nhổn và những cây chổi xể nhỏ. Đã
nhìn thấy rõ cái xác xe tăng M41 của địch sơn rằn ri xanh nâu, hình như nó bị
hỏng máy chứ không phải bị bắn cháy. Phải hỏi đường mấy cái hầm du kích đóng
gần đó mới tìm được hầm anh Căn. Xong việc quay về, cả lũ chui vào hầm ngủ
trưa. Say sưa thế nào mà lúc dậy mới thấy mất cái võng dù của anh Thanh. Cái
võng dù màu xanh lá mạ rất đẹp, tiêu chuẩn của cán bộ Trung đội, tiếc quá. Chắc
lại ông tướng nào vào xin thuốc lào, thấy cả lũ ngủ say nên thó mất rồi.
Chiều muộn, C11 được lệnh đi lên chốt tuyến trên.
Chúng tôi đã di chuyển theo đội hình rất thưa, vậy mà hình như vẫn bị địch phát
hiện. Chúng pháo kích liên tục, cứ hai quả một bay đến, rít lên man rợ. Cả bọn
đành phải chúi vào những hố đạn ở ven đường, đợi pháo chuyển làn thì lại tiến.
Phía trước mặt đạn pháo vẫn nổ không ngừng, khói xám mù mịt, mảnh bay vù vù.
Rồi chúng tôi cũng mò được lên đến chốt tuyến 2 và tản vào các hầm quanh đấy. A
tôi ở cùng hầm với Lâm Thành. Mỗi lần địch pháo kích, tôi để ý thấy Lâm Thành
thường ngồi ra phía ngoài, xoay lưng chắn cửa hầm. Tôi hỏi thì Lâm Thành nói:
“Nếu mảnh bay vào, tao sẽ bị, chúng mày không bị...”. Chính con cứ băn khoăn vì
phải nhận khẩu súng gỉ ngoèn. Lâm Thành nói: “Gần đây có hầm của bọn công binh.
Tao thấy ngoài cửa hầm có khẩu AK “mẻ nòng” mới
lắm...”. Thế là Chính con bò ra, và chỉ 1 lúc sau đã đem về khẩu “mẻ nòng” mới
cứng. Cậu ta chỉ vào cái ốp che tay nói với tôi: “Bọn này khôn thật, nó đẽo vào
chỗ gỗ này để đánh dấu đấy”, và cười rất khoái chí về vụ tráo súng trót lọt.
Quả thật, sắp vào trận mà có khẩu súng tốt cũng yên tâm hẳn.
Mỗi lần địch pháo kích, Lâm Thành
thường ngồi ra phía ngoài, xoay lưng chắn cửa hầm: “Nếu mảnh bay vào, tao sẽ
bị, chúng mày không bị...”...
Có lệnh vận động tiếp. Dưới ánh trăng
vàng vọt, chúng tôi chạy dọc một bên doi cát, rồi vòng qua một hố bom to. Chợt
gặp Nhuận “Nhà báo” đi ngược lại. Hắn nói hổn hển: “Gay lắm Vinh ạ. Cẩn thận
nhé...”, rồi hối hả chạy biến. Sau này mới biết, từ tối hôm đó hắn chuồn thẳng
ra Bắc. Năm 1980, có lần gặp nhau ở Hà Nội, hắn giơ tay định bắt, nhưng tôi
ngoảnh mặt làm ngơ, bỏ đi không nói một lời. Đến tận bây giờ tôi vẫn không thể
tha thứ được cho những kẻ đào ngũ... Chúng tôi đã lên đến chốt tuyến 1 của ta.
Mấy cậu lính C9 đang ngồi dọc chiến hào. Trong cái hầm gần đấy có một tổ DKZ82
của E64. Chợt cậu Đoàn C9 cất tiếng gọi tôi. Đoàn nói tình hình căng lắm, sáng
nay C9 lại bị địch đánh bật xuống một đoạn. Xác anh Cơ, A trưởng của Đoàn, còn
nằm trên đó chưa lấy được....
Trung đội tôi nhận nhiệm vụ: bò lên đoạn hào ta mới
chiếm lại và đóng chốt ở đó. Chỉ có điều từ đây lên đó không có hào nối, mà
phải bò trên mặt đất. Tôi ló đầu nhìn sang phía địch. Trong màn đêm chỉ nhìn
thấy những bụi cây đen sì, huyền bí và nguy hiểm. Chúng tôi bắt đầu trườn lên
mặt hào và bò đi. Cát trắng quá, có cảm giác những bóng đen đang bò hiện rõ mồn
một, chỉ sợ bị một phát đạn vào lưng. Bây giờ mà địch pháo kích đến thì chỉ có
chết. Chúng tôi vẫn tiếp tục bò. Rồi cũng đến được đoạn hào nông choèn của
địch, tất cả trườn xuống nằm thở. Dọc con hào này, bên phải là một doi cát, bên
trái là một lạch nước. Sườn doi cát có nhiều hố chiến đấu do lính địch khoét
vào, nhiều hố đã sụt lở.
Lúc nãy mấy cậu C9 dặn chỉ bò đến cái xác cụt nửa
người thôi, và nhờ chôn anh Cơ hộ. Trong 1 cái hố đổ nát tôi thấy có mấy tờ bản
đồ chiến thuật của địch, giấy in rất đẹp. Ngoài ra còn có hai khung balô ngụy
và vài cái xẻng gập. Tôi lấy một cái để dùng. Tất cả hùng hục đào một con hào nối
chúng tôi với tuyến sau, sâu đến đầu gối. Thế là có đường liên lạc yên tâm rồi,
khỏi phải phơi lưng trên mặt đất. Lúc đang đào thấy nói anh Tin, A trưởng A6,
sục phải xác một tên địch. Trường “Khâm Thiên” A6 và Minh A trưởng A5 đã chuồn
từ hôm qua.
Anh Thanh chỉ định tôi bò lên đoạn hào trên cùng,
gần địch nhất. Tôi thấy hơi bất bình, nhưng nghĩ đi nghĩ lại trong B chỉ có tôi
là được anh tin tưởng nhất, nên vẫn chấp hành. Mùi hôi thối nồng nặc khắp nơi.
Tôi cứ lặng lẽ trườn theo con hào. Tới một chỗ bỗng nhiên thấy nó phình to ra.
Xung quanh vứt lổn nhổn những xanh-tuya ngụy ngoắc đầy bao đạn, bi-đông Mỹ, mũ
sắt bọc vải rằn ri, nồi quân dụng, hộp ghi-gô.... cùng mấy thùng lựu đạn mỏ
vịt. Cạnh đó là một cái hố chiến đấu sụt lở, có đá hộc xếp bên ngoài. Tôi nghĩ
bụng: “Hay quá. Sẵn hố này ta chỉ cần cải tạo thêm một tí là xong”, rồi hăm hở
nhảy vào ấn xẻng đào. Nhưng sao thế này? Xẻng không thể nào ấn sâu được, cứ như
đâm vào cao su. Tôi thọc tay xuống theo vết xẻng, thì trời ơi, sờ trúng vào cái
khuy ngực của 1 chiếc áo ướt nhớp nháp. Một mùi thối hoắc xông lên, xác của 1
tên địch đang trương...
Tôi hoảng hốt
nhảy ra, xúc mấy xẻng cát hất vào lấp hố. Đành phải tìm chỗ khác đào vậy. Tôi
quyết định đào hố giữa lòng hào cho dễ. Nhưng chợt nghĩ, nếu đang mải đào mà
địch bí mật bò sang tập kích thì sao? Bèn nghĩ ra
1 kế: bò lên xa nữa, chọn 1 khúc hào ngoặt, bẻ 1 cành
cây cắm cái mũ cối lên, tháo chiếc khăn dù choàng quanh cho giống người. Nếu có
tên địch nào bò từ phía đối diện sang, đến khúc ngoặt này nhìn thấy bóng người
hẳn nó chết khiếp. Nếu mà nó bắn, thì chỉ có cái mũ hứng đạn, còn tôi sẽ kịp
thời đối phó. Đắc chí với cái kế đó, tôi trườn về hăm hở đào tiếp. Khi hố đã
sâu đến đầu gối, thì hỡi ôi đáy hào rỉ nước, và nước càng ngày càng nhiều. Thật
ngu ngốc mà quên mất rằng: cạnh hào là 1 lạch nước. Vừa mệt, vừa chán nản, nhìn
lên bầu trời thấy sao tua rua đã gần lặn, tôi biết là sắp sáng. Làm thế nào bây
giờ? Không có hố trú thân mà địch pháo đến thì chỉ có chết. Vừa lúc đó Chính
con đã đào xong hố của mình, bò lên giúp tôi. Hai đứa hùng hục khoét vào sườn
doi cát, chỉ 1 lúc đã xong. Rồi cả hai bò lên phía trước, vơ những khẩu M72 đem
về làm nóc hầm.
