LỊCH SỬ NHÀ TÙ CÔN ĐẢO
Cuốn sách là bức tranh toàn cảnh về cuộc đấu tranh ở Côn Đảo qua các thời
kỳ, là khúc hùng ca trong thiên anh hùng ca vĩ đại của dân tộc trong cuộc chiến
chống thực dân, đế quốc để giành độc lập tự do.
Nhà tù Côn Đảo từ cuối thế kỷ 19 luôn luôn phản ánh cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân qua các giai đoạn, bởi lẽ địch giam ở đây những chiến sĩ cách mạng mà chúng cho là nguy hiểm nhất ở khắp các miền của đất nước.
LỜI TỰA CỦA GIÁO SƯ TRẦN VĂN GIÀU
(Viết riêng cho cuốn Nhà tù
Côn Đảo 1955-1975)
Tôi được bạn bè yêu cầu viết tựa cho sách, rất nhiều lần, nhưng lần này,
giới thiệu tập “Lịch sử Nhà tù Côn Đảo 1955-1975” tôi lo quá; đọc một lần đã thấy
lo đọc hai lần càng thấy lo. Lo không giới thiệu được nội dung cơ bản của tập sử,
nội dung cơ bản ấy là cực kỳ sâu sắc, bởi hàm ý những sự việc và nhân cách của
những con người được kể ở trong sách.
Những sự việc và con người được ghi lại một cách khách quan, khoa học,
đáng là đề tài vô tận của một thiên anh hùng ca mà có lẽ khó có một nhà thơ nào
ở nước ta và cả trên thế giới tìm ra ở trong trí tương tượng thâm viễn của
mình. Trong trường hợp này, một bài giới thiệu của một thầy giáo lịch sử như
tôi chỉ có thể là một lời mời đọc, đọc để rồi 'đọc lại, đọc đi đọc lại để mà
suy gẫm, suy gẫm về đạo làm người chiến sĩ yêu nước yêu dân, suy gẫm về con người
Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, khi đứng trước cảnh ngộ thiên nan vạn nan,
khi đứng trên bờ vực giữa cái sống và cái chết, giữa cái vinh không cần ai biết
và cái nhục mà chính mình cảm thấy hơn ai hết. Tập sách “Lịch sử Nhà tù Côn Đảo
1955-1975” thực tế là một quyển sách đạo đức học, một quyển triết học.
Trong đời hoạt động cách mạng của mình, tôi đã phải trải qua nhiều nhà
tù, trong số đó có ngục Côn Lôn. Tôi lại được đọc nhiều sách xưa nay nói về nhà
tù của các vua chúa, của tư bản thực dân, của bè lũ phát xít. Như vậy, tôi có
khá nhiều tài liệu để so sánh các chế độ nhà tù tàn bạo, thì các nhà tù đó cái
nào cũng tàn bạo, chỉ có mức tàn bạo, cách tàn bạo và mưu sâu bên trong là khác
nhau. Cho đến trước khi Hồng quân Liên Xô cắm cờ chiến thắng trên nóc nhà quốc
hội Berlin, thì nhà tù của Hitler là tàn bạo nhất, với ý nghĩa chính là giết
nhiều người nhất: hàng triệu, hàng triệu dân Do Thái bị giết bằng hơi độc, thuốc
độc, điện giật. Nói ra thì có lẽ không phải, nhưng cái chết bằng hơi độc, thuốc
độc, điện giật, giết một lần hàng vạn sinh linh, cái chết đó người chiến sĩ tù
nhân Việt Nam mình có mấy ai sợ đâu? So với cái tàn ác ở nhà tù Côn Đảo dưới chế
độ Mỹ ngụy, thì nhà tù Hitler giống như ao cạn so với vực thẳm. Mỹ ngụy thâm độc
hơn Hitler biết bao nhiêu! Nhà tù Côn Lôn thời Pháp thuộc đã là địa ngục ở trần
gian rồi, đến thời Mỹ ngụy, là địa ngục trong địa ngục, và nói như vậy cũng
chưa vừa.
Bị đày ra Côn Lôn (1935), khi ấy tôi từng bị tống ngay vào xà lim số 1,
xà lim này rộng 3 x 3 x 1,5 mét, còng một chân. Mà trời ơi, làm sao so được với
thời Mỹ ngụy cũng trong cái xà lim đó , Mỹ ngụy nhốt tới 28 người, cửa đóng, lỗ
thông hơi bịt kín, tù nhân lại còng tréo 2 tay và 2 chân. Dưới thời thực dân
Pháp, tụi tôi ở Banh I bãi thực chống ăn khô mục, cuộc đấu tranh dài nhất là 9
ngày, bị đánh một lần suốt buổi bằng mấy cần xé mây cà dông đến mây tả tơi ra.
Vụ Tôn Đức Thắng ở trong số đồng chí bị khủng bố hôm ấy, lưng mỗi người bầm tím
100%.
Vậy mà so với anh em bị biệt giam thời Mỹ ngụy, cũng ở đây, thì có “thấm”
gì? Nhiều lần anh em bãi thực đòi ăn cơm có rau, mà phải bãi thực đến 20 ngày,
một tháng, 60 ngày và hơn nữa, bọn chúa ngục lại đập bể các lu nước, bao: “Để
bây chết đói và chết khát cho trọn”’. Mà, đã yên để không ăn không uống đâu,
ngày ngày chúng vào khám, đánh tù nhân đấu tranh bằng củi đòn, củi chẻ; mây
càdông đánh mãi thì tả tơi, củi đòn củi chẻ đánh mãi không mòn, chỉ có sọ vỡ,
thịt nát mà thôi!
Đã vậy, ở Chuồng Cọp, bọn gác dang, giám thị còn ban ngày thì đánh, ban
đêm thì phân công nhau, đứng trên dội nước lạnh xuống, 10 đêm, 20 đêm, 30 đêm
như thế, liên tục, thân xác con người nào mà chịu nổi?
Vậy mà chiến sĩ biệt giam cộng sản ở Chuồng Cọp Côn Lôn chịu nổi, thà chết,
không hàng!
Hành hạ một cách tàn ác như vậy, để làm gì?
Có phải để thỏa mãn cái thú tính cửa bọn Mỹ ngụy và những quỷ sứ tay sai
của chúng nó chăng?
Không Cốt để cho các chiến sĩ cách mạng phải:
1.
Chịu ký tên
“ly khai Đảng Cộng sản”;
2.
Hô lên “đả đảo
Hồ Chí Minh”!
Chỉ cần hạ bút ký tên và mở miệng hô năm tiếng thì khỏi còng, khỏi củi
chẻ, khỏi bị xối nước lạnh. Có bạn đã nhận thức đúng, hết sức đúng, rất sâu sắc
rằng:
“Hành hạ người tù đau đớn tột cùng về thể xác, truy bức người tù căng thẳng
tột độ về tâm lý, dai dẳng và trường kỳ, chúng đẩy người tù đến bên miệng hố của
tử thần, để họ day dứt, trăn trở, chết dần chết mòn từng giờ, từng phút. Song cứ
mỗi lần họ hấp hối, họ tỉnh dậy, họ thề với lương tâm một lần nữa quyết chết
cho lý tưởng, chết để vẹn toàn khí tiết, thì chúng nó lại nhượng bộ một chút, nới
ra một tí, cho họ ăn uống trở lại, sinh hoạt bình thường để họ khát khao sự sống.
Chập chờn giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái chết hàng chục lần, hàng
trăm lần như vậy, thì tư tưởng, tâm trạng con người luôn luôn căng thẳng, dễ
dao động, chẳng khác gì một thỏi thép quẳng vào lò, nung đỏ lên rồi quăng xuống
nước cho nó biến dạng, rạn nứt. Bọn cải huấn, công an, mật vụ, tâm lý chiến chực
sẵn để chộp lấy những giây phút dao động, mềm yếu của tù nhân mà đánh tiếp những
đòn tiến công khác”.
Hiểm độc và tàn bạo, càng tàn bạo càng hiểm độc của Mỹ ngụy và tay sai
là như thế.
Cho nên, đã không ít tù chính trị sau bao nhiêu cuộc giao tranh bị thất
bại, bị khuất phục trước những ngón đòn tàn bạo và hiểm độc ấy. Hàng ngàn người
ở nhà tù Côn Đảo trở về với tấm thân tàn phế, quằn quại cho đến chết, chết
trong ân hận đã lỡ bước sa cơ.
Nhưng số đông tù chính trị, nếu bị khuất phục thì ấy là khuất phục tạm
thời ngoài mặt để giư lấy mạng sống, hòng có ngày chiến đấu phục thù.
Một số khác, không ít người, sống lại, chết đi hàng chục lần mà vẫn
không khuất phục. Trong cuộc chiến đấu dài 20 năm này ( 1955- 1975), trong cuộc
đấu tranh liên tục, thiên hình vạn trạng này, giữa tàn bạo có vũ khí tận răng
và chính nghĩa giải phóng ở trong thế tay chân bị còng, chỉ còn khí tiết và lý
tưởng là vũ khí, thì rốt cuộc phần thắng đã về ai?
Kỳ diệu thay mà cũng là tất yếu thay, như lời của Nguyễn Trãi tạc trên
bia đá Lam Sơn, yếu thắng mạnh, ít thắng nhiều, chí nhân thắng cường bạo. Trong
trường hợp cuộc đấu tranh rung động trăng sao, ở Côn Đảo từ 1955 đến 1975, khí
tiết cộng sản đã thắng cường quyền và mưu ma chước quỷ của Mỹ ngụy. Những “ngôi
sao” của biệt giam Chuồng Cọp hãy còn sống và hãy còn giương cao ngọn cờ Hồ Chí
Minh, kẻ địch không có cách nào hạ nổi! Ngọn cờ ấy, thực tế vẫn là ngọn cờ của
hầu hết anh em đã gặp phải lúc sa cơ mà ở đáy lòng không bao giờ có ý “ôm cầm
thuyền ai”, đông đảo trở lại hàng ngũ đấu tranh. Ngọn cờ ấy lại là tiêu biểu ở
Côn Đảo, xứng đáng với ý chí toàn dân Việt Nam đang quyết tâm “đánh cho Mỹ cút,
ngụy nhào”.
Tôi đồng tình với người viết sách “Lịch sừ Nhà tù Côn Đảo 1955- 1975”
tuyên dương tinh thần đấu tranh trực diện chống li khai của tù chính trị câu
lưu Trại I, của tù án chính trị chống chào cờ ngụy với những tấm gương sáng
tiêu biểu như Cao Văn Ngọc, Lưu Chí Hiếu, Trần Trung Tín; tuyên dương sự bền bỉ
chiến đấu vô song của “Năm ngôi sao tù chính trị câu lưu”, của “Sáu ngôi sao tù
án chính trị”. Tôi thành thật khâm phục, xin cúi đầu trước ông già Cao Văn Ngọc
vốn làm chức hương quản làng dưới thời Pháp, theo cách mạng từ mùa thu 1945;
ông chỉ là thư ký nông hội xã; ông không phải là đảng viên cộng sản mà kiên quyết
đến cùng, đấu tranh chống ly khai Đảng, chống hô khẩu hiệu đả đảo Cụ Hồ .
-
Chúa ngục hỏi:
“Ông không phải là đảng viên cộng sản, ông mắc nợ gì với Hồ Chí Minh mà không
chịu hô đả đảo” .
-
Già Ngọc bình
tĩnh đáp: “Tôi mắc nợ Cụ Hồ Chí Minh đã đem lại độc lập tự do cho nước Việt
Nam”.
Tôi khâm phục người thợ giày Lưu Chí Hiếu, lưu lạc từ Nam Định ra Hà Nội,
vào Sài Gòn, tham gia khởi nghĩa và kháng chiến, chức vụ chỉ tương đương tiểu đội
trưởng, nhưng lại thể hiện xuất sắc bản lĩnh người cộng sản, quyết tử chống li
khai trong lần quyết định vận mệnh của cuộc chiến đấu vào lúc hiểm nghèo, tên
anh đã trở thành một ngọn cờ của tù nhân chính trị toàn đảo.
Đó là thứ “Vàng trong lửa”, đó là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng,
cua nhân cách Việt Nam, của khí tiết cộng sản.
Mong rằng các vị anh hùng ở nhà tù Côn Đảo được ca tụng xứng đáng nhất bằng
những tập sách gối đầu giường cho thanh niên, được biểu dương xứng đáng nhất bằng
những pho tượng đặt ở quê hương và ở các nhà trường.
Mong rằng các sự tích ở Côn Lôn, từ thuở Pháp biến nó thành nơi lưu đày
tù chính trị cho đến thời 1955-1975, được ghi tạc chẳng những bằng tượng, bằng
tranh vẽ và tranh điêu khắc mà còn được phổ biến rộng rãi bằng những cuốn phim.
Tất cả những công việc đó của nhà làm lịch sử và làm văn nghệ đều nhằm để lại
cho các thế hệ những tấm gương sáng ngời của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí
Minh.
Sau hết, tôi như là một thầy giáo có nghiên cứu lịch sử xin hoan nghênh
các tác giả Lịch sử Nhà tù Côn Đảo đã có công sưu tầm tư liệu, “nói có sách,
mách có chứng”, đã chú ý đến việc hết sức cần thiết là gặp từng cựu tù quan trọng
nào có thể gặp được, chép từng bản lý lịch, ghi từng chuyện kể; bằng cách đó,
tác giả lưu giữ, tập hợp được một số lượng lớn tư liệu cho bản thân mình, còn
viết nhiều về Côn Đảo, có thể là viết cả đời những ai là bạn đồng hành, văn
nhân hay nghệ sĩ, trong sự nghiệp tái hiện cái địa ngục trần gian - “ngục Côn Đảo”.
Giáo sư Sử học
TRẦN VĂN GIÀU
VÀI NÉT VỀ ĐỊA LÝ VÀ
LỊCH SỬ QUẦN ĐAO CÔN LÔN
Thiên nhiên Côn Đảo
Côn Lôn là một trong những quần đảo tiền tiêu của
nước ta, “nguy nga đứng trấn giữa biển Đông” (Đại Nam nhất thông chí), bao gồm
16 hòn đảo lớn nhỏ, với tổng diện tích là 76,71km2, trải ra trên một vùng biển
có tọa độ địa lý từ 106°3’ đến 106°45’ kinh độ đông; từ 8°34’ đến 8°49’ vĩ độ bắc1), cùng một
kinh độ với Thành phố Hồ Chí Minh và cùng một vĩ độ với thị trấn Năm Căn (Cà
Mau).
Đường biển từ Côn Lôn đến Vũng Tàu dài 179 km, đến Thành phố Hồ Chí Minh
230 km, đến cửa sông Hậu 83 km, đến thành phố Cần Thơ 165 km.
Sử sách nước ta xưa nay gọi hòn đảo lớn nhất là đảo Côn Lôn (gọi tắt là
Côn Đảo), cả quần đảo này cũng được gọi chung bằng địa danh ấy - quần đảo Côn
Lôn. Người ta cũng thường gặp những biến dạng gần gũi của tên gọi đó như: Côn
Lôn Sơn, Côn Sơn, Côn Nôn.
Từ ngày thành lập đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo (30-5-1979), Côn Đảo là địa
danh chính thức của hòn đảo lớn nhất cũng như của cả quần đảo.
Đảo Côn Lôn là một hòn đảo lớn từ đông sang tây, dài 15 km, chỗ rộng nhất
là 9 km, chỗ hẹp nhất khoảng một km. Với diện tích 51,52 km2, đảo Côn Lôn chiếm
gần 2/3 tổng diện tích quần đảo. Trên đảo có thị trấn Côn Đảo nằm ở tọa độ
8°40’57” vĩ độ bắc, l06°36’l0” kinh độ đông. Nói đến quần đảo Côn Lôn là nói đến
hòn đảo này, vì đời sống kinh tế - chính trị và xã hội của cả quần đảo tập
trung ở đây. Từ khi Pháp thiết lập nhà tù, Côn Đảo không còn dân thường. Không
kể tù nhân, bộ máy cai trị (kể cả gia quyến họ) trước Cách mạng tháng Tám
(1945) không đến 500 người.
Hòn Bà tiếp giáp với hòn Côn Lôn về phía Tây - Nam, hai đảo chỉ cách
nhau bằng khe nước Họng Đầm không quá’ 20m. Giữa hai đảo này là Vũng Đầm, còn gọi
là vịnh Tây - Nam, giống hình cái quạt mở về hướng tây bắc. Vũng Đầm sâu lại ở
vào nơi khuất gió, thuận tiện cho việc xây dựng một bến cảng tốt.
Hòn Bảy Cạnh nằm trước mặt thị trấn Côn Lôn, trên đó có ngọn Hải Đăng
Côn Đảo, rọi đường cho tàu bè quốc tế đi lại.
Hòn Bông Lan nằm sát Hòn Bảy Cạnh là, từ xa trông giống như nứa chiếc
bánh bông lan.
Hòn Cau cách Côn Lôn chừng 12 km về hướng Đông - Bắc, nơi chim yến hay
làm tổ. Dưới thời phong kiến, người dân ở đây phải thu lượm tổ yến (yến sào) để
dâng nộp cho triều đình. Đất đai Hòn Cau phì nhiêu, cây cỏ tươi tốt. Xưa kia ở
đây có loại cau quả to, vỏ hồng, vị ngon, người Gia Định rất ưa chuộng, mua với
giá cao (Gia Định thông chí).
Hòn Tài Nhỏ, Hòn Tài Lớn, Hòn Trác Nhỏ, Hòn Trác Lớn, họp thành một chuỗi
đảo nhỏ nối tiếp. Hòn Bảy Cạnh, kéo dài từ đông bắc xuống tây nam, che chắn cho
đảo Côn Lôn.
Hòn Trọc, còn gọi là Hòn Trai vì ở đó có nhiều trai ốc biển. Hòn Tre Lớn,
Hòn Tre Nhỏ tiếp nối nhau che chắn phía tây và tây bắc đảo Côn Lôn.
Hòn Trứng, còn gọi là Hòn Đá Bạc nằm xa đảo Côn Lôn về hướng Đông - Bắc.
ở đây không có cây cối nhưng lại là nơi trú chân, làm tổ, đẻ trứng của các loài
chim biển, biến đảo này thành một trong những “sân chim” của miền Nam nước ta.
Hòn Vung trông giống như chiếc vung nồi úp chụp xuống mặt biển xanh, là
một hòn đảo nhỏ ở phía Tây - Nam quần đảo.
Từ năm 1995, Nhà nước ta giao cho huyện Côn Đảo được quản lý thêm 2 hòn
đảo mang tên Hòn Anh và Hòn Em ( Hòn Trứng lớn và Hòn Trứng nhỏ ) cách trung
tâm thị trấn Côn Đảo 27 hải lý về phía Tây (chếch Nam 50).
Diện tích các hòn đảo kể trên cộng lại chỉ bằng nửa diện tích đảo Côn
Lôn. Đất canh tác ở đây không đáng kể, trừ mấy hòn đảo lớn như Hòn Bà, Hòn Bảy
Cạnh, Hòn Cau, các đảo khác trông như những trái núi đá vượt lên khỏi mặt biển
với những bãi cát nhỏ, chói lòa ánh nắng trong những ngày đẹp trời.
Địa hình quần đảo Côn Lôn chủ yếu là đồi núi. Diện tích núi đồi là 6.328
héc ta, chiếm 88,4% tổng diện tích tự nhiên, đá lộ tương đối nhiều. Những ngọn
núi cao nhất đều ở đảo Côn Lôn, như Núi Chúa cao tới 515m. Ngọn núi phía nam thị
trấn Côn Đảo (núi An Hải) cao 577m.
Thị trấn Côn Đảo nằm trên một thung lũng hình bán nguyệt, dài từ 8 đến
10 km, rộng từ 2 đến 3 km, ba bề có núi bao bọc, mặt trông ra Vịnh Côn Lôn (còn
gọi là vịnh Đông - Nam^hay Vịnh Đề Lao). Khu vực tương đối bằng phẳng thứ hai
là làng Cỏ Ống. Hai thung lũng này đất đai bằng phẳng, có nhiều chỗ trũng tạo
thành hồ nước và ruộng trồng lúa. Côn Đảo không có sông mà chỉ có những dòng suối
cạn, hai con suối đáng kể đều ở trong khu vực thị trấn. Dòng suối thứ nhất bắt
nguồn từ phía Sở Tiêu, Sở Lò Gạch chảy vòng phía sau thị trấn và đổ ra vịnh
Đông - Nam gần Sở Muối An Hội. Dòng suối thứ hai bắt đầu từ khu vực Sở Ruộng dưới
chân Núi Chúa và chảy ra cống Lò Bò gần Mũi Lò Vôi. Đất đai nông nghiệp chiếm
3,2% tổng diện tích, chủ yếu tập trung ở hai khu vực này và ở Hòn Cau.
Khí hậu Côn Đảo là loại khí hậu đại dương. Nhiệt độ trung bình hàng năm
là 26,9°C. Lượng mưa trung bình là 2.200 mm. Côn Đảo có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa
kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4. Tháng một là
tháng khô nhất trong năm. Mùa khô thời tiết mát mẻ hơn, nhiệt độ trung bình là
24°C, tháng 2 là tháng mát nhất, nhiệt độ trung bình là 22°C. Oi bức nhất là
tháng 5, có lúc tới 34°C. Độ ẩm trung bình hàng năm trên đảo là 80%.
Gió mùa Đông - Đông Bắc ở Côn Đảo thường rất mạnh, từ cấp 6 đến cấp 7,
nhân dân ta gọi là gió chướng, gây nhiều trở ngại cho sinh hoạt. Người tù thường
lợi dụng mùa gió này để thả bè vượt ngục trở về đất liền.
Nhìn chung, khí hậu Côn Đảo trong lành, thuận lợi cho sức khỏe con người.
Nhưng điều này còn tùy thuộc rất nhiều ở vị trí cụ thể, nơi ở cao hay thấp, có
chướng ngại che chắn gió nhiều hay ít. Nước ngầm là nguồn nước ngọt chủ yếu ở đảo
để dùng trong sinh hoạt cũng như trong mọi hoạt động kinh tế.
Côn Đảo còn là một bảo tàng thiên nhiên lớn với Rừng Quốc gia Côn Đảo. Rừng
có diện tích 6.043 hecta (chiếm 83,7% tổng diện tích tự nhiên của huyện đảo.
Rừng gồm 3 hệ sinh thái chủ yếu:
-
Rừng nhiệt đới
thường xanh quanh năm.
Những khảo sát sơ bộ cho thấy ở đây có 650 loại - thực vật thuộc về 22 lớp,
71 họ; đại diện cho các vùng khí hậu Việt Nam (cả Bắc, Trung, Nam), trong đó có
26 loại cây lấy gỗ với nhiều loại gỗ quý như: cẩm lai, quăng, sao, giáng hương.
. . và 76 loại cây dược liệu. Trong rừng có 100 loại chim và thú lưỡng cư thuộc
50 họ và 22 lớp; 18 loại động vật có vú; 65 loại chim; 25 loại bò sát; 6 loại ếch
và 150 loại động vật thân mềm. Động vật quí hiếm có sóc đen, sóc da đỏ, sóc
bay, khỉ vàng, gầm ghi trắng, đại bàng biển, trăn... Hòn Trứng là nơi cơ trú của
các loại chim biển, mật độ dày đặc, có thể so sánh với những sân chim nổi tiếng
ở miền Tây Nam Bộ . Đặc biệt ở đây có chim Điêu lặt xanh, ó biển là những loại
chim hiếm trên thế giới. Trong lòng biển có những bãi hải sâm lớn, nơi cư ngụ của
cá heo. Tại những bãi biển của Hòn Bảy Cạnh, Hòn Tre Lớn là nơi sinh đẻ của
vích và đồi mồi. Nhiều hang và vách đá của Hòn Cau, Hòn Tre Nhỏ , vịnh Đầm Tre
. . . là nơi cơ ngụ của chim yến.
Ngoài khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển, ở các
vùng núi của Côn Đảo có khí hậu mát mẻ như cao nguyên Đà Lạt, Rừng Quốc gia Côn
Đảo là bức tranh thu nhỏ của thảm thực vật rừng Việt Nam. Cũng ở đây nhiều di
tích khảo cổ học giá trị được phát hiện, hé mở một triển vọng lớn trong việc
tìm hiểu các nền văn hóa tiền sử từng tồn tại trên đất nước ta. Chỉ tính riêng
Côn Lôn đã có 24 bãi biển lớn nhỏ. Tất cả những tiềm năng đó khiến Côn Đảo có
khả năng hiện thực trở thành một trong những hòn đảo du lịch nổi tiếng, không
thua kém các hòn đảo du lịch nổi tiếng khác trên thế giới. Nhưng chế độ thực
dân cũ và mới, hơn một thế kỷ qua Côn Đảo đã trở thành một nhà tù, hơn nữa tại
là một nhà tù dã man nhất, chất chồng những tội ác “trời không dung, đất không
tha” của chủ nghĩa đế quốc.
Trước ngày giải phóng, những di vật khảo cổ học phát hiện được một cách
lẻ tẻ, ngẫu nhiên. . . lưu trữ tại các bảo tàng đã gợi ý cho ta thấy: vào giai
đoạn hậu kỳ thời đá mới - cách đây trên dưới 4.000 năm, lớp cư dân đầu tiên đã
có mặt tại quần đảo Côn Lôn. Họ biết làm nông nghiệp dùng cuốc kết hợp với thu
lượm hải sản, săn bắt, đánh cá. Sau đó, họ đã biết nghề luyện kim đồng và sắt.
Tuy chưa có được những cuộc khai quật quy mô, nhưng qua nghiên cứu so sánh các
di vật ngẫu nhiên tìm được ta nhận biết được mối quan hệ khăng khít giữa văn
hoá vật chất của cơ dân Côn Đảo thời tiền sử với khối cư dân cùng thời ở lưu vực
sông Đồng Nai, ở duyên hải Đông Nam Bộ ngày nay.
Từ thập niên 80 thế kỷ XX, công cuộc tìm kiếm và thăm dò khảo cổ học bắt
đầu được tiến hành tích cực do nỗ lực của các bảo tàng địa phương và Trung
ương, của các cơ quan khảo cổ học, sử học ở Trung ương. Việc nghiên cứu tiền sử
ở quần đảo đã có những tiến mới, vững chắc: nhiều cuộc thám sát được tiến hành
có hệ thống tại các đảo lớn (Côn Lôn, Hòn Bảy Cạnh, Hòn Bà và Hòn Cau). Đã phát
hiện: di tích cư trú lớn như làng cổ Hòn Cau (diện tích ước 8.000 m2), những mộ
táng ở Hòn Bảy Cạnh, dấu vết nơi cư trú của người tiền sử ở Hòn Bà, đã khảo sát
lại địa điểm khảo cổ học ở đảo Côn Lôn lớn (di chỉ Hàng Dương). Chủ nhân của
các di tích khảo cổ này đều đã biết luyện đồng, sắt.
Quan trọng nhất, đáng kể nhất là cuộc khai quật khảo cổ ở đảo Hòn Cau -
một trong 4 hòn đảo lớn của quần đảo. Qua phân tích những hiện vật khảo cổ
phong phú ở làng cổ Hòn Cau trong đợt khai quật khá quy mô trên một diện tích
đào 175m2, các nhà khoa học đã đi tới kết luận quan trọng: di tích làng cổ Hòn
Cau có mối quan hệ văn hóa mật thiết, gắn bó với nhiều di chỉ ven biển của cả
nước, như Quỳnh Văn (Nghệ An), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Xóm Cồn (Khánh Hòa) và một
số di tích cùng loại ở lưu vực sông Đồng Nai (miền Đông Nam Bộ). Làng cổ Hòn
Cau được xác định niên đại trong khoảng từ 2.500 - 3.000 năm trước đây.
Do vị trí thuận lợi giữa biển Đông, trên đường giao lưu Đông - Tây, Côn
Đảo được người phương Tây biết đến từ rất sớm. Năm 1294, đoàn thuyền gồm 14 chiếc
của nhà du hành người Ý, Máccô Pôlô (Marco Polo), dạt vào trú tại Côn Đảo sau
khi bị bão đánh chìm 8 chiếc. Trong tập hồi ký của mình, Máccô Pô lô đã miêu tả
quần đảo này như một nơi giàu đẹp.
Năm 1516, nhà hàng hải Bồ Đào Nha, Anđơrađơ (Pernão Perès de Andrade) đã
tới Côn Đảo vào trung tuần tháng 9. Ông ta cho biết hải đảo này là nơi các nhà
đi biển rất hay lui tới, thường là để kiếm nước ngọt; thủy thủ của ông đã thấy ở
đây có bán nhiều gà, rùa biển và họ còn thấy có cả nho nữa.
Khoảng giữa những năm 60 thế kỷ XVI, thi hào Bồ Đào Nha Camôidơ (Lui Vaz
de Camões) - người đã làm rạng danh nền văn học Bồ thời Phục Hưng cũng đã ghé
qua Vũng Tàu và Côn Đảo đem theo tập bản thảo cuốn sử thi bất hủ Os Lusiadas
còn giữ lại được sau nạn đắm tàu ở cửa Sông Tiền. Đây là tập thơ đầu tiên của của
nền văn học phương Tây có viết về đất nước ta, trong đó có những vần thơ đẹp đẽ
nói về xứ Đàng Trong.
Trong quá trình lập nghiệp ở Đàng Trong, các chúa Nguyễn (cũng như các
vua Triều Nguyễn sau này) đều rất quan tâm đến việc hành xử chủ quyền của đất
nước đối với các vùng biển đảo trong hải phận. Thời này, tàu thuyền các cường
quốc châu Âu tăng cường hoạt động tìm kiếm thị trường, thuộc địa hoặc để đặt
thương điếm với mưu toan bành trướng ảnh hưởng.
Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), việc tuần tiễu bảo vệ chủ
quyền cũng như quyền khai thác tài nguyên ở các vùng biển được tổ chức chặt chẽ,
chu đáo. Công việc nặng nề được giao phó cho các đội hải thuyền đặc biệt, do
Nhà nước tổ chức ra, hoạt động theo những chế định nghiêm ngặt. Các vùng biển đảo
đều thống nhất các đơn vị hành chính nhất định, gắn bó với một vùng hoạt động
nhất định của mỗi hải đội. Dữ liệu còn lại cho biết: xứ Đàng Trong hồi đó có những
hải đội với quy mô tổ chức to nhỏ khác nhau:
-
Đội Hoàng Sa:
Là đội lớn nhất, quan trọng nhất phụ trách vùng biển Thuận Quảng ở ngoài khơi
xa, nơi có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và cả vùng biển phía nam Trường Sa nửa.
Đội này được thành lập cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ thứ XVIII, hoạt động mạnh
mẽ dưới đời chúa Nguyễn Phúc Chu. Đời Gia Long, hoạt động cửa đội này vẫn được
duy trì tích cực, như trước.
-
Đội Bắc Hải:
Được thành lập sau sự kiện đánh đuổi người Anh, khi họ ngang nhiên đến Côn Đảo,
lập pháo đài (1702-l705). Quần đảo Côn Lôn, trước nằm trong phạm vi hoạt động
tuần tiễu và khai thác hải sản của Đội Hoàng Sa, khi lập đội Bắc Hải thì nằm
trong phạm vi hoạt động của đội này. Nhưng thời gian không dài, vì ngay sau đó
đội Bắc Hải lại được đặt dưới quyền cai quản của đội Hoàng Sa. “Lại có Đội Bắc
Hải mộ dân thôn Tư Chính, Bình Cố hoặc xã Cảnh Dương sung vào. Được lệnh cưỡi
thuyền nhỏ ra các đảo Côn Lôn ở Bắc Hai thu lượm hóa vật, cũng do đội Hoàng Sa
cai quản luôn”. (Đại Nam thực lục tiền biên, q.10; chi tiết hơn: xem Phủ biên tạp
lục, quyển 2, tờ 84 a, b). Đội Bắc Hải đặt dưới quyền chỉ đạo của các quan chức
Phủ Gia Định với một quy chế nhân sự và cách thức quản lý thông thoáng hơn.
Nhưng về biên chế thì chủ yếu vẫn là dân thạo ghe biển trên đảo Lý Sơn (Cù Lao
Ré - thuộc phủ Bình Thuận).
-
Đội Thanh
Châu: Hoạt động trong vùng biển đảo phụ Quy Nhơn.
-
Đội Hải Môn:
(thuộc Phủ Bình Thuận), hoạt động tuần tra và thu lượm hải sản (yến sào là chủ
yếu) ở đây.
Sau cuộc kinh lý của Nguyễn Hữu Cảnh 141 năm, Côn Đảo thuộc tỉnh Vĩnh
Long quản hạt. Tòa thành đất ở Côn Đảo do Đội Thanh Hải xây dựng vào năm Minh Mạng
thứ 17 (1836) và mang tên “Thành đất Thanh Hải (Thanh Hải bảo). So với các
thành đất cùng thời, thành Côn Lôn có quy mô khá lớn: chu vi 50 trượng 8 thước
9 tấc; cao 4 thước 3 tấc, có 2 cửa, 1 pháo đài, 1 kỳ đài. Trong lần trùng tu
năm Thiệu Trì thứ 2 ( 1842) đổi tên thành Côn Lôn bảo (thành đất Côn Lôn) và đến
khi giặc Pháp chiếm Côn Đảo tòa thành vẫn còn.
Cuối thế kỷ thứ XVII và đầu thế kỷ thứ XVIII, tư bản Anh, Pháp đã bắt đầu
nhòm ngó các nước phương Đông. Nhiều lần các công ty Đông - Ấn của Anh, Pháp cho
người tới Côn Đảo điều tra, dò xét tình hình mọi mặt với âm mưu xâm lược.
Tháng 11 năm 1686, Công ty Đông - Ấn của Pháp đã phái Vê rê (Véret) tới
điều tra lập cơ sở ở Côn Đảo.
Năm 1687, Uy liêm Đampiê (Williams Dampier) nhân viên Công ty Đông - ấn
của Anh đã tới vẽ bản đồ ở vịnh Tây - Nam Côn Đảo.
Năm 1702, đời chúa Nguyễn Phúc Chu, năm thứ 12,
Công ty Đông - Ấn của Anh ngang nhiên đổ quân lên Côn Đảo xây dựng pháo đài.
Giám đốc Công ty là Len Kếtpôn (Allen Catchpole) đích thân chỉ huy cuộc chiếm
đóng trái phép này. Ông ta đưa một số lính người Macátxa^ới xây dựng một pháo đài lớn, ký hợp đồng với họ
làm trong 3 năm. “Ở Côn Đảo họ bị đau ốm lo buồn và chỉ muốn về quê nhà. Họ bí
mật chuẩn bị một cuộc nổi dậy. Đêm ngày 3-2-1705, một tiếng hú man rợ vang
trong rừng thẳm. Chính là những người lính hung hãn, da ngăm màu đồng hun đã
vùng lên tiêu diệt ban chủ người Anh (...).
Chỉ có rất ít người chạy thoát như bác sĩ Paodơ (Pould) và
ông Xalômdn Lyôt (Salomon Ilyod) đang ở bên ngoài pháo đài”2.
Nguyên nhân của cuộc nổi dậy này không phải chỉ ở chỗ người Macátxa
không chịu đựng nổi khí hậu và cuộc sống quá thiếu thốn trên đảo, cũng không phải
vì đã hết hạn hợp đồng mà bọn chủ người Anh không làm theo lời hứa đưa trả họ về
quê hương. Các tác giả Đại Nam nhất thống chí cho biết:
“Đời vua Hiển Tông triều Nguyễn (1691 - 1725) vào năm Nhâm Ngọ (1702) có
thuyền An - Liệt của bọn hải phỉ vào đậu ở đảo Côn Lôn. Tù trưởng là bọn Tô -
Thích, Già - Thi chia người làm 5 ban và đảng lõa hơn 200 người, kết lập trại
sách, tích trữ của báu như núi và những đồ bánh trái hào soạn, bốn mặt đều đặt
hỏa pháo phòng thủ.
Quam trấn thủ ở biên - trấn là Trương Phúc Phan, mộ 15 người nước Đồ Bà
mật khiến chúng trá hàng. Nhân khi ban đêm phóng lửa đốt cả trại sách của
chúng. Giết được ban nhất, ban nhì, bắt được ban năm, còn ban ba và ban tư thì
trốn thoát ra biển.
Trương Phúc Pham được tin bèn
khiến binh thuyền ra đảo, tóm thâu được cả đồ vàng lụa đem dâng nộp”3.
Lê Quý Đôn đã tra lại sổ ghi kết quả công việc của Thuyên Đức Hầu, người
trực tiếp chỉ huy đội Hoàng Sa những năm đó, từ năm 1702 đến 1709, cung cấp cho
chúng ta những con số đáng chú ý :
-
Năm Nhâm Ngọ,
(1702, năm Len Kếtpun đến chiếm đóng Côn Đảo - T.G), đội Hoàng Sa thu 1 ượm được
30 thỏi bạc.
-
Năm Ất Dậu,
(1705, năm có cuộc nổi dậy đánh đuổi người Anh - T.G), đội Hoàng Sa thu lượm được
126 thỏi bạc.
- Từ năm Kỷ Sửu
đến năm Quý Tỵ, (1709- 1713), chỉ được mấy cân đồi mồi và hải sâm, có lần họ chỉ
thu lượm được mấy khối thiếc, mấy chiếc bát đá và 2 khẩu súng đồng”4.
Như vậy cuộc nổi dậy của người Macátxa đêm 3-2-1705 là do chính quyền
nhà Nguyễn tổ chức và chỉ huy nhằm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ xứ
Đàng Trong. Kế hoạch diệt bọn hải phỉ An - Liệt được chuẩn bị chu đáo: chúa
Nguyễn khôn khéo cài người vào nội bộ địch, lợi dụng bọn lính Macátxa đánh thuê
đang bất mãn đối với bọn chủ người Anh để gây nên cuộc binh biến, kết hợp với sự
hỗ trợ từ bên ngoài. Sự việc được giải quyết gọn lẹ , không gây rắc rối trong
quan hệ bang giao vì đã có tù binh trong tay, địch khó lòng chối cãi, trong một
thời gian lâu dài về sau tránh được sự nhòm ngó của một cường quốc hải quân
hùng mạnh vào bậc nhất thời đó .
Năm 1771, cuộc khởi nghĩa to lớn của nông dân Tây Sơn bùng nổ và phát
triển mau lẹ. Từ 1776 trở đi, quân Tây Sơn nhiều lần tấn công vào căn cứ cửa
chúa Nguyễn ở Gia Định. Tháng 3 năm 1782, thủy quân của Nguyễn Ánh bị đại bại ở
cứa Cần Giờ. Tháng 6 năm1783, thủy quân Tây Sơn đánh Phú Quốc. Nguyễn Ánh trốn
chạy sang đảo Côn Lôn, đem theo hơn 100 gia đình thuộc hạ để sau này lập nên ba
làng An Hải, An Hội và Cỏ Ong xây dựng căn cứ, tính kế phục thù. Chiến thuyền
Tây Sơn đuổi theo nhưng sau đó, Nguyễn Ánh chạy thoát về Phú Quốc vì thuyền Tây
Sơn gặp bão.
Sau thất bại này, theo lời khuyên của giám mục Bá Đa Lộc, Nguyễn Ánh đã
chọn con đường cầu viện nước Pháp chống Tây Sơn để giành lại ngôi báu. Bá Đa Lộc
là Khâm sai tòa Thánh ở Gia Định từ 1765, đã giúp Nguyễn Ánh khi bị Tây Sơn
đánh đuổi vào đây, sự gắn bó giữa họ với nhau đã là nguồn gốc cho việc Pháp can
thiệp ngày càng sâu vào Việt Nam. Tháng 12 năm 1784, Nguyễn Ánh dã giao ấn tín
và hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện. Chủ trương phản động này đã
bị chính Phi Yến, người vợ trẻ của Nguyễn Ánh phản đối, nhưng Ánh không nghe và
đày bà lên hòn Côn Lôn Nhỏ cho đến chết. Hòn đảo từ đấy mang tên Hòn Bà.
Ngày 28-11-1787, thay mặt Nguyễn Ánh, Bá Đa Lộc đã ký Hiệp ước Vécxai
(Versailles) với đại diện vua Pháp là Đờ Mông-môranh (De Montmorin), theo đó
thì Pháp hứa giúp Nguyễn ánh 4 tàu chiến, 1.200 lính, 200 pháo thủ, 250 lính
người Phi . Để đổi lại, Nguyễn Ánh nhượng cho Pháp chủ quyền ở Cửa Hàn (Đà Nẵng),
cho Pháp được độc quyền thương mại ở Nam Kỳ. Quần đảo Côn Lôn cũng bị nhượng
cho Pháp (điều 3 và 5, Hiệp ước Vécxai).
Từ tháng 2 đến hết tháng 12 năm 1787, khâm sứ của giáo hoàng Bá Đa Lộc
đã được yết kiến vua Lui XVI chính tay ông ta đã vạch ra mấy phương án thực hiện
cuộc xâm lược. Với quân số và vũ khí dự kiến, ông ta đã đưa ra kế hoạch tác chiến
đánh thẳng vào Quy Nhơn. Quân lính Pháp dưới sự yểm trợ bằng hỏa lực pháo binh
đặt trên các tàu chiến, sẽ đổ bộ lên Quy Nhơn, nhanh chóng kết thúc cuộc chiến
tranh.
Cũng chính vị thầy tu này nêu lên số lượng lương thực, thực phẩm, các dụng
cụ cần thiết và cả số thuốc men cần đem theo. Nhưng chế độ quân chủ chuyên chế
Pháp đang khủng hoảng trầm trọng. Cuộc khủng hoảng tài chính đã trở thành
nguyên nhân trực tiếp chủ yếu dẫn đến cuộc Đại cách mạng Pháp năm 1789, đập tan
chế độ phong kiến, đem lại thắng lợi cho giai cấp tư sản Pháp.
Trong tình hình như vậy, triều đình Pháp không thể thực hiện được những
cam kết, Bá Đa Lộc đã trở về tay không. Bá tước Đờ Môngmoranh đã gửi những^chỉ
thị mật cho Cônuây (Conway), người chỉ huy lực lượng pháp ở Ấn Độ không thực hiện
cuộc can thiệp vì tình hình tài chính không cho phép. Không cam chịu thất bại,
vị giám mục có đầu óc thực dân này ghé qua Pôngđisên vận động một số thương
nhân Pháp hùn tiền mộ lính, mua súng ống giúp Nguyễn Ánh. Tháng 9 năm 1788, tàu
Đơriađơ và La Tron đã chở tới Côn Đảo 1.000 khẩu súng trường và mấy khẩu thần
công.
Cần nhắc lại rằng từ khi ký kết Hiệp ước Vécxai cho tới khi Pháp có âm
mưu chiếm Côn Đảo cuối năm 1861, cả hai bên Pháp cũng như triều đình nhà Nguyễn,
không bên nào nhắc đến hiệp ước đó cả. Về mặt pháp lý cũng như trên thực tế, hiệp
ước này không có giá trị gì.
Tháng 7 năm 1857, sau nhiều lần khiêu khích, gây hấn dưới chiêu bài phản
đối chính sách bế quan tỏa cảng và chính sách cấm đạo, Pháp quyết định xâm lược
Việt Nam, bảo đảm sự hiện diện của Pháp ở Viễn Đông. Ngày 1-9-1858, Pháp tấn
công Đà Nẵng, chiếm đóng bán đảo Sơn Trà, chuẩn bị đánh Huế. Nhưng cuộc đồn trú
hao người tốn của ở Đà Nẵng đã làm suy yếu nhanh chóng lực lượng Pháp: viện
binh chẳng có, sự ủng hộ của giáo dân cũng không, mặc dù các cố đạo đã hứa hẹn.
Việc đánh Huế cũng khó khăn vì quân triều đình đã co cụm lại và tổ chức phòng
thủ vững chắc. Tất cả sự việc đó buộc quân Pháp phải thay đổi phương hướng chiến
lược đánh chiếm Gia Định. Tháng 2 năm 1859, sau những trận đẫm máu ở Vũng Tàu
(10- 2-1859), Can Giờ (11-2-1859), giặc Pháp hạ thành Gia Định (17-2- 1859).
Sau một thời gian củng cố lại lực lượng, tháng 4 năm 1861, Pháp đánh chiếm
Định Tường. Chính trong thời gian này, Pháp khẩn cấp đặt vấn đề chiếm Côn Đảo,
sợ Anh nhảy vào hớt tay trên vị trí chiến lược quan trọng này.
Bộ trưởng Hải quân và thuộc địa Pháp, Saxơlu Lô ba (Chasseloup Laubat),
ngày 10-7-1861 gửi thư cho đô đốc Sácne (Char-ner), chỉ huy đạo quân xâm lược
Việt Nam lúc đó, nói rõ: “Người ta cho tôi biết rằng quần đảo Côn Lôn là thuộc
quyền sở hữu của chính quyền An Nam... đồng thời cũng lưu ý tôi đến mối hiểm
nguy nếu như có một cường quốc Tây phương nào đó đến chiếm cứ hải đảo này... Liệu
việc cắm cờ để chiếm lĩnh có đủ chứng minh chủ quyền của ta trên đảo hay không”
.
Thấy Sácne không tán thành việc đánh giá vai trò quần đảo Côn Lôn như Bộ
hải quân nhận định, Saxơlu Lô ba lo lắng. Đô đốc Bông (Bonard) thiếu tướng hải
quân được cử sang thay thế. Vừa lúc Bông sang Nam Kỳ nhậm chức, Bộ trưởng Hải
quân Pháp lại gởi thư nhấn mạnh: “ Trong các chỉ thị tôi gởi ngài, có một vấn đề
tôi hằng lưu ý ngài, đó là vấn đề quần đảo Côn Lôn. Đô đốc Sácne có gửi thư cho
tôi nói rằng: quần đảo đó đối với chúng ta không có giá trị gì. Chỉ cần nhìn
lên bản đồ tôi cũng đã không thể tán thành quan điểm này rồi. Tôi luôn lo ngợi
rằng sẽ có một quốc gia nào đó tới chiếm hải đảo, biến nó thành pháo đài quan
sát rất nguy hiểm cho chúng ta. Phải cố gắng chiếm lấy, lấy cớ là để xây dựng một
ngọn hải đăng”.
“ ...Ta phải làm một cái gì đó để khỏi bị lúng túng khi có người phản
kháng chúng ta một cách hợp pháp. Trong trường hợp ngược lại, thì đó cũng là một
bằng chứng đề chủ quyền của ta. Tôi đặt tin tưởng vào sự thật trọng và khéo léo
cua ngài. Xin nhắc lại với ngài một lần nữa răng : Tôi luôn luôn quan tâm đến vấn
đè này”.
Với tên thực dân cáo già như Bông thì chẳng phải đợi có chỉ thị này mới
hành động. Vừa chân ướt chân ráo đến Sài Gòn, ngày 23- 11-1861, ông ta đã hối
thúc Sácne chiếm ngay quần đảo. Sáne ra lệnh cho viên chỉ huy thông báo hạm
Noócdagaray (Norzagaray) phải thực hiện. Đây chỉ là một tàu chiến nhỏ, động cơ
50 sức ngựa, do một trung úy hải quân chỉ huy. Vả lại cũng chỉ cần có thế vì
Pháp biết rõ lực lượng triều đình Huế ở hải đảo không đáng kể mà quan lại của
triều đình không có tinh thần chiến đấu, nhiệm vụ cũng không mấy khó khăn. Bất
ngờ đột nhập rồi chọn một chỗ nào đó kéo lá cờ Pháp lên và làm một biên bản chiếm
lãnh, yêu cầu chỉ có thế. Cái mà Pháp lo ngại chính là sự phản kháng của một nước
thực dân khác kia.
10 giờ sáng ngày 28-11-1861, Lơpexơ (Lespès) đã cho tàu Noócdagaray tới
Vũng Đầm, kéo lá cờ Pháp rồi lập một số tờ biên bản về việc chiếm lãnh với lời
lẽ huênh hoang cua một tên xâm lược. Từ Sài Gòn, đô đốc Bông đã báo cáo về Pháp
và gởi kèm theo tờ biên bản.
Đúng như Bộ trưởng Hải quân Pháp lo ngại, phía Anh đã phản đối việc làm
không mấy vẻ vang này. Họ cho rằng việc tuyên bố chiếm lãnh Côn Đảo không có
giá trị pháp lý vì được thực hiện dưới danh nghĩa thi hành Hiệp ước Vecxai, một
hiệp ước chính người Pháp không thi hành. Cũng vì vậy trong, trong hòa ước Nhâm
Tuất ký ngày 5-6-1862, Pháp đã buộc phải ghi thêm việc vua nước Nam phải nhường
cho Pháp đảo Côn Lôn (điều 3 hiệp ước), nghĩa là vẫn phải hợp thức hóa hành động
chiếm lãnh ngang ngược này.
Sau khi chiếm Côn Đảo, Bông phái ngay thông báo hạm Mông giơ (Moge) ra đảo
làm công tác an dân và điều tra tình hình mọi mặt. Thái độ của quan lại triều
đinh là quy thuận và hợp tác với Pháp. Viên chánh bát phẩm thư lại đem lá cờ
Pháp treo ngay trên tư dinh ngày 14-1-1862 chiếc tàu chở hàng Nievơrơ (Nièvre)
chở một số nhân viên ra đảo thay thế cho thông báo hạm Mông giơ. Họ có nhiệm vụ
tìm vị trí dựng tạm Hải Đăng Côn Đảo, chống chế nếu có nước nào phản kháng hành
động xâm lược vừa rồi. Quan trọng hơn nữa là việc chuẩn bị cơ sở đón nhận 50 tù
nhân sắp gởi ra.
Phêlích Rút xen (Félix Roussel), Quản đốc tương lai của Nhà tù Côn Đảo
được giao nhiệm vụ này. ông ta thăm dò đám quan lại và ngục tốt cũ của triều
Nguyễn còn đóng ở đây, báo cáo về Sài Gòn xin lập một đại đội lính bản xứ tuyển
ngay trong số những người đó, đồng thời làm một số nhà tạm bằng tranh tre nứa
lá đủ sức chứa 200 tù, như Bông đã chỉ thị.
Ít lâu sau, tàu Êcô (Écho) chở 50 người tù ra đảo, đây là chuyến tù đầu
tiên tới Côn Đảo. Trên đảo lúc đó còn 119 người tù của triều đình Huế, có một
đơn vị ngục tốt gồm 80 người, và 4 thư lại dưới quyền điều khiển của viên hải
trấn (hàm bát phẩm thư lại). Tất cả đóng trong một tòa thành đất, xung quanh có
những nhà tranh nhỏ của gia đình những người tù cựu trào.
Cho tới lúc này, dân trên đảo và những người tù cũ cũng như đám ngục tốt
trên hải đảo vẫn chưa biểu lộ thái độ chống đối gì. Thông báo hạm Noócdagaray
lúc ấy do trung úy hải quân Sơvahê (Chevaher) chỉ huy cũng vừa ghé qua đảo.
Sơvaliê tỏ ra hài lòng về đơn vị ngục tốt người bản xứ vừa được thành lập, cho
đó là “một lực lượng chân chính có tinh thần cao”.
Ngày 1-2-1862, Bông quyết định thành lập nhà tù ở Côn Đảo, Saxơlu Lô ba
đã phê chuẩn. Khi nhận được báo cáo của Rút xen, Bông liền bổ sung thêm một số
điều khoản liên quan tời việc đãi ngộ đám nhân viên mới thu dụng, cử Rút xen
làm Quản đốc đầu tiên của nhà tù. Một thuyền chiến bằng gỗ mới đóng mang tên
Giô dép (Saint Joseph) trên đó có 12 lính do một thiếu úy chỉ huy được đưa ra đảo
làm nhiệm vụ “một trạm gác nổi” để bảo đảm an ninh cho nhà tù vừa thành lập. Lực
lượng tại chỗ của Pháp yếu hẳn đi sau khi chiếc tàu Nievơrơ được lệnh rút.
Đã đến lúc người dân Côn Đảo tỏ rõ thái độ trước việc quân Pháp chiến
Côn Đảo, phản đối việc triều đình Huế đầu hàng, ký hòa ước Nhâm Tuất cắt nhượng
Côn Đảo và ba tỉnh miền Đông cho giặc.
Đêm 28-6-1862, tù nhân bắt đầu cuộc nổi dậy. Họ phá xiềng vào nhà tên
chúa ngục Rút xen. Binh lính và chỉ huy đơn vị người Việt vừa thành lập đã liên
kết với tù nhân để hành động. Viên đội chỉ huy đã đem súng trang bị cho tù
nhân. Họ đốt phá công sở, thiêu cháy nhà tù Côn Đảo. Một người tù gốc Hoa phản
bội, báo cho Rút xen biết nên Rút xen đã cùng với 3 thuộc hạ người Pháp, 2 lính
công binh và một thủy thủ chạy trốn trên chiếc pháo thuyền Xanh Giô dép. Nghĩa
quân làm chủ Côn Lôn.
Ngày 13-7-1862, nửa tháng sau khi cuộc khởi nghĩa bùng nổ, Bông mới phái
thông báo hạm Noócdagaray vừa được tăng cường thêm một số lính tới đánh chiếm lại
Côn Đảo. Nghĩa quân chống lại mạnh mẽ, nhiều trận chiến đấu đã diễn ra ở An Hải.
Rút xen cũng đã trở lại phối hợp với Sơvaliê tổ chức những cuộc càn quét khủng
bố nhân dân trên đảo. Tên tù phản bội lại dẫn quân Pháp đi lùng sục. Nhân dân
đã cùng nghĩa quân rút lên núi. Họ lập trại, đóng thuyền để đưa người về đất liền.
Giặc chia thành nhiều mũi càn quét, giết chết hai người và bắt được hơn
100 người, trong đó có một số tù ,nhân. Cả viên đội chỉ huy người Việt chỉ huy
đơn vị coi tù cũng bị bắt, chính ông là người đã phát súng đạn cho nghĩa quân.
Nghĩa quân cũng đã tổ chức cho 30 người tù 2 người lính và 6 dân thường dùng
thuyền vượt biển. Họ giết được 30 tên địch.
Sau 13 ngày càn quét, khủng bố, Pháp đã thiêu hủy 12 lán trại, đốt một
thuyền to. Ngày 25-7-1862, quân Pháp đem 20 nghĩa quân bị bắt ra xử bắn.
Trong ký ức của nhân dân Côn Đảo còn ghi lại một chuyện căm thù: sau một
cuộc săn lùng ráo nết,, ngoài số người chúng đã giết tại chỗ, giặc bắt về 20
người. Chúng bắt họ đào một hố to chôn hơn 100 xác người bị chúng giết. Lấp
xong ngôi mộ tập thể đó, chúng đem chôn sống cả 20 người kia. Trước năm 1945,
trên con đường ra Bưng Sấu người ta còn thấy nhiều xương chi, xương sọ trồi lên
ven các gò cát, mỗi khi gió chướng thổi về.
Tháng 5 năm 1863, thiếu úy hai quân Risa(Richard) được phái đến Côn Đảo
để ổn định tình hình, tiếp tục xây dựng nhà tù Côn Đảo đã bị cuộc khởi nghĩa
Tháng Sáu 1862 làm đình trệ. Số người bị Pháp bắt giam trong các cuộc càn quét ở
ba tỉnh miền Đông Nam Bộ ngày một nhiều. Viên quản đốc mới của Nhà tù Côn Đảo
được phái ra cùng với chuyến tàu chở 46 người tù .
Theo báo cáo của Risa, giữa năm 1863, nhà tù Côn Đảo trống trơn, tình cảnh
của dân chúng khốn quẫn đến mức “không sao tả xiết”. Mùa màng bị thất bát, vườn
tược bỏ hoang, lương thực thực phẩm thiếu thốn nghiêm trọng, đến thóc giống
cũng không có. Nạn đói hoành hành trên đảo. Người dân phải ăn củ rừng, thằn lằn,
dơi, chuột... tất cả những gì tìm được. Bầu không khí khủng bố, nỗi kinh hoàng
bao trùm lên hòn đảo đã bị tàn phá nặng nề này. Nhiều tù nhân còn ẩn náu trên rừng,
đêm tối mới xuống nhà dân tìm cái ăn.
Cả Côn Đảo lúc đó còn có 317 người, trong số đó có
76 phụ nữ là dân đảo; 20 người là vợ con tù nhân; số tù cũ còn lại 17 người.
Người dân Côn Đảo đã chọn con đường đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh để bảo vệ hải
đảo. Cuộc khởi nghĩa Tháng Sáu 1862 là lời cảnh báo đanh thép đối với bọn xâm
lược.
(1)Trước kia, quần đảo Côn Lôn có 14 hòn đảo với tổng diện
tích là 72,18km. Từ năm 1995, Nhà nước ta giao cho huyện Côn Đảo được quản lý thêm 2 hòn đảo mang tên Hòn Anh và Hòn Em (còn gọi
là Hòn Trứng lớn và Hòn Trứng nhỏ) cách trung tâm thị trấn Côn Đảo 27 hải lý về
phía Tây (chếch Nam 50). Với 16 hòn đảo kể trên, Côn Đảo có tổng diện tích là:
76,71 km2
—
1. Dân đảo
Sulavêdi thuộc quần đáo Inđônêxia.
2. Poulo
Condore: T.F.E.O. Sài Gòn 1947, trang 7.
3.
Đại Nam nhất thống chí, Tỉnh Vĩnh Long, Sơn Xuyên.
Bản dịch của Nguyên Tạo, Nhà Văn hóa, Bộ quốc gia giáo dục Sài Gòn xuất bản
1959, tr.10-11.
4. Lê Quý Đôn,
Sách đã dẫn, Quyển 2, tờ 83b, 84a,b. Bản dịch của Lê Xuân Giao, Phủ Quốc vụ
khanh, đặc trách văn hóa Sài Gòn xuất bản 192, Tập I, tr. 202-212 (có in nguyên
tác chữ Hán).
Dưới con mắt của bọn thực dân, Côn Đảo là một nơi lý tưởng, có khả năng
đáp ứng tốt nhất những yêu cầu đối với một nhà tù. Chúng cho rằng, Côn Đảo bốn
bề trời biển mênh mông, cách đất liền gần trăm hải lý, không có phương tiện,
người tù khó bề trốn thoát. Người ở bên ngoài cũng không có cách nào cứu thoát
người tù. Ở hải đảo xa xôi này những người cách mạng sẽ bị cắt đứt mọi quan hệ
với gia đình, xã hội, với phong trào cách mạng và quần chúng nhân dân, không thể
hoạt động gì được.
Côn Đảo là một quần đảo hoang vắng, không như nhà tù ở các điểm dân cư lớn
trong đất liền như Hỏa Lò ở Hà Nội, Khám Lớn ở Sài Gòn, cho nên ở đây có thể
thi hành những biện pháp đàn áp dã man, tàn bạo nhất, người tù có đấu tranh mạnh
mẽ tới đâu đi nữa cũng không thể gây được ảnh hương gì. Bọn cai ngục có thể thẳng
tay giết hại người tù mà không ai hay biết. Chẳng thế, bọn thực dân đã đe dọa:
“Ra Côn Đảo mà hò la cho sóng biển nghe!”, “Ra Côn Đảo mà đấu tranh với cá mập!”.
Côn Đảo là nơi dân cư thưa thớt, nguồn lợi thiên nhiên phong phú. Muốn
khai thác vùng đất này phải đưa nhân công từ nơi khác đến, cho nên dùng sức tù
nhân ở đây thì thật là thích hợp.
Nhận rõ vị trí đặc biệt của Côn Đảo, thực dân Pháp đã sớm quyết định xây
dựng nhà tù đầu tiên ở Đông Dương trên quần đảo này, nhằm:
-
Cách ly những
phần tử chống đối chính sách cai trị của thực dân, nguy hiểm và có hại đối với
an ninh ở thuộc địa;
-
Dùng chế độ tù
đày khắc nghiệt để hành hạ, giết dần giết mòn người tù, đè bẹp ý chí phản kháng
của họ, răn đe những người còn ở ngoài đời, làm cho họ khi ra tù thì tinh thần
bạc nhược, khiếp sợ, thân thể tàn phế, không còn dám làm gì chống lại “mẫu quốc”
và chế độ thống trị ở thuộc địa;
-
Bóc lột sức
lao động của người tù để xây dựng và khai thác thuộc địa.
45 ngày sau khi chiếm hải đảo, Bông đã phái viên trung úy hải quân
Phêlích Rút xen đáp chiếc tàu hàng Nievơrơ ra xây dựng một cơ sở tạm thời đủ chứa
chừng 200 người tù .
Ngày 1-2-1862, Bông ký quyết định thành lập Nhà tù Côn Đảo. Tháng 3 năm
1862, ông ta lại bổ sung một số điều khoản liên quan đến việc sử dụng, đãi ngộ
đám quan lại và ngục tốt cũ của triều đình Huế, lập một đại đội lính bản xứ để
canh gác tù, cử Rút xen làm Quan đốc đầu tiên của nhà tù, cho thuyền chiến Êcô
(Echo) chở 50 người tù đầu tiên ra rồi ở lại đó làm nhiệm vụ canh gác trên biển.
Rút xen nhận được chỉ thị phải nhanh chóng tổ chức trồng trọt và chăn nuôi gia
cầm, gia súc, coi đó là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Nhưng cuộc khởi nghĩa
của nhân dân và tù nhân Côn Đảo nổ ra ngày 28-6- 1862 đã phá tan nhà tù vừa mới
dựng, buộc thực dân Pháp phải làm lại từ đầu với viên Quản đốc thứ hai của Nhà
tù Côn Đảo, trung úy hải quân Bi dô (Bizot). Giữa năm 1863, Bi dô mới ra đảo, bắt
tù mò san hô, lấy củi, lập lò nung vôi, nung gạch, khai thác đá làm nhà tù. Tàu
Êcô chở chuyến tù thứ hai, có 45 người ra giam ở đảo.
Sau khi đã chiếm xong ba tỉnh miền Tây Nam Bộ, số người bị Pháp bắt tăng
thêm nhiều, đến nỗi phải cắt cử một trung đội lính đến gác và nâng thêm biên chế
nhân viên trại giam Côn Đảo. Tính đến tháng 7 năm 1867, ở đảo đã có tới 500 tù
nhân. Nhà tù Côn Đảo lúc này chưa có quy chế, phải áp dụng quy chế của Khám Lớn
(Sài Gòn). Tổ chức nhà tù đã khá chặt chẽ. Biên chế người bộ máy đã có 11 người
Âu, một số giám thị người Việt và một trung đội lính thủy đánh bộ. Nhà tù đặt
dưới quyền quản lý của Giám đốc Nội chính thuộc Soái phủ Nam Kỳ. Viên Quản đốc
nhà tù có những quyền hạn về tư pháp đối với toàn hải đảo, quyền hành ngang với
chức thanh tra bản xứ vụ ở các tỉnh khác. Công việc dự thảo quy chế Nhà tù Côn
Đảo được đẩy mạnh.
Ngày 31-1-1873, Thống đốc Nam Kỳ Đuypơrê (Dupré) ban bố quy chế riêng
cho Nhà tù Côn Đảo, gồm 43 điều, xác định trách nhiệm các nhân viên quản lý nhà
tù, lương bổng, y phục cho mỗi loại, quy định chế độ khổ sai và các biện pháp
trừng phạt người tù. Về thực chất vẫn là sự sao chép quy chế Khám Lớn (Sài
Gòn), tuy có châm chước ít nhiều. Bản quy chế 1873 được áp dụng ở Côn Đảo 16
năm liền.
Ngày 16-5-1882, Tổng thống Pháp Giuyn Gơrêvi ký sắc lệnh công nhận quần
đảo Côn Lôn là một quận của Nam Kỳ, dưới quyền của viên Quản đốc chức vụ tương
đương một viên tham biện bản xứ vụ (là quan đầu tỉnh thời đó ). Nhiều vấn đề về
tính chất pháp lý của nhà tù được đặt ra như: Chức năng hành chính và quân sự của
viên Quản đốc như thế nào? Côn Đảo sẽ phát triển kinh tế ra sao? Nó chỉ là một
hòn đảo giam tù hay sẽ trở thành một quận có ngân sách tự trị như các quận
khác?
Cuộc nổi dậy với quy mô to lớn của tù nhân xây dựng Hải Đăng Côn Đảo ở
Hòn Bảy Cạnh ngày 27-8-1883 lại đặt vấn đề siết chặt kỷ luật đối với tù nhân,
loại trừ những điều còn sơ hở trong việc điều hành nhà tù.
Bản quy chế thứ hai được soạn thảo và công bố ngày 11-12-1889 đã có tới
24 chương, 122 điều, bộ máy trị tù lên tới 87 người không kể quân số một đại đội
thuộc Binh đoàn thuộc địa số 11 làm nhiệm vụ canh gác. Các sở trồng trọt, chăn
nuôi, Sở lưới được tổ chức chu đáo hơn. Đặc biệt lại có thêm một kỹ thuật viên
trồng trọt trông coi việc chăn nuôi, trồng trọt và phân phối thực phẩm tươi sống
cho nhân viên các sở. Đối với tù nhân, bản quy chế có ghi thêm điều khoản số
51, chương X: “Cho phép các giám thị người Âu được quyền sử dụng vũ khí đối với
đám tù nổi loạn hay âm mưu vượt ngục sa khi bắn chỉ thiên 3 phát mà không giải
tán được hay trong trường hợp không bắt giữ được người tù vượt ngục”.
Bản quy chế này được áp dụng trong suốt thời kỳ thực dân Pháp tiến hành
công cuộc bình định và củng cố bộ máy cai trị ở Đông Dương. Theo đánh giá của
viên chức ngạch cai trị, việc khai thác sức lao động tù nhân theo bản quy chế
này tỏ ra rất có hiệu quả.
Thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XIX là giai đoạn “khó khăn”của Nhà tù Côn Đảo.
Nhà tù đòi hỏi một khoản chi quá lớn. Các địa phương đều có nhà giam, nơi nào
cũng cần đến sức lao động khổ sai của tù nhân để xây dựng công thự, đường sá, cầu
cống. Nhu cầu về sức lao động ở các thuộc địa khác như Guyan, Nuven Calêđôni,
Tahiti đang rất cấp bách, Bộ Hải quân và thuộc địa hàng ngày kêu gào nhân công
để làm đường và khai mỏ ở các thuộc địa của nước Pháp.
Nghị định ngày 12-7-1891 của Toàn quyền Đờ Lanétxăng (De Lanessan) nói
rõ: các tội phạm có án sẽ được đưa đi bất cứ nơi nào trong toàn xứ Đông Dương để
dùng vào việc công ích. Ông ta cũng chỉ thị cho Nhà tù Côn Đảo phải chuyển 200
tù bằng tàu thủy Annamít ra Bắc Kỳ để làm con đường chiến lược Tiên Yên - Lạng
Sơn. Tù Côn Đảo và Khám Lớn (Sài Gòn) cũng được sứ dụng để xây dựng thành phố
Vũng Tàu. Thành phố này hàng ngày có tới 600-700 người tù làm khổ dịch trên các
công trường làm đường vòng quanh Núi Lớn, Núi Nhỏ , xây trại lính, công thự,
nhà ở của binh lính, sĩ quan, viên chức thuộc địa, xây dựng hệ thống vị trí đặt
pháo lớn bảo vệ bờ biển...
Số tù giam ở Côn Đảo vợi hẳn đi. Người ta đã nêu ý kiến xét lại sự tồn tại
của Nhà tù Côn Đảo, xác định lại xem ngân sách nào đài thọ, có nên phân tán tù
nhân Côn Đảo về cho các tỉnh quản lý và sử dụng hay không? Bàn đi cãi lại mãi,
rút cuộc đâu lại vào đó. Nhà tù Côn Đảo vẫn rất cần thiết cho nền thống trị
Pháp tại Đông Dương, phải tiếp tục củng cố nó dù tốn kém đến mấy. Côn Đảo là
nhà tù phục vụ lợi ích chung của cả Đông Dương, nhưng giao cho Nam Kỳ quản lý,
do ngân sách thuộc địa tài trợ.
Trong bối cảnh đó , bản quy chế hoàn chỉnh của Nhà tù Côn Đảo được ban bố
thi hành kể từ ngày 17-5-1916. Rút kinh nghiệm việc thi hành những bản quy chế
trước, bản quy chế 1916 đã tạo ra cơ sở pháp lý ổn định, vừng chắc để điều hành
ở Nhà tù Côn Đảo. Tù nhân được phân loại, thủ đoạn bóc lột lao động người tù
tinh vi chặt chẽ hơn. Chế độ giam cầm, thủ đoạn tàn ác tù nhân nghiệt ngã hơn.
Côn Đảo thật sự trở thành công cụ đàn áp lợi hại, có hiệu quả để xứng đáng với
ngạch cai trị vừa được hoàn thiện nhằm đối phó với phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc ngày một dâng cao ở Đông Dương.
Từ đó đến năm 1945, không thấy có gì thay đổi nhiều trong quy chế Nhà tù
Côn Đảo nữa.
Hệ thống các cơ sở giam giữ tù nhân ở Côn Đảo được xây dựng dần dần từ
1862 đến 1945. Hệ thống đó bao gồm: những trại giam (các banh) và những sở
chuyên môn, gọi tắt là các sở tù.
Các trại giam
Các trại giam chính ở Nhà tù Côn Đảo là:
Banh I1: ở ngay giữa
thị trấn Côn Đảo.
Banh II: ngay cạnh Banh I, gần Nhà thương Côn Đảo.
Banh III: ở ngoại Ô thị trấn, nằm bên trái đường xuống sở Lò Vôi, cách
Banh I khoảng một km.
Banh phụ của Banh III mới xây năm 1941.
Đó là những khu nhà xây kiên cố bằng gạch, lợp ngói, nằm khuất sau 4 bức
tường rào cao hơn 3 mét, trên cắm mảnh chai và chăng kẽm gai, bốn góc có 4 tháp
canh, hoàn toàn cách biệt với đời sống bên ngoài. Ngoài ra còn có một số trại
giam nhỏ kiến trúc sơ sài: tường đất, mái tranh hoặc có nơi vách làm bằng gỗ,
mái lợp ngói, phân bổ rải rác ở các sở tù khổ sai.
Banh I: Trong một thời gian lâu dài, Nhà tù Côn Đảo chỉ có một banh này,
đây là nơi giam giữ đủ các loại tù Banh I được xây dựng trên một khoảng đất rộng
1015 m2 ở ngay trung tâm thị trấn Côn Đảo. Trước cửa Banh I là Văn phòng Xếp
chánh. Sau Banh I là dãy nhà của gác ngục ngoại quốc. Bên trái Banh I là trại
lính Tây, có một đại đội linh bộ binh thuộc Binh đoàn thuộc địa số 11. Năm
1875, chúng đã xây xong bức tường đá bao quanh Banh I và dãy khám bên phải cùng
Nhà bếp và một số xà lim. Bức tường cao bao bọc Banh I xây bằng đá tảng, đứng
bên ngoài chỉ nhìn thấy những mái nhà và ngọn báng nhô lên. Từ cổng sắt lớn
nhìn vào, bên phải cổng, phía ngoài tường banh là Văn phòng giám thị, bên trái
là nhà kho Banh I, nơi chứa gạo, thực phẩm tươi sống từ các sở tù đưa về: hàng
ngày công chức, giám thị người Việt và cả những ngươi tù làm ở sở ngoài đến
lãnh thực phẩm.
Qua cổng sắt đi vào có hai dãy khám giam. (còn gọi là phòng giam) là nơi
nhốt tù nhân. Giữa hai dãy khám là một khoảng sân có trồng hai hàng bàng. Cuối
sân, đối diện với cổng vào có một giếng nước. Dãy bên phải có 5 khám giam, đánh
số từ một đến 5, tiếp đó là khu Nhà bếp. Sau Nhà bếp là sân đập đá, có cổng sắt
dày và tường đá bao quanh, nơi dành cho những người tù khổ sai thuộc loại “nguy
hiểm” không được ra khỏi banh. Dãy bên trái cũng có 5 khám giam, đánh số từ 6 đến
10. Ngoài các khám giam là một hàng hiên rộng, đó là chỗ để người tù ăn cơm và
tập trung mỗi khi ra vào khám.
Mặc dù rộng hẹp có khác nhau, các khám giam đều được xây theo cùng một
quy cách. Đó là một gian nhà rộng chừng 150 m2, tường đá dày 50-60 cm. Bốn Ô cửa
sổ hẹp khoảng 50 x 60 cm, bố trí ở chỗ đầu tường giáp mái ngói, còn bị bịt kín
bằng những tấm tôn dày có trổ những lỗ nhỏ như đầu đinh, khiến cho không khí
không thể lưu thông được.,Khám giam chỉ có một cửa ra vào hẹp, có một cánh cứa
gỗ dày nẹp sắt kiên cố, có chốt khóa thô và nặng, tù nhân thường gọi là cửa “rôn”
(cửa ngục).
Bước qua ngưỡng cửa lại có một chuồng cửa bằng những gióng sắt to lắp
vào một khung sắt chụp lấy lối đi từ phía trong, trông như một cái lồng hình chữ
nhật dựng đứng, tù nhân gọi là cửa tăm bua. Cửa tăm bua đóng mở bằng loại chốt
khóa đặc biệt. Cánh cửa “rôn” có một tò vò có nắp sắt đậy kín, chỉ có thể hé mở
từ phía bén ngoài để cho cai ngục nhòm vào kiểm tra bên trong khám khi không cần
mở cửa “rôn”. Cửa tăm bua có tác dụng giữ cho tù không gây mất trật tự ở ngay lối
ra, đồng thời bảo vệ giám thị khi cần bước vào ở phía trong khám để kiểm soát,
sau khi mớ cánh cửa gỗ bên ngoài. Hai mái nhà nặng nề kéo sụp xuống quá đầu tường
chắn hết gió và ánh sáng từ mọi hướng. Ngay giữa trưa nắng, khi đóng cửa “rôn”
lại thì khám giam tối như bưng, không khí ngột ngạt, lại thêm mùi cầu tiêu ở
góc khám xông lên nồng nặc, vì cả ngày chỉ được dọn một lần vào buổi sáng. Một
ngọn đèn treo lòng thòng giữa khám, cao trên tầm người với, phát ra một thứ ánh
sáng lờ mờ.
Phía sau cái giếng cuối sân banh là dãy xà lim và Hầm Xay lúa. Dãy xà
lim Banh I có cả thảy 20 xà lim, còn gọi là “hầm” tuy xây nổi trên mặt đất: 10
cái quay ra phía cổng banh, 10 cái kia đấu lưng lại, quay mặt vào bức tường
banh phía sau. Xà lim nhỏ có thể nhốt một hoặc hai người tù, cái lớn nhốt được
5 đến 7 người tù. Nói hầm tối tức là nói đến loại xà lim nhỏ, chiều dài hơn 2
mét, rộng hơn 1 mét, chỉ để hở một cái lỗ nhỏ lại bịt kín bằng một lưới sắt.
Sàn nằm bằng xi măng. Trên sàn có chôn một cái cùm gồm một suốt và hai vòng sắt.
Người tù bị chốt chặt hai chân vào đó suốt ngày. Một tháng bị phạt ở xà lim còn
phải ăn cơm nhạt, uống nước lã 10 ngày. Hầm xây bằng đá, cao hơn 2 mét, trần
xây cuốn. Mùa hè thì bắt nóng hầm hập suốt ngày. Mùa đông thì hơi đá tỏa ra, lạnh
thấu xương. Cửa xà lim bằng sắt dày, đóng vào là kín như hũ nút, vách hầm sơn hắc
ín đen ngòm.
Người tù trần truồng, chân bị cùm, nằm ngửa mặt lên trần suốt ngày,
trông nhơ một thây ma trong nhà mồ. Vào hầm tối ít lâu là người héo quắt lại, mắt
mờ, chân đứng không vững. Cửa hầm tối cũng như cửa xà lim đều đóng im ỉm suốt
ngày, chỉ hé vội trước giờ ăn để đưa cơm vào cho người tù.
Năm 1930, 1931, 1932, nhiều người tù bị nhốt trong hầm tối, bị cắt suất
ăn ba ngày liền. Ngày thứ tư mới được một nắm gạo xay dối, đến ngày thứ năm mới
được một nắm cơm nhỏ. Theo quy chế, lệnh phạt nhốt hầm phải đợi quyết định của
Thống đốc Nam Kỳ, căn cứ vào báo cáo của quản lý nhà tù ! Hình phạt nhốt hầm tối
không kéo dài quá một tháng và chỉ dành cho những người nào đã qua 5 lần phạt
xà lim hoặc bị nhốt xà lim hơn 60 ngày. Cũng theo quy chế thì 8 ngày một lần,
viên y sĩ của trạm xá nhà tù phải tới các hầm tối kiểm tra không khí và ánh
sáng tối thiểu có đủ để duy trì sức khỏe cho người tù hay không. Nhưng đó chỉ
là những quy định trên giấy.
Hầm xay lúa là khu vực nhốt những người tù thuộc loại “bất trị”, rất
“nguy hiểm”cho nhà tù. Phạt xà lim và hầm tối chưa đủ tác dụng thì tiếp tục đày
đọa họ xuống làm khổ sai ở Hầm xay lúa. Khu này gồm một khám giam có bệ xi măng
để tù nằm và một gian hầm xay lúa để tù làm khổ sai. Khám giam cách hầm xay lúa
một hành lang hẹp, làm nơi ăn cơm của tù nhân. Hầm xay lúa có 5 cối xay làm bằng
vỏ thùng tonnô cũ. Phải 6 người tù mới quay nổi cái cối đó. Cứ hai người xiềng
làm một, tù nhân phải quần quật quay cối xay từ 6 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Suốt
ngày, lúc nào cũng bụi mù mịt và nhiều người tù đã mờ mắt sau một năm ở đây.
Banh II: được xây dựng năm 1917 do thợ ở sở Tràng Tiền đưa ra xây. Từ cổng
vào, bên phải phía ngoài tường banh là Văn phòng xếp banh, bên trái phía trong
là khu xà lim Banh II gồm 14 xà lim chuyên nhốt những trọng phạm; trong số đó
có những người bị giặc kết án tử hình đợi ngày hành quyết. Máy chém chở từ Khám
Lớn (Sài Gòn) ra, đựng trong 4 cái hòm sơn đen được lắp đặt ở trước bệnh xá
Banh II. Banh II cũng có hai dãy khám giam nhưng được xây dựng cao hơn, có cầu
thang sắt chạy dọc suốt dãy để bọn giám thị đi tuần. Cuối sân banh, đối diện với
cổng vào là bệnh xá của nhà tù. Banh II là nơi cấm cố tù chính trị.
Banh III: Banh này được khởi công xây vào năm 1928 gần trại cùi cũ, cùng
thời với dãy nhà ở của giám thị. Banh III lúc đầu là nơi tạm giam tù nhân mới ở
đất liền đưa ra đảo, họ bị nhốt ở đây 8 ngày, sau đó mới phân đi các banh khác,
hoặc là giam ở đây. Làm như vậy cốt để những tin tức do tù từ đất liền đưa ra,
sợ ảnh hưởng đến tù cũ . Sau này Banh III dùng làm nơi giam những người tù
chính trị được hệt vào hạng “nguy hiểm” và “bất trị” vì can tội âm mưu phá rối
trị an. Banh III có 3 dãy khám, chia thành 2 khu tách biệt. Nhìn từ cổng chính
vào, dãy bên trái và dãy bên phải, họp với khu bếp cuối sân thành hình chừ U.
Sau dãy khám bên phải, cách một bức tường ngăn là khu biệt giam của Banh III.
Banh phụ của Banh III: Banh này xây năm 1941 để chứa tù bị bắt trong cuộc
khủng bố trắng sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, nhất là sau Nam
Kỳ khởi nghĩa. Đây là một trại nhỏ có hai dãy khám giam. .
Từ khì thành lập đến trước ngày bị Nhật đảo chính (9-3-1945), bọn Pháp
đã lập ở Côn Đảo nhiều sở tù (còn gọi là những sở chuyên môn) để khai thác sức
lao động khổ sai của người tù trong việc canh tác đất đai, khai thác tài nguyên
rừng và biển ở hải đảo. Không những tù thường phạm mà khi cần thiết Quản đốc
nhà tù cũng đưa cả tù chính trị ra làm ở các sở, miễn là họ có sức lao động, có
tay nghề và được bọn cai ngục nhận xét là tốt. Nhất là trong những năm đại chiến
thế giới lần thứ II, máy bay phe Đồng Minh thường xuyên đánh phá tuyến giao
thông trên biển nối liền Côn Đảo với Sài Gòn khiến cho việc tiếp tế ra đảo bị
khó khăn. Đứng đầu những sở lớn thường là một giám thị người Pháp hoặc người có
quốc tịch Pháp, dưới quyền chúng là một số giám thị người Việt và cặp rằng (cai
tù).
Để có thể hình dung cơ cấu nhân sự của những sở này, có thể lấy Sở rẫy
An Hải làm thí dụ .
Dưới đây là những sở chính của Nhà tù Côn Đảo:
Sở rẫy An Hải - An Hội: Sở này được thiết lập ở làng An Hải, một trong
ba làng cổ nhất ở Côn Đảo (An Hải, An Hội và Cỏ Ong). Theo con số năm 1936, ở
đây cả thảy có 50 người, không kể chủ sở, bao gồm: 3 cặp rằng; 2 đầu bếp; 2 thường
trực ban đêm; 4 phu quét đường; 4 phu đổ thùng; 2 phu san, cào phân; một phu
đánh xe bò; một người trồng rau; một người giữ vườn chuối; một người loong
toong (planton); một người bồi, 2 người giữ vườn dừa; 25 người tạp dịch.
Sở rẫy An Hải - An Hội chuyên trồng dừa, mít, vú sữa, mãng cầu. Tù khổ
sai ở đây có thể tự cất chòi riêng để ở hàng ngày tập trung
làm khổ dịch dưới quyền của giám thị người Việt.
Sở đá : ở dưới chân Núi Chúa chuyên việc bắn mìn phá đá. Những khối đá
hoa cương dùng để ốp con đường phía trước thị trấn Côn Đảo, xây cầu tàu Côn Đảo,
xây móng nhà, tường nhà và các bức tường bao quanh các banh... đều do sở này
cung cấp.
Sở Tiêu: là nơi chuyên trồng hồ tiêu và những loại cây ăn quả như mít, dứa.
. . Tù nhân làm khổ sai ở đây thường bị chết nhiều vì sốt rét.
Sở Củi - Chuồng Bò: sở này có hai loại việc: chăn nuôi (bò, lợn) để cung
cấp thịt và sữa cho bọn cai ngục và và cung cấp 4 loại củi cho cả Côn Đảo (củi
nhà đèn, củi hầm than, củi hầm vôi, củi banh). Việc đốn củi vô cùng nặng nhọc,
dễ xảy ra chết người, tù nhân bị hành hạ như một bày súc vật. Nhiều người tù tự
chặt vào chân tay mình gây thương tật để khỏi bị làm khổ sai ở sở này.
Sở kéo cây: không có sở cứ nhất định, tù nhân khổ sai phải khai thác gỗ
đóng bè chở về làm vật liệu xây dựng. Công việc nặng nhọc, tù dễ chết vì tai nạn
và do làm việc quá sức.
Sở Đất Dốc: chuyên trồng cây ăn quả và chăn nuôi gà vịt.
Sở Cỏ Ống: cách Banh I chừng 12km, là một sở trồng trọt lớn, có khi tập
trung đến 200 - 300 tù khổ sai để trồng lúa, dừa, rau cải, chuối, mít, dứa, đu
đủ. Từ nửa đêm tù nhân Sớ Cỏ ống đã phải đưa rau quả về thị trấn để tiếp tế cho
các viên chức và các công sở trên đảo. Cỏ Ống cũng nổi tiếng là nơi nước độc,
tù nhân bị bệnh, chết nhiều.
Sở Lò Vôi: chuyên nung san hô thành vôi cung cấp cho toàn đảo. Ở đây có
4 đến 5 người tù trông coi việc đốt lò San hô do kíp san hô ở sở Chỉ Tồn khai
thác và cung cấp.
Sở Bông Hường: ở chân Núi Chúa, trồng cây ăn quả và các loại rau. Tù án
lưu (relégués) tập trung ở sở này.
Sở Hòa Ni: tù nhân khổ sai phải trồng thứ nghiệm cây vang (vamllier).
Sở Ông Đụng: ở sườn phía tây bắc của Núi Chúa, trồng khoai lang, thuốc
lá, khoai môn, bí đỏ, bí đao, cà và mướp.
Sở Muối: ở làng An Hội, làm muối cung cấp cho toàn đảo. Đây cũng là nơi
tập trung tù án lưu, có khi đến 600 người.
Sở Bản Chế: ở ngay trung tâm thị trấn Côn Đảo, gần nhà tên chúa ngục.
Xưa kia chuyên để làm nơi giam giữ tù, nhưng sau chuyển thành khu xưởng thủ
công, mỹ nghệ (làm đồi mồi, cẩn ốc...) do tù khổ sai có tay nghề làm nộp cho
nhà tù. Ở đây còn có xưởng cơ khí sửa chữa nhỏ và giếng nước ngọt được bơm lên
cung cấp cho các bếp, các sở.
Sở Lưới: ở ngay trước dinh Quản đốc, tù ở sở này phải đan lưới, đóng ghe
thuyền, đánh cá để cung cấp cá tươi cho viên chức các sở hành chánh trên đảo.
Theo quy chế năm 1889, sở này do một giám thị người Pháp đứng đầu, dưới có một
giám thị Ta-gan và ba giám thị người Việt trông coi. Số tù làm việc ở đây có tới
60 - 70 người. Nhà tù được quyền đánh cá trong phạm vi 3 hải lý quanh đảo. Việc
đánh cá và tổ chức thuyền bè được tổ chức rất cẩn mật. Thuyền đỗ ở bến đều có
xích sắt khóa vào bờ. Sở Lưới có một sà lúp, một thuyền máy nhỏ của viên Quản đốc,
một thuyền nhỏ cho Sở dây thép, 2 thuyền để chuyên chở tiếp tế cho Hải Đăng ở
Hòn Bảy Cạnh, Hòn Cau và liên lạc với Sở Cỏ ống, 3 sà lan và 2 thuyền đánh cá.
Chiếc thuyền đánh cá mập cũng do sở này quán lý.
Sở rẫy Ông Lớn : Quản đốc nhà tù có khu vườn rất rộng trồng cây ăn quả,
trong tay nó có chừng 50 người tù trông coi khu vườn này. Trong tư dinh Quản đốc
có bể nuôi vích, đồi mồi.