Ở
mỗi hố chiến đấu của địch đều có vài khẩu súng chống tăng M72, trông như những
khúc tre dài khoảng 0,6m, khẩu đã bắn rồi thì rỗng tuếch, khẩu chưa bắn thì còn
cả quả đạn trong nòng. Chúng tôi ôm tất về, đặt lên nóc hố. Tôi lấy cái chăn
sợi vẫn quấn quanh người phủ lên rồi lấp cát lại. Xong việc,
2
đứa chui vào
hầm ngủ mê mệt. Sáng bảnh chúng tôi mới thức dậy. Ban ngày bọn địch ít ngo
ngoe, vì chúng sợ các các cây súng bắn tỉa của quân ta từ phía sau bắn tới.
Trong các trận chiến đóng chốt giằng co như thế này, thì các xạ thủ bắn tỉa Bắc
Việt cực kỳ lợi hại. Họ đã gây ra rất nhiều thiệt hại cho địch, từ thời Điện
Biên Phủ xa xưa, qua Thành cổ vừa rồi, và cả bây giờ nữa. Hễ tên địch nào bất
cẩn khi di chuyển hoặc nhô đầu lên hơi cao là đi tong ngay. Bên địch hầu như
không có súng bắn tỉa. Chính con cằn nhằn vì tôi đã đem cái chăn sợi phủ lên
rồi lấp cát làm nắp hầm mất rồi. Đêm qua hơi lạnh mà cả hai đứa không có gì
đắp.
Đến trưa thì anh Thanh gọi sang ăn cơm. Tối qua anh
ngủ cùng hầm với Bích. Tuyến dưới vừa tiếp tế lên cơm nắm cùng một ít thịt bò
kho với ớt khô, sang quá. Thì ra hôm nay là 22-12, Ngày Thành lập Quân đội NDVN.
Mấy hôm trước chúng tôi còn mơ tưởng sẽ được ra hậu cứ nghỉ ngơi, rồi cùng đơn
vị đón Danh hiệu Anh hùng vào dịp này. Đúng là mơ hão. Chúng tôi đang đói nên
ăn rất ngon, mặc dù cơm trộn cát nhai lạo xạo. Cậu Trường “Khâm Thiên” A6 và
Minh A trưởng A5 cũng vừa bị tuyến dưới lôi lên đây. Định trốn mà đâu có thoát.
Sao tôi ghét mấy thằng hèn nhát thế.
Ăn cơm xong
tôi và Chính con đi lượm lựu đạn mỏ vịt nằm rải rác rất nhiều quanh đó, đem về
chất đống cạnh hố chiến đấu. Rồi cả hai tiếp tục sục sạo tìm cơm sấy, đồ hộp
cùng các thứ linh tinh khác của địch. Mùi hôi thối khăn khẳn khắp nơi. Không
chỉ do xác chết, mà còn do các hộp thịt bị mảnh đạn găm thủng làm thối. Nhưng
chúng tôi mặc kệ, cứ tìm đến những hố chiến đấu cũ của địch, thọc tay xuống cát
đào bới. Vớ được mấy hộp thịt và vài gói cơm sấy, hai đứa đem về hầm ngồi chén.
Hầm rất chật, chúng tôi như hai con ếch ngồi đáy giếng, đầu gối chạm nhau đau
cứng, nhưng quai hàm thì vẫn nhai đều. Thịt bò hộp của bọn nó nhạt phèo, ăn
ngầy ngậy, hình như được kho bằng dầu ô-liu. Gà hộp thì thịt ăn rất bã. Còn cơm
sấy cứ bốc hạt khô như thế bỏ vào mồm, nhai thấy bùi bùi. Ăn xong nghỉ ngơi một
hồi rồi lại đi sục. Tới chỗ đoạn hào phình to hôm qua, tôi định lựa xem cái
xanh-tuy nào còn mới thì lấy dùng. Nhưng tất cả đều đã cũ và nặng chịch vì được
gắn đầy đủ lệ bộ gồm hai bao đạn, bi-đông, quai đeo....................................................................
Đúng là thằng lính địch nó quẳng được cái này đi
cũng nhẹ cả người. Và tất cả đều rất hôi, mùi hôi đặc biệt của lính địch. Chán
nản quá tôi đã định bỏ đi, thì chợt thấy chỗ đáy hào sát doi cát có một đoạn
dây da đen đen. Khi tôi rút lên thì hóa ra là 1 cái đồng hồ mặt vuông. Mừng rỡ,
tôi gọi “Chính!
Chính! Tao bắt được một cái đồng hồ
này!”. Chiếc đồng hồ này có cả lịch, nhưng chết đã lâu. Hai đứa đem về hầm ngắm
nghía, và đều vui mừng vì từ nay có đồng hồ để xem giờ đổi gác. Nhưng Chính con
là người hay tí toáy. Cậu ta đem con dao nhíp có từ hồi huấn luyện ra hí hoáy
tháo nghịch, làm rơi mất một con ốc. Tôi đành phải bỏ chiếc đồng hồ vào túi áo
ngực và cài cúc lại. Buổi trưa bọn địch bắt đầu pháo kích. Những quả đạn rít
lên man rợ trước khi lao xuống nổ. Tôi và Chính ngồi rúm người trong cái hố bé
nhỏ, chỉ lo nhỡ có quả nào rơi trúng hố thì toi đặc. Cát rơi rào rào xuống đầu
xuống cổ, mảnh đạn văng khắp nơi, cắm lịch xịch trên nóc hố. Dứt đợt pháo kích,
hai đứa chui ra củng cố lại hầm hố, đắp thêm cát lên cho dày.
Buổi chiều chúng tôi lại bò đi sục sạo kiếm ăn.
Nắng vàng đẹp. Chiếc máy bay do thám OV-10 vẫn hát điệu o...o...o muôn thuở.
Hai đứa chợt nhìn thấy sát mép lạch nước có một cái túi dết rằn ri căng phồng.
Chính muốn xuống lấy ngay, nhưng tôi muốn ngăn lại vì rất nguy hiểm: phải bò
lên khỏi hào rồi trườn xuống mép nước giữa ban ngày. Tuy nhiên chưa kịp nói gì
thì Chính đã nhanh nhẹn trườn lên, lăn mình chộp lấy cái túi và thoắt cái đã
lăn lại xuống hào. Hai đứa hăm hở mở túi ra. Trong đó có 1 cái chăn dù thám báo
ruột bằng sợi tổng hợp rất nhẹ và ấm, một cái võng dù thủng lỗ chỗ, mấy cái ảnh
đầm khỏa thân, một số ảnh kỷ niệm gia đình cùng thư từ....
Ngoài ra còn có bông băng, kim chỉ và một phù hiệu
Thủy quân lục chiến rất đẹp. Khi trở về hai đứa quyết định sửa lại cái hầm của
Chính để dùng chung. Chúng tôi đào mở rộng ra, xếp đá xung quanh, lát nóc bằng
súng M72, lấy võng dù ngụy phủ lên rồi lấp cát lại. Bây giờ thì thoải mái rồi.
Tôi đi lột cái chăn sợi ở hầm cũ của tôi về để đến đêm hai đứa đắp chung.
Ăn cơm tối xong, anh Thanh phân công tôi gác từ 20h
đến 21h30. Đêm trăng mờ mờ. Tôi bò vào một ngách hào, ló đầu nhìn sang phía
địch. Khoảng cách hai bên khá gần, chừng 50m chứ mấy, chúng nói to là có thể
nghe thấy. Nhưng chỉ thấy những ụ cát im lìm. Phải nói hai ngày nay chúng tôi
gặp may, vì không phải chiến đấu. Chắc sau những trận giao tranh dữ dội giữa
Tiểu đoàn 2 E48 và C9 D3 E48 của ta với Tiểu đoàn 4 “Kình ngư” của Thủy quân
lục chiến, cả hai bên đều đã thấm mệt.
Lúc chiều thấy địch bắn pháo khói nhiều, che phủ
khắp trận địa. Hình như chúng đã đưa Tiểu đoàn 2 “Trâu điên” vào thay Tiểu đoàn
4. Bọn này C tôi đã đụng hồi ở Làng 8, Tám Cát rồi. Phù hiệu trên vai của chúng
có cái đầu trâu há mồm đỏ lòm trông rất ngộ. Thỉnh thoảng chúng lại câu sang
mấy quả M79. Ta đáp trả bằng mấy phát DKZ82.
Màn đêm tịch mịch, nhưng tôi vẫn sợ bị địch tập
kích bất ngờ. Bèn dùng lại sáng kiến hôm qua: bò lên phía trước, nhìn ngược lại
vị trí của mình, xem chỗ nào đập vào mắt nhất thì đặt “bù nhìn” vào đó. Để làm
“bù nhìn”, tôi lật sấp cái nồi quân dụng, bên trên đặt hộp ghi-gô, rồi chụp cái
mũ sắt lên. Trông xa cứ như một người đang nhô vai lên quan sát. Ít nhất thì
cũng làm chậm được bước tiến của địch. Khoảng 5h sáng, trời còn sương mù, chợt
nghe tiếng lao xao ngoài hào. Tôi ngó ra thì thấy B trưởng Thanh, C trưởng Hộ
và D trưởng Tùng đang đứng ngoài đó. Tiểu đoàn trưởng Tùng nhặt mấy quả lựu đạn
mỏ vịt còn lăn lóc xung quanh, nhắc chúng tôi gom lại để dùng. Có những Tiểu
đoàn trưởng sâu sát như thế thật yên tâm, vì đây là vị trí gần địch nhất của cả
Tiểu đoàn.