Trên đây chỉ kể một số sở lao động khổ sai có tù nhân làm việc, chưa nói
đến những công sở như: Sở dây thép, Sở dây thép gió, Nhà thương Côn Đảo, Sở Kho
bạc , Sở Cò . . .
Các chủ sở tù có đời sống cao, có quyền thế như những tên lãnh chúa, họp
thành một lớp người được ưu đãi ở Côn Đảo. Phần lớn tù nhân ra làm ở các sở
ngoài đều bị giam ở trong các trại ở ngay tại sở. Những tù nhân làm ở các sở gần
trung tâm thị trấn thì ở trong các khám giam Banh I, ngày hai buổi đi làm, trưa
và tối trở về khám giam. Trong Banh I, những người làm khổ sai tập trung ở Chỉ
Tồn phải làm những khổ dịch nặng nề, cực nhọc nhất như xe củi, đập đá, kéo cây,
lấy san hô. Họ bị giam trong các khám số 6, 7, 8, 9, 10 thuộc dãy khám bên
trái.
Tổ chức điều hành Nhà tù Côn Đảo
Dưới thời Pháp thuộc, Côn Đảo là một đơn vị hành chánh ngang cấp quận, đặc
điểm nổi bật nhất là ở đây chỉ có tù, không có dân. Bộ máy hành chánh và bộ máy
cai quản nhà tù trên đảo thống nhất làm một. Đứng đầu bộ máy ấy là viên Quản đốc
nhà tù Côn Đảo cũng là quan chức hành chánh cao nhất của quần đảo trong chức
danh Quản đốc quần đảo và Nhà tù Côn Lôn, thường giao cho một sĩ quan cấp trung
úy trở lên, nếu thuộc ngạch cai trị thì cũng tương đương với chức tham biện.
Ngay từ thời Bông làm Thống đốc Nam Kỳ, Quản đốc nhà tù Rút xen cũng là
một thanh tra bản xứ vụ có quyền duyệt xét toàn bộ các vấn đề thuộc nhà tù và
phụ trách tất cả quan lại cũng như quân lính triều đình Huế còn ở Côn Đảo. Quản
đốc quần đảo và nhà tù nắm trong tay trọn quyền hành chánh trên toàn quần đảo lại
vừa là chánh án tòa án tiểu hình, có thể xử tội nhân thêm một án đến 5 năm tù nữa.
Quản đốc có quyền đối với các thuộc viên và toàn thể tù nhân trên đảo,
có nhiệm vụ trừng phạt và tống giam các viên chức làm việc tắc trách, nếu cần sẽ
đệ trình lên Giám đốc Nội chính để tăng thêm hình phạt đối với họ; ngoài ra còn
ấn định các biện pháp đối với tù nhân. Quản đốc còn “đích thân trông coi việc
làm của tù nhân”, “chịu trách nhiệm về những biện pháp cần thiết để bảo đảm an
ninh các trại giam và đưa tù nhân vào vòng kỷ luật”! (Quy chế Nhà tù Côn Đảo
năm 1873, từ điều 1 - 5).
Ở Côn Đảo, Quản đốc thực sự là “Chúa đảo” nắm toàn bộ quyền sinh, quyền
sát trong tay. Tù nhân phải gọi Quản đốc nhà tù là “ông Lớn”, gọi nhà Quản đốc
là “Dinh ông Lớn”, khu vườn cây của hắn là “Sở rẫy ông Lớn”.
Nhân vật quan trọng thứ hai, có quyền thay thế Quản đốc khi vắng mặt là
viên Lục sự kế toán (agent comptable), theo quy chế nhà tù, có nhiệm vụ kế toán
tổng quát, kế toán vật tư, giữ ngân sách trại giam. Ở Côn Đảo, viên lục sự này
được gọi là “ông kho bạc” vừa là chủ sự kho bạc vừa là trưởng phòng lục sự của
Côn Đảo. Chức vụ này ngang hàng với Xếp chánh (Giám thị trưởng).
Dưới quyền Quản đốc, có một số người đứng đầu các cơ quan hành chánh như
cò cảnh sát, xếp nhà đèn (nhà máy điện), chủ Sở dây thép gió, chủ Sở lục lộ, đốc
công coi Sở sà lúp, chủ sự hợp tác xã tiêu thụ Côn Đảo, giáo viên trường tiểu học
trẻ con Tây, giáo viên trường tiểu học Việt. Côn Đảo không có Sở mật thám, thay
vào đó là Sở truy tầm, do một gác dang người Pháp cầm đầu. Nhân viên sở này ăn
mặc như lính nhưng đi đất và mang mã tấu, họ được tuyển trong số tù hình sự ác
ôn nhất.
Trong ngạch đề lao cai quản nhà tù thì Giám thị trưởng (thường gọi là Xếp
chánh) là nhân vật quyền uy thứ hai sau Quản đốc. Xếp chánh nắm trọn quyền cai
quản tù nhân về mặt an ninh trong các trại giam, điều phối lao động khổ sai cho
các sở tù và đích thân điều khiển công việc khổ sai của tù nhân hằng ngày, trực
tiếp chỉ huy các gác dang người âu cũng như các giám thị người Việt.
Theo quy chế nhà tù, Xếp chánh có nhiệm vụ báo cáo tình hình tổng quát của
nhà tù về các mặt công việc, kỷ luật, tình hình sức khỏe của tù nhân; cai quản
trực tiếp các giám thị người âu và ma tà, điểm danh họ hàng ngày; mỗi tuần một
lần khám vũ khí, đạn dược để báo cáo với Quản đốc về tình trạng, nguyên nhân
hao hụt; đêm phải đi tuần trong các banh một lần, giữ tất cả các chìa khóa
phòng giam do giám thị trực chuyển giao; thay mặt Quản đốc giải quyết những việc
lặt vặt liên quan đến trật tự và vệ sinh trại giam; xem xét số lượng, chất lượng
thực phẩm phân phát cho tù nhân; đích thân trông coi tình trạng cửa ngõ và chấn
song sắt các banh và phải chịu trách nhiệm bảo đảm các ghe thuyền đậu trên bến
khỏi bị tù lấy cắp để vượt đảo.
Là nhân vật quan trọng thứ hai trên đảo, Xếp chánh có đời sống vật chất
rất đầy đủ, không thua kém gì ông Lớn.
Giám thị người Âu ở Côn Đảo có ưu thế rõ ràng hơn giám thị người Việt, họ
được giao giữ chìa khóa các khám, các banh, được trang bị súng ngắn và súng trường,
lưỡi lê và kiếm. Giám thị người Việt không được giữ chìa khóa, muốn mở cửa khám
nào thì phải hỏi giám thị người Âu, dùng xong phải trao trả ngay, sau khi khóa
cửa, giám thị người Âu lại đích thân kiểm tra lại. Nhà ở cũng riêng biệt. Giám
thị người Âu có quyền khám xét tất cả mọi thứ mang vào khám, hoặc mang ra khỏi
banh, dù là do ma tà đem. Họ làm nhiệm vụ tuần phòng trong banh, theo quy định
chỉ ban đêm đi tuần mới được mang súng. Họ phải chịu bồi hoàn những tổn thất do
tù nhân gây ra nếu như họ trông thấy mà không báo với Giám thị trường. Ở Côn Đảo
có chừng trên dưới 40 giám thị người Âu hoặc người gốc các nước khác nhưng có
vào làng Tây, tù nhân gọi họ là “gácdang” (gardien).
Ma tà (giám thị người Việt) dưới quyền của giám thị người Âu, chịu trách
nhiệm dẫn tù đi làm, đưa về banh, chịu trách nhiệm về công việc khổ sai của tù.
Quy chế nhà tù ghi rõ : “phải cứng rắn với đám tù nhân và không được giao dịch
với họ”. Ma tà được ở ngoài banh với gia đình, chỉ được phép vắng mặt nếu được
Quản đốc hay Giám thị trưởng cho phép. Số lượng ma tà làm việc trong ngày do Quản
đốc ấn định căn cứ báo cáo của Xếp chánh. Họ phải báo cáo rõ với Xếp chánh về
tình hình thực hiện công việc, tình hình kỷ luật của đám tù nhân. Hằng ngày được
lãnh khẩu phần, gồm 1 kg gạo trắng, 250 gam cá khô hoặc 400 gam cá tươi nếu có,
một năm được 2 chiếc chiếu.
Nhân viên Nhà tù Côn Đảo là lực lượng đàn áp được bọn thực dân tin cậy,
tuyển chọn trong đám binh lính và sĩ quan đã mãn hạn, phần lớn là những tên
hung ác, tàn bạo, nham hiểm và quỷ quyệt, chúng không hề chùn tay trước một tội
ác nào. Theo quy chế nhà tù, chỉ có Thống đốc Nam Kỳ mới được quyền cách chức
chúng, luật pháp và báo chí thực dân hết lòng bảo vệ những hành vi man rợ của
chúng đối với tù nhân.
Với hệ thống trại giam kiên cố, canh gác cẩn mật, trên một hải đảo trơ
trọi giữa biển khơi sóng dữ, với chế độ tù đày man rợ , những thủ đoạn giết tù
tinh vi , thâm hiểm, với bọn quản ngục khát máu, không còn tính người . . . Nhà
tù Côn Đảo thật sự là “một lò sát sinh khổng lồ” mà thực dân Pháp đã xây nên nhằm
tiêu diệt lực lượng cách mạng nước ta.
Trong những năm tháng dưới ách nô lệ, biết bao người Việt Nam yêu nước
đã bị lùa vào lò sát sinh này. Chân xiềng, tay xích, trần trụi giữa bầy sói, họ
đã hiên ngang chấp nhận cuộc chiến đấu không cân sức với kẻ thù bằng tấm lòng
“trung với nước, hiếu với dân”, bằng y chí kiên cường “Không có gì quý hơn độc
lập, tự do”. Và cuối cùng họ đã chiến thắng.
Những hình thức đàn áp người tù
Tù nhân Côn Đảo bị kêu những loại án sau đây: án cấm cố, án phát lưu, án
phóng trục, án khổ sai, án giam, án lưu. Những người tù chính trị thì bị nêu
kêu ba loại án: cấm cố, phát lưu và phóng trục. Án khổ sai và án giam là chung
cho tù chính trị và thường phạm. Án lưu dành riêng cho tù thường phạm.
Án khổ sai chia ra hai loại; khổ sai chung thân (hạn tù 32 năm) và khổ
sai có thời hạn 5 năm, 7 năm, 10 năm và 20 năm. Trên thẻ bài của tù khổ sai
chung thân có ghi thêm chữ P. P. (à perpétuité).
Án phát thường gọi là “đi đày”, cũng có loại phát lưu chung thân và phát
lưu có thời hạn. Trước năm 1930, có loại phát lưu người tù bị nhốt trong banh
không được ra ngoài và có loại phát thường, tù nhân được ra làm ở ngoài banh.
Nhưng sau này bọn Pháp bỏ sự phân biệt đó.
Án cấm cố: chỉ tù chính trị mới bị kêu loại án này. Án cấm cố cũng chia
ra hai loại: cấm cố chung thân và cấm cố có thời hạn 10 năm hay 20 năm.
Án phóng trục là cho người bị kêu án đi ở một nơi khác sinh sống, làm ăn
nhưng chịu sự kiểm soát của quan cai trị địa phương, có thể mang theo gia đình.
Ví dụ trường hợp cụ Lương Văn Can, bị phóng trục sang Campuchia sau khi phong
trào Đông kinh nghĩa thục bị đàn áp.
Tùy theo tội nặng nhẹ vi phạm trong nhà tù, người tù chính trị có thể
còn bị cấm cố hầm hay là cấm cố xà lim. ..
Án lưu là loại án của tù thường phạm.
Từ khi thành lập cho đến hết chiến tranh thế giới lần thứ I, tù thường
và tù chính trị ở Côn Đảo đều bị giam chung, không có sự phân biệt. Lớp tù “quốc
sự phạm” đầu tiên ra đảo là Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn,
Ngô Đức Kế... phải đấu tranh mãi, bọn Pháp mới chịu giam riêng ở khám B (gồm
khám 6 và 7 của Banh I). Đến năm 1916, theo quy chế mới của nhà tù, mới có sự
phân loại tù, nhưng lại theo tiêu chuẩn riêng. Người tù được chia thành 3 hạng,
căn cứ vào tình trạng tội phạm nặng hay nhẹ, hạnh kiểm xấu hay tốt, làm khổ sai
chăm hay nhác, do giám thị đánh giá.
Hạng I gồm tù nhân được điểm tốt nhất. Tù nhân loại này có thể được ghi
tên vào danh sách ân giảm, ân xá hoặc được phóng thích có điều kiện nhưng phải
do thống đốc Nam Kỳ đề nghị lên thượng cấp xét duyệt. Loại tù này có thể được
nhận làm “công nhân tư gia”, làm ở các văn phòng.
Hạng II gồm các tù nhân có thể được sử dụng vào việc khai thác thuộc địa
và làm những việc công ích khác.
Hạng III là loại kém nhất, phải làm công việc khổ sai nặng nhọc nhất,
khi cần thì nhốt riêng (biệt giam). Từ hạng III muốn lên được hạng II, người tù
phải làm khổ sai ít nhất hai năm trong cấp phân loại ban đầu. Từ hạng II muốn
được lên hạng I, nhất thiết phải trải qua thời gian khổ sai bằng nửa mức án. Với
những người bị kêu án khổ sai chung thân hoặc 20 năm khổ sai thì ít nhất phải
trải qua 10 năm lao dịch rồi mới hy vọng được đề nghị.
Thăng hay giáng hạng tù phải do chính quyền cấp trung ương quyết định dựa
vào đề nghị của Quản đốc nhà tù. Những tù nhân bị phạt nhốt hầm đều bị Quản đốc
đánh sụt hạng.
Trên thực tế ở Côn Đảo, sự phân loại tù cơ bản nhất bao giờ cũng vẫn là
sự phân biệt giữa tù chính trị và tù án thường.
Đem so sánh sự thật kinh khủng về đời sống tù nhân với những lời lẽ
trong mấy bản quy chế (phần nói về tổ chức lao động khổ sai, nhiệm vụ của người
tù), chúng ta dễ dàng nhận thấy những nhà làm luật thực dân ở Đông Dương trước
kia quả là những người xuất sắc (!) Họ có biệt tài trang trí nơi để máy chém
thành một vườn hoa tươi đẹp!
Lời lẽ ở đây thật là dễ nghe, nào là người tù nhân phải tuân lệnh Quản đốc
và các giám thị, phải giữ gìn sạch sẽ sân chơi, chỗ ngủ, nhà bếp, không được ăn
trầu, không hút thuốc trong khám, không được vẽ bậy lên tường, cấm làm ồn, cấm
hút thuốc phiện trong khám... Nhưng trên thực tế, để dập tắt những hình thức đấu
tranh tập thể của người tù, quy chế Nhà tù Côn Đảo 1873 chỉ cần ghi: “Tuyệt đối
cấn nói chuyện ồn ào, những cuộc hội họp, những lời thỉnh nguyện hay yêu cầu tập
thể”.
Để vắt kiệt sức lao động của người tù, quy chế ghi rõ: “Về vấn đề tổ chức
công việc làm cho tù nhân thì công việc phải được phân phối sao cho không để một
người tù nào rảnh rỗi”.
Mọi quyền hành ở Nhà tù Côn Đảo đã trọn quyền ủy thác cho Quản đốc, “ông
Lớn muốn làm gì thì làm, chỉ cần ngài có báo cáo về Sài Gòn là được Quy chế nhà
tù đã khăng định điều ấy: ‘(Nếu xét cần trong việc duy trì trật tự, an ninh và
vệ sinh thì những biện pháp thích hợp sẽ được áp dụng do lệnh của Quản đốc, miễn
là Qủan đốc có tường trình lên ngài Giám đốc Nội vụ ở Phủ Thống đốc”. Thân phận
người tù Côn Đảo gần như tuyệt vọng:
“Côn Lôn đi dễ khó về.
Sống nương Núi Chúa, thác về Hàng Keo”.
Khó về vì Nhà ngục Côn Đảo có quá nhiều những biện pháp giết dần giết
mòn người tù: ăn không đủ sống, ở không đủ chỗ, thở không đủ không khí, tắm
không đủ nước, ốm không đủ thuốc men, mặc không đủ quần áo, rét không đủ chiếu,
làm không kịp thở, chết không quan tài, không bia mộ... Trong khi đó ở Côn Đáo
lại quá thừa xiềng gông, roi vọt, xà lim, hầm tối; thừa cai ngục tàn bạo, trắng
trợn, ngu xuẩn, tham lam; thừa mánh khóe bịp bợm để đàn áp, lừa mị.
Tổ quốc đã mất độc lập tự do, người dân bị bức vào con đường chết. Cái
chết ở Nhà tù Côn Đảo được bọn thực dân tổ chức như thế nào? Cái lò sát sinh
này đã ngốn hàng vạn con người bằng cách nào? Để làm sáng tỏ phần nào vấn đề ở
đây chúng ta xem xét trên những nét đại cương nhất của chế độ Nhà tù Côn Đảo đối
với đời sống người tù.
Côn Đảo là nơi tập trung tù án nặng từ các nhà lao khác đưa về đày biệt
xứ, những người đứng đầu các phong trào, các đảng phái chính trị, những đồng
chí lãnh đạo Trung ương và địa phương của Đảng Cộng sản Việt Nam, tức là những
người mà địch liệt vào loại “nguy hiểm” bậc nhất đối với nền thống trị của
chúng ở Đông Dương. Cho nên chế độ Nhà tù Côn Đảo cũng khắc nghiệt vào bậc nhất.
Chế độ ăn uống ở Nhà tù Côn Đảo vô cùng thiếu thốn, khổ cực. Theo quy chế,
hằng ngày tù nhân được ăn 0,750 kg gạo; 0,250 kg cá; 0,020 kg mỡ; 0,010 kg muối,
nhưng thực tế, bọn chủ thầu đã thông đồng với bọn chúa đảo, cai ngục bớt xén phần
lớn. Chúng cho tù ăn cơm gạo lức hẩm lẫn trấu, thóc, cát sạn, mảnh sành... đến
nỗi tù phải đổ nước cho trấu nổi lên, cát sạn lắng xuống, rồi gạn lấy cơm mà
ăn. Vậy mà ăn cũng không đủ cầm hơi.
Trong những năm 1943-1944, máy bay Đồng Minh phong tỏa đường biển giữa
Sài Gòn và Côn Đảo, khẩu phần ăn của tù nhân rỗi ngày được một bát rưỡi cơm phải
giảm xuống còn một bát. Ngay cả những lúc tiếp tế dễ dàng như những năm
1934-1936, suất ăn của tù nhân cũng không bao giờ đủ.
Kíp đốn gỗ phải làm việc cực nhọc thế mà người tù vẫn phải “đi bới củ rẫy,
củ nưa rừng trộn vào cơm ăn cho đầy dạ dày để có sức làm việc”. Cá khô là thức
ăn chính của người tù nhưng lại toàn là thứ cá vụn, cá cơm, cá sặt, cá thác
lác, vừa bé, vừajắm xương, lại có mùi dầu rất khó ngửi. Đó là loại cá vừa đen,
vừa đắng dùng làm phân bón mà bọn chủ thầu mua tranh với bọn chủ ruộng để làm
thức ăn cho người tù. Nguyễn An Ninh gọi đó là “Vitamin Đ.A.” (Đ là đắng, A là
amer tiếng Pháp cũng có nghĩa là đắng).
Huỳnh Thúc Kháng cũng có bài thơ ngắn tả mâm cơm tù Côn Đảo hồi những
năm đầu thế kỷ:
Cá khô mặn như muối
Cơm lức đen như sắt
Bảy người chung một mâm
Ngồi lết cứ xực gắt.
(Thi tù tùng thoại)
Có điều trong bài thư không nói đến ruồi. Ruồi đậu vào mâm cơm nhiều đến
mức người tù gọi “cơm xôi đỗ” Đó là nguyên nhân cái chết vì bệnh kiết lỵ của cả
ngàn tù chính trị trong những năm 1940-1944. Khẩu phần rau còn đáng sợ hơn nữa,
khi là những thân cây chuối dại thái to, khi là rau sam, rau càng cua, rau dền
dại, tất cả các loại rau này đều hái trên núi, khi thì rau khoai lang vừa già vừa
xơ, nhai mãi cũng không nổi.
Một nhà báo không ít cảm tình đối với chế độ tù đày của Nhà tù Côn Đảo
cũng phải ghi nhận: “Điểm đen trong vấn đề thực phẩm là rau cung cấp còn kém. Về
nguyên tắc cứ 14 ngày mới có một chuyến tàu thủy liên lạc với đất liền. Nhưng
đôi khi do chủ hãng thất tín, tàu không ra đúng hạn và nhà tù có lúc phải 4-5
tuần liền không được ăn rau tươi”. Trong điều kiện đó, không thể nào có được bầu,
bí, dưa chuột, khoai, đậu, cà chua, xà lách từ Sài Gòn gửi ra, người ta dành phần
cho tù nhân ăn mồng tơi dại, rau chuối, khiến cho các ông tù chính trị nổi giận,
làm đơn khiếu nại luôn”.
Có lẽ nhà báo muốn nói đến việc cung cấp rau tươi cho mấy ông Tây gác đề
lao, từ Sài Gòn chở ra! Rau tươi cho người tù là cỏ mần trầu, búp bàng quơ vội
trên đường đi lao dịch mặc cho roi vọt của cai ngục giáng xuống đầu. Nước mắm tất
nhiên là loại tồi: muối pha nước lã đến 70% , ngửi mùi đến lộn mửa. . . Quanh
năm giống như nông dân Pháp thời Trung cổ, tù nhân chỉ được nếm thịt có hai lần,
đó là vào dịp Tết và 14 tháng 7.
Sở dĩ chúng ta dừng lại tỉ mỉ một chút về việc ăn vì đó là nguồn sống
duy nhất để người tù bù đắp sức lao động khổ dịch hằng ngày phải đổ ra. Mức lao
động của họ ít nhất phải gấp 3 lần người bình thường. Vả chăng trong sách báo
chính thức của thực dân, chúng ta gặp không ít những nhận định, đánh giá “khách
quan và vô tư, của những người có thẩm quyền nhất.
Bác sĩ Nhà tù Côn Đảo, đại úy Cuốcđuyriê, phụ trách y tế ở đảo từ 1937 đến
1938 đã nói:
-
Lượng calo
trong khẩu phần tù nhân còn cao hơn khẩu phần của người lính Việt Nam cơ đấy!
Quản đốc Nhà tù Côn Đảo thì nói:
-
Các tù nhân mới
đến, cứ ba không cân một lần thì thấy trọng lượng của họ tăng từ 5-6%. Có một
tên tù tăng đến 14 kg!
Chúng ta đều biết “ông Lớn” Buviê không hề có ý định khôi hài khi trả lời
một nhà báo khả kính. Những điều khẳng định của những nhân vật có thẩm quyền nhất
trên đảo đã khiến cho ông Đơmariô
(Demariaux) hoàn toàn yên tâm hạ bút:
“Vấn đề thực phẩm cho tù nhân đã được thực hiện một cách tiến bộ. Công
lao đáng ghi cho ông Pagie Thống đốc Nam Kỳ. Đây là khẩu phần hằng ngày: 800
gam gạo, 200 garn cá khô; 3 gam trà; 20 gam mỡ, 50 gam nước nắm; 150 gam rau.
Ngoài ra, còn 400 gam thịt mỗi tuần lễ, và thỉnh thoảng khi câu được cá
tươi, bắt được vích thì tù nhân được ăn tươi thêm, mà Nhà nước cũng không tổn
phí gì. Tù chính trị được uống trà Huế, thơm hơn các loại trà khác, được ăn nước
mắm đóng trong chai chứ không phải nước mắm ca vò như ngày trước.
Cơm được xới vào bát ăn chứ không phải nắm riêng thành từng nắm như trước.
Bát cháo ăn sáng của họ bây giờ cũng thật tinh tươm”.
Ăn theo thực đơn của Thống đốc Pagie thì làm gì mà tù nhân Côn Đảo không
tăng trọng như “ông Lớn” Buviê nói. Vậy mà tù chính trị vẫn “không biết điều’,
họ vẫn yêu cầu kiểm tra việc cân đong thức ăn. Những việc này tuyệt đối cấm vì
như nhà báo giải thích, “để họ tham gia kiểm soát cân đong như thế thì cuộc sống
ở Banh II sẽ có vẻ như lối sống Xô viết mất?!”.
Ở Nhà tù Côn Đảo cơm bao giờ cũng thiếu, thức ăn không bao giờ đủ, nhưng
lùa cho được miếng cơm vào miệng cũng không dễ. Những ai nuốt không nhanh là
không kịp ăn hết suất cơm của mình. Thế là họ vội vàng gói cơm vào khăn đem
theo. Nhưng coi chừng! ăn rồi, trước lúc vào khám lại phải cởi cả quần áo để
gác ngục khám xét. Đôi khi họ mang được trót lọt, nhưng không phải là hiếm khi
bọn gác ngục phát hiện ra và họ bị phạt rất nặng. Những tên Đờrốtsơ (Deroch),
Títnê (Tisné), Musađo (Mouchador), Philông (Philon), đội Thanh, đội Trà, ma tà
số 39 nổi tiếng khắt khe về vấn đề này.
Mỗi năm, cứ đến ngày 14 tháng 7, ngày Quốc khánh Pháp và ngày Tết, tù được
phát một bộ quần áo xanh vải Nam Định, quần chỉ quá đầu gối, áo ngắn mặc hở cả
bụng, khâu dối chưa mặc đã tuột chỉ. Quần áo không đủ, độc một bộ như thế làm
sao đủ mặc trong 6 tháng. Lao động khổ sai suốt ngày, người đầy bụi bặm đất cát
nhưng không được tắm rửa. Một tuần hai lần, người tù được tắm không quá 15
phút.. Họ phải ngồi xếp hàng rồi cho nước xối qua một lượt, kỳ cọ rồi lại xối một
lượt nửa, chưa hết bọt xà phòng cũng mặc, vào chậm là ăn đòn. Mọi yêu sách về
điểm này đều được trả lời bằng hình phạt nhốt hầm tối, cùm, xiềng. Ghẻ lở là điều
khó tránh khỏi.
Các khám giam đều giống nhau ở chỗ chật chội, thiếu ánh sáng và không
khí. Những khám ở Banh III lại còn hẹp hơn, chứa được từ 40 đến 50 người tù,
nhưng chúng thường nhốt đến 80 có khi hơn 100 người. Sau trận bão cuối năm
1930, nhiều banh bị tốc mái, người tù ở ngay trong nhà mà hàng tháng phải chịu
đựng cảnh màn trời chiếu đất. Đấu tranh mãi, bọn gác ngục mới chịu để anh em cắt
cỏ tranh về lợp. Lúc đó tù phải dồn lại, nằm ép vào nhau mới đủ chỗ.
Trong những năm từ 1936 đến 1939, số đông tù chính trị được thả, nhà tù
có rộng ra đôi chút. Nhưng lại tiếp liền đến thời kỳ chiến tranh thế giới lần
thứ II, địch ra tay khủng bố, nhất là sau Nam Kỳ khởi nghĩa, mỗi khám nhốt đến
hơn 200 người, nằm như nêm cối, phải “xếp thìa” mới tạm có chỗ nghỉ ngơi.
Dựa theo 4 bức tường khám là 4 sạp dài bằng xi măng, 3 cái liền nhau hợp
thành hình chữ U, có khám sạp không liền, tùy theo vị trí của cửa “rôn” và của
cầu tiêu. Sạp được dùng làm chỗ ngủ cho người tù,, đầu quay vào tường, phía
chân có còng sắt gắn liền với bệ sạp. Đối diện với cửa “rôn” là cầu tiêu, xây lọt
ở đằng sau khám. Cầu tiêu có khe nhỏ, gió lọt vào mát, thoáng khí hơn chỗ khác.
Nhiều khi nóng bức quá, anh em tù hay vào đó hóng gió, hít thở tuy chẳng có nhu
cầu đi tiêu.
Do chật chội như vậy, tù nhân phải tự thu xếp với nhau mới đủ chỗ nằm nhất
là phải tổ chức thay nhau đổi chỗ nằm, luân phiên nhau cùng “hưởng” không khí ở
những nơi gần cứa “rôn” hay cửa cầu tiêu. Khi khám giam quá đông, người tù phải
luân phiên nhau cho số này nằm, số kia ngồi. Những người ốm yếu mới được “ưu
tiên” chỗ nằm. Tuy vậy, vẫn có một số phải nằm phía gần sát cầu tiêu hôi thối,
dòi bọ bò cả người, lên mặt, lúc trở mình dòi bọ lép nhép dưới lưng.
Trong khám giam không khí vừa thiếu vừa ngột ngạt. Mấy khe cửa sổ hẹp ở
trên đầu tường tiếp giáp với mái nhà, bọn cai ngục còn bịt kín bằng những miếng
tôn trổ những lỗ nhỏ như đầu đinh. Không ít người bị cùm và nhốt hầm vì đấu tranh
đòi gỡ mấy miếng tôn đó.
Cả ngày bị nhốt trong khám giam, người tù chỉ được ra sân trong giờ ăn
cơm, mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10 phút và mỗi ngày 2 lần tù cấm cố được phép ra
ngoài sân độ 45 phút. Thời gian đó chỉ đủ hít thở không khí mà thôi.
Từ năm 1935 đến năm 1939, do đấu
tranh manh, thời gian cho tù ra sân được tăng thêm, được xuống hẳn sân chứ
không chỉ quanh quẩn trong dãy hiên. Hạnh phúc biết bao khi thấy khoảng trời
xanh qua tán lá bàng; khi nhìn những vệt nắng ấm áp lay động trên ngực, trên
lưng mình, lưng bạn; khi được hít căng không khí trong lành.
Mỗi suất làm khổ sai ngoài đảo nhiều gấp 3, gấp 4 mức
lao động bình thường. Làm khổ sai ở sở nào cũng có thể chết người vì mức lao động
quá cao, vì công việc làm nguy hiểm, an toàn lao động không có, vì điều kiện
lao động khắc nghiệt, không đủ cả công cụ thô sơ, vì sơn lam chướng khí, vì đòn
roi hiểm ác của cai ngục. Người tù có khi chết vì sơ ý, tạo thời cơ cho cai ngục
lĩnh thưởng1. Khủng khiếp
nhất là làm khổ sai ở Sở Củi và Sở Chỉ Tồ ri .
Sở Củi nằm ngay tại cơ sở chăn nuôi của nhà tù do xếp Chuồng Bò điều khiển.
Sở Chuồng Bò có bộ phận tù chuyên chăm sóc đàn bò sữa, bò thịt và heo để cung cấp
cho bọn gác ngục. Bộ phận Sở Củi thường xuyên có trên dưới 100 tù nhân. Họ có
trách nhiệm đốn các loại củi về cung cấp cho nhu cầu toàn đảo.
Bọn chúa ngục dùng sở này để tiếp tục đày đọa những người vượt ngục
không thoát, sau khi đã nếm đủ các ngón đòn ở Sở Truy tầm. Mãn hạn nhốt hầm sau
hai tháng, họ lại sống sót từ Hầm xay lúa trở về đây. Đến Chuồng Bò thì họ đã gần
thành người tàn phế. Tù khổ sai ở Sở Củi - Chuồng Bò phải kiếm bốn loại củi
trong một ngày.
Củi banh là loại củi thường, để nấu ăn cho tù trong các banh, loại củi
này tương đối dễ kiếm. Củi lò vôi, lò gạch, lấy khá vất vả vì phải hạ những cây
lớn, chặt ra từng khúc, có khi phải đánh cả những gốc cây to về nung vôi. Khổ
nhất là kíp lấy củi nhà đèn và củi hầm than. Củi dùng làm nhiên liệu chạy máy
phát điện cho toàn đảo thì phải chọn loại gỗ tốt, đường kính từ 20 cm trở lên,
dài đúng một mét. Củi để hầm than cũng phải dùng gỗ tốt, đường kính từ 10 đến
15 cm.
Vì sợ tù trốn, bọn giám thị không dám cho tù đi đốn xa, chỉ có mấy khu rừng
gần, đốn đi đốn lại mãi cũng hết gỗ. Để định mức củi hằng ngày, bọn cai ngục
cho mấy phạm nhân sức vóc cao lớn, khỏe mạnh, ăn no, uống đủ rồi khoán cho họ một
ngày phải kiếm cho được hai thước củi.
Được bồi dưỡng trong cả tuần chỉ để làm trong một ngày, những người này
lấy được đủ số lượng mà chúng khoán. Thế là định mức chung cho Sở Củi đã được định
đoạt: trong tuần lễ đầu, những người mới làm phải nộp nửa thước, đến tuần thứ
hai thì cứ một thước rưỡi mà nộp. Thiếu củi thì bị đánh ngay tại chỗ, trước mặt
cả kíp.
Ăn uống kham khổ thiếu thốn, cây rừng đủ quy cách thì khan hiếm, đường dốc,
mưa trơn, vắt, muỗi đủ thứ. . . Nhưng bọn chúa ngục vẫn mặc kệ! Cứ phải đủ số
lượng. Tuy đã làm việc cật lực, chân tay rã rời, kiệt sức mà vẫn không sao lấy
đủ số củi hằng ngày, ít có người tù nào thoát khỏi roi vọt của gác dang, ma tà,
cho nên họ đành phải bỏ trốn. Trốn không thoát lại bị phạt hầm, phạt xiềng, phạt
ở Hầm xay lúa. Tuy vậy, vẫn có người tù khổ sai bị phạt đến lần thứ 20 vì đã bỏ
trốn!
Không thể vin cớ ốm đau, bệnh hoạn để chuyển sớ. Có người đã phải tự chặt
ngón chân, ngón tay, chịu nằm hầm tối còng chân vì tội “tự hủy hoại thân thể” mới
thoát khỏi khổ dịch ở Sở Củi.
Công việc khổ sai ở Chỉ Tồn bao gồm những công việc ở xung quanh thị trấn,
nặng nhất là việc kiếm san hô. Trước năm 1930, kíp Chỉ Tồn ở trong các khám 2,
3, 4 thuộc dãy bên phải Banh I, phải làm những việc cực nhọc như: dọn tàu, xe gạch,
củi, đá, làm đường, kiếm san hô. Rất nhiều tù chính trì bị kết án khổ sai cũng
làm việc ở đây. Dưới sự điều khiển trực tiếp của xếp Banh I, còn có cả bầy
gacdăng, ma tà hung ác và có lính mang súng đi kèm ốp. Các kíp Chỉ Tồn thường bị
đòn roi nhiều nhất.
Thông thường cứ cách hai tuần lại có một chuyến tàu chở thóc, cá khô và
hàng hóa ra đảo. Kíp tù khổ sai ở Chỉ Tồn phải đưa khoảng 50 đến 60 người ra dọn
tàu. Công việc nặng nhọc này đã được cụ Huỳnh Thúc Kháng nói đến trong bài thơ
Dọn tàu:
Việc gì rất ghê người
Tàu chở hàng đã tới,
Sẽ rước trận đòn lớn,
Sắc mặt trắng như vôi!
Vịnh Côn Lôn cạn, tàu lớn không vào được thường phải từ Vịnh Cỏ Ống men
theo lạch nước sát Hòn Bảy Cạnh tới đậu gần Đá Trắng, (nơi có một tảng đá lớn
quét sơn trắng làm chuẩn cho tàu bè tới đậu). Muốn lấy hàng, phải đưa sà lan nhỏ
ra dỡ hàng chuyển vào bờ làm nhiều chuyến. Kíp dọn tàu phải đưa hàng từ hầm tàu
lên, chuyển qua sà lan, đưa vào bờ, bốc hàng chất lên bờ rồi lại từ đó chuyển
vào kho.
Kíp dọn tàu phải khuân vác từ sáng sớm đến chiều tối, đêm phải chong đèn
làm, đến khi hết hàng mới được nghỉ. Những giỏ cá khô nặng 50 kg, những bao thóc
nặng 60-70 kg đè nặng trên vai, trên lưng những thân tù gầy yếu, đi không vững.
Nhiều người bước không nổi, ngã gục vào thành kè đá bao hàng đè sấp lên người.
Chỉ chờ có thế, bọn cai ngục lập tức xúm lại quật gậy hèo vào đầu, vào lưng người
tù. Đáng một thì chúng đánh mười, vì thường thường tên Quản đốc và Xếp chánh đều
hay có mặt trong những buổi dọn tàu. Người tù chỉ còn cách thu hết sức lực còn
lại vác cho được bao hàng bước đi cho thoát đòn.
Cụ Huỳnh Thúc Kháng kể lại: “Lúc chúng tôi ra đảo có dọn tàu hai lần, rất
là tê mê bải hoải, rước lấy vô số là roi! Đám “quan to” (tù thường phạm thường
gọi các cụ văn thân - những ông tiến sĩ, ông nghè, ông cử... là bọn quan to -
T.G) duy có hai ông Phong Thử và Ngô Xá là vác nổi bao lúa nặng 60 hg, còn bao
nhiêu đều qụy liệt cả đến hai người cũng không rê nổi... có đánh cũng chỉ nằm
quay ra đó mà chịu, không làm nổi việc!”. (Thi tù tùng thoại).
Kíp tù khai thác đá hộc ở chân Núi Chúa phải lên núi khoan lỗ, nổ mìn, đập
đá, khuân đá, xếp lên xe đẩy về. Khi nổ mìn, mảnh đá văng lung tung, không mấy
ngày không có người bị thương. Nạn sập đá xảy ra luôn, lớn nhất là vụ sập đá
tháng 9 năm 1932 làm chết tại chỗ 5 người, trong đó có 3 người tù chính trị và
làm bị thương nhiều khác.
Bọn coi tù phải điều động hàng trăm người ở những chỗ gần đó đến kích những
tảng đá lớn để lấy xác hoặc moi những người bị thương ra. Cảnh tượng rất thương
tâm: kẻ gấy tay, cụt chân, người vỡ đầu, phọt óc, lòi ruột gan ra ngoài, máu me
bê bết.
Một tù nhân Côn Đảo thời kỳ 1939-1945 cho biết: khoảng trước chiến tranh
thế giới, những người trong kíp đập đá Sở Chỉ Tồn còn thấy có một tấm bia dựng ở
công trường đá Núi Chúa ghi lại một tai nạn sập đá: 19 người bị chết, 7 người bị
thương nặng, 11 người bị thương nhẹ. Tù nhân Sở Chỉ Tồn đã tuyệt thực 5 ngày để
phản đối chế độ khổ sai giết người và dựng bia kỷ niệm những người bị nạn, trừng
phạt bọn cai tù ở công trường đập đá và cải thiện chế độ lao dịch quá nặng nề.
Kíp chở đá còn khó nhọc hơn kíp chở củi, xe gạch. Đường xấu, xe đầy ắp, nặng lặc
lè , làm rất cẩn thận mà có lúc xe cũng đổ, gây tai nạn.
Gần 50 km đường rải đá chạy từ Cỏ Ống đến quá Bến Đầm và các nhánh trong
thị trấn Côn Đảo, chạy vòng phía trước Núi Chúa là mồ hôi nước mắt của tù khổ
sai trong kíp làm đường. Hằng ngày họ phải gò lưng dưới nắng rát, chân đạp lên
mặt đường trải đá dăm sắc cạnh, ra sức kéo trục hồ lô lăn đường nặng cả tấn.
Trong khi đó “bọn ngục tốt chực sẵn bên cạnh. Thấy
ai hưi trễ nải một chút là múa hèo, múa gậy giáng xuống chan chát, không hề nới
tay, mặc hệ cho tù bể đầu, gãy xương. Nhanh lên, mau lên! Làm hối hả đi! Bả
vai, chân tay bị thương đau đớn mồ hôi ra như tắm ướt đẫm, thân lưng trần trụi
trông rõ lằn ngang, lằn dọc dày đặc”1.
Đó là tình cảnh những người tù khổ sai đang đổ sức ra để nối dài thêm từng
tấc đường trên Hòn Côn Lôn dưới thời thuộc Pháp.
Kíp tù khổ sai đốn gỗ có khoảng 70-80 người, họ phải lang thang khắp các
cánh rừng ở Đá Trắng, Đất Dốc, Bãi Bàng, Bãi ông Câu, Bãi ông Lân... để đốn gỗ
về xây dựng nhà cửa và đóng đồ dùng cho bọn cai ngục. Họ phải làm quần quật từ
5 giờ sáng đến 5 giờ 30 tối, hạ những cây gỗ to, đường kính trên 80 cm, rồi cả
bọn xúm lại kéo xuống bãi biển, kết bè chở về xưởng cưa trên đảo.
Kéo những cây gỗ lớn từ đỉnh núi xuống bãi biển là một công việc nặng nhọc
và nguy hiểm, đòi hỏi phải có kỹ thuật. Nhiều người tù đã bị gỗ đè vỡ đầu, gãy
chân. Khi con nước lên muộn, họ phải cột bè và chèo chống suốt đêm. Có lần, vào
đêm 28 rạng ngày 29 tháng 7 năm 1931, một con sóng lớn xô bè gỗ đập vào một mỏm
đá, vỡ tan. Kíp kéo gỗ may không ai bị chết. Tất cả mọi người đều ướt sũng nước
biển, rét run. Vậy mà tên ma tà Trần Văn Giáp đánh họ một trận thừa sống thiếu
chết, rối lại xua họ vào rừng, bắt làm đủ một bè gỗ khác thay vào, không cho
người tù ăn uống, nghỉ ngơi. Hai người bị phạt hầm tối và bị đánh đập tàn nhẫn.
Mỗi tháng kíp đốn gỗ phải cung nạp từ 3 đến 4 bè gỗ mỗi bè từ 30 đến 40
cây. Tháng 10 năm 1934, kíp đốn gỗ ở Bãi Bàng gồm 90 người thì đã có tới 20 người
mắc bệnh sốt rét nặng, 10 khác bị phạt Hầm xay lúa vì tội đã liều mạng bỏ trốn
nhưng bị bắt lại. Còn lại 60 người tù, nhưng họ vẫn phải làm số lượng công việc
của 90 người như cũ. Thiếu gỗ là đòn roi, phạt hầm tối và xiêng, cùm.
Trước khi bị phạt vì không nộp đủ số gỗ như đã định, nhiều người tù khổ
sai đã bỏ mạng vì bị gỗ đè và sốt rét ác tính.
Ngay từ khi có Nhà tù Côn Đảo thì tù khổ sai đã phải lấy san hô để nung
vôi. Bãi san hô ở ngay trước Vịnh Côn Đảo. Cồn san hô nổi lên từ bãi Lò Vôi chạy
mãi đến gần Đá Trắng. Đó là nguồn nhiên liệu để nung vôi xây nhà giam và tất cả
các kiến trúc khác trên đảo.
Kíp san hô có khoảng 80 đến 100 người tù khổ sai, làm việc theo con nước.
Khi thủy triều rút, họ đem theo đòn xeo, choáng... và đẩy sà lan ra ngoài cồn
san hô, cách bờ chừng 2 km. Nước chưa cạn hẳn, bọn gác ngục đã đẩy họ xuống, bắt
ngụp lặn, đào bới, bẩy từng tảng san hô lên, rồi bửa nhỏ, chất thành đống. Khi
nước lên trở lại, sẽ đưa sà lan tới, bốc lên chở về.
Mùa hè, nước lớn về đêm đến trưa hôm sau mới rút, kíp san hô phải đi làm
từ 13 giờ đến nửa đêm. Mùa đông, nước lớn ban ngày, họ phải dầm mình xuống nước
tử nửa đêm hôm trước đến trưa hôm sau. Da thịt người tù xám ngắt vì gió rét. Họ
phải đi bộ từ Banh I đến Lò Vôi chừng 3 km, đẩy sà lan ra xa 2 đến 3 km nữa mới
tới chỗ làm việc. Lấy đủ số san hô rồi lại phải chờ con nước lên, chất san hô
lên sà lan chở về Lò Vôi. Giao nộp đủ rồi mới được về banh. Mỗi ngày làm khổ
sai 12 tiếng, vừa đi vừa về mất thêm 3 tiếng nữa. Họ chỉ còn lại vài tiếng đồng
hồ để trút nỗi cực nhọc xuống sàn, vật ra trên nền xi măng lạnh lẽo, nhớp nhúa,
tối tăm ngạt thở cua khám giam.
San hô kết thành từng mảng lớn, phải tìm cho ra những khe hở giữa hai tảng
san hô, dùng choáng đục cho rộng ra, người tù gọi là “mở miệng” rồi lùa những
đòn xeo dài đến 5-6 mét vào, sau đó 5 đến 7 người xúm lại treo người lên đầu
đòn xeo ráng sức bẩy mạnh cho bật tung tảng san hô.
Nhiều khi trượt chân, đứt dây buộc, hoặc đòn xeo bật mạnh quật trở lại,
tung mấy người ngã xuống đám san hô tua tủa, sắc nhọn. Vỡ đầu, gẫy tay, gấy
chân, đứt thịt, lòi xương... là chuyện thường xảy ra.
Lấy san hô trong những ngày nắng ráo đỡ vất vả nhọc nhằn hơn khi gặp phải
những ngày mưa gió. Người tù phải ngâm mình dưới nước cả chục tiếng đồng hồ.
Đói rét, mệt vẫn phải làm, ngơi tay một chút là roi gân bò, mây tầm vông bổ xuống
đầu. Nhiều anh em tù ở Sơn La mới ra bị sốt rét nhưng vẫn phải đi làm, dù có
lên cơn sốt rét ngay giữa biển đi chăng nữa.
Có khi trời sắp nổi cơn giông, bọn gác ngục vẫn xua tù ra biển. Vừa ra
khỏi bờ thì bị mưa ập đến, gió thổi bạt cả xà lan. Tù nhân phải nhảy xuống nước,
ghì mỏ neo vào một tảng san hô lớn, rồi cả bọn ôm lấy nhau chống với gió rét. Bớt
gió mới xúm nhau lại đẩy sà lan vào bờ.
Kíp san hô mỗi chuyến đi mỗi người phai nộp 40 tảng đá to bằng cái nón
lá. Có khi nước lên đến cổ rồi mà lấy vẫn chưa đủ nhưng bọn gác ngục vẫn bắt
người tù phải'ngụp lặn, dù sao cũng phải nộp đủ, nếu không thì đòn roi tại chỗ,
xiềng ngay trong khám giam, nhốt hầm tối...
Cả ngày ngâm nước biển đầy bùn rác cũng không được tắm. Nếu đòi tắm lập
tức sẽ bị đòn roi, hầm xiềng vì tội “dám đưa yêu sách tập thể”, trái với quy chế
nhà tù. Đằng nào cũng chết! Nhiều người chọn cái chết chóng vánh: tự tử! Có người
đã thắt cổ tự tứ trên cành cây ngang lối thường đi của chúa đảo. Có người trèo
sẵn trên cây, đợi “ông Lớn” đi kiểm tra ngang qua, nhảy bổ từ trên cao xuống,
đâm đầu vào đống đá hộc cho tan sọ trước mặt kẻ thù. Năm 1934, có 4 đảng viên
Quốc dân đảng, vì không chịu nổi chế độ hà khắc của nhà tù đã làm như vậy.
Người tự tử trước mặt chúa đảo Buviê là anh Bướu (quê ở Phú Thọ). Nhưng
đến cả cái chết thương tâm như vậy, cũng không làm tên chúa đảo kịp mủi lòng.
Không một thoáng cau mày, hắn cất cái giọng khàn khàn, lạnh lùng dằn từng tiếng:
- Thêm một thằng hay bớt một thằng, cũng chẳng sao.
Những hình thức kỷ luật trong nhà tù
Toàn bộ cuộc sống ở nhà tù được tổ chức để trừng trị người tù. Những
hình thức kỷ luật nội bộ nhà tù là những biện pháp đàn áp, bó buộc người tù phải
tuyệt đối tuân thủ những gì đã được tổ chức ra để trừng trị họ, nghĩa là buộc họ
phải chấp nhận tình trạng chết dần chết mòn trong nhà ngục.
Những biện pháp đàn áp người tù là: đánh đập, tra tấn, nhốt trong khám,
trong xà lim, trong hầm tối, trong những khu biệt giam, bắt lao động cực kỳ nặng
nhọc ở khu Hầm xay lúa, Sở Củi...
Xiềng đơn, xiềng kép, xiềng hai người làm một, cùm một chân, cùm hai
chân, ăn cơm nhạt, uống nước lã, bắt nhịn đói... là những hình phạt thường được
dùng kèm trong khi sử dụng những biện pháp đàn áp nói trên. Đã là nhà tù đế quốc
thì bất cứ ở đâu, Sơn La, Hỏa Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn), Kon Tum hay Côn
Đảo đều là những địa ngục trần gian đối với những người tù chính trị, những người
cộng sản Việt Nam.
Ngày 29-10-1891, Tổng thống Cộng hòa Pháp Phêlích Phô (Félix Faure) ra sắc
lệnh hủy bỏ kiểu hành hình bằng mã tấu, hủy bỏ hình thức phạt roi đối với tù
nhân. Quy chế Nhà tù Côn Đảo cũng quy định giám thị không được quyền ấn định bất
cứ hình thức nào đối với tù nhân, họ chỉ có việc báo cáo với gác dang phụ trách
banh; muốn nhốt người tù vào hầm thì phải có lệnh của Thống đốc Nam Kỳ, nhưng ở
Côn Đảo, ý muốn của chúa đảo của gác dang, ma tà là luật pháp. Chúng muốn đánh
ai, đánh bằng gì, đánh lúc nào là tùy chúng. Có cớ cũng đánh, không có cớ cũng
đánh, thích đánh là chúng đánh.
Ở Sở truy tầm, tù vượt ngục bị bắt phải chịu tất cả những ngón đòn tra tấn
ác hiểm nhất, ở đó có cả dùi cui, roi song, roi gân bò, kìm sắt nung, hòm tra
điện, nước xà phòng, kim cắm móng tay... Đã bị đòn ở đây, phải gan góc lắm mới
không cung khai.
Phạt xiềng ở Côn Đảo có nhiều loại: xiềng đơn, xiềng kép, xiềng tạ, xiềng
hai người làm một. Người bị xiềng phải kéo lê cái xiềng sắt nặng mắc vào hai cổ
chân, xiềng dài 1,5 mét. Xiềng kép là khóa hai chân bằng hai sợi dây xiềng, có
khi tới ba dây. Xiềng tạ là dây xiềng đèo theo một quả tạ tròn^nặng 5
kg. Các loại xiềng này ở Hầm xay lúa đều được áp dụng, kể cả lối xiềng hai người
làm một, chân trái người này xiềng với chân phải người kia, rồi cứ thế mà đi
làm việc. Những người bị cai ngục loại riêng, gọi là “những tên bất trị” ở khám
6 và 7 thuộc Banh I, năm 1935, lúc phong trào đấu tranh của tù nhân lên cao
cũng bị xiềng hai người vào một. Những tù chính trị bị cấm cố hầm trong dãy xà
lim Banh II cũng bị xiềng cả trong những giờ ra sân “hưởng không khí”.
Nếu người tù đã bị hình phạt nhốt ngay trong khám giam, ở xà lim hầm tối,
hay ở khám giam đặc biệt như Khám trị an ở Banh III thì thường phải ăn cơm nhạt,
uống nước lã và bị cùm một hay hai chân. Cường bức khổ sai ở Hầm xay lúa là
hình thức cuối cùng trong danh mục các biện pháp trấn áp ghi trong quy chế Nhà
tù Côn Đảo va cũng không nhà tù nào ở Đông Dương xưa kia có hình thức đày đọa
người tù giống như vậy.
Trong nỗi tuyệt vọng, có một số tù thường phạm đã tìm mọi cách nói lên
cho mọi người biết chế độ giết người ở Nhà tù Côn Đảo man rợ đến mức nào, nỗi
thống khổ cùng cực của người tù như thế nào, dù phải chết dưới bàn tay kẻ thù.
Huỳnh Văn Giáp đã làm được việc này. Anh bị truy tố về tội mưu sát một tên giám
thị có tiếng hung ác là tên Arun (Aroul) và được ra cung khai trước tòa án xứ ở
Sài Gòn. Anh khai rõ sự thật, làm cho quan tòa phải ngạc nhiên, công chúng thì
xúc động:
“Đời sống của tù nhân chúng tôi ở Côn Lôn, thực không sao chịu đựng nổi.
Làm việc quá sức người, ăn uống thiếu thốn và bẩn thỉu; ốm không có thuốc men,
không được chạy chữa; ngoài ra bọn gác dang vô cùng tàn ác, hình phạt vô nhân đạo,
lắm khi tôi tự hỏi, tôi có phải là người nữa không? Khi đánh đập, gậy gộc bố xuống
đầu chúng tôi như mưa, khiến chúng tôi có những lúc phát điên lên, bởi vì không
còn biết than thở nỗi khốn cùng đó với ai nữa.
Chính là trong những trường hợp đó mà tôi nảy ra ý nghĩ phải đập tên gác
dang. Tôi nghĩ rằng, chỉ có làm như thế mới được đưa về Sài Gòn, đứng trước các
vị quan tòa, rồi tôi sẽ thuật lại đời sống ở địa ngục của tù nhân Công Lôn, và
dẫu rằng tôi có bị chém chết đi nữa, tôi cũng tự thỏa nhãn và tự an ủi mà chết”.
Huỳnh Văn Giáp là một người can án
thường phạm, anh đã phát biểu ý kiến của anh một cách tự nhiên, rất đơn giản
nhưng rất kiên quyết.
Đây
chính là lời nhắn cuối cùng của một con người mà cõi chết đối với người ấy chẳng
qua là một sự giải thoát, vì rằng cuộc đời ở trong nhà ngục chi là một cuộc đấu
tranh kéo dài khốc liệt mà thôi”1.
Dưới chế độ thực dân, tố cáo tội ác
của bọn thống trị trong các nhà tù là việc làm có tầm quan trọng lớn lao, ảnh
hưởng trực tiếp đến cuộc đấu tranh không ngừng của người tù chống lại chế độ tù
đày, chống lại chế độ thực dân đã đẻ ra nó.
Đấu tranh của tù nhân Côn Đảo trước năm 1930
Ngoài số thường phạm bị án nặng, thực dân Pháp dùng Nhà tù Côn Đảo để
lưu đày những người tù chính trị ở Đông Dương thuộc đủ mọi phong trào, mọi xu
hướng. Cuộc đối đầu chủ yếu ở Nhà tù Côn Đảo là giữa bọn thực dân và những người
tù chính trị này.
Số tù chính trị đầu tiên ra Côn Đảo là những tù binh, những người bị bắt
trong thời kỳ nhân dân ta đấu tranh vũ trang chống Pháp hồi cuối thế kỷ thức
XIX, những người mà bọn xâm lược gán cho cái tội phiến loạn hay bạo kháng. Chiến
tranh xâm lược càng mở rộng thì số tù binh và những người “phiến loạn” này càng
nhiều.
Về thực chất, sở dĩ Pháp phái hối hả trong việc xây dựng Nhà tù Côn Đảo
cũng chỉ là để giải tỏa những trại giam tạm thời ở Gia Định lúc nào cũng đầy ắp
những người bị bắt. Lúc nào cũng có thể xảy ra những vụ phá ngục giải thoát tù
nhân.
Khi hạ thành Hà Nội lần thứ nhất (1873), Pháp đã đưa ra Côn Đảo 80 người
bị bắt. Đánh thành Hà Nội lần thứ hai (1882) thực dân Pháp lại đày hàng trăm
người nữa ra Côn Đảo. Vào những năm 1863-1867, số tù nhân ở Côn Đảo đã tới 500
người.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, số tù nhân ở nhà tù này đã lên tới 1.200
(Báo cáo của Uy ban ngân sách Hội đồng thuộc địa, phiên họp ngày 11-9-1908). Họ
là những nghĩa quân của Trương Định, tù binh bị bắt trong trận hạ thành Biên
Hòa, Định Tường, những người đứng dưới cờ nghĩa của Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa
Huân... Họ là những người đã tham gia phong trào Cần Vương, những chiến sĩ Ba
Đình, Bãi Sậy, Hùng Lĩnh, Hương Khê, Yên Thế...
Là những nông dân và những người thuộc tầng lớp lao động khác đã đấu
tranh võ trang giữ từng tấc đất của Tổ quốc, chống kẻ địch mạnh hơn, quỷ quyệt
hơn gấp nhiều lần, trong suốt 40 năm trời, khi thất bại, bị này ra Côn Đảo, họ
vẫn tiếp tục đấu tranh, với tinh thần cương quyết dùng bạo lực chống lại kẻ thù
có bạo lực Với truyền thống thà chết quyết không chịu làm nô lệ, lớp tù nhân đầu
tiên này mang lại cho cuộc đấu tranh ở Côn Đảo hình thức chủ yếu là đấu tranh
vũ trang thuần tuý, với những ưu điểm và những hạn chế rõ ràng của nó.
Khởi đầu là cuộc nổi dậy tháng Sáu 1862 ở Côn Đảo Đây là cuộc khởi nghĩa
của toàn thể nhân dân trên đảo mà tù nhân là lực lượng đi đầu, do ông Nguyệt,
quê ở Chợ Quán (Sài Gòn cũ) lãnh đạo. Lực lượng tù nhân lúc đó bao gồm cả những
người cựu tù dưới triều Nguyễn (còn 119 người). Những người lính coi tù thuở đó
và con cháu họ cũng là những người đã từng chống lại các triều Gia Long, Minh Mệnh,
Thiệu Trị, Tự Đức. Họ đã quét sạch bọn Pháp ra khỏi Côn Đảo, đã phá tan Nhà tù
Côn Đảo ngay từ khi nó mới được thành lập.
Cuộc khởi nghĩa đã thắng lợi vẻ vang, đặt nền móng cho truyền thống chống
ngoại xâm của nhân dân Côn Đảo anh hùng. Sau khi đuổi được bọn Pháp ra khỏi Côn
Đảo, nghĩa quân không biết xây dựng tổ chức chính trị và phát triển lực lượng,
cho nên bọn Pháp đã quay lại đàn áp dã man cuộc khởi nghĩa.
Nhưng chỉ hai năm sau, năm 1864, những người tù Côn Đảo lại có kế hoạch
đầu độc bọn thủy thủ Pháp trên tàu Đồng Nai, khi tàu này tới đảo. Việc không
thành, một thầy thuốc người Việt và 4 tù nhân bị bắt.
Ngày 1-1-1868, Quản đốc nhà tù Búp (Boube, đại úy hải quân, viên Quản đốc
thứ tư của nhà tù, từ 1868 đến 1869) lại phải đối phó với một cuộc nổi dậy
khác. Hắn được báo trước là tù nhân sẽ tổ chức một cuộc bạo loạn vào 4 giờ 30,
ngày 2-1-1868. Đứng đầu cuộc bạo loạn là một gác dang người Tagan, tên là
Anatôhô (Anatolio) và hai người tù Việt Nam. Người thứ nhất là Đoàn Văn Đang,
người từng tuyên bố “sẽ lột da bọn xâm lược Pháp làm cờ lấy máu chúng nhuộm đỏ
lá cờ”. Người thứ hai là Lê Văn Phương, một người tù tự nhận rằng đã giết 50
người Tây”. Lập tức cả ba người này bị xiềng chặt. Sáng ngày 3-1- 1868, 19 tù
nhân tham gia âm mưu bạo động đã bị treo cổ (khi Pháp mới sang, bọn chúng thường
xử giảo tội nhân). Anatôliô bị đưa đi đày chung thân ở đảo La Rêuyniông.
Tiếp đó là cuộc khởi nghĩa của tù nhân trên Hòn Bảy Cạnh, ngày
27-8-1883, một sự kiện đã làm chấn động chính giới Pháp. Chiếm Côn Đảo xong,
Bông phái người ra phát quang một ngọn đồi phía bắc thung lũng Cỏ Ong, dựng một
ngọn hải đăng vào tháng 1 năm 1862. Sau đó chúng chọn vị trí xây Hải Đăng - Côn
Đảo ở một mỏm núi phía đông trên Hòn Bảy Cạnh, Quản đốc Nhà tù Côn Đảo bắt 150
người tù ra làm khổ sai ở dây, điều kiện làm việc rất cực nhọc.
Năm giờ sáng ngày 27-8-1883, tù nhân nổi dậy giết 8 lính gác và một viên
sĩ quan chỉ huy tên là Gatxơtông Cabilích (Gaston Cabilic). Kiểm định viên công
chính, Giuyn Pie Duy lông (Jules Pierre Dulong) cũng bỏ mạng. Viên đốc công Bi
đô (Bidaun) bị thương nặng, đưa về thị trấn thì chết, sau khi đã kể lại cuộc nổi
dậy của tù nhân.
Những người tù khởi nghĩa đã tước 15 súng trường, 2 súng lục của bọn
lính Tây, chiếm được tàu săn cá mập và một canô, mang hết lương thực đi và cả
đoàn 150 người tù lên tàu ghé vào một làng gần Phan Thiết (Bình Thuận) lúc đó
do Nam triều quản lý. Viên chánh tổng bắt giam tất cả lại trong trại nhưng vị
phó tổng, một công chức có tinh thần yêu nước, chống Pháp, đã bí mật mở cửa nhà
giam giải thoát cả 150 nghĩa quân Côn Đảo.
Thống đốc Nam Kỳ phản kháng triều đình Huế, đòi cho quân Pháp mở cuộc
càn quét ngay trên đất Trung Kỳ thuộc quyền quản lý của nhà vua để truy nã những
người khởi nghĩa. Chúng bắt lại được 36 người, còn 114 người đã trốn thoát.
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa trên Hòn Bảy Cạnh đã làm cho bọn cai trị
Pháp ở Nam Kỳ rất hoang mang. Gần một tháng sau chúng mới có báo cáo gửi về Bộ
Hải quân và thuộc địa Pháp. Sau đó Pháp tăng cường thêm một đội thủ quân lục
chiến ra bảo vệ Hải Đăng - Bảy Cạnh, đặt đường cáp điện tín ngầm nối Côn Đảo với
đất liền, khiển trách Quản đốc nhà tù Bốc kê (Bocquet, quan chức thuộc ngạch
cai trị, Quản đốc nhà tù từ 1882 đến 1884). Tháng 5 năm 1884, Hải Đăng Côn Đảo
mới được xây xong. Báo chí Pháp gọi cuộc khởi nghĩa ở Hòn Bảy Cạnh là “cuộc
cách mạng ở Côn Đảo”.
Sau cuộc khởi nghĩa 1883, chế độ nhà tù được siết chặt hơn. Theo quy chế
mới ban hành năm 1889, bọn giám ngục Pháp được quyền bắn vào tù nhân khi thấy cần
thiết; việc quản lý tàu thuyền trên đảo càng thêm chặt chẽ; hình phạt đối với
tù nhân nặng thêm; khu kỷ luật Banh I hình thành... nhưng vẫn không dập tắt được
ý chí đấu tranh củ những người yêu nước.
Ngày 17-6-1890, gần 400 người tù gốc Bắc Kỳ đã nổi dậy giết gác ngục, cướp
súng, dự định đóng bè vượt đảo. Quản đốc Rơn (Ren) điều lính đến đàn áp, bắn chết
mấy chục ngươi và bắt lại gần hết. Do thiếu tổ chức chặt chẽ, cuộc nổi dậy bị dập
tắt nhanh chóng. Hai ngày sau, ngày 19-6-1890, một tù nhân tên là Ca định tổ chức
cướp tàu Gi.B.Xay vừa từ Thái Lan sang, nhưng việc bị lộ không thành.
Những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ
trước, Pháp cần nhiều công nhân để khai thác thuộc địa, chúng chủ trương đưa tù
Côn Đảo đi các nơi, như đảo Rêuyniông còn gọi là đảo Buốcbông (Bourbon), Gabông
(Gabon), Tahiti (Tahiti), Numê a (Noumé a) và Guyan (Guyane). Năm 1892, Toàn
quyền Lanétxăng (De Lanessan) lệnh cho Quản đốc Nhà tù Côn Đảo phải đưa 200 tù
ra làm con đường chiến lược số 4 ở thượng du Bắc Kỳ.
Tù Côn Đảo tổ chức nhiều cuộc nổi dậy
Ngày 28-8-1894, 65 người tù khổ sai bị đưa ra lấy san hô, 8 giờ tối, 15
tù nhân, do ông Đạt (số tù 3084) chỉ huy, đã giết hai gác ngục bằng lưỡi hái. Họ
dự định cướp thuyền vượt ngục, nhưng việc không thành. ông Đạt nhảy xuống biển
bơi trốn sau đó bị sóng đánh dạt vào bờ. Ông bị giặc bắt và bị tử hình.
Ngày 25-7-1904, 65 tù khổ sai người Bắc Kỳ bị đưa sang Hòn Cau lấy dừa về
đảo. Viên trưởng tàu sà lúp Lơ Carê (Le Carer) chỉ huy chung, dưới quyền có 3
giám thị người Pháp, một người lính Tagan, 2 ma tà người Việt. Những người tù
khổ sai đã hiệp lực diệt hầu hết bọn nhân viên coi tù này, chỉ trừ hai tên giám
thị Pháp nhảy xuống biển nên thoát chết. Chiếc tàu chở tù chạy thẳng ra khơi. Bọn
Pháp đã huy động chiếc tàu chiến Atxơpic (Aspic) truy lùng họ, nhưng vô hiệu.
Sau cuộc chống thuế ở Trung Kỳ, một lớp tù nhân mới, những vị văn thân,
những nhà nho yêu nước hoạt động trong các phong trào Đông Du (1905-1908), Đông
kinh nghĩa thục (1907), phong trào Duy Tân và phong trào chống đi phu, đòi giảm
thuế ở Trung Kỳ (1907- 1908) đã bị Pháp đày ra Côn Đảo. Phần lớn các vị đều là
những người cầm đầu, khởi xướng của các tổ chức cách mạng theo chiều hướng dân
chủ tư sản.
Khuynh hướng tư tưởng của các cụ đã có ảnh hưởng rõ nét đến sắc thái hoạt
động và tranh đấu cua tù chính trị Côn Đảo. Các vị không chủ trương bạo động mà
chuyển sang hình thức đấu tranh trên các mặt chính trị, văn hóa và đòi cải thiện
đời sống theo khuynh hướng cải lương. Những hoạt động phản kháng chế độ lao tù
rất yếu ớt, tuy ý chí đấu tranh cứu nước không hề giảm sút, biểu hiện chủ yếu
trong một nền thi ca mới: thi ca trong tù, khởi đầu là thi ca trong ngục tù Côn
Lôn.
Từ kinh đô Huế, Phan Chu Trinh trên đường đi đày ra Côn Đảo đã ứng khẩu
bài tứ tuyệt nổi tiếng “Ra cửa đô môn” (Xuất đô môn tác):
Luy luy già tòa xuất Đô môn,
Khảng khái bi ca thiệt thượng tồn,
Quốc thổ trầm luân dân tộc
tụy,
Huỳnh Thúc Kháng, bạn
chiến đấu của Phan Chu Trinh đã dịch :
Xiểng gông cà kệ biệt đô môn,
Khảng khái ngâm nga lưỡi vẫn còn,
Đất nước đắm chìm nòi giống mỏn,
Thân trai nào sợ cái Côn Lôn!
Sau Phan Chu Trinh là các cụ Huỳnh Thức Kháng, Đặng
Nguyên Cẩn (số tù 7448), Ngô Đức Kế cùng hàng chục thân sĩ Bắc, Trung, Nam bị kết
án chính trị đày ra Côn Đảo. Khi đó cụ Phan đang ở Sở rẫy An Hải, cụ đã tìm
cách gửi thư động viên các bạn chiến đấu, ngay buổi chiều hôm họ tới Côn Đảo:
“Thoạt nghe anh em ra đây, dậm chân kêu trời một tiếng, đoạn tự nghĩ: anh em vì
quốc dân mà hy sinh đến phải ra đây, chắc có trăm điều vui mà không chút gì buồn.
Đây là trường học thiên nhiênmùi cay đắng trong ấy là trai giữa thế kỷ này
không thể không nếm cho biết...”2.
Ở đảo hồi đó chưa có sự phân biệt tù chính trị với tù thường, họ ở chung
trong Banh I. Các vị thân sĩ vẫn phải làm khổ sai như tù thường. Những người án
nhẹ thì đi làm rẫy, đốn củi, dọn tàu... án nặng thì đập đá trong banh, không được
ra ngoài.
So với công việc khác thì đập đá trong banh là việc tương đối nhẹ, nhưng
đối với các nhà nho, các vị khoa bảng thì quả là khó. Do không làm được các
công việc khổ sai nặng nhọc, bọn gác ngục ác ôn vô học thường đánh đập, cúp phạt
và gọi các cụ một cách xách mé là “tụi quan to hèn”.
Khổ nhục không làm nhụt ý chí đấu tranh của các cụ Sau mỗi ngày lao động
khổ sai, buổi tối trong các khám giam, các cụ vẫn họp lại với nhau, đàm luận về
chính trị, văn chương, xem xét lại hoạt động đấu tranh của mình.
Tháng 2 năm 1908, những người đứng đầu phong trào Đông kinh nghĩa thục
như: Nguyễn Quyền, Lê Đại, Võ Hoành, Dương Bá Trạc cùng với các sĩ phu thuộc
phong trào Đông du bị đày ra Côn Đảo. Tiếp đó vài tháng sau, nhiều vị khoa bảng
ở Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Quảng Ngãi, Bình Định và Hà Nội cũng bị đày ra đảo, số
tù “quốc sự phạm” lên tới trên 50 người.
Năm đó ở Côn Đảo có bệnh dịch lớn, tù chết nhiều, trong đó có cả những vị
văn thân. Cảnh tù đày càng thêm thê thảm. Bị tù thường phạm lưu manh quấy nhiễu,
tù quốc sự phạm làm đơn đấu tranh đòi được giam riêng.
Năm 1910, Quản đốc Quyđơnê (Cudenet) tách các vị giam riêng vào khám 6
và khám 7 ở Banh I. Được giam riêng và làm khổ sai tương đối nhẹ hơn như dệt
chiếu, làm rẫy... các cụ có điều kiện thảo luận kỹ với nhau về tình hình đất nước,
tình hình phương Đông và thế giới.
Những người tham gia thảo luận ở đây đều là những nhân chứng đủ thẩm quyền
để phát biểu chính kiến. Họ trình bày những điều đã nghe, đã thấy, đã làm, góp
phần vào việc đánh giá một con người, một sự việc một phong trào. Đề tài thảo
luận khá rộng: văn thơ cổ điển Việt Nam, Trung Quốc, tư tưởng phương Đông, tinh
thần yêu nước và hoạt động duy tân của các chí sỹ Nhật Bản những năm trước và
sau khi Minh Trị lên ngôi; chủ trương Duy Tân đã tiến hành và thất bại ở Trung
Quốc những năm cuối thế kỷ trước; đặc biệt lý thú là các cuộc vận động chống
Pháp, từ thời kỳ mất lục tỉnh Nam Kỳ đến đầu thế kỷ này.
Trái với mong muốn của thực dân, những người tù chính trị ở Côn Đảo
không phải là hoàn toàn không có khả năng nắm bắt tình hình trong nước và trên
thế giới. Tàu bè từ Sài Gòn vẫn chở những món hàng cần thiết ra cho nhu cầu
trên đảo. Mặt khác, các cuộc biến động chính trị ở trong nước vẫn không ngừng xảy
ra, các tòa Đại hình cũng liên tiếp gửi ra Côn Đảo hàng loạt quốc sự phạm. Các
vị khách mới này chính là những nhân chứng sống thực sự trong tấn bi kịch hùng
tráng của đất nước.
13 năm bị cầm tù ở Côn Đảo là 13 năm khủng hoảng bế tắc đối với các nhà
nho đại diện cho những khuynh hướng khác nhau trong phong trào văn thân. Các tổ
chức tiếp tục tan rã, những người cầm đầu bị bắt gần hết, những người sống lưu
vong ở Nhật, ở Tàu cũng lần lượt bị trục xuất hoặc bị bắt bớ, làm khó dễ.
Từ khi bị bắt (1908) đến khi được thả (1921), các cụ đã có dịp suy nghĩ,
cân nhắc để nhận chân sự bất lực của mình, của đường lối mình theo, của phương
pháp mình hành động, mặc dầu tinh thần yêu nước thương nòi, xả thân vì nghĩa cả
không hề đổi khác. Các lãnh tụ phong trào Văn thân đã nhận thấy con đường họ chọn
lựa chỉ đưa đến “một trăm thất bại không một sự thành công” (Phan Bội Châu).
Nhưng do những hạn chế về giai cấp, về ý thức hệ, các cụ đã không thể
tìm ra một đường lối đúng đắn, tập hợp được đông đảo nhân dân chống giặc, phù hợp
với xu thế của thời đại. Trong những năm tháng ở Côn Đảo, các nhà Văn thân tỏ
ra bất lực, chỉ biểu lộ cảm tình mà không tham gia những cuộc đấu tranh do các
tù nhân khác tiến hành.
Các cuộc bạo động của tù nhân vẫn tiếp tục diễn ra. Ngày 22-5- 1910, một
nhóm tù đang xây bể giặt quần áo ở Banh I, đã dùng dao nhọn làm bằng đai thùng
khuy, đâm chết ngay tên Xếp chánh min gia (Emile Aujard). Tên giám thị này là một
lính cảnh sát cũ ác có tiếng, tù nhân đều ghét. Một tên gác dang khác rút súng
bắn chết một tù nhân để cứu gia, tên này cũng đền tội tại chỗ.
Ngày 12-1-1911, bọn Pháp đem 3 tù nhân liên quan đến vụ giết gia ra chém
đầu, sau khi họ đã không thèm ký vào đơn xin ân giảm. Để giấu giếm vụ bạo động
này, nhà cầm quyền ở Côn Đảo, trong một thời gian dài, canh gác chặt chẽ không
để cho khách vãng lai từ Xanhgapo lên đảo, sợ họ chụp ảnh nơi đã xảy ra sự việc.
Mùa xuân năm 1918, ở Côn Đảo đã nổ ra cuộc nổi dậy của khám tù chung
thân Banh I, có sự tham gia của Nguyễn Trọng Thạc, một tướng chỉ huy của phong
trào Bãi Sậy, con trai Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật.
Ngày mùng 4 Tết Mậu Ngọ (14-2-1918) tù nhân vẫn đi làm ở các sở ngoài
như thường lệ. Tù chung thân ở Banh I cũng ra đập đá dăm trên khoảng đất trống,
sau Nhà bếp. Khoảng 2 giờ chiều, tù nhân xông tới dùng búa đập chết gác dang
Simông và hai tên ma tà. Những người tù ào lên định xông vào cướp vũ khí và tấn
công đội lính gác.
Viên cai Lácmuyriê (Larmurier) vội đóng cửa lại và chỉnh súng qua chấn
song bắn ra. Kẻng báo động nổi lên, bọn giám thị Tây, viên quan hai, Xếp chánh
và Quan đốc Ăng đua (Andouard) chạy tới dẫn đầu một toán lính Tây. Hắn ra lệnh
xả súng bắn vào những người tù đang tụ lại ở Nhà bếp, Hầm xay lúa và gian nhà
dùng làm nơi cho tù đan lát.
Cuộc tàn sát những người tù tay không vũ khí kéo dài hơn hai tiếng đồng
hồ. Người chỉ huy nghĩa quân Bãi Sậy - Nguyễn Trọng Thạc và ông tú Phạm Cao Chẩm,
người vừa tham gia cuộc khởi nghĩa Duy Tân (5-1916) cùng hơn 80 người tù chung
thân đã gục ngã. Sau khi giết gần hết khám tù chung thân, tên chúa đảo cho lệnh
Tây vác súng đi tới các sở tù áp giải tù về. Bọn này được lệnh thấy động là xả
súng bắn ngay.
Đến tận chiều tối,
từng tốp tù đi làm khổ sai đã được giải về Banh
I. Cụ Huỳnh Thúc
Kháng cũng trong đám tù đi làm ở Sở Ruộng, kể lại: “Về đến banh, vào trong sân
thì thấy xác chết nằm ngổn ngang, máu chay thành đống, mắt không dám ngó”1.
Dư luận dân chúng trong đất liền xôn xao. Người ta kể ra những chi tiết
đau lòng chung quanh vụ thảm sát. Lính Tây đã dí súng vào mang tai những người
tù ngắc ngoải, bắn cho chết hẳn. Báo chí Sài Gòn, bất chấp sự kiểm duyệt, phát
lời tố cáo tên đao phủ ở Côn Lôn. Họ buộc tên này vào tội đã xả súng bắn vào cả
những người tù không biết gì về việc nổi dậy... Báo chí thực dân hồi đó đã thuật
lại như sau:
“Ngày 1-10-1918, Ăngđua bị đưa ra tòa án. Nhưng anh ta đã tự bào chữa
hùng hồn:
- Tôi đã bắn một cách tỉnh táo... và tôi sẽ còn bắn nữa nếu như còn xảy
ra bạo loạn. Các ngài nên biết rằng vẫn còn bốn trăm năm mươi tù nhân ngoài
vòng khủng bố...”.
Quan tòa Kexơnen (Quesnel) đã lập biên bản, tha bổng ăng đua và còn ca
ngợi Ăng đua mà chê hai người Quản đốc trước đó quá nhu nhược. Ăng đua được trắng
án trong những tràng vỗ tay hoan hô của bọn thực dân và trở lại cai trị Côn Đảo
như trước.
Trong cuốn sách “Đây “công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương”, đồng chí
Nguyễn Ái Quốc, đã tố cáo vụ thảm sát của Ăng đua ở Côn Đảo trước dư luận thế
giới:
“Một tên quản ngục Côn Lôn, bị tố cáo là đã giết một
cách thản nhiên một lúc hơn 40 phạm nhân, được trắng án và khen thưởng”1. Ăng đua là
một trong những tên chúa đảo hung bạo nhất ở Nhà tù Côn Đảo. Là một trung úy trừ
bị cảnh sát thuộc địa, hắn đã được cất nhắc làm Quản đốc Nhà tù Côn Đảo từ
1917. Do bị cụt tay phải trong trận Âu chiến 1914-1918, tù nhân gọi hắn là ông
Lớn một tay, động
một chút là là phạt rất nặng, nhất là đối với tù chung thân
thì kẻ hầm, người xiềng, không mấy người thoát khỏi.
Vì thế khám tù chung thân
(khám 6 và 7 trong Banh I) mới diễn ra tấn kịch “liều chết bạo động”, đó là ngày
4 Tết âm hạch năm Mậu Ngọ, 19182.
Ăng đua có nuôi một con chó Bécgiê thật dữ, khẩu phần của nó một ngày gồm
2 kg thịt bò và 2 lít sữa tươi do Sở Chuồng Bò cung cấp. Mỗi khi có chuyện bực
mình, hắn cho con chó tha hồ cắn một người tù nào đó mà hắn không ưa. Nạn nhân
nào không may bị Ăng đua trù mặt thì ít có hy vọng thoát chết, vì con bécgiê của
hắn thích cắn tận cần cổ hơn chỗ nào khác. Chính Ăng đua đã cho đem hai con hổ
từ đất liền ra, thả lên núi để chống lại những người tù trốn lên đến đây, kết
bè và ẩn náu trước khi vượt ngục. Trên rừng thì cọp dữ, dưới biển thì cá mập,
trong nhà tù thì những tên giết người như ăng đua, thử hỏi người tù còn biết chạy
đâu cho thoát chết!
Sau cuộc thảm sát ở Banh I, cuộc sống của tù nhân ở đảo đã tồi tệ lại
càng thêm tồi tệ. Bất cứ đi làm khổ sai ở đâu, đều có lính gác đi kèm, súng lăm
lăm trên tay. Đám tù chung thân sống sót mỗi lần ra khỏi khám là phải đeo xiềng
tạ, vào khám là phải cùm chân. Bọn gác ngục đánh tù như điên để khủng bố, trả
thù. Cửa banh được bố trí súng máy chĩa vào, lính gác tuần tiễu ngày đêm, thấy
có gì khả nghi là mặc sức bắn. Nhưng tất cả những thứ đó không hề làm nhụt chí
đấu tranh của người tù.
Ngày 3-12-1919, tên Ăng đua khát máu đã phải đền tội Sửu Nhỏ - người tù
ra làm bồi cho viên quan hai chỉ huy trại linh đã lấy được khẩu súng lục của hắn
và đã hạ sát tên Quản đốc đao phủ ăng đua. Anh giấu súng trong áo chẽn, đến nhà
tên đao phủ ăng đua, nói với người hầu rằng có thư phải chuyển cho Quan đốc.
Lúc ấy là 10 giờ sáng.
Sửu Nhỏ bước vào phòng làm việc của Quản đốc, một tay đưa phong thư ra,
tay kia giương súng, bóp cò, xả gần hết cả băng đạn. Ăng đua gục ngay tại chỗ.
Xong nhiệm vụ trả thù cho gần 100 bạn tù đã bị giết hại, Sửu dành viên đạn cuối
cùng cho mình, biết chắc rằng không thể thoát được vì tư dinh của Ăng đua đã ở
vào tình thế bị bao vây.
Trong điếu văn đám tang Ăng đua, viên Quản đốc mới, đại úy Lăm be
(Lambert) đã khẳng định: “Ăng đua đã chuốc lấy bao nhiêu hận thù. ông đã trả
giá cho việc mình đã làm từ năm1918”.
Hai cuộc nổi dậy liên tiếp của tù nhân Côn Đảo trong năm 1818 và 1819 đã
gây ấn tượng mạnh mẽ cho những sĩ phu Văn thân ở Côn Đảo, ngay trước khi họ được
thả. Muốn sống còn, chỉ có một con đường duy nhất là đấu tranh. Đấu tranh như
thế nào? Những năm cuối cùng ở Côn Đảo, lớp nho sĩ cải lương yêu nước thường
bàn luận về chủ nghĩa, về phương thức đấu tranh một khi thoát khỏi ngục tù.
Trong số những nhà Văn thân đã hết vai trò lịch sử đó, có nhiều người đã
suy nghĩ, tìm cách đi gần tới những tổ chức chính trị của giai cấp công nhân -
giai cấp mà lịch sử phát triển của đất nước đã trao trọn quyền lãnh đạo cách mạng
giải phóng dân tộc.
Một trong những người đó là ông tú Nguyễn Đình Kiên (Nguyễn Hy Cao) ở đảo
về năm 1921, ông đã cùng một số bạn chiến đấu cùng chí hướng kết hợp với nhóm
sinh viên yêu nước trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội thành lập Hội Phục Việt vào
mùa hè năm 1925. Trong phong trào sôi nổi của nhân dân ta đòi thực dân Pháp phải
thả nhà ái quốc Phan Bội Châu năm 1925. Hội đã rải truyền đơn ở các thành phố lớn
như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, thị xã Hải Dương và cả ở Nam Kỳ kêu gọi đấu
tranh. Cở sở của Hội bị lộ và Hội phải đổi tên là Hưng Nam.
Do chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của
Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, tổ chức cách mạng do đồng chí Nguyễn
ái Quốc sáng lập năm 1925 ở Quảng Châu (Trung Quốc), Hưng Nam đã chuyển thành
Tân Việt cách mạng đảng (7-1928), sau đó phân hóa và dẫn tới sự ra đời của Đông
Dương cộng sản liên đoàn (1-1930), một trong ba tổ chức cộng sản đã hợp nhất lại
thành Đảng Cộng Sản Việt Nam vào tháng 2 năm 19303. Trong thời kỳ dựng Đảng, cụ Nguyễn Hy Cao là Bí
thư Kỳ bộ Nam Kỳ của Tân Việt cách mạng đảng.
1.
Banh là ngục giam tù nhân, được phiên âm từ bage tiếng
Pháp.
1. Từ sở được dùng ở
đây có nghĩa là một dịch vụ (service) không nhất thiết là một cơ quan, như ta
thường quan niệm. Ví dụ: Sở tẩy là kíp làm công việc vệ sinh ở các banh tù.
1. Bọn gác ngục, ma tà có quyền giết người tù với cái cớ là
người tù “tìm cách vượt ngục”. Chỉ cần
hạ thủ người tù, cắt tai trình Quản đốc là được lãnh 10 đồng bạc tiền thương.
Nhiều ma tà thấy người tù khờ khạo nào đó sai đi bứt lá bứa, hái rau rừng, người
tù vừa chạy đi thì chúng bắn chết, xẻo tai đem về lãnh thưởng.
1. Nguyễn Văn Nguyễn:
Côn Lôn - Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 35, Nxb Khoa học xa hội, N. 1983, tt.
747.
1. Nguyễn Văn Nguyễn - Sách đã dẫn, tr. 761.
1. Thơ văn Phan
Chu Trinh, Nxb Văn học. H. 1983, tr. 65.
2. Huỳnh Thúc
Kháng - Sách đã dẫn, tr. 42.
1. Huỳnh Thúc Kháng - Sách đã dẫn, tr. 225.
1. Hồ Chí Minh
- Toàn tập, tập 2, Nxb. Sự Thật, N.1981,' tr. 142. Do thực dân bưng bít, số tù
nhân bị giết không được công bố chính xác (T.G).
2. Huỳnh Thúc
Kháng - Sách đã dẫn, tr. 224.
3. Hồ Chí Minh
- T oàn tập, tập 2, Nxb Sự Thật, H. 1981, tr. 324.
Chi bộ khám Chỉ Tồn, Banh I (1930 -1934)
Ngày 9-2-1929, Quốc dân đảng tổ chức ám sát tên trùm mộ phu Badanh tại
Hà Nội. Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố, bắt hàng trăm người yêu nước và cách
mạng. Tháng 7 năm 1929, theo lệnh của toàn quyền Pátkiê (Pièrre Pasquier), các
phiên toà đại hình được mở cùng một thời gian ở hơn 20 tỉnh và thành phố Việt
Nam. Hàng trăm người bị kết án và đày ra Côn Đảo, trong đó có một số hội viên
Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Đây là những chiến sĩ cộng sản đầu
tiên trên Côn Đảo.
Ngày 10-2-1930 cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng nổ ra
và bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Nguyễn Thái Học và một số lãnh tụ Việt
Nam Quốc dân đảng bị xử tử, hầu hết số đảng viên còn lại bị bắt tù. Chuyến tàu
Cơlốt Sáp (Claude Chappe) ngày 18-6-1930 rời cảng Hải Phòng chở hơn 200 đảng
viên Việt Nam Quốc dân đảng và gần 40 đảng viên cộng sản vừa bị bắt đày ra Côn
Đảo.