Trời sáng rõ, có tiếng máy bay ầm ĩ lượn vòng. Một
chiếc A37 đang ném bom ngoài bãi cát. Không hiểu nó nhìn thấy cái gì ở ngoài ấy.
Cánh nó bằng, đuôi nó cúp, cứ mỗi lần bổ nhào chỉ ném đúng một quả. Nhiều lúc
không nhìn rõ mục tiêu, nó bay thấp hẳn xuống dưới trần mây để quan sát, rồi
vòng sau mới cắt bom.
Đến trưa, Chính con bỗng nảy ra ý định
bò sang trận địa của địch chơi. Tôi đã cản, nhưng cậu ta không nghe, cứ bò đi
một mình. Đang lo thắc thỏm thì chợt phía bên địch tiếng súng rộ lên. Mấy quả
M79 bay đến nổ gần hầm làm tôi phải thụt vào, nhưng vẫn nhìn ra đoạn hào dẫn
sang phía địch. Một lúc sau mới thấy Chính con mặt mày tái mét mò về. Hú vía,
suýt nữa thì cậu ta toi mạng oan...
Buổi chiều hai đứa ngồi xem mấy chiếc F4 thay nhau
oanh tạc mạn Tường Vân, Làng 9. Khói đen xám mù mịt bốc lên sau những tiếng nổ
rền. Bỗng một loạt pháo lao đến nổ rung chuyển căn hầm, làm chúng tôi rúm cả vó
lại. Phải nói bọn pháo binh địch bắn cũng khá thật. Từ hầm ta sang hầm chúng nó
chỉ mấy chục mét thôi, mà không quả nào rơi sang bên đó cả. Tiếng rít của những
quả pháo đang lao xuống đầu bạn là đòn tâm lý ghê rợn nhất. Nó rít lên, rít lên
như một mũi khoan sắc lạnh, xoáy sâu vào thần kinh và cân não. Nó làm tóc gáy
phải dựng ngược lên, quả tim ngừng đập và lồng ngực ngừng thở. Cho đến khi nghe
tiếng nổ rung hầm, cát bụi rơi lả tả, khói xám xộc vào, mới cảm thấy hơi nhẹ
nhõm, thì quả pháo sau đã lại rít lên rồi... Cho nên tôi rất hiểu chuyện lính
ta tóm được thằng pháo binh địch nào cũng bắn ngay tại chỗ!....
Chiều tà. Đang ngồi nói chuyện với anh Tài, B phó
người Thanh Hóa, chợt nghe tiếng nổ “ Ụp...oành”. Nhìn ra bãi cát, một quả DKZ
đỏ lừ như con chuột lửa chạy vút ra xa mãi. Chắc tổ DKZ82 của E64 phát hiện
được mục tiêu nào đó. Anh Tài có hai má bầu như con gái, là con một trong một
gia đình nông dân. Tính anh khô khan, nói năng lúng búng, nên không được anh em
trong trung đội quý mến lắm. Nhưng sau này khi tôi bị thương, chính anh là
người đã cõng tôi đang mê man về tuyến sau. Anh hy sinh trong trận ngày
1701-1973, bị trúng một viên đạn lòi ruột. Người ta đưa anh vào một chiếc hầm,
vì đang đánh nhau dữ dội, không thể chuyển về phía sau được. Anh ngồi trong hầm
rên rỉ, nói lảm nhảm một lúc rồi chết... Anh chết khi 10 ngày sau, Hiệp định
Pa-ri lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết!
Sẩm tối, sau khi ăn mấy nắm cơm lấm cát, tôi, anh
Thanh và Bích ra ngồi sau một ụ cát nhỏ, cùng quan sát được. Bỗng một quả pháo
lao vèo đến nổ oành bên kia ụ cát. Cả bọn bị điếc đặc, hoảng quá chui tọt vào
hầm. Rất may là không ai bị sao cả. Khi trời đã nhập nhoạng, tôi quyết định bò
theo đường hào dẫn sang phía địch để do thám. Tay nắm chắc quả lựu đạn mỏ vịt,
tôi lặng lẽ trườn đi. Nhiều đoạn hào đã bị cát lấp hoàn toàn, khi bò hầu như
phải phơi lưng trên mặt đất, kiểu này dễ bị lộ lắm. Trăng đã lên, khá sáng.
Đồng cát sương phủ mờ mờ. Lợi dụng những vệt tối giữa các đoạn hào, tôi vẫn
tiếp tục trườn đi. Dấu vết của những trận tập kích trước đây do D2 và C9 thực
hiện càng lúc càng thấy rõ. Ba-lô, súng RPD, AK, M16, M72... cùng đạn dược vứt
lỏng chỏng dọc các đoạn hào. Thỉnh thoảng tôi lại ngóc đầu nhìn sang phía địch.
Không thấy động tĩnh gì, lại bò tiếp. Chợt thấy một đống đen đen lù lù chắn đáy
hào trước mặt. Người à? Không phải.
Tôi trườn đến gần hơn và căng mắt nhìn. Thì ra là
đống lòng ruột, dạ dày, thậm chí còn thấy cả những đường gân máu trên cái dạ
dày. Khi tôi ngóc cổ cao hơn còn thấy hai cái chân hất về phía trước. Tôi hiểu
ngay đây là một cái xác bị bay mất nửa trên, chỉ còn từ phần bụng trở xuống.
Đang vội vã bò lùi, thì khuỷu tay phải chợt chạm vào một vật gì cưng cứng. Nhìn
sang, chỉ thấy hai bàn chân đi tất thò ra từ dưới một cái võng đắp. Tất này thì
chỉ có quân ta thôi: dài đến đầu gối, mầu rêu, chỗ lòng bàn chân màu vàng. Chắc
hẳn đây là xác anh Cơ như bọn C9 đã nói, cũng phải 3-4 ngày rồi, mà sao không
thấy thối. Tôi càng bò lùi nhanh hơn nữa. Nhưng chỉ cách chỗ đó chừng 7-8 mét,
tôi đã đàng hoàng ngồi dậy, lục lọi mấy cái ba-lô vứt trỏng trơ quanh đó, xem
có thứ gì ăn được không. Thực sự lúc ấy tôi không thấy sợ, vì biết đâu chỉ vài
phút nữa chính tôi cũng sẽ nằm chết như vậy. Kiếm được một gói gạo rang, một
gói muối và một cái màn vải. Được đấy, cái màn vải có thể dùng đắp thêm vào
chăn cho ấm.
Tôi lầm rầm khấn: “Thôi, các đồng chí ơi, các đồng
chí đã hy sinh, thì để những thứ này cho chúng tôi dùng, để chúng tôi có sức
chiến đấu trả thù cho các đồng chí...”. Rồi đem theo những thứ đó lặng lẽ bò
về.
Trời tối đã lâu. Tôi ngồi trong hầm nhìn hỏa châu
rơi. Đây là loại pháo sáng được bắn bằng súng cối của địch. Quả đạn lên đến một
tầm cao nhất định sẽ phát nổ. Đầu đạn tỏa ra thứ ánh sáng rực rỡ, được treo
dưới một cái dù nhỏ làm chậm tốc độ rơi, vừa rơi nó vừa cháy xèo xèo và kéo
theo một đuôi khói trắng. Đuôi đạn văng ra quay lộn trong không khí gây nên
tiếng kêu “Kút...kút...kút...” rất kỳ lạ. Cứ quả này tắt thì địch lại bắn quả
khác. Đêm khuy thanh vắng, nhìn ánh sáng vàng vọt cùng tiếng kêu ma quái, sao
thấy rùng rợn quá. Trong màn sương mờ tôi chợt có cảm tưởng ai đó đang di
chuyển ở bên kia lạch nước. Vội bò ra khỏi hầm căng mắt nhìn, thì thấy Bích
cũng đang nằm nép vào mép hào quan sát. Đúng là có tiếng người thì thầm trao
đổi cùng tiếng chân lội nước bì bõm. Hai đứa định vào báo cáo anh Thanh, vừa
lúc anh cũng bò đến. “Có lệnh rút ngay”, anh nói khẽ, “C10 sẽ lên thay chúng
ta...”. (Hôm sau nghe nói C10 đã nổ súng vào đám người bên kia lạch nước. Hóa
ra là một tổ trinh sát của Tiểu đoàn 1, E48. Có thương vong thì phải...).
Chúng tôi nhanh chóng khoác súng và bò lui về chốt
tuyến 1, rồi chạy dọc doi cát về chốt tuyến 2. Tiểu đội tôi cùng anh Thanh ở
cùng một hầm, chính là cái hầm của anh Căn, D phó hôm nọ. Cả bọn nằm chen chúc
rồi cùng chìm vào giấc ngủ mê mệt. Khu vực chốt tuyến 2 này có mấy hầm ở gần
nhau. Cách chúng tôi 15m là hầm A6. Cạnh đấy là hầm của tổ du kích trước đây,
bây giờ bốn cậu lính thông tin E64 đóng trong đó. Đối diện chúng tôi khoảng 10m
là hầm của tổ DKZ82 thuộc E64. Tôi nhìn ra cái xác xe tăng M41 ngoài bãi cát,
thấp thoáng mấy bóng lính ta đang bò quanh nó. Mấy cậu này mạo hiểm thật, pháo
kích mà đến thì chỉ có chết.