Tại cửa biển Vũng Tàu, thực dân Pháp dồn tù từ tàu Cơlốt Sáp qua tàu
Ácmăng Rút sô (Hardmand Rousseaux) vừa chở đoàn tù từ Khám Lớn (Sài CTòN) đến để
đưa cùng một chuyến ra Côn Đảo. Trong lúc chuyển tàu đoàn tù cộng sản đã phất
cao lá cờ đỏ búa liềm và hô to các khẩu hiệu:
-
Đáng Cộng sản
Việt Nam muôn năm!
Hình ảnh lá cờ đỏ búa liềm tung bay trên biển Vũng Tàu và âm vang của những
khẩu hiệu đã báo hiệu một thời kỳ đấu tranh cách mạng mới ở nhà tù Côn Đảo.
Cuối năm 1930 thực dân Pháp đưa thêm mấy chuyến tù ra Côn Đảo, nâng con
số tù nhân ở đây lên 1992 người. Tù chính trị lúc này mới có khoảng hơn 300 người
mà phần đông là Việt Nam Quốc dân đảng bị cấm cố trong Banh II. Hơn 1.600 tù
nhân còn lại tập trung ở Banh I và các sở tù khổ sai. Nhiều đảng viên cộng sản
bị kết án khổ sai cũng bị giam chung với tù thường phạm ở Banh I...
Lớp người cộng sản đầu tiên bị đày ra Côn Đảo còn gặp một số sĩ phu yêu
nước thuộc các phong trào Đông Du, Đông kinh nghĩa thục, phong trào chống thuế ở
Trung Kỳ và một vài nghĩa quân của các cuộc khởi nghĩa Hương Khê, Yên Thế, Duy
Tân... còn sống sót sau nhiều năm bị đày ải ở đây.
Nhà tù Côn Đảo là nơi tụ hội của những người yêu nước và những người
cách mạng Việt Nam sau mỗi lần thực dân Pháp khủng bố ác liệt. Theo Niên giám
thống kê Đông Dương, từ năm 1930 đến năm 1933, thực dân Pháp đã bắt giam
216.532 người. Riêng ở Bắc Kỳ trong 2 năm 1930-1931 chúng đã mở 21 phiên tòa đại
hình xử nhiều vụ với 64 án tử hình, 114 án khổ sai chung thân và 430 án lưu đày
biệt xứ. Nhiều người trong số đó đã lần lượt bị đày ra Côn Đảo.
Mặc dù mỗi năm có đến hàng trăm người tù chết nhưng con số tù nhân ở Côn
Đảo vẫn không ngừng tăng lên:
Năm 1931: 2.145 người
Năm 1932: 2.276 người
Năm 1933: 2.483 người
Phần lớn số tù nhân tăng lên trong thời kỳ này là những đảng viên cộng sản
và quần chúng yêu nước bị thực dân Pháp bắt sau cao trào cách mạng 1930-1931.
Dưới thời tên chúa ngục khát máu Buviê (Bouvier, 1927-1934) nhà ngục Côn Đảo thật
ghê rợn và ảm đạm.
Tháng 11 năm 1930, một trận bão lớn ập đến Côn Đảo,
trại giam Sở Lưới sập làm 75 người tù chết thê thảm; Banh I, Banh II và nhà cửa
trên đảo đều bay hết ngói. Sau trận bão, tù nhân được huy động đi sửa chữa ngay
nhà cửa cho binh lính và gác ngục, còn họ thì phải sống cảnh “màn trời chiếu đất”
trong mấy tháng trời. Ngày phơi nắng, đêm phơi sương và phải chịu những trận
mưa bất thường ập đến nhiều người tù mòn mỏi, suy kiệt rồi mang bệnh mà chết.
Năm 1930, Nhà tù Côn Đảo đã vùi xác 311 người tù, tỷ lệ chết là 15,6%, cao nhất
trong các nhà tù ở Đông Dương2.
Vừa ra đời và phất cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc, lật đổ ách thực dân, những người cộng sản Việt Nam đã phải đương
đầu với bộ máy đàn áp khổng lồ: tòa án phát xít và nhà tù nổi tiếng tàn bạo ở
Đông Dương. Tên thực dân khét tiếng chống cộng Pátkiê khi nhận chức toàn quyền Đông Dương đã tuyên bố: Không diệt hết cộng sản
không về3.
Không thể chém đầu hàng loạt được vì nền thống trị thực dân cần phải lừa
bịp về chính trị, vì vậy nhà tù là công cụ khủng bố chủ yếu của chúng. Không giết
được hàng loạt ngay một lúc thì giết dần, giết mòn. Nhà tù là nơi tập trung đày
ải làm tiêu mòn ý chí chiến đấu và tiêu diệt lực lượng cách mạng.
Năm 1931, Nhà tù Côn Đảo có 2.146 tù nhân thì có 209 người đã chết, tức
là cứ đày 10 người tù ở Côn Đảo là mỗi năm chúng giết được một người. Với tốc độ
giết người như vậy, sau 10 năm đày ải, bọn thực dân có thể giết sạch một lớp
tù. Nhiều người đã chết khi chưa được nửa án. Lớp tù nhân của cao trào cách mạng
1930-1931 bị đặt trước hai tình huống: hoặc là chịu chết dần mòn trong lao tù,
hoặc là đấu tranh đòi cải thiện chế độ nhà tù, giành lấy sự sống. Những người cộng
sản đã thảo luận ngay phương châm tổ chức và đấu tranh chống chế độ khủng bố, đọa
đày. Cuộc thảo luận kéo dài vì Côn Đảo không giống bất cứ nhà tù nào ở trong đất
liền.
Ở Hỏa Lò (Hà Nội) hay Khám Lớn (Sài Gòn), tù nhân tuyệt thực ngày hôm
trước là hôm sau chấn động cả thành phố, dư luận quần chúng bên ngoài lên tiếng
ủng hộ. Ở một nơi heo hút như ngục Sơn La, trong vòng 8 tháng đày đọa, 43 tù
nhân bị giết hại (1933) đã làm xôn xao dư luận. Để dập tắt phong trào đấu tranh
ở nhà tù Sơn La và bưng bít ngay dư luận, tên toàn quyền Pátkiê đã ra lệnh đày
những người còn sống sót ra Côn Đảo. Bọn gác ngục trong đất liền lại được dịp
đe dọa tù nhân: “Ra Côn Đảo tha hồ mà đấu tranh, ở ngoài ấy có sóng biển ủng hộ
chúng mày!”.
Cùng thời gian ấy, năm 1933 tại Nhà tù Côn Đảo đã có 85 người chết;
trong vòng 4 năm, từ 1930 đến 1933 thực dân Pháp đã giết hại 708 tù nhân tại
nhà ngục này, nhưng dư luận bên ngoài không hề biết. Các nhà tù ở đất liền đều
gần gũi và có sự phối hợp hoạt động với các tổ chức cách mạng và phong trào
cách mạng của quần chúng, với dư luận tiến bộ, còn Côn Đảo là một hòn đảo biệt
lập.
Giữa biển khơi mênh mông, Côn Đảo không có dân cư, chỉ có tù nhân, cai
ngục và sự đọa đày. Đó là một nhà tù “lý tưởng” mà bọn thực dân đã sớm chọn để
có thể khủng bố những người chống đối chúng một cách man rợ nhất, bất chấp cả
dư luận và pháp luật. Tất cả các yêu sách của tù nhân đều được trả lời bằng roi
vọt và những hình phạt khắc nghiệt. Các cuộc bạo động đều bị đàn áp bằng súng
máy và lưỡi lê.
Cuộc đàn áp đẫm máu khám tù chung thân Banh I năm 1918 và không khí khủng
bố, chết chóc ở Côn Đảo những năm 1930 làm không ít người tù ngao ngán. Lớp cộng
sản đầu tiên ra Côn Đảo còn gặp những người tù cũ bị đày đọa ở đây đã trên 30
năm. Có người đã ngoài 70 tuổi còn bị đày ra Côn Đảo như cụ Nguyễn Thiện Kế, em
ruột người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nguyễn Thiện Thuật. Có người bị đày ra khi
tóc còn xanh cho đến hơn 70 tuổi vẫn chưa được về như cụ Lãnh Đạt, một tướng của
Phan Đình Phùng.
Đày ra Côn Đảo là không còn hy vọng trở về. Trong tình hình đó có một số
ít người cầu an, dao động, nhưng phần lớn số đảng viên cộng sản đều vững vàng
và nung nấu ý chí cách mạng. Tổ chức và đấu tranh là vũ khí sắc bén của người cộng
sản. Sống là tranh đấu. Ở nhà ngục Côn Đảo muốn sống càng phải tranh đấu.
Vấn đề thành lập chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo trong nhà tù được những
người cộng sản thảo luận sôi nổi. Nhiều vấn đề rất mới nảy sinh trong các cuộc
thảo luận. Ở Côn Đảo có tổ chức chi bộ đảng được không? Chi bộ trong nhà tù hoạt
động như thế nào? Ai công nhận và chỉ đạo hoạt động của chi bộ? Tiêu chuẩn để
công nhận đảng viên trong nhà tù ra sao? Có ý kiến cho rằng tổ chức chi bộ
trong một nhà tù hà khắc nhất định sẽ bị địch khủng bố, như vậy sẽ không bảo vệ
được cán bộ. Có ý kiến cho rằng ở Côn Đảo không có quần chúng, không có phong
trào cách mạng nên không thể tổ chức và đấu tranh thắng lợi được.
Vấn đề tiêu chuẩn đảng viên được thảo luận rất kỹ. Không thể tránh khỏi
những đảng viên sai phạm về nguyên tắc hoạt động bí mật, sai phạm khi bị bắt hoặc
sai phạm trong tù. Những sai phạm ấy chưa được kiểm điểm và xử lý; chưa được
xác định tính chất, mức độ và kỷ luật... Vậy thì xét công nhận đảng viên như thế
nào? Ngay cả những người không sai phạm cũng đưa ra ý kiến: Tôi vẫn là đảng
viên, chưa hề bị kỷ luật khai trừ, vậy lấy tư cách gì để kết nạp tôi vào Đảng?
Sau nhiều lần thảo luận, mặc dù có những vấn đề chưa đủ căn cứ để giải
đáp, song nhiều ý kiến đã thống nhất rằng: Bất cứ ở đâu và trong hoàn cảnh nào
người cộng sản cũng phải không ngừng hoạt động cách mạng; nơi nào có người cộng
sản là ở đó cần có tổ chức Đảng để giáo dục đảng viên, giác ngộ quần chúng và
lãnh đạo đấu tranh; vào tù không phải là nằm im chờ đợi hay bó tay chịu chết;
ngay ở Côn Đảo cũng phải tiếp tục cuộc đấu tranh cách mạng và cần phải có tổ chức
Đảng làm hạt nhân lãnh đạo.
Chi bộ đầu tiên ở Nhà tù Côn Đảo ra đời gắn liền với hoạt động của đồng
chí Nguyễn Hỡi, nguyên ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng
Cộng sản Việt Nam, Bí thư Tỉnh ủy Nam Định. Ngay khi mới ra đảo, bị giam ở Banh
II, Nguyễn Hỡi đã bàn bạc với một số đồng chí gần gũi rằng cần phải thành lập
ngay một tổ chức hạt nhân cộng sản để lãnh đạo trong tù. Cuối năm 1931, khi bọn
chúa ngục chuyển những người tù chính trị mang án khổ sai và án tù về Banh I
thì nhóm hạt nhân được hình thành do Nguyễn Hỡi đứng đầu.
Banh I là điển hình của chế độ khổ sai giết tù. Xây chưa xong hai mố cầu
Ma Thiên Lãnh, bọn chúa ngục đã giết hại 356 người tù. Xây cầu tàu Côn Đảo
trong nhiều năm chúng đã vùi xác gần một ngàn người. Hầu như mỗi mảnh đất, gốc
cây, tảng đá ở Côn Đảo đều khắc sâu nỗi cực nhọc và thấm máu của những người tù
khổ sai. Banh I là hiện thân của “địa ngục trần gian”, những công việc khổ sai
như xay lúa, đốn củi, kéo gỗ, kè đá, mò san hô, dọn tàu... còn rùng rợn hơn cả
cái chết.
Banh I là điển hình của những hình phạt man rợ: đòn roi, còng, xiềng, xà
lim, hầm xay lúa, cấm cố biệt lập v.v... Có những lúc để chia rẽ tù, bọn gác ngục
đã lựa cá khô còn tốt phát cho tù chính trị Banh II, cá khô mục thối phát cho
tù khổ sai Banh I. Trong lúc tù chính trị ở Banh II được nhận tiền và quà của
gia đình thì tù khổ sai ở Banh I chỉ được nhận tối đa mỗi tháng một đồng. Bất cứ
lúc nào bọn gác ngục cũng có thể đánh đập bắt họ “đền tội với xã hội. Những người
cộng sản chỉ có một “tội” yêu nước và đấu tranh cho độc lập tự do, bị kết án khổ
sai cũng phải chịu chung sự đối xứ dã man như vậy.
Khổ cực và uất hận chất chồng, tù nhân Banh I đã nhiều lần vùng lên chống
lại bằng nhiều cách: giết bọn cặp rằng lưu manh, giết những tên gác ngục hung
ác, tự tử để phản đối hoặc nổi dậy phá ngục. Họ thà chết còn hơn chịu cảnh ngược
đãi, đọa đày, song những cuộc đấu tranh như vậy chỉ làm cho bọn chúa ngục thêm
bạo ngược, còn phần lớn tù nhân thì kéo dài tình trạng bế tắc và tuyệt vọng.
Một bộ phận lưu manh loại “anh chị” tiếp tục cuộc đời lưu manh trong tù,
kết bè đảng với nhau để áp bức những người tù yếu thế. Chúng trở thành một loại
công cụ đắc lực của bọn chúa ngục để đày đọa đến cùng cực người tù, từ việc cưỡng
bức khổ sai đến cả lúc ăn, ngủ và nghỉ. Nhiều tên cặp rằng lưu manh gian ác
không kém gì gác ngục như Cai Nhất (kíp đốn gỗ), Tư Nhỏ (kíp san hô), Bảy Tốt
(hầm xay lúa)...
Trong sự đày đọa khốn cùng, những người cộng sản Banh I phải quyết định
lấy vận mệnh, hoặc là chịu chết mỏi mòn, hoặc là đấu tranh để sống trở về tiếp
tục hoạt động cách mạng. Song muốn thay dù một con cá khô mục thối, muốn bớt dù
chỉ một thanh củi, một viên đá, một tảng san hô là phải chống lại cả một chế độ
khổ sai giết tù, là phải chống chọi cả một bộ máy khủng bố, từ tên chúa đảo đến
đám gác ngục và bọn cặp rằng tay sai. Đó chính là cuộc đấu tranh cách mạng
trong tù, đòi hỏi những người cộng sản phải được tổ chức thành đội ngũ chặt chẽ,
có khả năng tập hợp quần chúng tù thường và có phương châm, hình thức đấu tranh
thích hợp.
Chi bộ Đảng ở Côn Đảo ra đời vào khoảng đầu năm 1932 tại khám Chỉ Tồn
Banh I, lúc đầu có chừng 20 đảng viên, đồng chí Nguyễn Hỡi làm bí thơ, chi ủy
có các đồng chí Tôn Đức Thắng, Tống Phúc Chiếu, Tạ tuyên, Tống Văn Trân... Đồng
chí Phan Đình Khải (Lê Đức Thọ) khi bị đày sang Banh I cũng được bổ sung vào
chi ủy. Chi bộ xác định những nhiệm vụ chủ yếu là:
-
Lãnh đạo đấu
tranh trong tù.
-
Giáo dục, bồi
dưỡng lý luận cho nhau.
-
Tuyên truyền
giác ngộ binh lính, giám thị.
-
Liên hệ với Đảng
ở đất liền và tổ chức trốn.
Hoạt động trong tù, chi bộ đặt lên hàng đầu lòng trung thành với Đảng,
xem như tiêu chuẩn quan trọng nhất của đảng viên. Bất cứ ai giữ cương vị nào
trong Đảng, khi bị bắt phải giừ vững khí tiết, vào tù không dao động cầu an,
không ngần ngại đấu tranh mới được tổ chức vào chi bộ. Đảng viên phải tán thành
việc tổ chức Đảng ở trong tù, phải tham gia hoạt động trong tù, vận động quần
chúng tù thường, tuyên truyền binh lính, gác ngục và đi đầu trong đấu tranh.
Chi bộ trong tù không quy định đảng phí, ai có bao nhiêu tiền đều góp cả
dùng chung. Tiền dùng để mua đồ cứu tếmua dầu đèn, sách báo để học tập và mua sắm
các phương tiện để vượt đảo. Mặc dù chưa được Đảng bộ cấp trên công nhận, chi ủy
vẫn có uy tín tuyệt đối trong chi bộ cũng như trong toàn thể tù chính trị.
Suốt thời kỳ khủng bố trắng của thực dân Pháp, các cơ sở Đảng hầu hết bị
tan vỡ, một phần lớn đảng viên bị bắt. Các cơ quan Trung ương, Xứ ủy, Tỉnh ủy
cũng phải lập đi lập lại nhiều lần. Những cơ sở Đảng còn hoạt động được là nhờ
lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng, nhờ tính năng động cách mạng và sáng
tạo của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Banh I thường xuyên có trên dưới 1.000 tù nhân, là trung tâm khổ sai của
Nhà tù Côn Đảo. Sở Chỉ Tồn có đến 500 tù nhân là lực lượng khổ sai tập trung
đông nhất. Từ cổng Banh I nhìn vào, bên phải là dãy khám 1-2-3-4-5 giam tù làm
bồi bếp, bản chế, vệ sinh (Sở tẩy), thợ hồ và một vài sở khác. Sở Chỉ Tồn chiếm
toàn bộ dãy khám 6-7-8-9-10 bên trái. Vừa là một trung tâm khổ sai cực nhọc, Chỉ
Tồn vừa là một trung tâm tiếp nhận và phân bổ tù nhân. Hầu hết tù khổ sai về
Banh I. đều phải trải qua một thời gian làm khổ sai ở Chỉ Tồn, sau đó mới phân
về các sở tù khác.
Chỉ Tồn những năm 1930 cũng là nơi tập trung nhiều đảng viên cộng sản ở
Banh I. Ở đó đảng viên gần gũi với số đông tù thường phạm và có điều kiện tiếp
xúc với binh lính, gác dang, ma tà cho nên anh em có dịp tuyên truyền, vận động
và giác ngộ họ. Địa bàn khổ sai rộng và sự luân chuyển tù giữa Chỉ Tồn và các sở
tù khác giúp chi bộ có điều kiện nắm tình hình và chỉ đạo các kíp tù khổ sai.
Chi bộ vận động cho một số đảng viên được ra làm ở các sở ngoài. Một số
đồng chí biết nghề được nhận vào làm ở Nhà Thương, Nhà Đèn, Ban Chế. Một số người
biết tiếng pháp được bố trí làm bồi bếp và thư ký các công sở. Một số khác ra
các sở tù khổ sai bên ngoài. Đảng viên của chi bộ đi đến đâu là phát triển cơ sở
Đảng ở đó.
Sau một thời gian, các cơ sở Đảng lần lượt được thành lập ở khám 1, khám
2, khám 3, khám 4, Nhà Đèn, An Hải, An Hội, Bến Đầm, Sở Muối, Đá Trắng, Cỏ Ống...
Chi bộ Chỉ Tồn là trung tâm chỉ đạo, có vai trò như một Đảng ủy. Mặc dù thường
bị xáo trộn, chi bộ Chỉ Tồn vẫn là nơi tập trung nhiều đồng chí có trình độ
lãnh đạo, đảm nhiệm được vai trò trung tâm chỉ đạo.
Giáo dục giác ngộ tù thường phạm, tổ chức và lãnh đạo họ đấu tranh là một
nhiệm vụ cấp bách của chi bộ. Bằng phẩm chất, tơ cách của mình, những người cộng
sản đã từng bước cảm hóa tù thường phạm. Không bao giờ giành ăn, giành mặc, tù
cộng sản còn giúp đỡ thường phạm những lúc cần.
Sau trận bão tháng 11 năm 1930, tù nhân đau yếu rất nhiều, các đồng chí
Nguyễn Hỡi, Tôn Đức Thắng, Tống Văn Trân đã chỉ đạo tổ chức tương tế trong tù để
giúp đỡ lẫn nhau. Hội cứu tế Banh I lần đầu tổ chức được khoảng 100 người tù, mỗi
người góp quỹ một xu để mua thuốc bệnh, dầu cù là, đường, sữa, đậu xanh... dùng
vào việc cứu tế.
Ở Côn Đảo, ốm đau là nỗi khốn cùng của người tù. Không ăn được, không có
thuốc uống mà vẫn phải đi làm khổ sai, đuối sức không làm được là nhừ đòn với
gác ngục. Vậy mà ít người dám khai bệnh và đi khám ở nhà thương vì những thầy
thuốc tay sai của thực dân thường chỉ xem qua loa rồi ghi hai chữ N.M. (non
malade: không ốm) hoặc C.M (consunation motivée: ốm vờ) là bị đánh đập và bị phạt
xà lim.
Từ khi có Hội cứu tế, lần đầu tiên trên hòn đảo tù, những tù nhân ốm đau
được săn sóc. Từng viên thuốc bệnh, từng giọt dầu xoa và bàn tay chăm sóc ân cần
của những người cộng sản đều có sức cảm hóa sâu sắc đối với những người tù đau ốm.
Ngay cả số tù lưu manh quen giành giật miếng cơm, manh áo trong tù cũng được những
người cộng sản giúp đỡ khi cần thiết, cũng được thương như thương một con người.
Những tên lưu manh loại “anh chị” dần dần tỏ thái độ kính nể những người cộng sản.
Bằng hình thức cứu tế thích hợp và những quan hệ quần chúng tốt, những
người cộng sản đã cảm hóa và tập hợp một số đông tù thường phạm, từng bước đưa
họ vào cuộc đấu tranh đòi cải thiện chế độ lao tù. Công tác vận động binh lính,
gác ngục cũng sớm được chú trọng. Kíp tù làm ở Sở Ruộng gây được thiện cảm với
tốp lính đi áp giải. Kíp tù quét dọn trong trại lính cũng vận động được một số
binh linh là đảng viên Đảng xã hội Pháp mua giúp sách báo tiến bộ.
Một số gác dang được cảm hóa đã bớt hung hãn hơn,
có những người như Alếchdăng (Alexandre) hay Simatămbi (Simatamby) không bao giờ
đánh tù. Các chú ma tà1 số 4, số 5,
số 10 được giác ngộ đã giúp nhiều việc đắc lực cho chi bộ. Kíp dọn tàu tích cực
liên hệ với thủy thủ trên tàu để đặt đường dây liên lạc với đất liền.
Qua các thủy thủ có cảm tình và những cơ sở của Đảng ta trên các chuyến
tàu thường ghé Côn Đảo, chi bộ đã liên lạc được với một số cơ sở Đảng ở đất liền.
Tài liệu sách báo của Đảng được chuyển ra Côn Đảo, giấu Trong các bao thóc, giỏ
cá đưa thẳng về nhà kho Banh I và Banh II. Một số lính Pháp có cảm tình cũng
mua giúp sách báo tiến bộ. Các đồng chí ở Nhà Thương, Nhà Đèn và kíp dọn tàu là
những đầu mối liên lạc trực tiếp với binh lính và thủy thủ, tiếp nhận sách báo
cho chi bộ.
Nhà Thương, Nhà Đèn còn là hai đầu mối hên lạc giữa chi bộ Chỉ Tồn và
các cơ sở bên ngoài. Tin tức, tài liệu và ý kiến chỉ đạo của chi bộ được chuyển
qua Nhà Thương đến Nhà Đèn. Các sở Chuồng Bò, An Hải, An Hội, Cỏ ống, Sở Muối,
Đá Trắng, Bến Đầm... mỗi lần về nhận lương thực, thực phẩm và mua hàng ở tiệm tạp
hóa đều ghé cơ sở Nhà Đèn nhận tài liệu và báo cáo tình hình về chi bộ Chỉ Tồn.
Gia đình chú ma tà số 5 cũng là một đầu mối liên lạc
của chi bộ. Bà cụ Ba là người phúc hậu, ghét Tây và thương anh em tù cách mạng.
Cô Bảy, em chú ma tà số 5 giữ tiền quỹ cho chi bộ và mua giúp những thứ cần thiết2. Tiệm tạp
hóa của cô là nơi đi lại của các đồng chí trong chi bộ. Chi bộ còn đặt mua báo
chí ở Sài Gòn gửi nhà cô Bảy. Các đồng chí phụ trách giao thông đến đọc và lấy
tin tức. Bà cụ và cô Bảy vừa bán hàng vừa canh gác bảo vệ anh em. Tình thương
và sự thông minh của hai mẹ con bà cụ đã nhiều lần cứu thoát các đồng chí ta khỏi
nanh vuốt của bọn gác ngục.
Giao thông liên lạc giữa các khám trong Banh I và tù Banh I qua Banh II
chủ yếu dựa vào Nhà bếp và Sở tẩy, mỗi khi chia cơm và quét dọn vệ sinh, các đồng
chí phụ trách giao thông lại có dịp chuyển tài liệu cho từng khám. Các đồng chí
ở Sở tẩy hằng ngày quét dọn vệ sinh còn chuyển tài liệu cho Banh II bằng cách
ném qua tường hoặc tuồn qua lỗ cống thông giữa hai banh. Kíp Sở tẩy ở Banh II
nhận tài liệu và thông tin cho Banh I cũng bằng con đường ấy.
Các đồng chí Lê
Đức Thọ ở Nhà thương, Tô Thúc Rịch ở Nhà đèn, Tôn Đức Thắng, Tống Văn Trân ở Sở
tẩy, đồng chí Thiệt ở nhà kho và nhiều đồng chí ở Nhà bếp đã tích cực góp phần
bảo đảm mạch máu giao thông của chi bộ. Có lần đồng chí Hồng và đồng chí Hổ do
lộ đường dây, bị đánh đập dã man và phạt hầm nhưng không ai hé răng khai báo.
Các đồng chí Lý Hồng Nhật và Lang Kiều (thầy thuốc Nam) có những đóng góp tích
cực trong công tác cứu tế tù nhân3.
Khoảng năm 1933, bọn gác dang phát hiện được đồng chí Tôn Đức Thắng liên
hệ với tù chính trị Banh II và phạt giam đồng chí vào Hầm xay lúa. Hầm xay lúa
vừa là một hình thức khổ sai để tận dụng lao động của tù nhân, vừa được cấu tạo
một cách đặc biệt để đày đọa người tù và trớ thành một hình phạt khủng khiếp, địch
gọi là “khu trừng giới” (quatier diciplinaire).
Trực tiếp điều hành trong Hầm xay lúa là một cặp rằng1 chính và 4 cặp rằng phụ do xếp banh chỉ định trong
số tù lưu manh loại “anh chị”. Bọn này tập hợp hàng chục tên lưu manh đàn em để
phục dịch cơm nước và đấm bóp cho chúng. Cả bọn cấu kết với nhau trút tất cả những
công việc khổ sai nặng nhọc lên đầu những người tù khác.
Từ 5 giờ sáng tới 17 giờ chiều, Hầm xay lúa chật chội, ầm ĩ, bụi bặm, oi
bức và ngột ngạt. Hơn 100 người tù bị xiềng xích, 200 bao thóc chất đống, 5 cối
xay và 2 quạt gió đồ sộ chen chúc nhau trong một căn hầm rộng chừng 150 mét
vuông. Quạt gió thổi ù ù, cối xay quay ầm ầm; tiếng xích sắt loảng xoảng lê dưới
chân người tù, tiếng thớt cối nặng nhọc nghiến vào nhau chen lẫn tiếng roi quật
đen đét lên những tấm lưng trần và những tiếng rít chửi độc địa của bầy cặp rằng
lưu manh hòa thành một thứ âm thanh rùng rợn của Hầm xay lúa.
Khác với các sở tù khổ sai, bọn lưu manh trong Hầm xay lúa được toàn quyền
hành hạ người tù, chúng hung dữ như một bày quỷ sứ. Bọn gác ngục chỉ đứng ngoài
song sắt để chứng kiến lòng trung thành của đám tù tay sai đã được chúng kích động
bản tính lưu manh. Bị áp bức đến cùng cực, tù nhân Hầm xay lúa trở nên hung bạo,
thỉnh thoảng họ lại đập chết những tên cặp rằng hung ác.
Đồng chí Tôn Đức Thắng vào Hầm xay lúa được ít hôm thì cặp rằng Bảy Tốt
bị hai người tù thường phạm đập vỡ sọ bằng một khúc gỗ lim, âm mưu dùng tay bọn
tù lưu manh để sát hại đồng chí, xếp banh chỉ định ngay Tôn Đức Thắng làm cặp rằng
chính. Hiểu được ý đồ thâm độc này, một số đồng chí cộng sản cùng bị đày ở Hầm
xay lúa lúc ấy bàn với Tôn Đức Thắng nên nhân dịp này nắm quyền lực để cải tạo
chế độ Hầm xay lúa.
Lần đầu tiên những công việc ở Hầm xay lúa được tổ
chức lại. Tất cả mọi người đều làm việc. Những người yếu được bố trí vào kíp
sàng gạo và đóng bao, người khỏe thì xay và khuân vác thóc. Kíp đứng cối nặng
nhọc nhất được bố trí thêm người, thay nhau người làm người nghỉ. Thấy có một số
tù nhân ngồi nghỉ, tên gác dang coi Hầm xay lúa chực xông vào đánh thì Tôn Đức
Thắng ôn tồn bảo hắn: “Đủ gạo thì thôi, đánh đập có ích gì “Nói vậy nhưng chẳng
bao giờ đủ gạo. Cặp rằng Tôn Đức Thắng không bắt tù xay nhiều thóc. Có lần tên
xếp banh đích thân đến quở trách, đồng chí Tôn Đức Thắng đã trả lời hắn: “Tôi
có thể chỉ huy cả một đội quân Lê dương2 nhưng tôi
không thể điều khiển tù nhân xay lúa theo ý các ông được”.
Đồng chí Tôn Đức Thắng khi trước làm thợ máy trong Hải quân Pháp, năm
1919 đã từng kéo lá cờ cách mạng trên biển Hắc Hải bảo vệ nước Nga Xô Viết, bọn
gác ngục Pháp đều biết tiếng, ngay cả đám tù lưu manh cũng phải kiêng nể. Những
người tù thường phạm đã nhiều lần bị phạt Hầm xay lúa thì hết sức ngạc nhiên. Lần
đầu tiên họ thấy một ông cặp rằng không hề đánh tù mà ôn tồn chỉ bảo cho từng
người cách làm việc, cách cư xử với nhau. Bọn gác ngục Pháp thì rất hậm hực vì
công việc đã không chạy mà tù nhân lại đoàn kết với nhau.
Nhóm cộng sản trong Hầm xay lúa tích cực giáo dục, cảm hóa tù thường. Hội
cứu tế tù nhân được tổ chức trong Hầm xay lúa. Những người ốm đau được chăm sóc
chu đáo. Hội tù tổ chức cạo gió xoa bóp cho nhau, san sẻ nỗi mệt nhọc trong
ngày. Buổi trưa, khi bọn gác ngục về hết, Hội tù xúc gạo nấu cơm ăn thêm để bảo
đảm sức khỏe. Buổi tối, Hội tù tổ chức học văn hóa, nói chuyện truyền thống,
giáo dục lòng yêu nước cho tù thường. Không khí đoàn kết, học tập và giúp đỡ lẫn
nhau dần dần thay thế cho sự thù hằn, chia rẽ. Nhiều người tù thường phạm rất
ham học văn hóa. Anh Dừ, tù án lưu (relégué) chưa biết chữ nào, nhờ học mấy
tháng ở Hầm xay lúa mà viết được thư về cho vợ làm cả nhà hết sức ngạc nhiên. Đến
khi nhận được thư vợ gửi ra, anh cảm động đến phát khóc.
Nhiều người tù lưu manh cảm phục những người cộng sản mà bớt hung hãn
hơn. Có người giác ngộ, sau về tham gia kháng chiến. Tình hình được cải thiện
trong Hầm xay lúa làm bọn gác dang không vừa lòng. Tên xếp
banh quyết định thay cặp rằng chính nhưng vẫn chỉ định Tôn Đức Thắng và Tô Hiệu
làm cặp rằng phụ. Hết hạn phạt, Tôn Đức Thắng trở về Sở tẩy- Có tên gác dang ngạc
nhiên hỏi: “Mêcanixiêng3 còn sống đấy
hả? Tưởng chết rồi chứ?”
Nhiều cặp rằng Hầm xay lúa đã bị tù
nhân đập chết trước khi mãn hạn phạt, nhưng bọn thực dân không thể hiểu được rằng
những người cộng sản đang từng bước cải tạo “địa ngục trần gian” này.
Tổ chức đấu tranh, giành quyền sống
Sau khi thành lập chi bộ, những người cộng sản ở Côn Đảo tiếp tục thảo
luận vấn đề đấu tranh trong tù.
Một số người cho rằng ở Côn Đảo không thể đấu tranh bằng hình thức tuyệt
thực, lãn công, bãi công được mà chỉ có thể bạo động cướp chính quyền. Quan điểm
này được viết thành tài liệu và đưa ra thảo luận rộng rãi, song nhiều ý kiến
kiên quyết phản đối quan điểm trên.
Đồng chí Nguyễn Hỡi viết nhiều bài trên báo Tiến Lên khẳng định rằng: ở
Côn Đảo không thể có động cướp chính quyền được mà chỉ có thể tập hợp lực lượng,
lãnh đạo đấu tranh bằng các hình thức lãn công, bãi công, tuyệt thực đòi cải
thiện chế độ lao tù. Quan điểm này được số đông tù cộng sản tán thành và trở
thành phương hướng chỉ đạo của chi bộ.
Giữa năm 1933, gần 100 tù cộng sản từ Khám Lớn (Sài Gòn) bị đày ra Côn Đảo
sau vụ án 121 đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương chấn động dư luận. Cuối năm
1933, thực dân Pháp đày 200 tù chính trị ở Sơn La và Hỏa Lò (Hà Nội) ra Côn Đảo.
Nhà tù Côn Đảo trở thành nơi tập trung đày ải một phần lớn cán bộ, đảng viên và
các đồng chí lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương lúc đó.
Chi bộ có thêm nhiều cán bộ lãnh đạo xuất sắc như Ngô Gia Tự, Phạm Hùng,
Nguyễn Công Thương (Lê Văn Lương), Lê Quang Sung, Nguyễn Chí Diễu, Trần Quang Tặng...
Ngô Gia Tự tham gia ngay cuộc tranh luận về vấn đề đấu tranh trong tù, đồng chí
khẳng định: “Phải đấu tranh giành lấy quyền sống, không thể để cho bọn chúa ngục
muốn làm gì thì làm!”.
Qua thực tiễn tổ chức và đấu tranh ở các nhà tù Sơn La, Hỏa Lò (Hà Hội)
và Khám Lớn (Sài Gòn), với sự đóng góp của nhiều cán bộ có trình độ lý luận, cuộc
thảo luận đã xác định rõ mục tiêu đấu tranh trong tù, một loại hình đấu tranh mới
mẻ và đặc biệt đối với những người cách mạng Việt Nam. Đấu tranh trong tù được
xác định là một bộ phận trong toàn bộ cuộc đấu tranh cách mạng nhằm chống chế độ
lao tù hà khắc, bảo vệ sinh mạng, duy trì tinh thần chiến đấu và rèn luyện, đào
tạo đội ngũ cán bộ cho Đảng.
Cuộc thảo luận còn đi đến kết luận rằng các chi bộ ở Côn Đảo phải thống
nhất trong một tổ chức Đảng có tính chất toàn đảo Trung tâm chỉ đạo vẫn ở khám
Chỉ Tồn. Đồng chí Ngô Gia Tự được cử làm bí thơ và thể hiện vai trò lãnh đạo xuất
sắc Nhiệm vụ cụ thể của Đảng bộ được xác định rõ là:
-
Lãnh đạo học tập
và tự học tập
-
Tổng kết kinh
nghiệm đấu tranh cách mạng, biên soạn và dịch thuật tài liệu cho Đảng.
-
Tổ chức trốn
(tiếng lóng lúc ấy gọi là “đi câu”).
Qua thư từ gửi về đất liền, đảng bộ đã nối được liên lạc với Xứ ủy Nam Kỳ.
Các đồng chí mãn án trở về được chi bộ giới thiệu và giao nhiệm vụ liên lạc với
Xứ ủy báo cáo sự ra đời và hoạt động của chi bộ nhà tù Côn Đảo, đề nghị Đảng
công nhận và cung cấp sách báo, tài liệu để huấn luyện cho cán bộ, đảng viên.
Chi bộ còn đề nghị Đảng phát động một phong trào đấu tranh dòi ân xá tù chính
trị và vận động quần chúng gửi tiền và quà ra tiếp tế cho tù chính trị ở Côn Đảo.
Việc liên lạc với đất liền đã gắn bó những hoạt động của tù chính trị ở Côn Đảo
với phong trào cách mạng ở Đông Dương lúc đó.
Lớp tù chính trị ở Sơn La, Hỏa Lò (Hà Hội) và Khám Lớn (Sài Gòn) ra đã
tăng thêm tinh thần và lực lượng cho tù chính trị Côn Đảo. Chi bộ Chỉ Tồn tích
cực củng cố Hội tù nhân và chuẩn bị mọi mặt cho các cuộc đấu tranh. Sau nhiều lần
thảo luận ở các khám và các sở tù mùa hè năm 1934 một cuộc Hội nghị đại biểu tù
nhân dã được triệu tập tại một động cát phía sau sở Chuồng Bò, đại biểu các kíp
tù khổ sai Banh I và các sở tù khổ sai, thay mặt cho hơn 300 hội viên đã quyết
định thành lập Hội tù nhân thống nhất.
Do được chuẩn bị chu đáo và bí mật, các đại biểu đã thảo luận trong hai
tiếng đồng hồ, giải quyết xong các vấn đề cơ bản của Hội tù. Mặc dù số đông hội
viên là tù cộng sản, tôn chỉ, mục đích của Hội tù nhân vẫn thể hiện tính chất
quần chúng rộng rãi:
-
Giúp đỡ nhau
trong lúc đau yếu và trong việc làm (khổ sai)
-
Đấu tranh đòi
cải thiện sinh hoạt và giảm nhẹ khổ sai.
- Tổ chức học tập văn hóa.
Một Ban lãnh đạo chung toàn đảo được thành lập gồm các đồng chí Nguyễn Hỡi,
Ngô Gia Tự, Trần Quang Tặng...
Thực tế hoạt động sau này, Hội tù nhân dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
chi bộ Đảng đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh có tính chất chính trị và mở các lớp
học lý luận cho cán bộ, đảng viên và thu hút nhiều quần chúng, tù thường tham
gia. Mục đích, tôn chỉ của Hội tù nhân được xác định ngay từ đầu có sức thuyết
phục đối với quần chúng, tù thường phạm và cả những người tù thuộc các đảng
phái khác. Nhiều người tù thường phạm đã được giác ngộ và được kết nạp vào Hội
tù nhân. Phần lớn họ là những người lao động bị bần cùng hóa đến mức phải phạm
tội. Một số khác vốn là người lao động bị bắt oan, hoặc là những nông dân đã phản
kháng lại sự áp bức của bọn phong kiến, địa chủ1.
Những cuộc đấu tranh đầu tiên đòi giảm nhẹ khổ sai đã nổ ra ở khám Chỉ Tồn.
Chi ủy đã thảo luận kỹ với Hội tù nhân về mức khổ sai hợp lý cho từng kíp việc
rồi giao cho Ban tranh đấu chỉ đạo đấu tranh.
Ở kíp vận chuyển, bọn chúa ngục bắt 5 người phải đẩy một xe bò lớn chất
đầy củi, gạch. Đường xa ba, bốn cây số mà mỗi ngày phải đi 5 chuyến. Nhiều đoạn
đường dốc và cát sỏi tù nhân phải bắt bánh nhích từng bước dưới nắng rát và roi
vọt. Đi chậm là đòn, thiếu chuyến là phạt hầm, xiềng. Ban lãnh đạo quyết định
chỉ đạo đấu tranh đòi 7 người đi một xe, mỗi ngày chỉ đi 3 chuyến (sáng 2 chuyến,
chiều một chuyến), Ban tranh đấu chịu trách nhiệm chỉ đạo các kíp tù kiên quyết
đấu tranh đòi thực hiện bằng được.
Giữa năm 1934, kíp xe củi từ An Hải về Lò Than đấu tranh đòi 7 người đi
một xe. Tên gác dang Luyđôvích Đờ Lít (Ludowic de Lys) và bọn ma tà vung roi
đánh túi bụi. Cả kíp tù bỏ việc vây quanh xe. Chấp hành kỷ luật đấu tranh không
ai rời vị trí. Giằng co hàng giờ đồng hồ, sau chúng phải chịu để 7 người đẩy một
xe. Đến đoạn đường dốc bọn gác ngục đánh trả thù, cả kíp tù lại bỏ xe hô khẩu
hiệu phản đối. Cuộc đấu tranh do các đồng chí trong chi ủy như Ngô Gia Tự, Trần
Quang Tặng, Phạm Hùng, Lê Văn Lương... trực tiếp chỉ đạo. Lần ấy ai cũng chuẩn
bị tinh thần chịu phạt hầm, xiềng nhưng không ai việc gì.
Kíp xe gạch từ Lò Gạch về nhà thương cùi (hủi) đấu tranh đòi 7 người đẩy
một xe, cả kíp bị phạt xiềng trong khám 6-7. Kíp xe thóc từ cầu tàu về Banh II
cũng đòi 7 người đẩy một xe. Ban lãnh đạo chỉ đạo người cầm càng, định ra từng
chặng nghỉ giải lao, định tốc độ đi... sao cho vừa đúng hai chuyến là hết buổi
sáng.
Cuộc đấu tranh diễn ra ngay trước mũi tên chúa đảo Buviê, bọn gác ngục
đánh tù như điên như dại. Hôm ấy xếp Banh I phải dành riêng khám 10 để nhốt những
người bị thương. Các cuộc đấu tranh đều được chi ủy chỉ đạo chặt chẽ, giao nhiệm
vụ đến tận từng người, kiên quyết đấu tranh nhưng tuyệt đối không manh động để
địch kiếm cớ đàn áp.
Trong đoàn tù Sơn La ra Côn Đảo, cuối năm 1933 có nhiều người bị tê phù
và sốt rét nặng mà vẫn buộc phải đi làm khổ sai. Bọn cặp rằng lưu manh còn tác
oai tác quái trong các kíp tù, hành hạ những người ốm yếu một cách tàn nhẫn vì
không làm nổi việc. Có lần chúng đánh anh Tăng Văn Thiều chết ngất khiến tù
nhân hết sức phẫn nộ. Ít lâu sau, tên Tư Nho lại đánh đồng chí Nguyễn Ngọc Cư
trọng thương. Chi ủy quyết định trừng trị bọn cặp rằng lưu manh. Các đồng chí
Ngô Gia Tự, Bảy Cùi, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Vũ Duy Cương... trực tiếp thực hiện
quyết định này. Tên Tư Nhỏ bị đánh một trận nhừ tử.