Một lúc sau thấy Long cồ và hai cậu trinh sát tiểu
đoàn bò vào. Hóa ra hầm của Trung đội trinh sát D3 cũng ở gần đây. Tôi hỏi Long
cồ “Có tìm được gì ở trong xe không?”. Long cồ cười “Chẳng có gì cả. Nhặt được
mấy cái bật lửa Zippo thôi...”. Đến trưa cả bọn phải đi kiếm củi về nấu ăn. Tôi
chạy ra khá xa, qua mấy cái hố bom, qua cả hầm Trinh sát pháo binh, thấy một lô
đạn súng cối nằm chất đống. Nhưng cái tôi cần là liều phóng để đốt bếp hoặc củi
khô cơ. Không tìm được những thứ đó, đành vơ ít củi ướt đem về phơi trên nóc
hầm vậy.
Anh Tài đã gùi về một ba-lô gạo, cộng thêm gói muối
tôi kiếm được tối qua, vậy là vấn đề lương thực đã được giải quyết. Pháo địch
vẫn bắn rải rác dọc tuyến đường từ hậu cứ lên chốt.
Khoảng 4h chiều một chiếc L19 è è bay qua. Loại này
chuyên môn vạch đường cho B52 rải thảm, thường chỉ bay theo một đường thẳng.
Một lúc sau nghe tiếng nó quay về. Không hiểu mấy cậu Thông tin E64 nấu nướng
ra sao để khói bay lên, nó nhìn thấy được bèn bổ nhào xuống luôn. Lúc ấy chúng
tôi đang ngồi trong hầm, chợt nghe tiếng máy bay rú và tiếng bom rít trên đầu.
Cả lũ sợ rúm vó: “Chết này... Nó trúng mình này... Chết này...”. Bom nổ làm
chúng tôi điếc đặc, hơi bom phần phật thổi vào hầm cùng khói đen xịt. Nào đã
hết đâu, nó quay vòng lại bổ nhào thả tiếp quả thứ 2. Cả đời không thể nào quên
được tiếng gào rú của máy bay và tiếng rít ghê rợn của quả bom đang lao thẳng xuống
đầu mình. Lại hơi bom phần phật, lại khói xộc vào đen xịt. May mà thằng L19 này
chỉ mang được 2 quả bom loại 50kg.
Một lúc thấy yên yên, anh Thanh bò ra xem xét tình
hình rồi quay lại gọi: “Tất cả ra nhanh lên... Cầm xẻng theo!”. Chúng tôi vớ
xẻng lao ra ngoài. Cảnh tượng thật tang thương. Cái hầm của Tổ Thông tin E64 bị
sập thành một đống, còn nghe tiếng rên rỉ trong đó. Chúng tôi hối hả đào bới,
cả A6 cũng lao đến giúp. Thế mà mấy cậu DKZ E64 không thằng nào thò mặt ra,
thật quá tồi tệ. Chúng tôi khẩn trương bóc lớp tôn lát ngoài rồi phá sườn hầm
thành một lỗ hổng. Bích là người đầu tiên nhảy vào. Một mùi khét kinh khủng bốc
ra, giống mùi chó thui. Mùi khét của tóc cháy và da người cháy. Mặt mũi Bích đỏ
gay, ra sức bới cát dưới đầu một anh bị kèo hầm đè lên cổ.
Chúng tôi chật vật lắm mới lôi hết được bốn người
ra. Cả bốn người đều bị cháy hết lông mày, khuôn mặt bị lột đi lớp da ngoài trở
thành đỏ hỏn. Máu mồm, máu mũi trào ra, cát dính vào thành từng đám lem nhem.
Mắt ai cũng lờ đờ, quần áo rách bươm. Lúc này mấy cậu E64 mới mò tới, cùng
chúng tôi xốc nách các nạn nhân ra chỗ thoáng hơn nằm. Cậu Y tá tiêm thuốc hồi
sinh cấp cứu cho họ. Nhìn một chiến sĩ nằm ngay ở cửa hầm, đang thở kho khe một
cách nặng nhọc, quần áo như mớ giẻ rách, tôi biết cậu này khó mà qua khỏi. Một
lúc sau thì cậu ta chết. Thế là tổng cộng hai người chết. Còn hai người bị
thương được khiêng đi viện.
24-12-1972. Noel. “Hôm nay sẽ
ngừng bắn đấy”, anh Thanh nói. Tôi nửa tin nửa ngờ, chắc gì bọn địch đã tuân
thủ. Thế mà đúng 6h chiều, bỗng nhiên tất cả các loại súng im hẳn. Không tiếng
bom, không tiếng pháo, kể cả pháo biển. Chúng tôi chui ra khỏi các hầm hố, vươn
vai đi lại khoan khoái. Lần đầu tiên trên chốt được đi ỉa một cách thoải mái.
Mọi hôm phải đào hố mèo ngay cạnh hầm, đi xong lấp lại, mà vẫn nơm nớp lo sợ bị
pháo kích bất ngờ, không kịp chui vào hầm. Trời tối hẳn, thấy có bóng người
đang đào gì lịch kịch. Thì ra Long cồ đang đào một con hào cắt ngang qua doi
cát, tôi và anh Thanh bèn xách xẻng ra đào giúp. Con hào này sẽ giúp chúng tôi
khỏi phải phơi lưng trên mặt đất mỗi khi vượt qua doi cát. Tự nhiên thấy nhớ Hà
Nội quá. Không biết Noel này Hà Nội ra sao, trước cửa Nhà thờ Lớn phố Nhà Chung
còn đèn hoa rực rỡ nữa không? Nghe nói bọn Mỹ đem B52 đánh bom Hà Nội. Thật đau
xót quá. Nếu còn sống mà về được, chắc Hà Nội chỉ còn đống gạch vụn. Hãy xem
B52 rải thảm ở Quảng Trị khủng khiếp như thế nào. Liệu gia đình mình có bị sao
không?
Phía bên địch, bọn chúng đón Noel bằng những loạt
hỏa châu. Những quả cối sáng đủ màu: hồng, vàng, xanh lá mạ... lấp lánh chi
chít trên nền trời đen. Còn phía bên ta thì chỉ có đạn lửa. Lính ta ngồi dưới
chiến hào, chĩa súng AK lên trời nghiến răng siết cò bắn từng tràng đạn lửa.
Những nụ cười ngây thơ, những cặp mắt vui sướng của các chàng lính trẻ đang dõi
theo hàng ngàn viên đạn đỏ lừ như đàn châu châu chấu lửa bay ngang dọc khắp
trời.... Mấy đứa rủ nhau tụ họp ở hầm tôi ngồi nói chuyện. Cả anh Tin A trưởng
A6 cũng bò sang. Dạo này anh có vẻ quan tâm đến tôi tợn, hầu như tối nào cũng
sang hỏi đủ thứ chuyện. Ở mặt trận mà được ngày ngừng bắn thích thật. Có lẽ đến
hơn tháng nay tôi mới lại đi tắm. Thoải mái ra gần cái xe tăng cháy, chọn một
hố bom nước trong vắt, hụp người xuống kỳ cọ. Sau đó tha thẩn đi chơi, nhặt
được một cái dù pháo sáng mang về cho Chính con làm khăn quàng cổ. Chính con
đem phơi ở bụi cây cạnh hầm, lúc sau ngó ra thì cái dù đã biến mất. Thật chán
mớ đời!
Chợt thấy lính ta reo hò, tôi quay lại nhìn. Thì ra
ông Vượng, Chính trị viên Tiểu đoàn, đang lò dò lên chốt. Tôi cười mỉm, nghĩ
bụng: “Ngày ngừng bắn có khác...”. Nhiều người lính D3 cũng đang cười mỉm đứng
nhìn. Trong thâm tâm, họ rất ghét những sĩ quan hèn nhát, lúc đạn bom thì chẳng
bao giờ lên chốt. Thế mà ông ta đi đến đâu cũng vẫy vẫy, làm bộ mỉm cười, ra vẻ
quan tâm đến lính tráng lắm. Nhìn sang phía địch, thấy bọn nó đi lại cũng có vẻ
thoải mái. Ở một vài chỗ thậm chí lính ta và lính nó còn hỏi chuyện nhau. Bọn
nó ném cơm sấy thịt hộp cho ta, ta ném lương khô 701 cho nó. Nhiều đứa chẳng
qua là nông dân chất phác, bị bắt đi quân dịch, và chẳng hiểu gì về chính sách
của ta cả. Thậm chí còn bị nhồi sọ rằng họ “chiến đấu để chống lại “Việt cộng”
là tay sai của “Tàu cộng” vô xâm lược Miền Nam”!?....
Có chút thời giờ rảnh rỗi tôi thường qua hầm Long
cồ chơi. Biết tôi bị mất hết quần áo, Long cồ cho tôi một cái áo ga-ba-đin mới.
Tôi bèn cởi béng cái áo phin cộc tay đang mặc bên trong vứt đi, vì nó hôi quá
rồi và cũng không có điều kiện để giặt nữa. Gia tài bây giờ có hai cái áo dài
tay tôi mặc tất lên người, vì trời cũng bắt đầu lạnh rồi. Buổi tối hôm ấy có
lệnh chuẩn bị đi tập kích, nhưng cuối cùng lại hoãn. Khoảng hơn 18h, hết hạn
ngừng bắn, pháo địch từ Làng 5 lại bắt đầu phát hỏa. Tiếng đề-pa “Tùng... tùng
tùng...tùng”, pháo dàn rồi. “Viu... viu viu... viu” “Oành... oành oành... oành”...
Hàng loạt cột lửa màu da cam dựng lên ở phía Làng 9. Gần hầm DKZ của E64 có một
tốp chiến sĩ đang đào hầm mới, dựng kèo và sườn bằng tre. Tôi lại gần xem, thì
ra là lính Tiểu đoàn 1, E48, trong đó có cả Khuê (anh của Đệ, cùng A huấn luyện
với tôi. Đệ đã đào ngũ). Khuê đang cùng một cậu tên Tập, cũng lính Hà Nội, dùng
xẻng lấp cát lên hầm. Khuê cho biết một số bạn cùng C49 huấn luyện đã chết, và
Khuê đang định đào ngũ. Tôi phải về ăn cơm, lúc sau quay lại thì ở đó vừa bị
trúng hai quả pháo. Cậu Tập bị mảnh pháo vào chân, người ta khiêng đi rồi, Khuê
nói thế. Sau này có lần tôi thoáng thấy cậu ta ở Hà Nội, nhưng không đến chào.
26-12-1972. Một ngày nắng đẹp. Từ sáng
sớm chiếc OV-10 đã quần đảo liên tục. Ở Quảng Trị thằng này nó bay nhiều đến
nỗi hôm qua ngừng bắn nó không bay, lại đâm nhớ. Không thể nào quên được cái
tiếng “Ò... ò... ò... ” rất khó chịu, lúc to lúc nhỏ, lúc xa lúc gần của nó.
Thỉnh thoảng nó lại bổ nhào, bắn “Cạch bùm” 1 phát pháo khói. Thế là lập tức
bọn F4, A7 châu đến ngay, thi nhau bổ nhào ném bom vào chỗ nó chỉ điểm. Sau bữa
trưa chỉ có cơm với muối, chúng tôi rửa bát bằng cách sục ca nhôm vào cát rồi
chùi. Ở đây thì lấy đâu ra nước mà rửa bát. Có nước ở hố bom cách đó vài chục
mét, nhưng ra lấy lại sợ bị pháo kích. Ca nhôm sạch rồi, chúng tôi tiếp tục xục
thìa vào cát chùi. Những cái thìa ở Quảng Trị đẹp thật, thìa Mỹ có khác, vừa to
vừa dày, bằng I-nox sáng loáng. Chùi xong chúng tôi cất thìa vào túi áo, cài
khuy cẩn thận, “Quân tử phòng thìa” mà....
Tôi và Bích ngồi nhìn 2 chiếc A7 trắng toát đang
quần đảo, ném bom ở một chỗ nào đấy. Đặc biệt khi bổ nhào chúng phun ra sau
đuôi những dải sao băng sáng chói. Về sau mới biết đó là cách chúng chống lại
tên lửa tầm nhiệt của ta. Nghe có tiếng súng 12ly7 bắn lên ở phía xa. Khoảng 30
phút sau, chừng hết dầu, chúng bay ra biển, nhưng chỉ có một cái bay đi. Tôi
chờ mãi cái thứ hai mà không thấy. Buổi chiều nghe nói nó đã bị C16 hạ rồi. Sắp
ăn cơm tối thì được lệnh chuẩn bị đêm nay đi tập kích. D trưởng Tùng, C-trưởng
Hộ và B trưởng Thanh đang đứng trước cửa hầm nói chuyện. Lần này chúng tôi nhất
định chiếm đồi Cây Ba Chạc. Hai lần trước D2 và C9 đã chiếm được, nhưng rồi để
địch phản công giành lại mất. Lực lượng tấn công chính tối nay là C10, được bổ
sung thêm B2 C11 của chúng tôi.
Trung đội 2 của chúng tôi được cấp trên rất tín
nhiệm, vì là Trung đội Thép, đã lập nhiều chiến công trong đợt chiến đấu ở Làng
8, Thanh Hội vừa rồi. Lâm Thành và tôi được giao nhiệm vụ đi về Tiểu đoàn bộ
lấy thêm đạn B41. Dọc đường chúng tôi gặp Danh Hòa, cũng là lính C49 cũ, bây
giờ ở đội vận tải. Cậu ta đã mấy lần đào ngũ mà không thoát, bị bắt về C23 Lưu
dung (Quân pháp quản lý), rồi đưa ra mặt trận làm lính vận tải. Tôi chỉ có thể
nhắc nhủ Danh Hòa hãy cố gắng, biết đâu còn có ngày gặp nhau ở Quán Gió, Hà
Nội, như những ngày từ Bãi Nai về phép. Nghe nhắc đến Hà Nội, cậu ta nở một nụ
cười héo hắt. Mấy cậu vận tải rất nhát. Được lệnh tải đạn lên cho trận đánh tối
nay, mang đến trước hầm tôi là họ vứt bừa ra hào. Nào đạn cối 82, cối 60, liều
phóng, nào đạn AK, đại liên, DKZ... nằm lổng chổng.
Ăn cơm xong chúng tôi ra hào vác về một
thùng đạn AK rồi khui ra. Tất cả các băng đạn được thay đạn mới hoàn toàn. Tôi
lèn chặt 4 băng đầy (120 viên), buộc vải che cát cẩn thận. Đầu nòng và khóa
nòng được bọc bằng bao cơm sấy, vì tôi rất sợ bị cát rơi vào. Bình “cống” (Trần
Bình) là lính thông tin mang máy 2W được phái xuống đi với C11 đợt này. Cậu ta
vào tiếp thu hầm của tôi. Hai đứa ngồi hàn huyên một lúc lâu. Chợt thấy anh
Hưởng, Chính trị viên C11, ngó đầu vào gọi “Đi nào!”. Tôi vội đi giày TQLC,
khoác súng, dặn Bình “cống” giữ hộ cái xẻng gấp cùng đôi dép đúc, rồi vội vã
chạy ra.
"Bình cống mang máy 2W được phái
xuống đi với Đại đội tôi...".
Vừa chạy tôi vừa buộc lại dây bao đạn. Ngay sau tôi
là Chính con, trước đó một quãng là anh Thanh.
Trăng đêm nay sáng quá. Chợt nghe loáng
thoáng phía trên có ai hỏi tên Vinh, nhìn lên thì thấy Chí Thành đang đứng cạnh
hào. Đêm nay cậu ta giữ máy 2W ở hầm Tiểu đoàn bộ, phụ trách liên lạc với các
đơn vị trực tiếp tham chiến. Gặp tôi, Chí Thành nói: “Sẽ gay lắm đấy, nhưng cố
lên Vinh nhé. Chúc Vinh may mắn...”. Tôi đưa gửi cậu ta chiếc đồng hồ nhặt được
của địch hôm nọ. Siết chặt tay từ biệt, tôi vội chạy nhanh cho kịp đội hình.
Lại vòng qua cái hố bom to, rồi đến hầm DKZ của
E64. Nghe nói ở đây vừa trúng pháo kích, hầm sập, cậu Hải “râu” bị sức ép gần
chết. Trung đội 1 của C11 đang chốt chỗ chúng tôi nằm hôm nọ được lệnh rút về.
Pháo tầm xa của ta bắt đầu bắn mở đường về phía Đồi Cây Ba Chạc. Gặp cậu Đạt,
cùng C49 cũ, nay là lính C14, đang đứng cạnh khẩu cối 82. Mấy khẩu cối 82 của
C14 và của Tiểu đoàn 1 đang bắn bậm bạch về phía địch. Bọn địch bắn hỏa châu
lên ghê quá, sáng rực cả góc trời. Chúng tôi phải ngồi đợi một lúc. Khi tôi
nhìn lên thì không thấy ai nữa, anh Thanh đã đi từ lúc nào. Tôi vội khoát tiểu
đội chạy tiếp. Vừa đến một đoạn hào nông choèn thì bất chợt một quả hỏa châu
rơi ngay bên cạnh, cháy rực lên trước khi tắt. Cả bọn hốt hoảng vì giữa nền
sáng chói hình bóng chúng tôi nổi lên rất rõ. May thay không thấy phía địch
phản ứng gì. Rồi cũng gặp được anh Thanh cùng hai tiểu đội khác đang ngồi dọc
một đoạn hào, cạnh mấy cái hầm. Tôi trách anh đã bỏ rơi A tôi, anh nói chắc lại
thằng nào đó không truyền lệnh tiếp về phía sau. Cậu Tường Hải Phòng, liên lạc
đại đội, chạy tới đề nghị anh Thanh phân tán bộ đội vào các hầm ngồi chờ. Kế
hoạch là C10 sẽ tấn công trước. Khi đã chiếm được Cây Ba Chạc rồi thì B2 của
tôi sẽ lên chốt giữ.