Do tổ chức chặt chẽ và biết cách đối đáp nên không ai việc gì. Tư Nhỏ bị
phạt hầm tối. Anh em cử Ngô Gia Tự làm cặp rằng khám Chỉ Tồn. Các khám khác và
các sở tù cũng lần lượt lật đổ chế độ cặp rằng tay sai, bầu những cặp rằng cộng
sản. Kíp Nhà bếp cử đồng chí Đào Gia Lựu làm cặp rằng lo việc cải thiện đời sống
cho tù nhân.
Các cuộc đấu tranh đói giảm nhẹ khổ sai vẫn liên tiếp
nổ ra. Kíp đập đá đòi giảm định mức từ 0,3 m3 xuống 0,2 mét khối. Kíp dọn tàu rất
vất vả, anh em tổ chức thành 2 ca, luân phiên nhau vừa làm, vừa nghỉ. Mặc dù đã
được cả gác dang và ma tà trông coi đồng ý, nhưng đến khi tên Xếp chánh Cơrítsơchiani
(Cristiani) đến kiểm tra là hắn vung gậy bổ tới tấp xuống đầu những người tù
đang ngồi nghỉ, bất kể đám gác ngục phân bua thế nào. Đồng chí Nguyễn Chí Diễu
bị phạt 90 ngày hầm tối, còng cả hai chân và phải ăn cơm nhạt, uống nước lã 10
ngày.
1. Nhiều người đã trở thành đảng viên cộng sản, nhiều người sau trở về
tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp, có một số đã bị sinh trong kháng chiến
như anh Thắm ở Nhà Bè (Sài Gòn), anh Kiệm ở
Cần Giuộc (Long An)...
Một lần tàu chở thóc ra đảo, các bao thóc trộn lẫn nhiều sỏi và đất, anh
em kíp dọn tàu phát hiện và yêu cầu nhà kho không nhận. Đốc tờ Nhã, một bác sĩ
có lương tâm đến kiểm tra cũng xác nhận là thóc không thể ăn được. Chúa đảo
Buviê đã được chủ thầu hối lộ nên trả lời rằng từ trước đến nay vẫn như vậy.
Tên chủ thầu gian giảo nói với đốc tờ Nhã: ông là người Việt Nam, tôi cũng là
người Việt Nam, sao ông làm khó dễ cho tôi vậy?.
Trước mặt chúa đảo Buviê, đốc tờ Nhã đã trả lời thẳng thắn với chủ thầu:
: Thế những người tù đây có phải là người Việt Nam không. Nếu ai trộn sỏi đất
vào thóc như vậy cho ông ăn, ông có ăn được không? Buviê giận tái mặt, nhưng
trước sự đoàn kết đấu tranh của tù nhân và thái độ cương quyết của đốc tờ Nhã,
một thành viên trong Ban tiếp nhận, hắn buộc phải cho tàu chở thóc về Sài Gòn.
Đốc tờ Nhã có cảm tình đặc biệt với tù cộng sản. Thời gian làm bác sĩ ở
đảo (1933-1934) ông cấp cho anh em tù nhiều thuốc bổ và thuốc bệnh. Có lúc ông
ghi đơn thuốc và chế độ ăn cho tù nhân có cả tim gan lợn, rau xanh, đường sữa...
và kiên quyết yêu cầu xếp banh phải thực hiện đúng chế độ đối với người bệnh.
ông còn yêu cầu chúa đảo cung cấp mỗi tuần 10 kg tim gan lợn cho tù nhân đau ốm.
Kíp đốn củi, kíp kéo gỗ cũng tích cực đấu tranh đòi hạ mức khổ sai. Kíp
lấy san hô đòi tự tổ chức công việc của mình. Bọn gác dang buộc phải đồng ý. Hội
tù nhân vận động anh em đoàn kết tương trợ nhau, người khỏe kèm người yếu, người
biết làm hướng dẫn người chưa biết làm.
Cách tổ chức của những người cộng sản đã làm cho công việc lấy san hô bớt
rùng rợn hơn xưa. Ngày nào kíp san hô cũng lấy đủ số lượng trước giờ quy định,
không ai bị đánh đập nữa. Thời gian chờ nước lên để vào bờ, anh em bắt cá, cua
cải thiện đời sống. Tù thường phạm rất phục những người cộng sản, họ thường
nói: “Xem đống san hô cộng sản làm là biết tài của cộng sản”. Không riêng kíp
san hô, ở các kíp tù khổ sai khác tù thường phạm cũng phục tài tổ chức và tinh
thần đấu tranh của tù cộng sản. Tù thường phạm tham gia đấu tranh ngày càng nhiều.
Tổ chức và hoạt động của tù chính trị ở Hòn Cau Ngay từ năm 1930, khi vấn
đề thành lập chi bộ trong tù mới được đưa ra thảo luận thì đã có một số tù cộng
sản bị đày ra Hòn Cau.
Cách thị trấn Côn Đảo 12 km về phía đông, Hòn Cau rộng 1,8 km2. Ba mặt
Hòn Cau là vách đá, nơi làm tổ của loài chim yến, phía nam Hòn Cau là thung
lũng đất tốt có vườn cây trái xanh tươi. Bãi cát sát mép biển viền chân thung
lũng một màu trắng mịn. Đó là nơi cơ trú và sinh sôi của các loài vích và đồi mồi.
Từ thuở Nguyễn Ánh ra Côn Đảo tị nạn đã có một số người dân sinh cư lập nghiệp
trong thung lũng Hòn Cau.
Vùng đất ấy mang tên xóm Bà Thiết (Võ Thị Thiết), người có công đầu
trong việc khai khẩn và tạo dựng. Xóm cổ còn để lại dấu vết đậm nét trên những
con đường ngang dọc lát đá và giếng nước cổ xưa, trong khu vườn cây trái lâu đời
gồm các loại dừa, cau, xoài, mãng cầu xanh tốt. Khi thực dân Pháp thiết lập Nhà
ngục Côn Đảo thì Hòn Cau được tổ chức thành một sở tù để khai thác các nguồn lợi
trên đảo này. Dân xóm Bà Thiết bị trục xuất về đất liền.
Khu trại giam Hòn Cau nằm ở trên một dải cát tương đối bằng phẳng ở nửa
phía tây thung lũng. Trại giam Hòn Cau gồm 5 gian nhà lợp tranh rộng chừng 6
mét, dài khoảng 20 mét, chỉ có một cửa ra vào, xung quanh bưng kín bằng gỗ ván.
Trước mặt nhà giam, chỉ cách vài thước là nhà ăn của tù nhân chạy suốt dãy nhà
giam, cũng lợp tranh nhưng xung quanh để trống. Phía trước nhà ăn là một cái
sân rộng. Qua sân là một vườn mãng cầu, xa hơn là bãi cát ven biển dài chừng
700 mét. Phía tây trại giam là bàn giấy của tên đội ma tà, còn phía đông trại
giam là Nhà bếp, nhà kho và chuồng heo.
Hòn Cau vừa là một sở tù khổ sai, vừa là hòn đảo biệt lập để đày tù. Tuy
vậy, bọn chúa ngục không có điều kiện thiết lập một chế độ đày ải quá khắc nghiệt.
Buổi sáng, tên đội tập trung tù nhân trước sân để giao công việc, mấy tên ma tà
trông coi tù làm và canh gác đề phòng tù trốn. Buổi tối chúng lại bắt tù tập
trung trước sân để điểm danh vào khám.
Hằng tháng, thuyền ở Côn Đảo chở lương thực ra Hòn Cau rồi chở hoa quả
và thực phẩm về. Mỗi khi có tù trốn, tù ốm hay hoa quả chín nhiều, tên đội lại
cho đốt một, hai hoặc ba đống lửa ở mỏm đá phía tây Hòn Cau báo hiệu cho bọn
gác ngục ở thị trấn Côn Đảo ra giải quyết. Đến mùa chim yến làm tổ, chúa đảo
đưa một kíp tù nhân qua lấy tổ yến về nộp cho hắn.
Hòn Cau từng là nơi đày đọa nhiều thế hệ tù nhân yêu nước. Từ năm 1929,
trại giam Hòn Cau có thêm những người tù chính trị cấm cố án nặng thuộc các tổ
chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, Quốc dân đảng và một số người
chống Pháp thuộc các xu hướng chính trị khác. Tù Quốc dân đảng ở Hòn Cau một số
có tư tưởng chống cộng quyết liệt như Nhượng Tống, Đội Sơn, Đội Luyện...
Ngay từ khi bị giam chung ở Hỏa Lò họ đã xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản là
“tam vô” và ra tờ báo Con đường cách mạng chống lại chủ trương của những người
cộng sản. Bị những người cộng sản phê phán tư tưởng tư sản lỗi thời, đường lối
cách mạng không triệt để và tính chất manh động thì phái Quốc dân đảng cực đoan
vô cùng căm tức, tìm mọi cơ hội trả thù. Vừa bị đày ra Hòn Cau, lợi dụng số lượng
đông hơn, họ viết “tối hậu thư” buộc những người cộng sản đầu hàng (?!).
Mặc dầu lúc đầu mới có khoảng năm, sáu người, nhóm cộng sản ở Hòn Cau vẫn
kiên quyết bác bỏ tối hậu thư của Quốc dân đảng. Anh em phê phán chủ nghĩa Tam
Dân, tranh thủ những người yêu nước chân chính trong hàng ngũ Quốc dân đảng và
nêu khẩu hiệu “Liên hiệp đấu tranh”, đòi được tự làm nhà để ở (không ở trong trại
giam), đòi phải sử dụng lao động tù nhân vào những việc nhằm cải thiện đời sống
người tù và đòi không được nộp thịt vích cho chúa ngục trong lúc Hòn Cau đang thiếu
thực phẩm.
Những người yêu nước chân chính trong hàng ngũ Quốc dân đảng và cả những
người trung lập đều ủng hộ chủ trương của tù cộng sản. Bọn cực đoan bị cô lập.
Tên đội ma tà cai quản ở đây buộc phải chấp nhận các yêu sách của tù nhân. Những
người tù cộng sản dựng nhà riêng ở phía đông trại giam, gần ngôi mộ bà Thiết.
Tù Quốc dân đảng cũng làm nhà ra ở phía tây trại giam, còn tù thường phạm thì ở
lại trong trại.
Khoảng cuối năm 1930, đồng chí Phạm Văn Đồng cùng một số tù chính trị bị
đày sang Hòn Cau, “xóm cộng sản” tăng lên gần 20 người. Hầu hết những người cộng
sản đều nhất trí rằng: đã là người cộng sản thì ở đâu cũng phải sinh hoạt trong
một tổ chức, thống nhất với nhau về tơ tưởng, hành động và sinh hoạt. Anh em tập
trung tất cả tiền và quà gia đình gửi ra để dùng chung, tổ chức trồng rau, mì
(sắn) và đan lưới đánh cá cải thiện. Một số đồng chí được phân công phụ trách các công tác “ngoại giao”1, tổ chức học
tập và cải thiện đời sống.
Tháng 9 năm 1931, nhiều ngồi tù chính trị cấm cố án nặng (trên 10 năm) bị
đày tiếp ra Hòn Cau, đưa số tù cộng sản ở đây lên gần 30 người. Đồng chí Phạm
Văn Đồng đã tổ chức một cuộc họp toàn thể anh em tù cộng sản để trao đổi tình
hình và củng cố tổ chức.
Công việc khổ sai ở Hòn Cau có phần nhẹ nhàng hơn các sở tù khác. Tranh
thủ được thời gian và sự dễ dãi của bọn ma tà, nhóm cộng sản tích cực tổ chức học
tập. Nhiều đồng chí trước đây là thợ mỏ chưa biết chữ nào, nhờ được hướng dẫn
đã đọc thông viết thạo. Người đã có học ít nhiều thì học thêm các môn văn hóa
và ngoại ngữ. Mỗi môn học được hướng dẫn vài buổi mỗi tuần, còn chủ yếu là cá
nhân tự học, vậy mà học được rất nhiều. Môn ngoại ngữ có người đạt được yêu cầu:
đọc nói và viết. Những người giỏi ngoại ngữ tự nghiên cứu sách lý luận bằng tiếng
Pháp. Đồng chí Phạm Văn Đồng lược dịch cuốn Kinh tế chính trị học của Lapiđuýt
(Lapidus) rồi giảng cho anh em.
Các buổi tối, anh em cộng sản thường sinh hoạt, khi thì quây quần quanh
đống lửa nhỏ để thảo luận những vấn đề chính trị, có khi là nghe giới thiệu về
những tác phẩm văn học ưu tú trên thế giới hoặc nghe đồng chí Phạm Văn Đồng
trình bày những bài học về Cách mạng tháng Mười (1917). Dịp kỷ niệm Cách mạng
tháng Mười Nga năm 1931, những người tù cộng sản đã đưa lên “sân khấu” Hòn Cau
một màn kịch tự soạn theo cuốn Mười ngày rung chuyển thế giới của Giôn Rít.
Hình ảnh đất nước Lênin trong những ngày sôi sục cách mạng đã làm sống lại những
bài học của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, làm say mê cả người diễn và
người xem.
Quá trình họe tập, sinh hoạt và thái độ đúng mực của những người cộng sản
có ảnh hưởng tốt đến số đông tù nhân ở Hòn Cau. Trong nội bộ tù Việt Nam Quốc
dân đảng ở đây diễn ra một sự phân hóa sâu sắc, bắt đầu từ khi cuộc khởi nghĩa
Yên Bái thất bại. Việc truyền bá chủ nghĩa Mác-lênin vào Việt Nam và sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam với cương lĩnh cách mạng triệt để đã làm cho nhiều đảng
viên Việt Nam Quốc dân đảng nhận rõ sự mơ hồ của chủ nghĩa Tam Dân và tính chất
không triệt để trong tôn chỉ, mục đích của Quốc dân đảng. Nhiều cuộc tranh luận
gay gắt đã nổ ra. Phái cực đoan đứng đầu là Đội Sơn và Nhượng Tống ra sức báo vệ
chủ nghĩa quốc gia thuần túy. Phái tả đại diện là Tương Dân Bảo, Nguyễn Phương
Thảo (Nguyễn Bình) đã nghiêng hẳn về phía chủ nghĩa cộng sản. Phái giữa mà đại
diện là Phạm Tuấn Tài, Trần Huy Liệu thì say mê lý tương của chủ nghĩa cộng sản
nhưng lại không nỡ để cho Quốc dân đảng chết. Họ muốn dung hòa các chủ nghĩa để
đem lại một chủ nghĩa mới cho Việt Nam Quốc dân đảng.
Những xung đột về tư tưởng diễn ra dưới mọi hình thức
trong nội bộ Việt Nam Quốc dân đảng ở Hòn Cau dã dẫn đến một vài cuộc ẩu đả lẫn
nhau. Phạm Tuấn Tài, một sáng lập viên của Việt Nam Quốc dân đảng phải dứng ra
dàn xếp. Một tiểu ban giải thích chủ nghĩa của Quốc dân đảng được thành lập và
đưa ra lời giải thích: “Trước làm cách mạng dân tộc, sau làm cách mạng thế giới
có nghĩa là trừ bỏ những áp bức về chính trị, kinh tế và xã hội (cách mạng) để
mưu hạnh phúc cho người Việt Nam (cách mạng dân tộc) và người thế giới (cách mạng
thế giới)2.
Bản giải thích này không thuyết phục được ai. Các
cuộc xung đột nội bộ vẫn tiếp tục xảy ra. Một số lãnh tụ Quốc dân đảng chủ
trương giải quyết mâu thuẫn trên bằng cách tổ chức vượt ngục về đất liền để cải
tổ Việt Nam Quốc dân đảng, đổi tên và xây dựng chủ nghĩa mới cho đảng. Cuộc vượt
ngục được khởi sự vào đầu năm 1932, cuối mùa gió chướng3. Gió đã yếu
và thổi không đều nên bè quanh quẩn ở Hòn Cau, không thoát đi được. Sáng ra bọn
gác ngục ở Hòn Cau phát hiện và nổi hiệu lửa cho canô ở Côn Đảo ra bắt lại. Những
người cộng sản chưa kịp tổ chức vượt ngục cũng bị đưa về Banh II, chỉ có vài
người tù cũ được để lại trông coi vườn cây trái.
Tổ chức và hoạt dộng của tù chính trị Banh II
Banh II được cấu trúc một kiểu như Banh I nhưng được dành riêng để đày ải
tù chính trị với chế độ khác biệt hẳn. Tù nhân Banh II bị cấm cố trong khám, mỗi
ngày chỉ được ra ngoài hai lần, mỗi lần chưa đến mười phút để nuốt vộj miếng
cơm hẩm đầy sạn và thóc. Vào cấm cố vài tháng là ghẻ lở đầy người, mòn mỏi đi
vì thiếu ánh sáng, khí trời và dinh dưỡng. Thêm vào đó là chế độ ăn uống tồi tệ,
nhiều người bị kiết lỵ nặng rồi chết. Năm 1931, Banh II có hơn 300 tù chính trị
thì có 30 người chết vì bệnh tật. Tháng 3 năm 1932, Thanh tra thuộc địa ra Côn
Đảo đã nhận xét: “Chế độ phát lưu (déportation) hiểu và thực hiện như thế này
thì nặng hơn chế độ khổ sai”.
Đáng lẽ người bị án phát lưu được sinh sống tự do như dân thường trên đảo,
được giúp đỡ làm nhà riêng, được đưa vợ con ra nếu muốn, được tự do mua sách
báo, học tập và nghiên cứu, biên soạn chỉ trừ việc xuất bản phổ biến và đi ra
khỏi đảo1. Thế nhưng bất chấp cả luật pháp, bọn thực dân đã thi hành một chính
sách đày đọa độc tài và phát xít. Mỗi lần tù nhân đấu tranh đòi quyền lợi của
tù chính trị thì bọn chúng đều trả lời thẳng thừng: Không xử tử được tụi bay thì
chúng tao phải làm cho tụi bay mục xương trong tù. Nếu như bọn chúa ngục giết
tù nhân Banh I bằng khổ sai thì chúng giết tù Banh II bằng cấm cố.
Banh II từ đầu năm 1930 là nơi tập trung nhiều tù chính trị thuộc các tổ
chức cách mạng như Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, Tân Việt cách mạng
đảng, Việt Nam Quốc dân đảng, Đảng cộng sản và các tổ chức quần chúng nói trên;
có cả một số người yêu nước dưới ảnh hưởng của Nguyễn An Ninh. Nếu như yêu cầu
cấp bách đối với Banh I là phải đấu tranh chống chế độ khổ sai giết tù thì yêu
cầu khách quan đặt ra cho những người cộng sản ở Banh II là đoàn kết các xu hướng
chính trị, đấu tranh đòi cải thiện đời sống, đòi thực hiện chế độ tù chính trị,
bảo vệ sinh mạng cán bộ, và tổ chức học tập văn hóa, lý luận, đào tạo rèn luyện
cán bộ cho Đảng.
Cuộc thảo luận về vấn dề thành lập chi bộ cộng sản ở Banh II chưa đi đến
nhất trí, tù chính trị Banh II tổ chức Ban lãnh đạo dưới hình thức Ban trật tự ở
các khám và Ban trật tự chung toàn Banh II. Người trong các ban đó do tù chính
trị cứ ra và đấu tranh buộc xếp banh công nhận. Ban trật tự điều khiển toàn bộ
hoạt động của tù nhân và giao dịch với xếp banh, gác ngục. Ban lãnh đạo chăm lo
công tác cứu tế tù nhân, chăm sóc những người tù đau yếu, bệnh tật... lúc này
không ít người tù chưa tin rằng ở Côn Đảo có thể tổ chức và đấu tranh thắng lợi
được. Ban lãnh đạo chủ trương đưa khẩu hiệu đấu tranh từ thấp đến cao, kiên trì
đấu tranh, giành kết quả thiết thực ban đầu.
Sau trận bão cuối năm 1930, Banh II mới được lợp tạm bằng tranh sơ sài,
mưa dột nước ngập trong khám. Ban lãnh đạo yêu cầu lợp lại, xếp banh đồng ý cho
đưa tranh tre vào, bắt tù Banh II lợp. Năm sau vẫn dột, chúng cho đưa ngói vào
thay. Ban lãnh đạo tiếp tục yêu cầu cho tù được ra sân chơi, được nạo vét giếng,
được tự nấu ăn, được trồng rau cải thiện, được nhận thư từ, sách báo...
Những yêu sách như vậy còn thấp hơn nhiều so với chế độ tù chính trị mà
luật pháp thực dân đã ghi nhận, nhưng mỗi lần đưa kiến nghị là đại biểu tù nhân
bị phạt xà lim, lại phải đấu tranh tập thể, bãi thực, hò la phản đối.
Chuyến tù từ Hòn Cau về đầu năm 1932 và các chuyến
tù chính trị ở Khám Lớn (Sài Gòn), Sơn La, Hỏa Lò (Hà Hội) liên tiếp ra Côn Đảo
trong những năm 1932-1933 đã đưa vào Banh II nhiều đồng chí có trình độ lý luận.
Ban lãnh đạo ở các khám và Ban lãnh đạo chung được củng cố, các đồng chí Phạm Hữu
Lầu, Lương Khánh Thiện, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng... đã có
nhiều đóng góp trong quá trình tổ chức và lãnh đạo tù nhân Banh II.
1. Ở côn Đảo, dưới thời Quản đốc O’connel, tù chính trị bị án phát lưu
có một thời gian duy nhất được sống dễ thở hơn đôi chút (1914- 1916).
Sau nhiều lần đấu tranh, bọn cầm quyền ở Côn Đảo buộc phải để cho tù
nhân được tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ và học tập chính trị, lý luận.
Công tác văn hóa, nghệ thuật trong tù vừa là một nhu cầu thưởng thức nghệ thuật,
làm phấn chấn tinh thần, vừa có tác dụng giáo dục tốt, giúp cho người tù sống
qua những ngày đen tối, đơn điệu và nặng nề trong ngục thất.
Tù chính trị Banh II đã biên soạn và trình diễn các vở kịch Trưng Nữ
Vương, Quang Trung, Đề Thám... để giáo dục truyền thống yêu nước chống ngoại
xâm của dân tộc. Tết âm lịch năm 1933, tù chính trị Banh II diễn vở Người bệnh
tưởng của Môlie (Molière), tạo được không khí vui tươi, phấn khởi. Anh em tù
chính trị Quốc dân đảng cũng đóng góp tích cực vào việc dàn dựng và thưởng thức.
Tết năm 1933 “gánh hát” của Nguyễn Văn Nguyễn ở Sở rẫy An Hải đã trình
diễn vở Tứ đổ tường phê phán các tật xấu của xã hội như uống rượu, trai gái,
đánh bạc, hút thuốc phiện. Vở tuồng được chuyển thể thành cải lương hợp với thị
hiếu nghệ thuật của đồng bào miền Nam, khăng định những tội lỗi xấu xa đó là do
xã hội đương thời đẻ ra. Vở hát có tác dụng giáo dục con người và tố cáo xã hội
cũ sâu sắc, được đông đảo tù thường và ma tà cùng vợ con họ hoan nghênh ‘ nhiệt
liệt. Từ đó, cứ gặp tù cộng sản là họ đề nghị cho xem hát và tỏ ý sẵn sàng giúp
mọi phương tiện để diễn kịch.
Tù chính trị Banh II có trong tay nhiều tác phẩm có giá trị của các nhà
văn cổ điển Pháp. Những người tù có chung một mối đồng cảm nghệ thuật cùng nhau
nghiên cứu và thảo luận những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Nhiều đảng viên
Quốc dân đảng đã sốt sắng tham gia với anh em cộng sản để đọc, dịch, dàn dựng,
biểu diễn và thưởng thức các vở kịch của Môlie và kịch cổ điển Pháp. Nhiều người
từng bi quan, bế tắc đã tìm thấy ý nghĩa mới của những ngày tháng ở tù. Họ bắt
đầu say mê học tập, nghiên cứu, sống lạc quan, sống có ý nghĩa..
Cuốn sách “Mười ngày rung chuyển thế giới” của nhà văn tiến bộ Mỹ Giôn
Rít viết về cuộc Cách mạng tháng Mười Nga được tù chính trị Banh II dịch và
chuyền tay nhau đọc. Một số đồng chí được phân công chuyên dịch các tác phẩm:
“Xi măng của Gơlátcốp (Gladkov), “Suốt Thép của Xêraphimôvích (Séraflmovitch),
giới thiệu về những thành tựu của nền văn học Xô viết và sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô.
Các vở kịch lúc đầu được biểu diễn bí mật trong các khám. Một số gác
dang biết và tò mò đứng xem. Nhiều người làm gác dang ở nhà ngục này hàng chục
năm, đến nay mới được tiếp xúc với văn hóa, nghệ thuật. Lần đầu tiên họ được
xem những vở hài kịch của Môlie và những vở kịch cổ điển khác do chính những
người tù diễn bằng tiếng Pháp. Họ đề nghị tù chính trị đưa ra diễn công khai ở
sân Banh II cho tất cả cùng xem. Được xếp banh đồng ý, anh em tù chính trị đã
trình diễn công khai những vở kịch có giá trị của văn học Pháp.
Có những vở kịch được dàn dựng công phu, với trang phục đúng kiểu phương
Tây thế kỷ XVII, từ quần áo mùa đông, giày mũ, râu tóc cho đến súng ống, kèn đồng...
Nguyên liệu chủ yếu là những mảnh bao bố mà anh em Nhà bếp lén đem cho, được những
bàn tay người tù cắt may thành y phục, phông màn lộng lẫy. Người thợ may Phương
Hải, nhạc sĩ Đinh Nhu và gần chục thợ mộc, thợ giày, họa sĩ sốt sắng chuẩn bị
suốt đêm ngày. Có đến cả trăm tù nhân tham gia vào một vở kịch từ khi luyện tập
cho đến lúc biểu diễn. Nhiều người không được sắm vai cũng xin được đóng góp
vào việc dựng sân khấu, kéo phông màn...
Gác ngục Pháp đưa cả vợ con vào xem rất đông. Họ trầm trồ khen các vai
hóa trang rất giống, giọng Tây, giọng đầm rất đạt, biểu hiện tinh tế được cả tiếng
địa phương nhiều vùng nước Pháp. Các vở kịch không chỉ thành công trong lĩnh vực
nghệ thuật mà còn là một thắng lợi về mặt ngoại giao. Nhiều gác ngục Pháp tỏ
thái độ kính nể những người tù cộng sản có văn hóa, có nhân cách và hiểu biết
sâu rộng. Họ bớt đánh tù và xưng hô cũng bớt phần thô tục. Có gác ngục Pháp đã
phát biểu với tù cộng sản: “Bây giờ chúng tôi với hiểu các anh là những người
tài giỏi và không có đầu óc dị chủng”. Hoạt động văn hóa nghệ thuật đã góp phần
cảm hóa, tranh thủ nhiều gác dang, ma tà, tạo điều kiện thuận lợi cho những cuộc
đấu tranh quyết liệt sắp tới.
Phối hợp với phong trào đấu
tranh trong nước và quốc tế
Trong thời gian này nhiều cơ sở Đảng trong nước đã được phục hồi. Đảng
ta tích cực lãnh dạo cuộc đấu tranh chống khủng bố trắng của thực dân Pháp. Báo
chí bí mật và truyền đơn của Đảng kịch liệt lên án chính sách khủng bố dã man của
thực dân Pháp và hiệu triệu quần chúng đấu tranh đòi chấm dứt khủng bố, đòi ân
xá toàn bộ tù chính trị và xóa bỏ các tòa án quân phiệt ở Đông Dương.
Phong trào đấu tranh ở trong nước cũng bắt đầu khôi phục. Trong hai năm
1933 và 1934 đã có 76 cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân. Quốc tế cộng sản
trong những năm 1930-1935 đã động viên tất cả các Đảng cộng sản ở Tây Âu lúc
đó, và đặc biệt lưu ý Đảng cộng sản Pháp, tìm mọi cách giúp đỡ cách mạng Đông
Dương trong lúc gặp khó khăn. Quốc tế cộng sản đã trực tiếp chỉ đạo việc thành
lập ủy ban bảo vệ cách mạng Dông Dương (Le Commité de défense de l’indochine)
do các nhà trí thức nổi tiếng đứng đầu như Pôn Lănggiơvanh (Paul Langevin),
Hăng ri Bác buýt (Hen ri Barbusse), Rômanh Rôlăng (Romain Ronand)...
Ủy ban đã tổ chức quyên góp tiền, tổ chức hội chợ bán các mặt hàng tiêu
dùng và mỹ nghệ để lấy tiền gửi cho tù chính trị ở Côn Đảo và Đông Dương. Các đồng
chí lãnh đạo các Đảng cộng sản mỗi lần đến làm việc ở cơ quan Quốc tế cộng sản
đều được thông báo tình hình khủng bố trắng của thực dân Pháp, nhận sự chỉ đạo
của Quốc tế cộng sản về vấn đề bảo vệ cách mạng Đông Dương. Quốc tế cứu tế đo
(S.R.I: Secours Rouge Intemational) dưới sự chỉ đạo của Quốc tế cộng sản đã vận
động các luật sư nổi tiếng biện hộ cho mững người cộng sản Việt Nam tại các
phiên tòa đại hình ở Đông Dương.
Với tinh thần quốc tế vô sản cao cả, Đảng cộng sản Pháp đã quan tâm đặc
biệt đến tình hình cách mạng đông Dương. Tại Đại hội toàn thể lần thứ 11 của
Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản (1931), đại biểu của Đảng cộng sản Pháp đã
nghiêm khắc tự phê bình những thiếu sót của Đảng trong việc ủng hộ cách mạng
Đông Dương và có thái độ kiên quyết sứa chữa.
Từ năm 1931 đến năm 1933, đồng chí Trê (Maurice Thorez) đã đọc nhiều bản
báo cáo nổi tiếng tại Quốc hội Pháp lên án những hành động tàn ác, dã man của
chính quyền thực dân đối với cách mạng Đông Dương và đòi ân xá toàn thể tù
chính trị. Theo sáng kiến của Đảng cộng sản Pháp, một ủy ban đòi ân xá chính trị
phạm Đông Dương được thành lập ở Paris ngày 9-3-1933 gồm những nhà hoạt động
văn hóa xã hội nổi tiếng ở Pháp như Phơranxi Giuốcđanh, Hăng ri Bác buýt,
Rômanh Rôlăng, ăngđơrê Viôlít (Andrée vionis), San lây Be (Chaney Bert)... do
Pôn Lănggiơvanh đứng đầu. Ngày.5-7-1933, Uy ban đã gửi thư cho Bộ trưởng Bộ thuộc
địa Pháp phản đối bản án xử ngày 7-5-1933 tại phiên tòa đại hình đặc biệt ở Sài
Gòn và việc đày 89 tù nhân đi Côn Đảo.
Do phong trào đấu tranh chống khủng bố cách mạng Đông Dương đang dâng
cao ở Pháp, Chính phủ Pháp phải cử Pôn Rây nô (Paul Reynaud) sang kinh lý Đông
Dương cuối năm 1931. Được Đảng cộng sản Pháp vận động, nữ văn sĩ Ăngđơrê Viôlít
đã đi cùng đoàn điều tra sang Đông Dương.
Những điều tai nghe mắt thấy trong chuyến đi đã giúp bà viết thiên phóng
sự Dông Dương kêu cứu (L’indochine S.O.S) làm chấn động dư luận tiến bộ ở Pháp
và toàn thế giới lúc đó. Đảng cộng sản Pháp đã cử các đồng chí Vayăng Cutuyriê
(Vailant Couturier), Gabơnen Pê ri (Gabriel Péri), nghị sĩ cộng sản cùng một số
nhà báo tiến bộ sang điều tra tình hình Đông Dương.
Đầu năm 1934, phái đoàn Cứu tế đỏ do Gabơrien Pê ri dẫn đầu đã sang Đông
Dương. Mặc dù chính quyền thực dân tìm mòi cách ngăn trở, phái đoàn vẫn nắm được
tình hình và đề ra nhiều yêu sách cấp thiết đòi cải thiện điều kiện sinh hoạt của
chính trị phạm trong các nhà tù ở Đông Dương, nhất là ở Côn Đảo. Phái đoàn còn
đòi Chính phủ thuộc địa phải toàn xá tù chính trị và giải quyết các yêu sách của
công nhân, nông dân và nhân dân lao động Đông Dương.
Sau khi về nước, đoàn đã tổ chức nhiều cuộc họp báo cáo tình hình ở Đông
Dương trước quần chúng nhân dân Pháp. Trong gần một năm, Đảng cộng sản Pháp đã
tổ chức 98 cuộc mít tinh, mở một chiến dịch khắp nước Pháp vận động đòi toàn xá
chính trị phạm ở Đông Dương, trong đó có nhiều nhà hoạt động xã hội có danh tiếng
như Hăng ri Bác buýt, Rômanh Rôlăng, Pôn Ănggiơvanh...
Những tin tức về phong trào đấu tranh của tù nhân Côn Đảo đăng trên báo
chí công khai lúc đó được Đảng cộng sản Pháp đưa ra chất vấn ngay tại nghị viện
làm cho chính quyền thực dân vô cùng lúng túng. Sự quan tâm sâu sắc của Quốc tế
cộng sản, sự ủng hộ chứa chan tinh thần quốc tế vô sản của Đảng cộng sản và
nhân dân tiến bộ Pháp là niềm cổ vũ lớn lao đối với cuộc đấu tranh của nhân dân
ta và của toàn thể tù chính trị ở Đông Dương.
Bị vạch mặt trước dư luận, chính quyền thực dân Đông Dương phải cử thanh
tra ra đảo nghiên cứu biện pháp đối phó. Đại biểu tù nhân đã nhiều lần gửi kiến
nghị cho Thanh tra thuộc địa và Toàn quyền Đông Dương yêu cầu cải thiện chế độ
nhà tù; không được đánh đập, ngược đãi tù nhân; giảm nhẹ mức khổ sai và thực hiện
chế độ tù chính trì.
Tháng 8 năm 1934, nhân một bữa bọn chúa ngục cho tù nhân ăn cá khô hấp
chưa chín, dòi bò lổm ngổm trong khay cá, tù chính trị Banh II đã tuyệt thực để
phản đối, khẩu hiệu đấu tranh là:
-
Để tù Banh II
tự nấu cơm, nấu nước.
-
Tù nhân được
ra sân chơi 2 giờ một ngày, được tắm 2 lần một tuần.
-
Tù nhân được tự
do gửi và nhận thư từ, bưu kiện.
Banh I cũng phối hợp đấu tranh, tuyệt thực một ngày. Nhiều bản yêu sách
của Banh I và các sở tù được gửi lên Quản đốc đòi:
-
Không được cho
tù ăn khô mục. Bữa ăn phải có rau xanh.
-
Mỗi tuần được
2 lần ăn thịt.
-
Ốm đau được
nghỉ và cho thuốc đúng bệnh.
-
Không được
đánh đập, ngược đãi tù nhân.
Cuộc tuyệt thực của tù chính trị Côn Đảo kéo dài 8 ngày. Thống đốc Nam Kỳ
Pagie (Pagès) phải tức tốc đáp thủy phi cơ ra đảo. Nhận được điện báo trước, Quản
đốc Buviê lập tức ra lệnh phát lương thực thêm cho tù nhân; cho giấu biệt tất cả
roi mây, hèo gậy xuống cống rãnh; cho quét vôi tường Nhà Thương và đưa ngay 35
bệnh nhân bị sốt rét vàng vọt và gãy chân, gãy tay vì khổ sai giấu kín trong khám
6
Banh I.
Tên thày thuốc Châu đón tiếp Pagie tại Nhà Thương bằng một bài diễn văn
đọc thuộc lòng: “Bệnh nhân không đông, bệnh nhân được chăm sóc tốt, bệnh nhân
được ăn thịt, uống sữa...”. Pagie đến Banh I đúng lúc tù nhân đang xếp hàng ăn
cơm trưa. Đồng chí Phạm Hùng lập tức bước ra tố cáo chế độ nhà ngục và đòi cải
thiện đời sống tù nhân. Quản đốc Buviê tức điên người. Phải lúc khác thì hắn đã
đánh tơi bời trả thù bằng những hình phạt nặng nhất.
Pagie còn được hướng dẫn thăm Nhà bếp, Banh II, Nhà Đèn, Chuồng Bò và một
số nơi trên đảo. Thống đốc Nam Kỳ đi đến đâu cũng bị tù nhân ra tố cáo. Đống
hèo gậy mà bọn gác dang đã giấu kỹ dưới cống ngầm cũng bị tù nhân lôi ra làm
Buviê hết đường chối cãi. Đã đến lúc không thể bưng bít được những tội ác ở nhà
ngục Côn Đảo, trước xu thế cách mạng đang dâng lên ở Đông Dương và ở Pháp. Thống
đốc Nam Kỳ phải giải quyết nhiều yêu sách cho tù nhân. Mỗi tuần tù nhân được ăn
hai bữa thịt, mỗi bữa 50 gam; tù chính trị ở Banh II mỗi ngày được ra sân chơi
6 tiếng đồng hồ ; tù nhân được nhận thư và bưu kiện của gia đình.
Tù chính trị Banh II được tự nấu ăn, được dọn vệ sinh, được trồng rau cải
thiện, được đọc sách và nhận sách. Ngoài việc làm bếp và dọn vệ sinh, tù Banh
II còn được ra làm các việc nhẹ nhàng trong sân trại giam như đập đá dăm, may
quần áo.
Thoát khỏi chế độ cấm cố, làm việc được tự do hưởng ánh nắng và khí trời,
sức khỏe của tù nhân khá hẳn lên. Ban trật tự sắp xếp mọi người vào các công việc
phù hợp với sức khỏe. Ra làm việc được lãnh tiền công để góp quỹ cứu tế và mua
sách vở học tập, lại có điều kiện liên hệ chặt chẽ với Banh I.
Việc tiếp nhận sách báo, tin tức và học tập văn hóa, nghiên cứu lý luận
được đẩy mạnh hơn trước. Ban đời sống tích cực chỉ đạo việc cải thiện đời sống
cho tù nhân. Kíp làm bếp đã tổ chức làm cối giã gạo, bảo quản thực phẩm, nấu ăn
vệ sinh, trồng rau, nuôi gà, vịt...
Đời sống của tù nhân khá hơn rõ rệt. Chế độ khổ sai cũng bớt phần hà khắc.
Nhiều yêu sách đòi giảm nhẹ mức khổ sai của Banh và các sở tù được mặc nhiên thừa
nhận. Sự đoàn kết đấu tranh của tù nhân Côn Đảo dưới sự lãnh đạo của các tổ chức
cộng sản trong những năm 1930-1934 đã tạo thành sức mạnh to lớn, hòa nhịp với
phong trào cách mạng ở trong nước và trên thế giới ngăn chặn bàn tay khủng bố của
kẻ thù. Tỷ lệ tù nhân chết giảm xuống 3% năm 1934 và 1,7% năm 1935.
Khi những người cộng sản nên khẩu hiệu “Một tuần được ăn thịt hai lần”
thì những người tù thường phạm hầu như không tin rằng có thể đấu tranh được. Có
tên ma tà đã tuyên bố thẳng: “Nhà tao đã ba đời làm gác ngục ở đây mà chưa bao
giờ thấy tù được quá 2 lần trong một năm. Chúng này có mà đòi ngôi sao trên trời”.
Phải đến khi các yêu sách được giải quyết thì tù thường phạm mới thật sự
tin tưởng và kính phục những người cộng sản. Tuy vậy, bọn chúa ngục Côn Đảo vẫn
tìm mọi cách để cúp phạt, bớt xén từng gam thịt, từng lạng gạo, tăng thêm định
mức lao động khổ sai... Tù nhân lại phải tố cáo và đấu tranh đòi lại.
Hơn bất cứ nơi nào, những người cộng sản ở Côn Đảo thấm thía một chân
lý: Muốn sống phải tranh đấu. Thắng lợi giành được trong những năm 1930-1934 đã
tạo điều kiện cho bước phát triển mới của phong trào đấu tranh ở Côn Đảo trong
những năm sắp tới.
Trường học chủ nghĩa cộng
sản và đấu tranh cách mạng
Học tập và vươn lên là truyền thống của những người cộng sản. Tù chính
trị ở Banh II không phải đi làm khổ sai nên anh em sớm có điều kiện tổ chức học
tập Từ năm 1931, bằng trí nhớ của mình, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã chép lại bản
Luận cương chính trị (10-1930) của Đảng ta để huấn luyện cho anh em.
Mùa hè năm 1932, nhóm tù cộng sản ở Hòn Cau bị đưa về banh II, tiếp tục
duy trì việc học văn hóa và nghiên cứu lý luận. Năm 1933, các chuyến tù ở Khám
Lớn (Sài Gòn) và Sơn La, Hỏa Lò (Hà Nội) đã đưa ra Côn Đảo nhiều cán bộ có
trình độ lý luận. Trên cơ sở những thắng lợi giành được trong các cuộc đấu
tranh, Ban lãnh đạo Banh II chủ trương biến nhà tù đế quốc thành trường học
cách mạng.
Nhờ sự giúp đỡ của binh lính, thủy thủ và những công chức tiến bộ ở Bưu
Điện, Nhà Thương, Nhà Đèn, những người tù cộng sản ở Côn Đảo đã mua được nhiều
tác phẩm lý luận như Tuyên ngôn của Dảng cộng sản, Chống Đuy rinh, nhiều tập của
bộ Tư bản của Mác và Ăng ghen, cùng những tác phẩm của Lênin được Nhà xuất bản
Xã hội của Đảng cộng sản Pháp xuất bản lúc đó.
Sách báo được những người tù khổ sai Banh I bí mật tiếp nhận rồi chuyển
vào Banh II qua những cơ sở ở Nhà bếp, Sở tẩy và những ma tà có cảm tình. Khi bọn
thực dân buộc phải công nhận cho tù chính trị được đọc sách và nhận sách thì
gia đình và các đồng chí trong đất hến cũng gửi ra nhiều sách, báo, làm phong
phú thêm “tủ sách” của tù chính trị Côn Đảo.
Ban lãnh đạo Banh II tổ chức đóng lại bìa sách và
chép ra thành nhiều bản để sử dụng, còn bản gốc được bảo quản rất kỹ trong các
“tủ sách” bí mật trong khám. Ban lãnh đạo tổ chức tóm tắt, lược dịch nhiều tác
phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác như: Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Tư bản, Chống
Đuy rinh, Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệt phê phán, Làm gì, Bệnh ấu
trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản, Hai sách lược của Đảng xã hội dân chủ,
Nguyên lý của chủ nghĩa Lênin, Những vấn đề của chủ nghĩa Lênin, v. v...
Các cuốn sách Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác của Pơlêkhanốp, Kinh
tế chính trị học của Lapiđuýt cũng được dịch ra và biên soạn thành chương trình
học tập cho các đối tượng có trình độ khác nhau. Ban lãnh đạo còn tổ chức một bộ
phận chuyên sao các tài liệu ra nhiều bản để phục vụ các lớp học và gửi cho chi
bộ Banh I, gửi về đất liền.
Lớp học chính trị nghiên cứu Chính cương, Sách lược vắn tắt và Luận
cương chính trị của Đảng ta. Các vấn đề cơ bản như Yêu cầu khách quan của xã hội
Việt Nam, tính chất và nhiệm vụ cách mạng, động lực chủ yếu của cách mạng và
sách lược đấu tranh được tù chính trị dành nhiều thời gian thảo luận. Đồng chí
Ngô Gia Tự lúc còn ở Banh II đã góp nhiều ý kiến, bàn sâu thêm những vấn đề
trong bản Luận cương chính trị về việc đánh giá vai trò của giai cấp tư sản và
giai cấp địa chủ ở nước ta, về sách lược phân hóa kẻ thù, tranh thủ bạn đồng
minh, dù chi là tạm thời và cô lập kẻ thù nguy hiểm trước mắt.
Hai lớp triết học và kinh tế chính trị học chương trình B (trung cấp)
thu hút đông đảo cán bộ đảng viên ở Banh II. Một số đồng chí có trình độ lý luận,
đã qua các lớp huấn luyện của đồng chí Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu hoặc tốt
nghiệp Đại học Phương Đông ở Liên Xô về được chỉ định làm giảng viên. Từng bài
học đều được giảng viên nghiên cứu kỹ rồi trình bày trước lớp. Các đề mục và nội
dung chính được viết trên nề khám bằng những mẩu san hô hoặc gạch non.
Sau mỗi bài giảng, anh em lại thảo luận sôi nổi trong từng nhóm và thảo
luận chung trong lớp. Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học đã soi
sáng con đường cách mạng Việt Nam và củng cố niềm tin vững chắc vào sự nghiệp
giải phóng dân tộc cho những người cộng sản.
Người tù án 5 năm, 10 năm tin có ngày về ráng học để phục vụ cách mạng.
Người tù án chung thân lưu đày cũng tin tưởng vào sự thành công cửa cách mạng
mà học tập. Ngay cả những người không nghĩ đến ngày về cũng say mê học tập để
hiểu thêm lẽ sống, để sống lạc quan, thêm sức mạnh đấu tranh với quân thù.
Lớp A (chương trình cao cấp) dành cho các đồng chí có trình độ văn hóa,
lý luận và ngoại ngữ, trong đó có các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phạm Văn
Đồng... Lớp học này không có giảng viên, mọi người cùng nhau nghiên cứu các tác
phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mỗi đồng chí đọc kỹ một tác phẩm rồi
trình bày nội dung chủ yếu cho anh em nghe, sau đó mới trình bày kỹ từng
chương, từng đoạn, giải nghĩa từng câu, từng ý, trên cơ sở đó mà thảo luận. Những
vấn đề về bạo lực cách mạng và chuyên chính vô sản được thảo luận rất sôi nổi.
Mỗi bài học còn được liên hệ với quá trình vận động cách mạng ở Việt Nam và rút
ra những kinh nghiệm bổ ích.
Nội dung chương trình học tập và những vấn đề lý luận cơ bản được phản
ánh trên tạp chí ý hiến chung xuất bản hàng tháng ở khám 3. Báo được viết trên
giấy học trò khổ 13x19 cm, môi số đều có phần tin tức, bình luận, xã hội và
nghiên cứu lý luận. Báo được bí mật chuyền tay dưới dạng những bức thư gửi cho
nhau để phục vụ việc học tập và nghiên cứu lý luận.
Khám 5 ra tờ báo Người tù đỏ có tính chất phổ cập, khổ 9 x 13 cm. Báo ra
hàng tuần, đưa tin tức tình hình, phát động đấu tranh và giáo dục chủ nghĩa Mác
- Lênin dưới dạng những câu hỏi và trả lời. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ vừa là chủ
bút, vừa là cây bút chính của tờ báo. Đồng chí còn là cây bút lý luận sắc sảo,
thường xuyên viết cho báo ý kiến chung. Tù chính trị ở Banh I và Banh II đều
tích cực viết báo. Báo Người tù đỏ phù hợp với trình độ của nhiều người nên nhận
được khá nhiều bài.
Sách báo thường được giấu trên mái nhà. Buổi tối, anh em công kênh nhau
leo lên đưa sách xuống đọc dưới ngọn đèn nhỏ được che chụp kín trong góc khám.
Sách báo ngày càng nhiều và có những cuốn sách kinh điển rất dày không thể giấu
trên mái nhà được nữa, Ban lãnh đạo tổ chức đào hầm bí mật trên đầu tường và
trong góc khám để giấu, gọi là CQBM (cơ quan bí mật). Mỗi lần đưa sách ra đọc
là phải bố trí bảo vệ chặt chẽ, đề phòng bọn gác dang đi tuần và những kẻ xấu
phát hiện. Cũng có lần bọn gác dang ập vào khám xét bất ngờ, tịch thu nhiều
sách, báo, tài liệu. Mãi đến cuối năm 1934 bọn thực dân mới thừa nhận chế độ tù
chính trị và cho tù nhân đọc sách, nhưng không cho đọc báo, sau này mới cho đọc
trong một thời gian.
Tù chính trì ở Banh II còn thảo luận nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, triết học, lịch sử, thời sự và văn học nghệ thuật.
Cuối năm 1933 có cuộc thảo luận về vụ án Đimitơrốp
(Dimitrov). Những người cộng sản Việt Nam trong nhà ngục Côn Đảo vô cùng phẫn nộ
trước hành động cơ hội thỏa hiệp của Quốc tế II và lo lắng cho phong trào cộng
sản Đức.
Thái độ hiên ngang và bản cáo trạng đanh thép mà Đimitơrốp đẽ kết tội bọn
phát xít trước tòa án Lai xích (Leipzig) là niềm cổ vũ lớn đối với những người
cộng sản Việt Nam, đồng thời củng cố thêm lòng tin vào sự tất thắng của chủ
nghĩa cộng sản.
Năm 1934, có cuộc tranh luận vấn đề Liên Xô vào Hội quốc liên (tiền thân
Liên hợp quốc). Lúc đầu có ý kiến cho rằng Liên Xô và Hội quốc liên sẽ bị thiểu
số, rằng Lênin khi còn sống đã từng vạch mặt Hội quốc liên... song nhiều ý kiến
khác phân tích tình hình lúc này chủ nghĩa đế quốc đã đi vào con đường phát xít
hóa, mâu thuẫn nội bộ chúng tăng lên, vì vậy cần phải lợi dụng diễn đàn này để
tuyên truyền chính nghĩa, cô lập bọn hiếu chiến, lập mặt trận rộng rãi đấu
tranh cho hòa bình, chống chiến tranh và bảo vệ các nước nhỏ yếu.
Cuộc tranh luận sôi nổi và kéo dài, sau cùng hầu hết đều tán thành việc
Liên Xô vào Hội quốc liên. Các vấn đề chính trị, triết học được thảo luận hằng
ngày, vấn đề gì chưa hiểu rõ thì dừng lại đọc thêm tài liệu và nghiên cứu sách
kinh điển của chủ nghĩa Mác, cố gắng nắm bản chất của vấn đề rồi liên hệ với
tình hình thế giới, liên hệ với truyền thống dân tộc Việt Nam và rút ra những
bài học kinh nghiệm.
Những vấn đề lý luận được anh em để nhiều thì giờ tranh luận. Đồng chí
Nguyễn Văn Cừ và đồng chí Lê Duẩn thường có những ý kiến phân tích sâu và xác
đáng, có sức thuyết phục đối với anh em. Đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh)
cũng là một tấm gương tiêu biểu về tinh thần học tập, phấn đấu vươn lên của tù
chính trị ở Côn Đảo. Khi vào tù, đồng chí mới 16 tuổi, nhờ say mê học tập,
trong vòng ba tháng, đồng chí đã tham gia dịch thuật các tác phẩm lý luận dưới
sự hướng dẫn của các đồng chí Phạm Văn Đồng, Nguyễn Kim Cương. Nhiều đồng chí
đã trưởng thành về lý luận Mác - Lênin ngay trong nhà tù đế quốc và sau này trở
thành những người lãnh đạo xuất sắc của Đảng ta.
Ban lãnh đạo Banh II còn tổ chức học tập các môn văn hóa như: lịch sử, địa
lý, văn hóa nghệ thuật và ngoại ngữ (tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung Quốc).
Giờ tắm nắng, tù chính trị đem tấm bản đồ thế giới vẽ to bằng chiếc chiếu treo
trên gốc cây bàng, rồi ngồi quây quanh nghe các “giáo sư” giảng giải.
Bài học về đất nước Liên Xô và Cách mạng tháng Mười được giảng viên
trình bày rất kỹ và được học viên tiếp thu một cách hào hứng, say mê. Lãnh thổ
Liên Xô rộng lớn dược tô màu đỏ nổi bật trên bản đồ. Có tên gác dang khó chịu
giật xuống làm rách tấm bản đồ. Tù nhân phản đối kịch liệt. Hôm sau, một tấm bản
đồ mới vẽ lại được treo lên, thủ đô Mạc Tư Khoa được đánh dấu bằng hình một trái
tim đỏ chói. Tên gác dang giở giọng châm biếm:
-
Chỉ còn một chấm
đỏ thế thôi à ?
Anh em kiêu hãnh trả lời:
-
Phải! Một chấn
đỏ nhưng nó sẽ lan rộng khắp.
Các đồng khí giỏi ngoại ngữ đã đọc và thảo luận sôi nổi các tác phẩm văn
học có ở Banh II lúc đó, từ các tác phẩm văn học nổi tiếng của Coócnây
(Comeine), Miôlie (Molière), Vinh (Alfred de Vighy), Huy gô (Victor Hu go),
Muyxê (Alfred de Musset), Do la (émile Zola), Phơrăng (Anatole France), Rôlăng
(Romain Ronand), Bác buýt (Hen ri Barbusse)... cho đến các tác phẩm văn học Việt
Nam lúc đó như Đoạn tuyệt của Nhất Linh, Cô Tư Thung của Nguyễn Công Hoan, thơ
của Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, v.v... Anh em tù chính trị rất chú ý đến phong
trào Thơ mới. Trân trọng sự sáng tạo nghệ thuật của Thơ mới là ở chỗ các nhà
thơ lúc ấy đã đi vào chủ nghĩa lãng mạn tiểu tư sản trong lúc đang cần có chủ
nghĩa lãng mạn cách mạng.
Đấu tranh tư tưởng với Việt Nam Quốc dân đảng
Việc học tập văn hóa, lý luận và thưởng thức nghệ thuật ở Côn Đảo ngày
càng lôi cuốn nhiều anh em Quốc dân đảng tham gia. Mặc dù các lãnh tụ cực đoan
ra sức tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản nhưng phần lớn đảng viên và quần
chúng Quốc dân đảng đều nhận thấy những người cộng sản sống có tổ chức, có tình
thương và có ý chí học tập, vươn lên, phấn đấu cho lý tưởng cách mạng.
Ngay từ khi chưa hiểu chủ nghĩa cộng sản, họ đã cảm phục nhân cách của
những người cộng sản. Sách báo mác xít và quá trình học tập, thảo luận ở Banh
II có sức thuyết phục những người yêu nước chân chính trong hàng ngũ Quốc dân
đang hơn là nội dung nghèo nàn của chủ nghĩa Tam Dân và tôn chỉ mục đích mập mờ
của Việt Nam Quốc dân đảng. Nhiều người đã nghiêng hẳn về lập trường vô sản như
các anh Tưởng Dân Bảo, Nguyễn Phương Thảo, Nguyễn Đức Chính, Trần Huy Liệu...
Các anh Tố Chấn, Tô Hiệu ở Banh I đã sớm giác ngộ, đứng vào hàng ngũ của những
người cộng sản và tích cực tham gia hoạt động, đấu tranh.
Thấy quần chúng ngả theo cộng sản ngày càng nhiều, những thủ lĩnh Quốc
dân đảng cực đoan vu cáo những người cộng sản làm tan rã hàng ngũ của họ và coi
“Cộng sản là kẻ thù số 1, đế quốc là kẻ thù số 2” (!) Tên Đội Sơn, trùm Quốc
dân đảng đã có lần bộc lộ tâm địa của hắn qua lá thư gửi riêng cho chúa đảo
Buviê: “Tôi rất đồng tình với ngài rằng bọn cộng sản còn nguy hiểm hơn cả bênh
dịch hạch”.
Nhóm Quốc dân đảng cực đoan chống cộng ra mặt. Khi những người cộng sản
nêu khẩu hiệu đấu tranh đòi cải thiện đời sống thì họ xuyên tạc: “Tưởng làm
cách mạng thế nào chừ chỉ biết đòi ăn thôi à (?!) Tù chính trị Banh II phát động
học tập thì họ khiêu khích: “Tù chung thân, học để xuống nghĩa địa khỏi lạc đường
à (?!). Tù chính trị Banh I đấu tranh đòi giảm nhẹ khổ sai họ cũng phản đối: “Đấu
tranh nó còn bắt làm nhiều, càng chết”. Mỗi lần Ban lãnh đạo tù chính trị vận động
quần chúng đấu tranh thì họ làm ầm lên cốt để báo cho bọn gác ngục biết.
Đối với họ vào tù là “tiêu ma sự nghiệp’, cốt sao được yên thân. Họ ra tờ
báo Tiêu sầu để tự an ủi và chống lại chủ trương của những người cộng sản. Từ
sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2- 1930), một bộ phận Quốc dân đảng
đã chuyển hẳn sang chủ nghĩa quốc gia cải lương. Một số lãnh tụ cực đoan đã đi
vào con đường chống cộng quyết liệt làm tay sai cho thực dân Pháp.
Bọn Tâm Cụt âm mưu ám sát Tôn Đức Thắng, một đồng chí trung kiên có uy
tín ở Banh I. Còn Đội Sơn, Đội Lãng thì tổ chức ám sát các đồng chí Phạm Văn Đồng,
Hoàng Quốc Việt và một số người có vai trò lãnh đạo ở Banh II. Tù chính trị cộng
sản phải lập các đội tự vệ để theo dõi hành động của bọn này và bảo vệ các đồng
chí. Mưu sát cá nhân không thành, bọn trùm Quốc dân đảng ở Banh II chuẩn bị gây
chiến với những người cộng sản, nhưng quần chúng của họ không ủng hộ. Những người
cộng sản nắm được tình hình và tích cực chuẩn bị đối phó Bọn Quốc dân đảng cực
đoan bị vạch mặt và bị cô lập, chúng đành xin phép xếp banh cho ra ở riêng một
dãy, hy vọng sẽ tách được quần chúng ra khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản.
Cuối năm 1934, xếp Banh II đồng ý cho tù Quốc dân đảng ra ở riêng từ
khám 6 đến khám 10, còn tù cộng sản vẫn ở từ khám 1 đến khám 5, giữa hai dãy
khám có hàng rào dây thép gai. Một số đảng viên Quốc dân đảng giác ngộ chủ
nghĩa Mác-lênin đã chuyển sang ở chung với những người cộng sản. Ban lãnh đạo
Banh II cũng bí mật gợi ý trước cho một số người đã giác ngộ ở lại trong hàng
ngũ Quốc dân đảng để tiếp tục giáo dục, cảm hóa những anh em khác.
Người cộng sản Trần Xuân Độ đã cùng với Tưởng Dân Bảo, Nguyễn Đức
Chính1, Nguyễn Văn Xuân tổ chức một lớp học văn hóa mà thực chất là học chủ
nghĩa Mác-lênin. Anh em học các môn lịch sử, thời sự, ngoại ngứ, bình luận văn
học, nghệ thuật và bí mật nghiên cứu sách báo mác xít. Những quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa Mác-lênin được thảo luận một cách khéo léo dưới dạng phê phán những
xu hướng tư tưởng trước Mác, phê phán các quan điểm duy tâm, các quan điểm nghệ
thuật vị nghệ thuật lúc đó. Các cuộc thảo luận còn hướng tới chỗ khẳng định niềm
tin vào con người với những học thuyết khoa học có khả năng cải tạo được xã hội.
Tờ báo Delfray (Đằng sau ngọn triều giận giữ) làm nhiệm vụ hướng dẫn, thảo luận,
nghiên cứu các vấn đề của chủ nghĩa Mác-lênin.
1.
Nguyễn Đức
Chính là đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng đã giác ngộ Chủ nghĩa Mác - Lênin,
còn Trần Xuân Độ là tù chính trị cộng sản, bị bắt chung một vụ với nhiều đảng
viên Việt Nam Quốc dân đảng. Cho đến nay, vần còn không ít người hiểu lầm đồng
chí Trần Xuân Độ là Việt Nam Quốc dân đảng giác ngộ chủ nghĩa cộng sản trong
nhà tù. Năm 1929, khi làm công nhân nhà máy Carông (Hải Phòng), đồng chí được
nhóm Việt Nam Quốc dân đảng ở nhà máy này tuyên truyền, nhưng trước đó, đồng
chí đã bí mật tham gia tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Tuổi
đảng của đồng chí được tính từ ngày thành lập Đảng. Năm 1990, đồng chí Trần
Xuân Độ được nhận Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.
Lớp học lúc đầu có khoảng 10 người, sau tăng lên 100. Chủ nghĩa
Mác-lênin đã soi sáng trí tuệ và tâm hồn của một số người yêu nước mà lâu nay họ
mới chỉ hiếu một cách mơ hồ về chủ nghĩa Tam Dân. Nhiều người đã dứt khoát đứng
hẳn về lập trường của những người cộng sản.
Trong nhiều bức thư gửi cho anh em, bè bạn ở đất liền, mặc dù bị chế độ
kiểm duyệt rất gắt gao, Nguyễn Đức Chính cũng hé ra những dòng tâm sự về sự lựa
chọn ấy. Bức thư ngày 28-8-1936 gửi cho người em ruột ở Hà Nội có đoạn khẳng định:
“Anh vui sướng lắm, nhất là ngày anh ra khỏi được chỗ xung đột của hai quan niệm:
Duy tâm và Duy vật, của hai tư tưởng Quốc gia và Xã hội. Ra khỏi không phải là
đứng lên trên hẳn những cái đó rồi nhìn cả hai bên bằng con mắt chán nản, hoặc
hoài nghi, hoặc khinh bỉ đâu. Ra khỏi là chọn lấy một trong hai cái bất tương
dung ấy” 1.
Bọn trùm Quốc dân đảng cực đoan hết sức lo sợ sự tan rã không thể tránh
khỏi của Việt Nam Quốc dân đảng. Họ chủ trương “củng cố nội bộ bằng cách gây
chiến với bên ngoài”, tổ chức đánh một số đồng chí cộng sản có uy tín với quần
chúng Quốc dân đảng và khủng bố những quần chúng của họ đã giác ngộ cộng sản.
Thấy bọn cực đoan ráo riết chuẩn bị, anh em quần chúng Quốc dân đảng kiên quyết
phản đối, làm thất bại âm mưu của bọn này.
Gác dang Pháp vào xét các khám Quốc dân đảng thu được nhiều gậy gộc và sắt
nhọn. Không sử dụng được bạo lực, bọn cực đoan quay lại phá lớp học bằng mọi
cách. Mấy tên tay chân được gài vào lớp học nêu ra lý lẽ: không bao giờ người
Quốc dân đảng lại đi học chủ nghĩa Mác-lênin. Anh em kiên quyết bác bỏ với lý
luận rằng: “Những người cộng sản theo chủ nghĩa Mác-lênin vẫn nghiên cứu chủ
nghĩa Tam Dân và các chủ nghĩa khác, tại sao cấm người Quốc dân đảng nghiên cứu
chủ nghĩa Mác-lênin. Đuối lý bọn này tìm cách lấy cắp những tài liệu học tập lý
luận mác xít của anh em trong khám, nhưng không gì ngăn được những người yêu nước
chân chính đến với chủ nghĩa Mác-lênin.
Bất lực, bọn phản động đi vào con đường khủng bố nội bộ. Chúng kết án tử
hình 4 người: Tưởng Dân Bảo, Trần Xuân Độ2, Nguyễn Đức Chính và Nguyễn Văn Xuân
về tội “đưa chủ nghĩa cộng sản vào lung lạc, làm tan rã nội bộ” rồi giao cho
tên Đội Lãng thì hành. Đội Lãng đã dùng dao sắc bất ngờ cắt cổ anh Tưởng Dân Bảo.
Hành động giết người của y bị phát hiện, mọi người la lên làm y hoảng hồn. Nghĩ
rằng anh Bao đã chết, y chạy đi tìm 3 người còn lại nhưng trong cơn hoảng loạn,
y đã cầm dao đâm vào cổ tự tử. Đội Lãng bị đốc tờ Nhã bỏ cho chết luôn, còn Tưởng
Dân Bảo được ông cứu sống.
Tối hôm ấy, bọn cực đoan do tên Lý Khái cầm đầu tổ chức mặc niệm Đội
Lãng nhằm tiếp tục khủng bố những người yêu nước chân chính, song đội ngũ những
người yêu nước chân chính trong hàng ngũ Việt Nam Quốc dân đảng đã đoàn kết lại,
khẳng định một cách dứt khoát lập trường của mình. Cả một số trí thức nho học
trong Quốc dân đảng trước đây vẫn giữ thái độ ôn hòa nay cũng lên tiếng phản đối
bọn cực đoan. Cuộc mặc niệm Đội Lãng thất bại thảm hại.
Lớp học chủ nghĩa Mác-lênin trong hàng ngũ Quốc dân đảng vẫn tiếp tục.
Riêng Phạm Tuấn Tài3, thời gian ở Côn Đảo đã nghiên cứu nhiều tác phẩm lý luận
của Mác-ăngghen và Lêmn. Với cương vị một người sáng lập ra Quốc dân đảng, anh
rất trăn trở, cứ mấy tháng lại đưa ra mặt dự thảo cương lĩnh mới của Quốc dân đảng,
cái sau tiến bộ hơn cái trước và ngày càng xích gần đến chủ nghĩa Mác-Lênin.
Khi được ân xá, anh đã tâm tình với những người còn ở lại: “Quốc dân đảng đã
quá thời rồi, các anh em còn chân chính cách mạng nên đi theo con đường cộng sản”.
Nếu như cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã kết thúc vai trò
của Việt Nam Quốc dân Đảng thì trường học cộng sản trong Nhà tù Côn Đảo đã mở
ra con đường cho những người yêu nước chân chính trong hàng ngũ Quốc dân đảng.
Nhiều người đã gia nhập hàng ngũ cộng sản khi hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được đất nước khỏi ách thực dân.
1.
Trích trong tập
Thư Côn Lôn của Nguyên Đức Chính, do Nguyễn Đức Kính xuất bản tháng 12-1937 tại
Hà Nội.
2.
Từ khi bị bắt
cùng một vụ, đồng chí Trần Xuân Độ vẫn được giam chung với nhóm Việt Nam Quốc
dân đảng. Cho đến lúc ấy, trong hàng ngũ Việt Nam Quốc dân đảng vẫn không biết
Trần Xuân Độ là đảng viên cộng sản.
3.
Phạm Tuấn Tài
mang bệnh nặng, đã qua đời sau khi ra tù. Trước khi chết, ông đã để lại một bản
Tuyên cáo, bày tỏ lập trường đứng hẳn về Chủ nghĩa Mác-Lênin và khuyên anh em
theo Chủ nghĩa Mác-lênin. Nhiều đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng đa chuyển hẳn
lập trường tham gia Đảng cộng sản. Đồng chí Trân Huy Liệu được bầu làm Phó Chủ
tịch ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương tại Quốc dân Đại hội Tân Trào
(8-1945); Nguyên Phương Thảo (Nguyễn Bình) trở thành một vị tướng nổi tiếng
trên chiến trường miền Đông Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp; Đồng chí Tưởng
Dân Bảo được cử làm Đặc phái viên của uỷ ban Hành chính Nam Bộ ra rước tù chính
trị Côn Đảo về đất liền (9-1945)...
Tổ chức vượt ngục, cung cấp cán bộ về cho Đảng
Bị đày ải trên một hòn đảo giữa biển khơi, cách đất liền hàng trăm cây số
nhưng ý chí vượt đảo về đất liền tiếp tục hoạt động cách mạng luôn thôi thúc những
người tù chính trị. Mùa gió chướng hàng năm thổi vào đất liền là mùa tù nhân trốn
lên núi đóng bè, kết buồm vượt đảo. Gió chướng ở Côn Đảo từng đợt thường mạnh đến
cấp 7, cấp 8. Gặp khi gió mạnh thổi đều thì chỉ một ngày một đêm là bè có thể dạt
vào đất liền.
Những, người tù thường phạm đã từng vượt đảo thành công nhiều lần truyền
cho nhau kinh nghiệm thá bè, đón chiều gió chướng và lái theo hướng tây bắc để
bè dạt vào bờ biển Tây Nam Bộ, không để cho gió thổi dạt sang tận bên Xiêm.
Trong lúc đi làm khổ sai, những người tù đã nhắm sẵn những vạt rừng kín
đáo gần biển, chọn trước những cây gỗ búng (một loại gỗ nổi) có thể đóng bè, bớt
từng phần cơm ít ỏi trong các bữa ăn để phơi khô làm lương thực dự trữ. Họ phải
chuẩn bị cả thùng thiếc để đựng nước ngọt, các dụng cụ để đóng bè như dao, búa,
cưa, đinh... Bọn gác ngục kiểm soát rất chặt và phạt rất nặng khi phát hiện được
người tàng trữ những đồ “quốc cấm” có thể dùng để vượt đảo, nhưng tù nhân vẫn
có thể xoay xở và mua được nếu có tiền.
Một bè gỗ ghép vội bằng dây rừng, một túi cơm khô
và vài lít nước ngọt để vượt hàng trăm cây số trên biển là một việc đầy nguy hiểm.
Thế mà trước khi vượt biển, họ còn phải vượt qua một hệ thống canh phòng chặt
chẽ của gác dang, ma tà, lính canh và cả một đội rờsẹc (recherche)1 chuyên truy lùng và săn đuổi tù trốn.
Sở Rờsẹcl thường xuyên có trên dưới một trăm tên, được tuyển chọn trong
đám tù lưu manh, dưới quyền chỉ huy của một tên gác dang Pháp thuộc loại gian
ác làm chủ sở. Bọn này được mang sắc phục riêng, được trang bị mã tấu và chó
săn, được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi và trở thành tay sai đắc lực cho bọn
chúa ngục.
Lực lượng rờsẹc được chia làm hai toán: Toán nằm bãi và Toán Chỉ Tồn.
Toán Chỉ Tồn chia nhau theo dõi các kíp tù khổ sai của Sở Chỉ Tồn, phát hiện
các âm mưu vượt ngục và tổ chức săn duỗi, truy tìm khi có tin báo tù trốn. Toán
nằm bãi rải ra canh gác tất cả các bãi biển ở Côn Đảo. Chúng theo dõi từng dấu
chân trên cát, từng loại cây gỗ nhẹ trên rừng mà tù nhân thường chặt đóng bè,
phát hiện được dấu hiệu tù trốn là lập tức phi báo về trụ sở.
Những người tù vượt ngục không may rơi vào tay bọn này là bị chúng đánh
đập hết sức dã man. Chính tên chủ sở đến chỉ huy cuộc tra tấn, khai thác cách tổ
chức vượt ngục, nơi mua bán, cất giữ các dụng cụ vượt đảo và những người có
liên quan. Sau khi đã hành hạ người tù nhiều lần đến chết đi sống lại, chủ Sở rờsẹc
mới cho trả họ về banh để xếp banh và chúa ngục đày đọa họ vào các “địa ngục” Hầm
đá, Hầm xay lúa và Sở Củi - chuồng bò. Nhưng ngay cả cái chết và những hình phạt
man rợ nhất cũng không ngăn dược các cuộc vượt đảo cửa tù nhân.
Theo báo cáo của Thanh tra thuộc địa, từ năm 1930 đến năm 1935 đã có
3.664 lượt tù Côn Đảo vượt ngục. Hơn 3.000 người bị bắt lại và chịu những hình
phạt khắc nghiệt nhất, còn 444 người đã thoát được ra biển. Chắc chắn rằng
trong hơn 400 người thoát được ra biển ấy đã có nhiều người bị chết chìm trong
biển cả, chỉ có một số ít do may mắn mà về được đến đất liền. Một vài tốp tù
thường phạm đã phải quay trở lại vì bị nhiều đàn cá mập săn đuổi quanh bè.
Mùa gió chướng năm 1930, biết người tù yêu nước Bửu
Đình đang tìm cách vượt ngục, Quản đốc Buviê cho đày Bửu Đình ra Hòn Tre. Một
thân một mình với hai bàn tay trắng trên một hòn đảo chỉ có cây và đá, thế mà Bửu
Đình cũng về được đến đất liền. Trước khi về còn để lại 4 câu thơ châm biếm gửi
chúa đảo Buviê2. Một năm
sau thực dân Pháp bắt được Bửu Đình và lại đày ra Côn Đảo. Buviê đày Bửu Đình một
lần nữa ra Hòn Tre. Thế rồi một tốp tù thường vượt ngục đã ghé Hòn Tre và cho Bửu
Đình cùng về.
Biết bao thử thách hiểm nghèo đặt trước một cuộc vượt ngục của tù Côn Đảo.
Họ có thể bị mạng lưới truy tầm bắt lại và hành hạ; có thể bị giông bão nhận
chìm hoặc gặp sóng lớn và nước xoáy đánh vỡ bè, làm mồi cho cá mập; có thể mất
phương hướng và gió lặng để bè lênh đênh trên biển, hết nước ngọt, hết lương thực
ăn...
Nhiều cảnh thương tâm dã xảy ra trên biển. Dù có quyết tâm cao, chuẩn bị
chu đáo đến đâu, thành công trong vượt đảo vẫn là rất hiếm, sự may mắn trở
thành yếu tố quyết định cho thắng lợi của các cuộc vượt đảo, nhưng tất cả sự đe
dọa và trừng phạt ấy đều không ngăn nổi ý chí vượt ngục của người tù. Nhà tù
Côn Đảo đã là hình phạt tận cùng rồi, chẳng còn gì đáng sợ hơn nữa.
Nhờ gần gũi tù thường phạm, những người cộng sản có điều kiện nghiên cửu
kỹ cách thức vượt ngục. Từ khi chi bộ cộng sản được thành lập (1932), chủ
trương vượt ngục được xác định và được chuẩn bị một cách tích cực. Các đồng chí
ở Nhà bếp, nhà kho tích trữ cơm khô; các đồng chí ở Nhà Thương tìm cách kiếm
thuốc chống nôn, dầu xoa, thuốc bệnh; anh em ở Bản Chế lén sản xuất các loại
cưa, dao, đục, đinh sắt; bộ phận làm ở Nhà Đèn gửi mua thêm lương thực, thực phẩm
và thùng thiếc để đựng nước uống. Đến khi có sáng kiến đóng thuyền, anh em gửi
mua tôn, dầu hắc, vải bạt, búa, đinh, v.v...
Chi bộ lập Quỹ giải phóng để quyên góp tiền ủng hộ các cuộc vượt ngục và
lựa chọn những đồng chí có năng lực lãnh đạo đưa về tăng cường cán bộ cho Đảng.
Những đồng chí án nặng từ chung thân khổ sai đến 20 năm khổ sai được chú ý chọn
trước. Nhiều đồng chí khác đang làm khổ sai, có điều kiện vượt ngục cũng được
giúp đỡ tiền bạc, lương thực, thuốc men và dụng cụ. Nhà Đèn và nhà chú ma tà số
5 thường là nơi cất giấu các phương tiện để cung cấp cho các tốp vượt ngục.
Mùa gió chướng năm 1932, Lương Văn Tụy cùng một số
đồng chí vượt đảo bị vỡ bè hy sinh trên biển. Nhiều tốp cộng sản vượt ngục đã bị
bắt lại, giam trong xà lim và hầm xay lúa. Năm 1933, anh em rút kinh nghiệm tổ
chức đóng thuyền. Các đồng chí Nguyễn Hỡi, Tống Phúc Chiếu... được chỉ định đi
chuyến ấy. Thuyền được đóng trên một sườn núi phía Lò Vôi. Đồng chí Nguyễn Hỡi
đã trốn lên núi, phát cây mở đường để khiêng thuyền xuống. Thuyền được hạ ở mũi
Tàu Bể1
[/color][/sup], vừa ra được hơn một trăm thước thì bị một con sóng lớn
đánh chìm thuyền. Nguyễn Hời đuối sức bị sóng cuốn đi. Hai đồng chí bơi vào bờ
thì không thấy Nguyễn Hời, đồng chí Tống Phúc Chiều bơi ra tìm lần nữa và bị
sóng cuốn đi luôn...
Trở về tiếp tục hoạt động cách mạng luôn luôn là mềm khát vọng của những
người tù cộng sản. Những tổn thất đau đớn không làm nhụt ý chí vượt ngục của họ.
Chi bộ rút kinh nghiệm các cuộc vượt ngục, kiên trì phương án đóng thuyền. Năm
1934, tổ chức Đảng và Hội tù nhân ở các kíp tù khổ sai đã được củng cố. Những
người cộng sản đã giành được quyền điều khiển công việc trong nhiều kíp tù khổ
sai, do đó có thuận lợi hơn trong việc tổ chức vượt đảo. Một số tù thường phạm
có kinh nghiệm đóng thuyền và đi biển được giác ngộ và lựa chọn tăng cường cho
các chuyến vượt ngục sắp tới. Những người biết đóng thuyền được vận động cho ra
làm ở các sở tù bên ngoài, nơi bộ máy trị tù lỏng lẻo hơn cả. Một số đồng chí
được chi bộ trách nhiệm chỉ đạo việc bí mật đóng thuyền. Chi bộ định ngày khởi
hành và lựa chọn, chỉ định từng người trở về trong mỗi chuyến vượt ngục.
Cuối năm 1934, chi bộ tổ chức cho Ngô Gia Tự, Tô Chấn, Lê Quang Sung và
nhiều đồng chí có năng lực lãnh đạo vượt đảo. Chuyến đi được chuẩn bị công phu.
Thuyền đóng bằng gỗ búng, rộng rãi và chắc chắn, hạ thủy vào một đêm nhiều sao,
biển êm, gió nhẹ. Ai cũng hy vọng thành công nhưng trông đợi hết ngày này qua
ngày khác vẫn không nhận được một tin tức gì.
Từ tháng 4-1934 đến tháng 4-1935, chi bộ tổ chức được hai chuyến vượt đảo
thành công. Chuyến đầu gồm các đồng chí: Tống Văn Trân, Vũ Công Phụ, Tạo Gồng,
Toán, Kim, Xuyến và 2 người tù thường (4-1934). Anh em tổ chức đón thuyền ở Đá
Trắng. Khi hạ thủy, thuyền bị rò, anh em phải khắc phục ngay và chặt thêm cây
bó vào 2 bên mạn cho sóng khỏi lật thuyền. Sau 3 ngày 3 đêm, thuyền đã cặp vào
Bến Tre, vùng quê của đồng chí Tạo Gồng. Các đồng chí liên lạc được ngay với Đảng,
một số đồng chí được bổ sung vào cơ quan Xứ ủy Nam Kỳ.
Tiếp sau đó, chuyến vượt ngục của các đồng chí Tạ Uyên, Nguyễn Hữu Tiến,
Phạm Hồng Thám, Trần Quang Tặng... ngày 8-4-1935 cũng thành công, thuyền cập
vào bờ biển Tây Nam Bộ. Các đồng chí cũng bắt liên lạc ngay với Đảng và lao vào
công tác, góp phần khôi phục và củng cố Xứ ủy Nam Kỳ. Các đồng chí Tạ Uyên, Tống
Văn Trân sau trở thành những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Xứ ủy, là những người
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940) và đã hy sinh anh dũng.
Các đồng chí ở Côn Đảo trở về đã báo cáo cụ thể với Xứ ủy Nam Kỳ về sự
ra đời và hoạt động của chi bộ cộng sản ở Nhà tù Côn Đảo; báo cáo những ý kiến
của chi ủy Côn Đảo về tình hình tư tưởng, chủ trương hoạt động cửa những người
cộng sán ở Nhà tù Côn Đảo và đề nghị với Đảng có ý kiến chỉ đạo, phối hợp đấu
tranh chống chính sách khủng bố của thực dân Pháp, đòi ân xá toàn bộ tù chính
trị...
Theo Điều lệ mới mà Đại hội lần thứ nhất của Đảng ta họp ở Ma Cao (1935)
đã bổ sung, chi bộ cộng sản ở Nhà tù Côn Đảo được công nhận là một Chi bộ đặc
biệt dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Kỳ.
Trong những năm 1934-1935, một số đồng chí án nhẹ, mãn án tù Côn Đảo trở
về đều được chi bộ giao nhiệm vụ bắt liên lạc với Đảng, nhờ đó mà giừ được liên
lạc với đất liến. Các đồng chí vượt ngục và mãn hạn trở về đều tìn gặp Xứ ủy
Nam Kỳ và liên lạc ra Côn Đảo.
Cuối năm 1934 đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn từ Nhà tù Côn Đảo trở về đã viết
một loạt bài phóng sự về chế độ tù đày vô cùng dã man ở nhà tù này, đăng liên tục
trên báo La Lutte (Tranh Đấu) từ tháng 10 năm 1934 đến tháng 12 năm 1935. Lần đầu
tiên những tội ác cực kỳ man rợ của thực dân Pháp ở Nhà tù Côn Đảo từ nhiều năm
được bưng bít đã bị vạch trần ngay tại Đông Dương, làm xôn xao cả dư luận tiến
bộ ở Pháp và trên thế giới.
Qua thư từ và cơ sở của Đảng trên các chuyến tàu hàng tháng ra Côn Đảo,
Chi bộ đặc biệt đã cung cấp những tin tức mới nhất về đất liền. Những hành động
tàn ác của bọn gác ngục Pháp và phong trào đấu tranh của tù nhân ở Côn Đảo được
đăng ngay lên báo La Lutte (Tranh Đấu), kèm theo cả những yêu sách đấu tranh và
lời kêu gọi của tù nhân Côn Đảo đã làm cho dư luận trong nước hết sức xúc động
và phẫn nộ. Đảng ta đã tích cực chỉ đạo phong trào đấu tranh đòi ân xá tù chính
trị và vận động quần chúng quyên góp tiền, thuốc men, thực phẩm... gửi ra ủng hộ
tù chính trị ở Côn Đảo.
Để đối phó với dư luận tiến bộ, chính quyền thực dân Đông Dương cho tên chúa
đảo hung bạo Buviê về Pháp nghỉ và điều Cơrêmadi (Crémazy) ra thay. Cơrêmadi đã
già đời trong nghề mật thám ở Đông Dương, nói sõi tiếng Việt, thành thạo nhiều
thủ đoạn mua chuộc, lừa mị. Tết dương lịch năm 1935, trong lúc Cơrêmadi cùng
binh lính và gác dang Pháp linh đình tiệc rượu thì hắn lại “ra ân” cho tù nhân
một con bò già đang bị bệnh. Được biết con bò bị sưng gan, ruột và phổi đầy mủ,
toàn thể tù nhân đã đồng tâm phản đối không ăn. Cuộc tẩy chay vạch mặt thủ đoạn
lừa mị đê tiện của Cơrêmadi đã mở đầu một thời kỳ đấu tranh đồng loạt và quyết
liệt trên đảo.
Ngày 12-2-1935, tàu Méclanh (Merlin) chở ra Côn Đảo 150 giỏ cá khô1
trong đó có 100 giỏ cá thối, lúc nhúc dòi. Đó là thứ cá phế thải mà bọn thầu
cơm tù đã mua tranh của chủ thầu phân bón với giá rẻ mạt. Tù nhân Banh I và
Banh II đều phản đối, kiên quyết không nhận. Đốc tờ Nhã đến kiểm tra cũng xác
nhận là không thể ăn được và yêu cầu loại bỏ số cá thối đó. Quản đốc, Cơrêmadi
phải hứa với tù chính trị Banh II là sẽ trả lại cho nhà thầu 100 giỏ cá thối.
Nói vậy nhưng hắn lại đem phát cho các sở tù khổ sai. Được sự chi đạo thống nhất
của chi ủy, các sở tù Đá Trắng, Sở Tiêu, Sớ Củi - Chuồng Bò... đều phán đối
không nhận cá thối, buộc bọn chúa ngục phải đem đồ làm phân bón.
Chuyến tàu tiếp theo chở ra 150 giỏ cá khô, 50 giỏ cá tốt được phân phát
cho bọn gác ngục, còn 100 giỏ cá thối chúng lại đem cưỡng phát cho các sở tù bất
chấp sự phán đối của tù nhân. Chi bộ đặc biệt quyết định phát động một đợt đấu
tranh rộng lớn trên toàn đảo chống việc cho tù nhân ăn cá khô mục thối.
Ngày 1-3-1935, kíp đốn cây ở Bãi Bàng đấu tranh không nhận cá thối, hai
mươi người bị trả về Banh I, chịu phạt xiềng và ăn cơm nhạt, uống nước lã. Ngày
2-3-1935, năm mươi tù nhân ở Bản Chế và Sở tẩy phản bói cá thối cũng bị phạt xiềng
trong khám 6-7. Buổi chiều hôm ấy hàng trăm tù nhân sở Chỉ Tồn tuyệt thực phản
đối lệnh phạt đối với 70 tù nhân trong khám 6-7. Tên Xếp chánh Cơrítsơchiani
hăm dọa: “Súng của tao sẽ trả lời yêu sách của tụi bay”.
Ngày 3-3-1935, Thống đốc Nam Kỳ ra lệnh cấm cố tất cả những người tù cộng
sản đang làm khổ sai ở Banh I. Quản đốc Cơrêmadi trực tiếp đôn đốc việc cùm xiềng
và cấm cố tù nhân. Một trăm hai mươi người tù cộng sản bị đánh đập dã man, bị
xiềng và cấm cố trong khám 6-7. Chi ủy họp cấp tốc, quyết định tổ chức tuyệt thực
để chặn bàn tay khủng bố của kẻ thù. Đại biểu tù nhân khám 6-7 tuyên bố với xếp
banh nhịn ăn, nhịn uống, đòi tháo xiềng, xóa bỏ cấm cố, đòi chấm dứt việc cho
tù nhân ăn khô mục và đòi không được đánh đập, ngược đãi tù nhân.
Nhịn ăn và nhịn uống cùng một lúc là một hình thức đấu tranh quá cao,
trong khi các nơi chưa kịp phối hợp đấu tranh hưởng ứng và tương quan lực lượng
chưa thuận lợi, nên sau 3 ngày đêm, khám 6-7 chủ trương kết thúc cuộc tuyệt thực.
Mặc dù phần lớn các đồng chí lãnh đạo của chi bộ bị cấm cố, phong trào đấu
tranh chống ăn cá khô mục vẫn phát triển mạnh. Tùy theo tình hình của từng nơi
mà các sở tù nêu thêm nhiều khẩu hiệu cụ thể. Kíp san hô đòi được tắm rửa sau mỗi
ngày làm việc; Hầm xay lúa đòi bỏ xiềng xích; kíp xe bò tiếp tục nêu khẩu hiệu:
“mỗi xe 7 người”. Những sở có đông tù chính trị thì nêu thêm khẩu hiệu: “Chế độ
chính trị cho tù chính trị”, “Tù chính trị phải được đọc sách báo”, v.v... Chi
bộ tích cực chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh tuyệt thực lớn trên quy mô toàn đảo,
kết hợp với các hình thức bãi công, đưa yêu sách.
Khoảng giữa năm 1935, sau 2 chuyến vượt ngục thành công của tù cộng sản,
Quản đốc Cơrêmadi đưa vào cấm cố toàn bộ tù cộng sản đang làm khổ sai ở các sở
ngoài. Hơn 100 người bị giam vào khám 8 và khám 9, một số ít ở khám 10 chung với
tù Quốc dân đảng. Khám 6-7 tập trung nhiều đồng chí có trình độ, trở thành
trung tâm lãnh đạo lúc đó.