Tôi và Chính con vào ngồi trong một cái hầm chật
như ngôi mộ. Đạn pháo lớn của ta từ xa bay tới, kêu “O... o...” trên đầu, rồi
nổ như sấm sét bên phía địch. Cỡ này phải 122ly, hay 130ly, chứ chả chơi. Pháo
địch cũng thi nhau bắn ầm ĩ. Chợt chúng tôi nghe rộ lên tiếng súng 12ly7
“Pình... pình... pình...” hòa lẫn vào tiếng cối 82 “Pùng... pục...”. C10 bắt
đầu tấn công rồi. Giữa những tiếng nổ hỗn loạn, tôi cố tìm nghe tiếng súng AK
mà không thấy. Được khoảng 30 phút thì cậu Tường liên lạc chạy tới kêu lớn:
“Chiếm được Cây Ba Chạc rồi! B2 vận động lên!”.
Tôi vội cùng Chính con lao ra khỏi hầm. Dưới ánh
trăng và ánh hỏa châu sắp tắt, trong khói đạn mờ mờ, chúng tôi chạy theo một
hàng dọc. Bốn bề các loại đạn vẫn nổ tứ tung. Chợt một loạt hỏa châu mới vọt
lên, trời đất sáng rực, cả bọn vội rạp người nằm xuống. Sáng đến nỗi có rơi cái
kim cũng tìm thấy. May thay đến được một đoạn hào đây rồi. Tất cả nhảy xuống bò
đi tiếp. Quái, sao lính C10 còn nằm đầy ở đây?.
Ba chiến sỹ đang xúm quanh khẩu B41 giục nhau bắn.
Chỗ này chỉ cách hào địch chừng 50m. Tôi bò qua cái hầm nhỏ, trong đó một cán
bộ chỉ huy của C10 đang giục cậu Sơn, lính thông tin 2W, báo cáo về Tiểu đoàn.
Sơn gào vào ống Tổ hợp: “Mỗi chúng tôi chỉ còn 5 viên kẹo... còn có 5 viên kẹo
thôi!...”. Thì ra họ vẫn chưa chiếm được Cây Ba Chạc, nhưng đã yêu cầu chúng
tôi vận động lên phía trước! Đạn cối cá nhân của địch nổ liên tục. Rồi đạn pháo
các cỡ, đạn M72 rít xoèn xoẹt ghê người. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn tiếp tục bò
lên phía trước. Anh Thanh bò đầu tiên, thỉnh thoảng dừng lại, thò đầu lên khỏi
hào quan sát. Rồi đến tôi, đến Bích mang B40, đến Chính...
Hai Tiểu đội khác bò rải rác phía sau. Lợi dụng một
loạt hỏa châu vừa vụt lên trời, tôi thò đầu lên nhìn sang phía địch. Không thể
nào quên được hình ảnh đồi Cây Ba Chạc đêm ấy. Đó là một gò cát nhỏ, bên trên
mọc mấy thân cây trơ trụi, cong queo. Cây cao nhất có 3 cái chạc khẳng khiu
chìa ra 3 phía. Nhìn chúng thật ma quái trong màn khói đạn và ánh hỏa châu vàng
vọt. Đúng là một mảnh đất chó ăn đá, gà ăn sỏi, thế mà ta và địch đã giành giật
nhau không biết bao nhiêu hiệp. Mỗi tấc đất ở đây phải thấm đẫm hàng lít máu
người, có lẽ chỉ ít hơn trong Thành cổ một chút. Ngay dưới chân gò là chiến hào
của địch, tôi đã thấy những chiếc mũ sắt nhấp nhô.
“Cạch oành... Cạch oành...”, chúng bắn M79 liên
tục. Đạn nổ tóe hoa cà hoa cải khắp nơi. Phát hiện thấy cái gì động đậy là
chúng bắn điên cuồng. Chính con giương AK bắn 1 loạt. Lập tức đạn cối cá nhân
bay đến tới tấp, làm chúng tôi không thể nào ngóc cổ lên được. Lại đến lượt anh
Thanh nhổm dậy bắn. Địch cũng đáp trả bằng hàng chục quả M79. Sở dĩ chúng phản
ứng được, vì mỗi khi ta bắn, lửa đầu nòng nhìn khá rõ. Tôi bèn nói: “Lựu đạn
thôi.... Đừng bắn... Lựu đạn thôi!”. Một khẩu đại liên M60 của địch đang bắn
điên cuồng. Nghe tiếng nổ rất gần, chắc chỉ cách chừng 30m. Tôi và anh Thanh
căng mắt nhìn, mà vẫn chưa xác định được vị trí của nó, vì cứ phải thụt đầu
xuống liên tục. Chà, bọn chúng bắn cả đạn chống tăng M72 vào chúng tôi. Giữa
những tiếng nổ ghê người, nhưng sao tôi vẫn thấy rất bình tĩnh. Tôi nằm dưới
hào, nhìn những dây đạn đại liên đỏ lừ đang đan ngang đan dọc trên đầu, trong lòng
thầm nghĩ: “Sao mà đẹp thế”. Mà đẹp thật, cứ 5 viên xanh 1 viên đỏ, nối tiếp
nhau như một chuỗi ngọc dài dặc.
Cuối cùng chúng tôi cũng xác định được
vị trí của khẩu đại liên sau một mô đất. Anh Thanh nhổm lên ném một quả lựu
đạn. Tôi nhìn theo, nó nổ cách mục tiêu khá xa, chắc vì khi ném không đủ đà.
Tôi nói với anh Thanh: “Anh bắn yểm trợ cho em ném nhé!”. Anh nói “Được”. Rồi
vẫn nấp ở bên dưới, nhưng 2 tay anh nâng súng lên khỏi miệng hào, chĩa về phía
khẩu đại liên xả đạn liên tục. Bị bắn rát quá, súng địch tạm ngưng 1 lúc. Nhân
thời cơ đó, tôi bật chốt quả mỏ vịt, đếm đến 4, rồi đứng thẳng người lên, dùng
hết sức vung tay lấy đà ném nó đi. Quả lựu đạn rơi trúng sau mô cát, chạm đất
nổ ngay. Trong quầng sáng mầu da cam còn kịp thấy khẩu đại liên cùng hai bóng
người bị nhấc lên rồi rơi phịch xuống. Hỏa điểm địch câm bặt, nhưng vị trí của
tôi cũng bị lộ rồi. Tôi vừa nằm xuống thì hàng chục quả M79 đã bay đến tới tấp.
Sau mỗi tiếng “cạch oành” là hàng trăm viên bi bay
đi rào rào. Rồi M72, cối 81, pháo 105... nổ liên tục. Đạn rít chíu chíu, mảnh
bay vèo vèo, rơi lịch xịch khắp nơi. Tất cả chúng tôi nằm ép người xuống con
hào nông choèn, chịu trận. Địa ngục chắc cũng chỉ đến thế này mà thôi. Chợt như
có ai cầm cái búa đinh giáng thẳng vào phía sau đỉnh đầu tôi. Mắt tôi nổ hoa cà
hoa cải, một dòng máu nóng chảy từ đầu xuống cổ. Một mảnh pháo nhỏ đã xuyên qua
chiếc mũ cối, cắm phập vào vùng chẩm sau đầu, làm lún một mẩu xương sọ. Tôi chỉ
kịp “hức” lên 1 tiếng, rồi chìm ngay vào đêm tối mênh mông...
Các bạn thân mến, cuộc chiến đấu của tôi trên Chiến
trường Quảng Trị đến đây là hết. Dứt cơn bão lửa, thấy tôi còn thở, anh Tài B
phó đã cõng tôi chạy về tuyến sau. Rồi được hai cậu lính vận tải khiêng võng
đưa về Phẫu tiền phương 62 bên bờ một con lạch. Ngay đêm hôm sau tôi được chở
bằng xuồng máy, chắc là xuôi sông Thạch Hãn, qua kênh đào nối với sông Bến Hải,
ra Phẫu 48 Vĩnh linh.
Khi tôi tỉnh dậy thì đã thấy mình nằm ở
Vĩnh Long, Vĩnh Linh, ngoài miền Bắc rồi. Tiếp theo đó là những ngày dài dằng
dặc điều trị vết thương ở Phẫu 48 Vĩnh Linh, Quân y viện 112 Quảng Bình, Quân y
viện 108 Hà Nội. Cũng nhiều chuyện vui buồn, nhưng chắc ít người quan tâm, nên
chẳng muốn làm mất thì giờ của các bạn làm gì. Còn người bạn thân của tôi, Vũ
Chí Thành, anh lính thông tin đeo máy 2W, thì ba tuần sau đó mới bị hy sinh,
trong trận ngày 17-01-1973, khi địch dốc toàn lực quyết đánh chiếm chốt Long
Quang. Bình “cống” bị thương vào đầu dịp đấy, được đưa ra Phẫu 48 Vĩnh Linh nằm
cạnh tôi, đã kể lại mọi chuyện. Diễn biến của trận này tôi đã ghi lại dưới đây.
Cái chết của chiến sĩ Vũ Chí Thành
Vũ Chí Thành là chiến sĩ thông tin vô tuyến ở Trung
đội thông tin thuộc Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320B, mặt trận B5 Quảng
Trị. Khoảng trung tuần tháng 1-1973 Tiểu đoàn 3 đang trấn giữ chốt Long Quang,
trên địa phận xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong. Trong biên chế Tiểu đoàn có ba
đại đội bộ binh (C9, C10, C11) và một đại đội hỏa lực C12 (DKZ82, Cối 82 và
12ly7). Ba đại đội bộ binh thay phiên nhau lên tuyến trước, nơi gần địch nhất,
để giữ chốt. Đại đội hỏa lực và Sở chỉ huy Tiểu đoàn cùng các Trung đội Thông
tin, Quân y, Vận tải... nằm ở tuyến giữa và tuyến sau, làm nhiệm vụ yểm trợ. Vũ
Chí Thành được cử đeo máy 2W xuống phối thuộc với Đại đội 11. Đồng đội Trần
Bình thì trực máy 2W ở Tiểu đoàn. Thời kỳ này đang phong thanh tin đồn là Hiệp
định Paris sắp được ký kết, nên ta và địch đều tìm cách chiếm chốt của nhau, để
lấn đất.
Ngày 17-01-1973 địch tập trung một lực
lượng rất mạnh, tấn công quyết liệt nhằm tiêu diệt chốt Long Quang của ta. Sau
một hồi bắn phá dữ dội bằng pháo binh, pháo biển và đạn cối đủ loại, địch cho
hàng chục xe tăng, xe bọc thép cùng hai tiểu đoàn Thủy quân lục chiến xung
phong ồ ạt vào trận địa ta. Trận này địch áp dụng một chiến thuật rất liều lĩnh
làm quân ta bị bất ngờ. Cụ thể là chúng không đánh vỗ mặt vào chốt của ta như
mọi ngày, mà tập trung xe tăng thiết giáp khoan thủng phía bên trái tuyến phòng
thủ của ta (phía gần biển). Từ lỗ thủng này, chúng tiến sâu lên phía bắc, rồi
ngoặt trái đánh thẳng vào sườn của Tiểu đoàn 3. Thành ra cùng một lúc cả ba
tuyến của D3 đều chạm địch. Bị bất ngờ nhất là các chiến sĩ thông tin, vận tải,
hậu cần... ở tuyến sau và C12 (12ly7, Cối 82, DKZ82) ở tuyến giữa. Họ đang chúi
đầu trong các hầm hào để tránh cơn mưa pháo, thì chợt nghe tiếng động cơ gầm
rú. Khi ngẩng đầu lên nhìn thì đã thấy cả bầy chiến xa bò lổm ngổm ngoài bãi
cát, vừa tiến vừa bắn điên cuồng. Đi đầu là những chiếc xe tăng M48, M41 với vỏ
thép dày và hỏa lực mạnh. Tiếp đến là những xe M113 phun lửa và pháo tự hành
M50.
Lần đầu tiên lính ta mới nhìn thấy những chiếc M50
kỳ quái, trông giống như một xe tăng nhỏ, nhưng không có tháp pháo, mà mang
trên lưng 6 nòng DKZ 106ly. Cuối cùng là một đoàn M113 chở lính. Lúc này bọn
Thủy quân lục chiến đã rời khỏi xe bọc thép, dàn thành đội hình hàng ngang, vừa
chạy vừa bắn vừa hô “Xung phong”. C11 đang nằm nghỉ dưỡng sức ở tuyến 2, sau
một tuần chốt trên tuyến 1, tự nhiên phải hứng chịu mũi dùi tiến công của địch.
Đại đội trưởng Hộ bị trúng thương ngay từ loạt đạn đầu. Chính trị viên Phùng thì
đã hy sinh từ 3 tuần trước. Cán bộ chỉ huy duy nhất còn lại là Chính trị viên
phó Hưởng, lại đang đi họp vắng. Tình hình của Đại đội 11 rất nguy ngập, đạn
dược gần cạn. Vũ Chí Thành ngồi trong hầm của C-bộ, mở máy 2W gọi về Tiểu đoàn
xin tăng viện và cung cấp đạn. Nhưng trên Tiểu đoàn bộ cũng đang gay go không
kém, địch đã vào gần đến nơi. Đích thân Tiểu đoàn trưởng Tùng và Tiểu đoàn phó
Căn phải cùng các chiến sĩ vận tải, quân y... dùng AK bắn chặn địch. Trần Bình
đành trả lời Chí Thành, là Tiểu đoàn trong lúc này đã hết khả năng chi viện,
C11 phải tự lo liệu lấy, cố gắng tử thủ chờ Trung đoàn vào tiếp sức.
Tình hình của C9 đang chốt trên tuyến 1 còn gay go
hơn nữa. Địch tấn công từ hai phía, các chiến sĩ C9 đã bắn đến viên đạn cuối
cùng, diệt được hai xe tăng, rồi bị địch tràn ngập. C9 vỡ trận, hàng chục chiến
sĩ hy sinh. Nhiều người chạy được về phía sau, nhưng một số bị địch bắt sống...
Chỗ C12 cũng bi đát không kém. Đợt tấn công đầu của địch bị hỏa lực ta đẩy lui,
một xe tăng M41 trúng đạn tuột xích. Chúng lùi ra, bắn phá dữ dội, rồi xông lên
tiếp. Đạn dược quân ta cạn dần. Xe tăng địch tràn vào được trận địa của Trung
đội 12ly7, đè bẹp cả 2 khẩu đội này. Chúng dùng xích xe chà đi chà lại trên nóc
hầm nhằm chôn sống những chiến sỹ còn nằm dưới đó. Trung đội trưởng Triều, y tá
Tiến cùng 5 chiến sĩ C12 bị địch bắt sống. Trong số đó có cả Nguyễn Xuân Bình,
bạn học lớp 10C cùng Trường Hai Bà Trưng với tôi. May cho Xuân Bình là chỉ bị
địch giam giữ chừng 3 tháng, rồi được trao trả ở Lộc Ninh sau khi Hiệp định
Paris được ký kết....
Cách đó khoảng 100m, Tiểu đội trưởng Quế “Khương
Trung” mang khẩu DKZ82 ra định lắp vào giá súng, nhưng không kịp. Thấy xe tăng
địch đang rầm rầm xông đến, Quế hô chiến sĩ Quỳnh “Thái Bình” đem đạn ra ngay,
nạp vào súng. Rồi không cần giá súng, Quế vác nòng khẩu DKZ82 lên vai, nhằm
thẳng chiếc M48 đang chạy xế trước mặt bóp cò. Một quầng lửa da cam cùng tiếng
nổ chói óc vang lên, chiếc xe tăng bốc cháy ngùn ngụt, không một tên địch nào
sống sót...
Cuộc chiến đấu ở khu vực Tiểu đoàn bộ càng lúc càng
quyết liệt. Địch đã vào đến tầm ném lựu đạn. Chúng đồng loạt ném hàng chục quả
mỏ vịt vào chiến hào ta. Một quả nổ ngay trước cửa hầm Thông tin, làm Trần Bình
đang trực máy 2W ở bên trong bị thương. Mảnh lựu đạn đã phạt bay một mẩu xương
sọ bên phải đầu, làm Trần Bình ngất đi... Ở tuyến C11, địch đã xông đến khu vực
C bộ. Chỗ đó có hai hầm cách nhau khoảng 20m, được nối liền bởi một đoạn hào
nông choèn. Trong một hầm có hai cậu liên lạc của C11, là Lâm Thành và Tường
“Hải Phòng”. Trong hầm kia thì Chí Thành đang gọi vào máy 2W tìm cách liên lạc
với Tiểu đoàn.
Chợt nghe hàng tràng “cực nhanh” M16 nổ ngoài hào.
Chí Thành vừa ngó ra thì đã thấy mấy bóng áo rằn ri ngoài cửa hầm. Một loạt đạn
M16 vang lên, Chí Thành gục xuống bên máy 2W... Từ cửa hầm đối diện, Lâm Thành
xả một tràng AK hạ gục tên địch vừa bắn Chí Thành. Nhưng lúc này bốn bề đều có
địch. Hai chiến sĩ trẻ của C11, là Lâm Thành và Tường “Hải Phòng”, đã dựa lưng
vào nhau, chĩa súng AK ra hai phía bắn như điên. Mặc cho máu đang ròng chảy
trên mặt một người và máu thấm đẫm vạt sườn người kia, hai anh vẫn bắn không
ngừng, bắn mãi... Đây là lần thứ hai ở Quảng Trị, sau lần trước ở Ngã ba Long
Hưng, La Vang, Thành cổ, Tiểu đoàn 3 gần như bị xóa sổ. Nhưng tinh thần chiến
đấu kiên cường và lòng dũng cảm vô biên của các chiến sĩ D3 đã làm thất bại âm
mưu chiếm chốt Long Quang của địch.
Ngay buổi chiều hôm đó, Trung đoàn 48 đã kịp điều
động Tiểu đoàn 2 lên đánh phản kích. Hầu hết những điểm chốt bị mất buổi sáng
đã được quân ta chiếm lại. Khi kiểm tra trận địa, thấy Chí Thành và Trần Bình
bị thương nặng, mọi người đã khiêng hai anh cùng các thương binh khác về Phẫu
tiền phương 62. Nằm cạnh Chí Thành ở Phẫu tiền phương, nhưng vì bị thương vào
đầu nên Trần Bình ngất lên ngất xuống. Còn Chí Thành bị thương vào bụng, khá
tỉnh táo, có thể trả lời rành rọt các câu hỏi của y, bác sĩ. Người ta nghĩ chắc
không nghiêm trọng lắm, bèn khiêng anh đặt xuống hầm thùng cùng nhiều thương
binh khác, chờ đến lượt tải thương.
Hầm thùng là những căn hầm nửa chìm nửa nổi, bên
trên lợp mái tranh. Tuy nhiên những trận mưa dầm dề đã biến đáy hầm thành 1 lớp
bùn nhão nhoét. Ba viên đạn xuyên vào sườn làm phân và nước tiểu tràn ra ổ
bụng, lại thêm điều kiện vệ sinh như vậy, nên Chí Thành đã bị nhiễm trùng uốn
ván. Chắc trong đêm anh bị sốt cao và phải chịu những cơn co giật đau đớn lắm.
Đến sáng 19-01-1972
thì Vũ Chí Thành đã chết cứng. Người ta khiêng anh đi chôn như khiêng một khúc
gỗ vậy... Thường những người bị đạn vào đầu hay được ưu tiên chuyển thương trước,
vì vậy ngay đêm hôm đó Trần Bình được chở bằng xuồng máy ra Phẫu 48 Vĩnh Linh,
nằm cạnh tôi. Cậu ta đã kể lại toàn bộ câu chuyện về những ngày cuối cùng của
Vũ Chí Thành.
Nguyễn Quang Vinh
Sau chiến tranh, gia đình Vũ Chí Thành đã nhiều lần
tổ chức tìm mộ anh mà không được. Điều đó hơi kỳ lạ, vì những người chết ở Phẫu
tiền phương thường được chôn cất tử tế, trong túi áo ngực bao giờ cũng có một
lọ Pê-ni- xi-lin bịt kín, đựng một mẩu giấy ghi rõ tên tuổi, quê quán, đơn
vị... và có sơ đồ mộ chí đàng hoàng.
Mười tám năm sau, vào một đêm hè 1993,
ông thân sinh Chí Thành chợt mơ thấy Chí Thành về. Cậu ta đi chậm rãi ngoài
hàng rào, dừng lại trước cổng ngôi nhà số 20 Phố Chùa Vua khu Chợ Giời, đứng
nhìn vào nhà. Ông thân sinh mừng rỡ gọi: “Chí Thành đấy à con? Vào nhà đi..”.
Nhưng cậu ta vẫn đứng lặng im, chỉ nhìn ông bằng đôi mắt buồn rười rượi, rồi từ
từ biến mất. Ngày hôm sau có một người đàn ông lạ từ Quảng Trị ra, đến gõ cửa
ngôi nhà. Ông ta mang theo một sơ đồ mộ chí, trong đó có một tấm bia đề “Võ Chí
Thành, sinh 1954, 20 Chùa Vua, Hà Nội”. Thì ra tuy hy sinh ở Triệu Phong, nhưng
Chí Thành lại được quy tập vào một nghĩa trang ở Hải Lăng. Người đàn ông này
thấy ngôi mộ có tên tuổi rõ ràng, mà lâu ngày không ai đến thăm, nên đã lặn lội
ra Hà Nội báo tin cho gia đình. Khỏi phải nói gia đình Chí Thành mừng rỡ dường
nào, và đã cảm tạ ông ta rất hậu hĩnh.
Hiện giờ Chí Thành đã được đưa về an táng ở Nghĩa
trang Liệt sĩ Hạ Hồi, Hà Nội. Mỗi khi có dịp, chúng tôi vẫn thường đến thăm
anh.
Trước bàn thờ Chí Thành. Như vậy ba chàng học sinh
của lớp 10B Trường PTCN Hai Bà Trưng đi vào chiến trường Quảng Trị, thì một
chết, hai bị thương. Bạn Lê Thanh Bình tuy hỏng một mắt, nhưng sau này đã phấn
đấu rất tốt, tốt nghiệp ĐH Bách khoa Hà Nội, sau này trở thành giám đốc của một
công ty danh tiếng. Còn số phận những người đồng đội thân yêu khác của tôi thì
sao? Đã hơn 40 năm nay tôi không gặp lại những chiến sĩ cùng Tiểu đội 4. Tin tức
lõm bõm về họ chỉ nghe qua những đồng đội khác. Anh Thanh Trung đội trưởng cũng
bị thương trong trận 17-01-1973. Anh bị mảnh đạn vào quai hàm, mất mấy cái
răng, và bị cụt 1 ngón tay. Sau này xuất ngũ anh về quê hương Hà Tĩnh và mất
hút từ đó.
Chính “con” hay còn gọi là Chính “còm”, vì khi nhập
ngũ có 36kg, thuộc loại thấp bé nhẹ cân, là người bạn thân nhất của tôi ngoài
mặt trận. Sau này Chính con xuất ngũ, sống rất nghèo khổ, gia đình chuyển vào
Miền Nam làm ăn. Nhiều đêm Chính con phải ngủ dưới gầm bàn để trông quán phở
cho con...
Quang “Bạch Mai”, hay Quang “Xỉn”, cũng không khấm
khá gì hơn. Cậu ta bị thương hỏng một mắt, lăn lộn làm đủ nghề để đắp đổi qua
ngày. Nhưng không may là có một đứa con trai thì bị nghiện... Bích “Thái Bình”,
cây B40 của tiểu đội, ra quân về lại quê hương Quỳnh Phụ, Thái Bình. Thấy nói
cũng chỉ đủ ăn...
Ngô Duy Minh bị thương được được đưa ra
Quân y viện 112 Quảng Bình điều trị, rồi được giữ lại làm Y tá. Sau Hiệp định
Paris, cậu ta đi ôn văn hóa để đi học ĐH Quân y. Hiện nay Ngô Duy Minh là Đại
tá, Trưởng khoa Bệnh viện 198 Hà Nội.
Long “cồ” ra quân được đi xuất khẩu lao động ở CHDC
Đức. Nhưng mới được mấy tháng thì Bức tường Béc-lin đổ, lại phải về nước. Sau
đó cậu ta làm gác cổng ở Công ty Cầu đường Hà Nội cho đến lúc về hưu. Bình
“cống” năm 1974 đi ôn thi đại học cùng tôi, rồi tốt nghiệp Đại học Kinh tế kế
hoạch, về làm Trưởng phòng tổ chức ở Công ty xuất nhập khẩu Máy công nghiệp cho
đến nay.
Lâm Thành một dạo kết hợp với cậu em trai làm ăn,
rất khấm khá. Có tiền cậu ta thường giúp cho mấy đồng đội cũ nghèo khó. Chẳng
hạn cậu Tường “Hải Phòng”, phải đạp xích lô chạy ăn từng bữa, hay đến xin tiền
Lâm Thành. Nhưng rồi chuyện làm ăn của cậu em đổ bể, cậu em phải đi tù, Lâm
Thành lại trắng tay. Tuy nhiên cậu ta vẫn là người đồng đội chân thành nhất, mà
mỗi lần về Hà Nội tôi thường đến thăm. Kể cả trong trường hợp cậu ta phải vào
tù...
Trường “Khâm Thiên” ẻo lả, yếu đuối, ra
quân chuyển ngành về Phòng thuế Hà Nội. Thấy bảo kiếm ăn được lắm... Quế
“Khương Trung”, người anh hùng bắn xe tăng năm xưa, giờ là hàng xóm của tôi ở
Hà Nội. Nhà tôi số 27, nhà anh số 35 ngõ Khương Trung. Anh vẫn làm bảo vệ cho
một công ty...
Riêng tôi thì cũng cố gắng học hành, có bằng Tiến
sĩ, và cho đến nay vẫn trôi nổi kiếm ăn bằng nghề Châm cứu nơi xứ người. Ở Đức,
sống gần nhà tôi có một người lính Việt Nam cộng hòa cũ, anh Bách. Ngày xưa tôi
và anh mà gặp nhau trên chiến trường là giết, ngày nay chúng tôi là hàng xóm
tốt của nhau. Anh bệnh thì tôi châm cứu cho anh. Nấu món gì ngon anh cũng đều
kêu tôi sang nhậu. Bây giờ, tôi và anh cùng có mẫu số chung là lòng yêu đất
nước Việt Nam tha thiết, luôn đau đáu về vận mệnh của Tổ quốc. Viết những dòng
cuối cùng này, tôi chạnh nghĩ: “Tàn cơn binh lửa, chỉ còn lại tình người”, có
phải không các bạn?
Nguồn: Iternet
Không có nhận xét nào