Tin Đảng ta công nhận chi bộ cộng sản ở Nhà tù Côn
Đảo là một Chi bộ đặc biệt trực thuộc Xứ ủy Nam Kỳ đã đem đến cho các đảng viên
niềm phấn khởi và tin tưởng ngay giữa lúc ở trong cấm cố, xích xiềng. Chi ủy được
cung cố lại gồm các đồng chí Hồ Văn Long, Phạm Hùng, Nguyễn Công Thương (tức Lê
Văn Lương)... Tờ báo Người tù đỏ ở Banh II được chuyển về Banh I xuất bản ở
khám 6-7 với cái tên Tiến Lên là cơ quan thông tin và tranh đấu của chi bộ.
1. Mỗi giỏ khoảng 50 kg.
Chi bộ khẩn trương chuẩn bị cho cuộc đấu tranh sắp
tới. Một số đảng viên còn lọt lại ở các sở tù bên ngoài là nòng cốt chỉ đạo
phong trào đấu tranh của tù thường phạm ở những nơi này, đồng thời giữ vững
liên lạc với đất liền. Ngày 18-5-1935, khám 6-7 mở đầu đợt đấu tranh đòi xóa bỏ
cấm cố, đòi gỡ bỏ các tấm tôn che trên cửa sổ1, đòi cải
thiện đời sống và không được đánh đập, ngược đãi tù nhân.
Banh II phối hợp đấu tranh, đưa yêu sách đòi cải thiện đời sống, đòi đảm
bảo các quyền lợi của tù chính trị. Cùng thời gian này tên gác ngục Căng tanh
(can tin) coi kíp đốn củi đã hành hung đánh chết 2 tù nhân. Toàn thể tù nhân Sở
Củi - Chuồng Bò và nhiều sở tù khác bỏ việc tổ chức thành từng đoàn kéo về bàn
giấy Xếp chánh đưa yêu sách:
-
Phản đối Căng
tanh giết người.
-
Phản đối đánh
đập và xiềng xích.
-
Cho tù ăn đủ
chế độ và được tắm giặt.
-
Chế độ chính
trị cho tù chính trị.
-
Phản đối chế độ
cấm cố khám 6, 7.
Một bản yêu sách chung của tù nhân Côn Đảo được thảo ra gửi Quản đốc:
-
Cấm chỉ đối xử
dã man, đánh đập, ngược đãi tù nhân.
-
Bớt giờ làm việc
trong ngày..
-
Mỗi năm phát ít nhất 3 bộ quần áo, 3 chiếc chiếu2.
-
Ban đêm phải
thắp đèn trong các khám.
-
Ăn uống phải
được cải thiện, không được cho tù ăn khô mục thối.
-
Mỗi tháng cho
ăn 2 lần thịt bò.
-
Cho một chuyên
viên điều trị bệnh lao phổi vì 75% tù nhân đã mắc bệnh lao phổi.
-
Tù chung thân
phát lưu được quyền sinh sống tự do ở ngoài các “banh”..
Do được chuẩn bị chu đáo và đưa tin trước về đất liền, báo La Lutte đã
đưa tin ngay khi cuộc tuyệt thực nổ ra làm cho bọn thực dân Đông Dương vô cùng
lúng túng. Bọn chúa ngục Côn Đảo tìm mọi cách dụ dỗ những người tuyệt thực. Buổi
sáng chúng pha sữa nóng đem đến, buổi trưa và buổi chiều chúng lại đưa cơm nóng
và thịt vích xào rất thơm vào tận trong khám. Bọn gác ngục hạ giọng năn nỉ anh
em ăn cơm, còn yêu sách thì chúng chỉ hứa quanh co là sẽ nghiên cứu giải quyết.
Khám 8-9 lập tức tuyên bố tuyệt thực hưởng ứng khám 6-7. Các sở tù khổ sai cũng
lần lượt bỏ việc kéo về hưởng ứng như một cuộc tồng đình công, bãi thực. Bọn
chúa ngục vô cùng lúng túng nhưng chúng vẫn ngoan cố chưa chịu chấp nhận yêu
sách. Chi ủy chỉ đạo anh em kiên trì đấu tranh, quyết giành lấy một thắng lợi,
dù nhỏ.
Cuộc tuyệt thực kéo dài đến ngày thứ 9. Hai người hấp hối phải đưa đi cấp
cứu, nhưng vẫn tiếp tục tuyệt thực tại Nhà Thương. Đồng chí Nguyễn Hữu Tiêm kiệt
sức hy sinh...
Đến lúc ấy Quản đốc Carêmadi mới buộc phải chấp nhận yêu sách. Hắn tuyên
bố sẽ không đánh đập tù nhân, không cho tù ăn cá khô mục thối, cho gỡ các tấm
tôn che trên cửa sổ, cho tù nhân 2 khám cấm cố ra chơi mỗi ngày một giờ ở sân
sau khám. Tù cộng sản ở Banh I được “hưởng” chế độ “nửa chính trị”, được mua đồ
dùng ở căng tin mỗi tuần một lần, được nhận thư và quà của gia đình gửi mỗi
tháng một lần, được đọc sách nhưng không được đọc báo.
Cuộc tuyệt thực kết thúc thắng lợi. Đồng chí Mai Ngọc Can đang cấp cứu tại
Nhà Thương chưa biết kết quả nên tuyệt thực thêm một ngày nữa.
Ngay sau khi cuộc tuyệt thực thắng lợi, nhiều đồng
chí còn mệt lả vẫn lao vào công việc. Tờ báo Tiến lên ra ngay một số tường thuật
cuộc tuyệt thực và tổng kết kinh nghiệm đấu tranh. Hưởng ứng cuộc vận động của
chi uy, trên một trăm bản hồi ký viết về cuộc tuyệt thực 9 ngày đã được gửi về
Ban biên tập để đăng trên các số báo Tiến lên tiếp theo3. các đồng
chí trong chi ủy thường làm việc suốt đêm để viết báo cáo và tài liệu gửi về Xứ
ủy Nam Kỳ.
Năm 1935, phong trào cách mạng trong
nước đã được phục hồi, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng ta họp ở
Ma Cao (3- 1935) đã khôi phục hệ thống tổ chức Đảng từ Trung ương đến các cơ sở
trong cả nước. Phong trào đấu tranh của nhân dân lao động Pháp cũng đang phát
triển mạnh nhưng bọn phản động thuộc địa vẫn ráo riết chống lại phong trào cách
mạng. Năm 1935, chúng lựa những người tù thuộc loại “cứng đầu” ở Trung Kỳ đày
luôn ba chuyến ra Côn Đảo. Khu cấm cố Banh I trở thành nơi “tụ hội” của những
người cộng sản Việt Nam ở khắp ba miền Bắc - Trung - Nam.
Đấu tranh đòi Tổng đại xá tù chính trị
Theo sáng kiến của Đảng cộng sản Pháp, tháng 5 năm 1935, tại Pa ri đã tổ
chức một hội nghị chống phát xít với sự tham gia của Đảng cộng sản, Đảng xã hội,
Đảng xã hội Pháp cấp tiến, Tổng công đoàn, Tổng liên đoàn lao động thống nhất
và các đoàn thể quần chúng của các đảng phái nói trên. Hội nghị đã quyết định
thành lập Mặt trận nhân dân chống phát xít và chiến tranh.
Tháng 1 năm 1936, Mặt trận nhân dân công bố cương lĩnh tranh cử của
mình. Bản cương lĩnh đặt lên trên hàng đầu khẩu hiệu Đại xá (Amlistie général)
trong đó có vấn đề ân xá tù chính trị ở Đông Dương. Cuộc vận động thành lập Mặt
trận dân chủ của Đảng cộng sản Đông Dương cũng phát triển sôi nổi. Toàn quyền
Đông Dương xoa dịu dư luận bàng cách ân xá 6 tù chính trị ở Côn Đảo (1-1936) và
sau đó giảm án cho 15 người khác, phần lớn từ án chung thân xuống 20 năm cấm cố;
một vài người được giảm xuống 15 năm.
Nắm được tình hình trong nước và trên thế giới đang có bước phát triển lớn,
Chi bộ đặc biệt Banh I và Ban lãnh đạo Banh II đã động viên anh em ra sức học tập
nâng cao trình độ để có dịp trở về hoạt động được nhiều hơn cho Đảng.
Tết âm lịch năm 1936, đại biểu tù nhân khu cấm cố Banh I gửi kiến nghị
lên Quản đốc đòi được mở cửa khám, được đi lại tự do trong banh vui chơi 3 ngày
Tết. Cơrêmadi phải chấp nhận. Chi bộ đặc biệt chỉ đạo tổ chức vui Tết cho anh
em phấn khởi, nhằm bồi dưỡng ý chí chiến đấu. Bản hịch Banh I trình bày vở kịch
Tết của ai và vở tuồng Xã hội đồi bại được khán giả tù và ma tà hoan nghênh nhiệt
liệt.
Bọn phản động thuộc địa vẫn ráo riết chống lại phong trào cách mạng đang
dâng cao. Đầu năm 1936, tên bạo chúa Buviê được điều từ Pháp sang nhận lại chức
Quản đốc Nhà tù Côn Đảo. Buviê ra lệnh tước hết những quyền lợi mà tù nhân đã
giành được trong các cuộc đấu tranh dưới thời Quản đốc Cơrêmadi (1935). Bọn gác
dang được lệnh đàn áp thẳng tay.
Một buổi, tù nhân Sở Chi Tồn (lúc này hầu hết là tù thường phạm) làm khổ
sai về sớm hơn thường ngày. Xếp Banh I cho gác dang chặn tù ngay trước cổng
banh đánh đập tàn nhẫn, hơn trăm người tù thường phạm quằn quại dưới ngọn roi
tàn bạo. Tiếng kêu la của họ thảm thiết và uất hận. Lập tức hàng trăm người tù
cộng sản trong khu cấm cố Banh I bật dậy hò la phản đối:
Tù chính trị ở Banh II cũng phẫn nộ thét vang các khẩu hiệu phản đối bằng
tiếng Pháp:
-
Đả đảo Cơrítsơchiani!1.
Buviê giận tím mặt, hắn ra lệnh khủng bố thẳng tay.
Bọn gác dang bỏ đám tù thường phạm, mở kho khiêng gần chục cần xé mây cà vông2 vào các khám tù Cộng sản. Thế rồi mỗi tên rút một,
hai khúc mây xông vào quật thẳng cánh lên đầu tù nhân. Đánh đến nát khúc mây,
chúng lại rút khúc khác đánh tiếp. Chúng đánh từ cửa khám cho đến khi dồn hết
tù nhân vào trong góc khám. Nhiều tên mỏi tay ngồi thở hồng hộc rồi xông vào
đánh nữa. Đánh nát hết mấy cần xé mây cà vông, cả bọn mới mệt mỏi và lặng lẽ
kéo nhau ra.
Anh em tù nhân lập hàng rào từ cửa khám đỡ đòn cho nhau. Cuối cùng tất cả
bị dồn vào góc tường, chồng chất lên nhau thành một đống. Lớp thanh niên trẻ nằm
trên cùng, da thịt rách nát, vết roi mây nổi lằn bầm tím cả người. Khi bọn quỷ
sứ rút ra rồi, cả khám tù lặng đi, xác roi mây dập nát ngổn ngang trong khám.
Anh em tù ngồi dậy, tất cả ngó nhau cùng cười. Máu của những anh em trẻ còn nhuộm
thành vệt đỏ trên mái tóc điểm bạc của đồng chí Tôn Đức Thắng. Nhiều đồng chí bị
đánh nát cả lưng, hàng tháng trời không nằm được, phải ngồi dựa vào nhau.
Chi bộ đặc biệt quyết định phát động một phong trào đấu tranh mạnh mẽ chống
chế độ tàn bạo của tên Quản đốc Buviê và đòi đại xá tù chính trị. Hai tờ báo ý
kiến chung và Tiến lên tích cực vận động cho cuộc đấu tranh sắp tới. Đối với tù
thường phạm, chi bộ vận động nêu các khẩu hiệu:
-
Đòi không được
đánh đập, ngược đãi tù nhân.
-
Đòi cải thiện
bữa ăn hàng ngày, bỏ cá khô mục.
Riêng tù chính trị nêu các yêu sách:
-
Thả hết tù
chính trị. Trong lúc chưa thả thì thi hành ngay chế độ tù chính trị, đưa toàn bộ
tù chính trị về đất liền để cho gia đình được thăm hỏi.
-
Bãi bỏ cấm cố,
bỏ xiềng chân tay.
-
Cải thiện bữa
ăn hằng ngày, không ăn khô mục.
Hình thức đấu tranh là đưa yêu sách, nếu địch khủng bố thì sẽ bãi thực,
hò la phản đối; các sở tù khổ sai sẽ phối hợp đấu tranh bằng cách bỏ việc. Toàn
đảo lập ủy ban tranh đấu, mỗi banh lập một Ban tranh đấu, các khám đều tổ chức
các đội tự vệ để chống khủng bố.
Ngày 18-3-1936, đồng chí Phạm Hùng đưa yêu sách của tù nhân Banh I cho
Quản đốc. Buviê xổ ngay một tràng chửi rủa thô tục rồi ra lệnh cho tay chân:
“Đánh thắng cánh. Nhốt hầm. Đấy chính là quyền lợi của chúng nó ở được hưởng ở
Côn Lôn”.
Bọn gác dang rút những khúc mây cà vông xông vào khám 6-7 đánh túi bụi
và bắt đồng chí Phạm Hùng giam xuống xà lim. Đội tự vệ khám 6-7 câu tay thành
hàng rào chắn trước cửa khám đỡ đòn và bảo vệ cho các đồng chí ở phía trong. Tất
cả tù nhân Banh I dồn ra các của khám thét vang:
-
Đả đao Buviê!
Đả đảo khủng bố!
Anh em Banh II cũng đổ ra các cửa lớn, leo lên các cửa sổ hô khẩu hiệu
“đả đảo”, “phản đối” vang cả đảo. Quản đốc Buviê trực tiếp chỉ huy cuộc đàn áp.
Bọn gác dang xông vào đánh hết đám này đến đám khác. Tù nhân Khâu (số tù 5930)
bị đánh chết ngay tại chỗ. Hàng trăm người bị thương ở đầu, gãy tay, phải đưa
ra nhà thương băng bó rồi giam riêng ở khám 10. Số tù nhân Việt Nam Quốc dân đảng
ở khám 10 không dám đấu tranh, sợ bị khủng bố lây đã xin với xếp banh cho chuyển
qua khám khác.
Tù nhân Banh I tuyên bố tuyệt thực phản đối khủng bố và đòi các quyền lợi
chính đáng đã ghi trong yêu sách. Cuộc tuyệt thực kéo dài 9 ngày ở các khám tù
cấm cố, 6 ngày ở một số khám tù khổ sai. Các sở tù đều nghỉ việc để hưởng ứng.
Cuộc đàn áp đẫm máu của Buviê sau đó đã được báo Le Lutte đưa tin và bị
dư luận tiến bộ công phẫn lên án. Thống đốc Nam Kỳ buộc phải chỉ thị cho Quản đốc
Côn Đảo cải thiện chế độ nhà tù, không được để cho dư luận coi bọn chúng như bọn
người buôn nô lệ châu Phi. Buviê đành phải chấp nhận phần lớn yêu sách của tù
nhân. Riêng yêu sách đòi ân xá tù chính trị hắn hứa sẽ chuyển lên Thống đốc Nam
Kỳ và Toàn quyền Đông Dương.
Được tin Mặt trận nhân dân Pháp giành thắng lợi lớn trong cuộc bầu cử Quốc
hội Pháp ngày 3-5-1936. Chi bộ đặc biệt quyết định tiến thêm một bước nữa. Ngày
28-5-1936, chi ủy thảo yêu sách gửi Thống đốc Nam Kỳ, Bộ trưởng Bộ thuộc địa và
Thủ tướng Pháp đòi đại xá tù chính trị. Ngày 11-6-1936, một cuộc bãi thực, lãn
công lại nổ ra trên toàn đảo để nhắc lại các yêu sách ngày 28-5-1936 đòi tổng đại
xá.
Cuộc vận động thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương của Đảng ta cũng
phát triển rầm rộ, hàng chục vạn tờ truyền đơn xuất hiện trong cả nước. Qua báo
chí tiến bộ, Đảng ta đã đưa ra 12 yêu cầu tự do dân chủ trong đó có vấn đề tự
do cho tù chính trị.
Tháng 6-1936, Chính phủ phái tả của Mặt trận nhân dân lên cầm quyền ở
Pháp do Lông Bơ lum (Lon Blum), lãnh tụ Đảng xã hội làm Thủ tướng và Mariuýt Mu
tê (Marius Moutet), đảng viên Đảng xã hội làm Bộ trưởng Bộ thuộc địa. Ra đời
trong lúc phong trào nhân dân đấu tranh chống phát xít lên cao, Chính phủ Pháp
buộc phải thi hành một số quyền lợi cho quần chúng lao động ở trong nước và các
thuộc địa theo cương lĩnh của Mặt trận nhân dân Pháp. Ngày 14-7-1936, thực dân
Pháp tập trung hơn 90 tù chính trị ở Côn Đảo về khám 10 Banh I, chuẩn bị đưa về
Sài Gòn đòi ân xá.
Giữa lúc đó Chi bộ đặc biệt nhận được bản báo cáo của đồng chí Manuinxki
(Manouinsky) tại Đại hội của Đảng bộ thành phố Lêningrát về những vấn đề cơ bản
của Đại hội lần thứ 7 Quốc tế cộng sản cùng tạp chí Thư tín quốc tế, cơ quan
thông tin của Quốc tế cộng sản.
Bản báo cáo của đồng chí Manuinxki đã phân tích sâu sắc bản chất và nguy
cơ của chủ nghĩa phát xít, đề ra mục tiêu trước mắt của giai cấp vô sản, không
phai lựa chọn giữa nền chuyên chính vô sản và dân chủ tư sản mà phải lựa chọn
giữa nền dân chủ tư sản hay chủ nghĩa phát xít; nhiệm vụ cấp bách của giai cấp
vô sản lúc này là phải tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt giai cấp,
tôn giáo, xu hướng chính trị, để lập Mặt trận nhân dân rộng rãi, đấu tranh chống
chủ nghĩa phát xít và chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hòa bình.
Ngay đêm 14-7-1936, Chi bộ đặc biệt phổ biến ngay nội dung nghị quyết Đại
hội lần thứ 7 Quốc tế cộng sản đến khám tù chính trị chuẩn bị được ân xá. Chi bộ
còn truyền đạt cho Banh II và tổ chức cho toàn thể đảng viên ở Banh I học tập, nghiên
cứu nội dung, nghị quyết mới nhất của Quốc tế cộng sản đối với phong trào cách
mạng thế giới.
Trong vòng 4 tháng cuối năm 1936 đã có hơn 500 tù
chính trị ở Côn Đảo được trả lại tự do trong đó có đến một nửa là đảng viên cộng
sản, chiếm khoảng 50% số tù chính trị ở được ân xá lúc đó1. Lớp đảng
viên cộng sản ở tù ra, nhất là số đảng viên từ Côn Đảo trớ về là một nguồn cán
bộ quý của Đảng. So với 6 năm trước, khi Đảng ta ra đời, hàng trăm đảng viên từ
Nhà tù Côn Đảo về đã trưởng thành về lý luận, dày dạn trong đấu tranh cách mạng
và nắm được sự chỉ đạo mới nhất của Quốc tế cộng sản đối với phong trào cách mạng
thế giới.
Mặc dù nhiều đồng chí mang bệnh nặng sau những năm bị đày ải và bị đánh
đập tàn nhẫn ở Côn Đảo, nhiều đồng chí bị tan nát gia đình bởi sự khủng bố đê
hèn của chính quyền thực dân, tuyệt đại bộ phận tù cộng sản được trả lại tự do
đều lao vào hoạt động.
Quá trình học tập, nghiên cứu lý luận Mác-lênin trong nhà tù đã củng cố
lập trường giai cấp và lòng tin vững chắc vào thắng lợi của lý tưởng cách mạng.
Những cuộc đấu tranh một mất một còn chống chế độ đày ải man rợ trong tù đã tôi
luyện ý chí và bản lĩnh cách mạng cho những người cộng sản. Vì thế mà chính
sách của kẻ thù không tiêu diệt được những người cộng san mà trái lại, họ trở
nên “cứng như sắt, vững như đồng”.
Đội ngũ cán bộ này đã tăng cường cả về số lượng và chất lượng lãnh đạo
cho Đảng ta, vừa đúng lúc Đảng ta nắm được thời cơ, phát động cao trào Mặt trận
dân chủ Đông Dương sâu rộng, hiếm có ở một nước thuộc địa. Trong khi đó thì
hàng trăm đáng viên Việt Nam Quốc dân đảng cùng về một lượt chi có vài người tiếp
tục hoạt động cách mạng trở lại. Đó là những người đã chuyển hẳn sang hàng ngũ
cộng sản, còn tuyệt đại bộ phận đảng viên Quốc dân đảng nằm im, không hoạt động
chính trị nữa.
Bằng vốn lý luận và những kinh nghiệm hoạt động đã được tổng kết trong
nhà tù, những người cộng sản đã thể nghiệm thành công trên nhiều lĩnh vực hoạt
động như củng cố, xây dựng cơ sở Đảng; tổ chức quần chúng; tổ chức mít tinh, biểu
tình, diễn thuyết, làm báo công khai... Có những đồng chí trước kia là công
nhân, nông dân mà nay ở tù về diễn thuyết rất hay, biết phân tích tình hình thế
giới, tình hình Đông Dương và xu thế cách mạng tất yếu của thời đại làm cho quần
chúng khâm phục và tin tưởng.
Nhiều đồng chí đã trở thành những cán bộ lãnh đạo xuất sắc của Đảng ta
trong cao trào Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939) như Nguyễn Văn Cừ, Hoàng
Quốc Việt, Lê Quẩn, Nguyễn Chí Diều, Ung Văn Khiêm, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Văn
Linh, Hà Huy Giáp, Trần Huy Liệu... Đồng chí Nguyễn Văn Cừ được cứ vào Ban Thường
vụ Trung ương (3-1938) và sau đó giữ chức Tổng bí thư của Đảng.
Nhà tù đế quốc không tiêu diệt được ý chí của những
người cộng sản. Những người cộng sản đã đấu tranh đòi quyền sống và biến nhà tù
đế quốc thành nơi đào tạo rèn luyện cán bộ cung cấp cho Đảng. Sau này, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Biến cái rủi thành cái may, các đồng chí của ta đã lợi
dụng những ngày tháng ở tù để hội họp và học tập lý luận. Một lần nữa, việc đó
chứng to trung chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng nhưng không
ngăn trở được bước tiến của cách mạng mà trái lại, nó đã trở nên một thứ lửa thử
vàng, nó rèn luyện cho người cách mạng thêm cứng rắn, và kết quả là cách mạng
đã thắng, đế quốc đã thua”2.
Quản đốc Buviê hằn học nhìn từng đoàn tù xuống tàu về đất liền. Tại cầu
tàu, hắn đã chỉ vào những người tù Quốc dân đảng và nói với anh em tù cộng sản:
“Đáng lẽ chỉ cho những người này về. Các anh về nguy hiểm lắm!”. Trước đó,
Buviê đã hậm hực ghi vào hồ sơ của đồng chí Phạm Văn Đồng: “Đừng có đưa người
tù này về xứ sở của nó. Việc thả nó ra sẽ trở thành một nguy cơ cho Nhà nước”.
Không đầy 10 năm sau, chính những người tù này đã tham gia lãnh đạo cuộc
Cách mạng tháng Tám (1945), lật đổ ách thực dân gần 100 năm của chúng.
Thắng lợi của phong trào Mặt trận nhân dân Pháp và phong trào Mặt trận
dân chủ Đông Dương đã làm giảm hẳn số lượng tù chính trì ở Côn Đảo. Năm 1937,
nhà ngục Côn Đảo còn 2.018 tù nhân, trong đó có khoáng 200 là tù chính trị. Qua
báo chí tiến bộ, Đảng ta đã nhiều lần đòi Chính phủ Pháp phải lập tức trả lại tự
do cho tất cả tù chính trị mà chúng còn giam giữ ở Côn Đảo và các nhà tù khác ở
Đông Dương.
Chính quyền thực dân Đông Dương tìm mọi lý do để không thả những người
tù còn lại. Tuy vậy chúng cũng buộc phải giảm án và để cho tù nhân được hưởng
những quyền lợi mà họ đã đấu tranh giành được trong những năm 1934 - 1936.
Chế độ nhà ngục Côn Đảo căn bản không thay đổi. Banh II lúc ấy còn hơn
100 tù chính trị, trong đó có gần 20 đảng viên cộng sản. Anh em cộng sản vẫn tiếp
tục nghiên cứu sâu nhiều vấn đề của chủ nghĩa Mác-lênin. Phần lớn số đảng viên
Quốc dân đảng còn ở lại đã giác ngộ chủ nghĩa cộng sản. Phái cực đoan còn vài
tên. Bọn này lâu lâu lại kiếm chuyện gây gổ, nhưng trước sự đoàn kết nhất trí
cao của tù chính trị cộng sản và không được quần chúng Quốc dân đảng đồng tình
nên chẳng bao giờ chúng thực hiện được ý đồ xấu. Một số anh em Quốc dân đảng
xin sang ở không và sinh hoạt với những người cộng sản.
Banh I khi ấy còn khoảng 40 đảng viên cộng sản vẫn bị cấm cố trong khám
6. Một số đồng chí khác ở chung với thường phạm trong một vài sở tù khổ sai.
Chi bộ đặc biệt được củng cố lại. Đồng chí Nguyễn Duy Trinh là Bí thư, chi ủy
có các đồng chí Hồ Văn Long, Phạm Hùng, Nguyễn Công Thương (Lê Văn Lương)... Tổ
cố vấn không còn nữa.
Hội tù nhân cũng được củng cố lại, đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch Hội.
Phối hợp với phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương đang phát triển mạnh trong
nước, ngày 2-2-1937, Chi bộ đặc biệt thảo một bức thư gửi Toàn quyền Đông Dương
phản đối chế độ nhà tù hà khắc, đòi tổng đại xá, đòi các quyền tự do dân chủ và
tự do triệu tập Đông Dương đại hội.
Các đồng chí từ Nhà tù Côn Đảo trở về hoạt động trong phong trào Mặt trận
dân chủ (1936 - 1939) đã gửi ra Côn Đảo nhiều báo chí công khai lúc đó như Tin
tức, Nhành Lúa, La Lutte (Tranh đấu), No tre Voi (Tiếng nói của chúng ta), Le
humanité (Nhân đạo, cơ quan Trung ương của Đảng cộng sản Pháp), tạp chí Thư tín
quốc tế... Đây là thời kỳ mà Chi bộ đặc biệt nhận được nhiều báo chí và tin tức
tài liệu, có điều kiện tổ chức học tập, nghiên cứu sâu sắc nhiều vấn đề lý luận,
chính trị, thời sự cũng như đường lối và sách lược đấu tranh của Đảng ta.
Giữa năm 1937, bức thư của đồng chí Nguyễn Chí Diễu gửi ra Côn Đảo thông
báo chính sách mới và phương châm tổ chức mới của Đảng đã đem lại một không khí
hết sức phấn khởi cho anh em. Chi bộ đặc biệt đã tổ chức nghiên cứu một cách
nghiêm túc chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân chống phát xít của Quốc tế cộng
sản và chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương của Đảng ta: Vấn đề
Sách lược đấu tranh được thảo luận sôi nổi và vận dụng vào hoạt động trong tù.
Các hình thức đấu tranh được áp dụng một cách mềm dẻo hơn. Trước đây thường
đấu tranh trực diện, nay được phối hợp nhiều hình thức, kể cả kiến nghị, gây dư
luận, vận động, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của những người trong hàng ngũ
địch, phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù chủ yếu...
Năm 1938, đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ
Liên Xô trở về hoạt động ở Trung Quốc. Đồng chí đã có ý kiến chỉ đạo Đảng ta
lúc này không nên nêu những khẩu hiệu quá cao mà phải đấu tranh cho những quyền
lợi cấp thiết ở xứ thuộc địa, “đòi các quyền dân chủ, tự do tổ chức, tự do hội họp, tự do báo chí và tự do ngôn luận, đòi ân
xá toàn thể chính trị phạm”1.
Tờ báo Dân chúng, cơ quan ngôn luận công khai của Đảng cộng sản Đông
Dương lúc đó đã vạch trần những thủ đoạn giả dối của Bộ trưởng thuộc địa Mu tê
(Marius Moutet) và bọn phản động thuộc địa đang chống lại chương trình của Mặt
trận nhân dân Pháp; tố cáo bọn chúng còn giam giữ nhiều người cộng sản như Nguyễn
Lương Bằng, Phạm Quang Lịch... ở Sơn La; Tôn Đức Thắng, Nguyễn Duy Trinh, Phạm
Hùng, Nguyễn Công Thương... ở Côn Đảo.
Báo Dân chúng đưa lại nhiều tin và bài của báo La Défense (Bảo vệ, cơ
quan ngôn luận của Hội cứu tế nhân dân Pháp), phản ánh phong trào đấu tranh sôi
nổi của nhân dân lao động Pháp đòi thả hết tù chính trị ở Đông Dương.
Bọn chúa ngục Côn Đảo vẫn bắt tù nhân đập đá, mở thêm các lộ giao thông,
mở tuyến đường sắt từ Bản Chế lên Sở Củi và Sở Đá dưới chân Núi Chúa. Trong lúc
kíp xe bò chuyên chở củi và vật liệu vẫn được chấp nhận 7 người đẩy một xe, mỗi
ngày 3 chuyến thì đột nhiên ở kíp làm đường sắt, bọn gác dang bắt mỗi xe 2 người
và bắt đi 6 chuyến trong buổi sáng. Nhóm cộng sản trong kíp làm đường sắt đã
lãnh đạo một cuộc đấu tranh bằng hình thức lãn công. Buổi sáng ấy kíp tù chỉ đi
3 chuyến. Hết giờ, bọn gác dang quất roi túi bụi, bắt đi cho đủ 6 chuyến. Giữa
trưa, mọi người làm càng uể oải, bọn chúng đánh cả kíp một trận tơi bời rồi phạt
hầm những người cầm đầu.
Từ cuối năm 1938, nguy cơ chiến tranh thế giới đã đến gần. Chính phủ
Pháp do Đalađiê (Daladier thuộc Đảng xã hội cấp tiến) đứng đầu ngày càng ngả về
phía hữu. Giai cấp tư sản Pháp ráo riết chuẩn bị tấn công vào Đảng cộng sản và
quần chúng lao động. Chính quyền thuộc địa Đông Dương cũng bắt đầu trở mặt, bắt
bớ, khủng bố những người hoạt động trong phong trào Mặt trận dân chủ Đông
Dương.
Bọn chúa ngục Côn Đảo ngày càng lì lợm. Mỗi lần tù nhân đấu tranh chúng
chỉ nhượng bộ những yêu sách nhỏ như bớt việc khổ sai, cho tắm giặt, cho mua
thuốc hút... Chi bộ đặc biệt vẫn theo dõi sát tin tức, tình hình, củng cố tổ chức
và chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh sắp tới Lợi dụng mỗi lần bọn gác ngục điều
động tù nhân, chi bộ lại vận động cho một số đảng viên được nhận vào làm ở các
kíp Nhà bếp, Sở tẩy, Bản Chế, Nhà Thương, Sở Lưới, Nhà Đèn và một số sở
ngoài. Nhờ đó mà chi ủy trong cấm cố vẫn
nắm được tin tức hàng ngày trên đảo, liên hệ được với các cơ sở và liên lạc được
với Xứ ủy Nam Kỳ.
Trong lúc tình hình ở Đông Dương và ở Pháp đang xấu
dần đi, những người cộng sản ở Côn Đảo tích cực chuẩn bị các mặt tư tưởng và tổ
chức để bước vào một thời kỳ đấu tranh mới, trong điều kiện có thể sẽ gay go và
quyết liệt hơn.
1.
số liệu của Thanh tra thuộc địa Pháp. Theo tài liệu
của Viện Lịch sử Đảng.
2.
Số liệu của Thanh tra thuộc địa Pháp. Tài liệu đã dẫn.
3.
Nguyên văn. “Không dẹp xong cộng sản, Pasquier này
sẽ không nhìn thấy sông Xen (Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nan, Nxb
sách giáo khoa Mác-lênin. H. 1983 tập 1, tr. 99). Pasquier là viên Toàn quyền
Đông Dương đầu tiên xuất thân từ ngạch quan cai trị thuộc địa, đã từng làm công
sứ tỉnh Thanh Hóa, khâm sứ Trung Kỳ, nôi tiếng là “tên đao phủ của cách mạng
Dông Dương”. Pasquier bị chết trong một tai nạn máy bay, giữa tháng một năm
1934, trên chặng đường cuối cùng từ Liông (Lyon) tới Pari (Paris). Cộng sản
Đông Dương thì không tiêu diệt được mà sông Xen cũng không được nhìn thấy lần
cuối.
1.
Ma tà còn gọi là thầy chú. Bọn Pháp không gọi tên từng
người mà gọi theo số hiệu, vì thế tù nhân cũng gọi họ theo số hiệu, ví dụ: chú
số 4, chú số 5...
2.
Quy chế Nhà tù Côn Đảo không cho phép tù nhân giữ
nhiều tiền nên anh em phải tìm nơi tin cậy để gửi. Cô Bảy là người “thủ quy”
tín nhiệm, có lúc giữ đến 200 đồng (tương dương 10 lượng vàng) mà không khi nào
mất mát. Về sau bọn Pháp phát hiện sự liên hệ của gia đình này với tù chính trị.
Cả gia đình này bị trục xuất về đất liền cùng gia đình các chú ma tà số 10, số
4. Chú số 4 và chú số 10 tham gia kháng chiến và hy sinh. Cô Tám, em chú số 5
cũng tham gia kháng chiến và bị Pháp bắt tù mấy năm.
3.
Lang Kiều sinh trưởng ở Cao Lãnh, nổi tiếng là thần
đồng về
Đông y từ năm 17 tuổi, bị án 20 năm khổ
sai trong vụ đánh cướp tàu Nguyễn Văn Kiệu, làm “kinh tế mạo hiểm”, lấy của nhà
giàu tài trợ cho cách mạng.
1.
Áp dụng thủ đoạn “lấy tù trị tù bọn chúa ngục chọn
trong đám tù thường phạm những tên “anh chị nhất, cứ ra coi tù giúp việc gác
dang, ma tà. Cặp rằng là cách phát âm từ “caporal trong tiếng Pháp, của tù
nhân. Trong sách báo ta cũng gặp từ “caplan để chỉ những người làm cặp rằng.
2.
Một đơn vị quân đội viễn chinh Pháp gồm những người
thuộc quốc tịch khác nhau đi lính đánh thuê, nổi tiếng hung ác.
1.
Tức là những đại diện của tù nhân trực tiếp quan hệ
với gác ngục, “ngoại giao” là cách gọi của anh em tù lúc đó.
2.
Trần Huy Liệu. Phấn đấu để trở nên một đảng viên cộng
sản. Tập san “Nghiên cứu Lịch sử” số 10 tháng 1-1960, tr.81.
3.
Tham gia cuộc vượt ngục có Nguyễn Phương Thảo (sau
này là Trung tướng Nguyễn Bình).
1.
Mũi Tàu Bể ở phía đông bắc thị trấn Côn Đảo, đối diện
với Hòn Bảy Cạnh. Vào mùa gió chướng, luồng nước chảy giữa Hòn Cau, Hòn Bảy Cạnh
và Côn Đảo qua đây rất xiết: có lần đã xô một chiếc tàu buôn vào vách đá làm vỡ
tàu, do đó mà có tên mũi Tàu Bẽ (tiếng địa phương Nam Bộ: bễ là vỡ).
1.
Bọn chúa ngục cho bịt tất cả các cửa sổ ở Banh I bằng
các tấm tôn có trồ lỗ nhỏ li ti làm cho khám giam càng thêm tối tăm, ngột ngạt.
2.
Quần áo tù nhân được may bằng thứ vải rất xấu, chỉ
mặc vài ba tháng là rách. Tù nhân làm khổ sai không đủ quần áo mặc.
3.
Bài của đồng chí Nguyền Văn Trí được giải nhất, sau
anh em đưa về xuất bản ở Nam Định trong thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương
(1936-1939). Sách ra được 3 ngày thì bọn mật thám tịch thu, đốt hết.
1.
Cơrítsơchiam là Xếp chánh, từng chỉ huy nhiều cuộc
đàn áp đẫm máu tù nhân.
2.
Một loại mây to, còn gọi là mây tầm vông, thân cứng,
ruột đặc có nhiều ở Côn Đào và rừng miền Đông Nam Bộ. Bọn chúa ngục thường chặt
khúc đem về dùng vào việc đánh đập tù nhân. Cần xé là tiếng địa phương miền Nam
chỉ loại sọt lớn đan bằng tre.
1.
Service de Recherche, tù nhân thường gọi là rờsẹc tức
là Sở truy tầm.
2.
Bài thơ này được truyền miệng trong anh em tù chính
trị như sau:
“Ai về nhăn nhủ chú Buviê
Chú ở lại đây, tớ sẽ về
Chim đã sổ lồng bay thẳng cánh
Trời cao, đất rộng, nước non quê”.
1.
Theo số liệu công bố trên báo chí đương thời: tháng
7-1936, 92 tù chính trị Côn Đảo được đưa về Hải Phòng, tháng 10-1936, 292 tù
chính trị Côn Đảo được đưa về Hà Nội; 500 tù chính trị Côn Đảo được đưa về Sài
Gòn để chuẩn bị ân xá. Trong hai năm 1936-1937 có khoảng 1.100 tù chính trị ở
Đông Dương đã được ân xá.
2.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập II, Nxb Sự Thật, N.1980,
tr. 147.
1. Hồ Chí Minh - Toàn tập, tập 1, Nxb Sự Thật, N. 1980, tr.
318.
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Ngày 3-9-1939 Anh, Pháp
tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ. Bọn cầm quyền Đông
Dương lập tức tước bỏ tất cả các quyền 'tự do dân chủ, đóng cửa các báo chí tiến
bộ, mở các cuộc vây ráp, bắt bớ hàng trăm cán bộ đảng viên hoạt động bí mật và
công khai của Đảng. Chúng mở các tòa án quân sự để xử những người cách mạng và
lập thêm nhiều trại tập trung mới như Bá Vân, Bắc Mê, Nghĩa Lộ ở miền Bắc; Đắc
Lây, Đắc Tô, Trà Kê ở miền Trung và Tài Lài, Bà Rá ở miền Đông Nam Bộ để đàn áp
phong trào cách mạng.
Bọn chúa ngục Côn Đảo tước bỏ các quyền lợi mà tù nhân đã đấu tranh
giành được. Chúng cấm đọc sách báo, cấm hội họp, bớt khẩu phần ăn hàng ngày...
Giữa năm 1940, thực dân Pháp đày nhiều tù chính trị vừa bị bắt ra Côn Đảo.
Không khí khủng bố ngày càng nặng nề. Những người tù “cứng đầu” ở Banh I bị tập
trung về khám Vagông (Wagon: goòng) chuyên san cồn cát, lấp ao hồ dưới ngọn roi
của những tên gác ngục thuộc loại gian ác như Tút tu (Toustou), Sốtxiđie
(Chaussidière). Mỗi lần tàu chở hàng ra đảo là khám Vagông bị điều đi dọn tàu.
Khám Vagông thành một nơi đày đọa khủng khiếp và là một khám đi đầu trong phong
trào đấu tranh trong thời kỳ này.
Khám Vagông có khoảng 100 tù nhân thì có đến 70 tù thường phạm loại “anh
chị”. Khoảng 30 tù chính trị còn lại thì quá nửa là Quốc dân đảng, anh em tù cộng
sản chỉ có hơn 10 người. Nhờ quá trình hoạt động trong nhiều năm, Chi bộ đặc biệt
dã giáo dục, cảm hóa được nhiều người tù thường phạm và một số đảng viên Việt
Nam Quốc dân đảng cho nên đã hình thành được sự hợp tác cần thiết làm chỗ dựa
cho Hội tù nhân.
Hội tù nhân tổ chức ra Ban trật tự, Ban trật tự ngoài1, Ban học tập, Ban
vệ sinh, Ban cứu tế... Tô Thúc Rịch, đại diện cho anh em tù cộng sản và Thanh
Giang, đại diện cho anh em tù Quốc dân đảng ở khám Vagông thường gặp gỡ thảo luận
với nhau về hình thức, phương pháp, mức độ đấu tranh và chỉ dạo chung trong
khám. Ban trật tự lo bố trí công việc cho phù hợp với sức khỏe từng người, quy định
mức độ làm việc sao cho vừa sức tù nhân và cùng với Ban trật tự ngoài đấu tranh
với gác dang, ma tà, không để chúng hạch sách, đánh đập tù nhân.
Ban học tập tổ chức cho tù nhân học tập, xóa nạn mù chừ cho tù thường phạm
và tổ chức học thêm các môn văn hóa, ngoại ngữ cho tất cả tù nhân trong khám. Đồng
chí Tô Thúc Rịch truyền đạt lại chương trình lý luận Mác-lênin mà đồng chí đã
được học tại Côn Đảo trong những năm trước đó cho cán bộ đảng viên và những quần
chúng cảm tình. Đồng chí Lang Kiều sau nhiều năm nghiên cứu và chữa bệnh bằng
thuốc Nam cho tù nhân đã nhờ anh em ghi chép lại nhiều bài thuốc hay và gửi về
đất liền qua đường dây bí mật để trị bệnh cho đồng chí, đồng bào.
Ban vệ sinh lo việc giữ gìn vệ sinh trong khám và
phổ biến kinh nghiệm giữ gìn sức khỏe, phòng chống bệnh tật cho anh em. Ban cứu
tế chăm sóc những người yếu đau, bệnh tật và giúp đờ những người có khó khăn.
Tù nhân mới ra đảo đều được Ban cứu tế chăm sóc, thường nhận được khi thì một
cái nón (mũ), một cuộn chỉ, có khi cả một bộ quần áo tù. Sau một thời gian thử
thách, tù nhân được nghiên cứu chương trình, điều lệ của Hội tù nhân. Ai thừa
nhận và tích cực hoạt động theo chương trình điều lệ sẽ được kết nạp vào hội. Tất
cả các khám có tù cộng sản đều được tổ chức như vậy. Nhà bếp, Sở tẩy vẫn là
trung tâm liên lạc và cứu tế cửa cả banh, thông qua đó mà chi bộ nắm tình hình
và chỉ đạo hoạt động của các khám tù.
1. Ban trật tự còn gọi là trật tự trong, là đại diện của tù nhân khám,
được cử ra đề quàn lý, điều hành công việc của tù nhân, còn trật tự ngoài là đại
diện của tù nhân đề đấu tranh với gác dang và chúa ngục. Anh em thường cử những
người giỏi tiếng Pháp và có gan chịu đòn làm trật tự ngoài.
Bọn chúa ngục đánh tù nhiều hơn và tăng cường hình phạt. Chúng thiết lập
chế độ “trị an” ở Banh III để khủng bố những người đứng đầu các cuộc đấu tranh.
Banh III có 12 khám, được xây thành 3 dãy song song với nhau, mỗi dãy có 4
khám. Khám trị an (San de Sécurité) là các khám 5-6-7-8 có cùm đóng xuống sàn.
Đó là khu cấm cố biệt lập dành cho những người tù thuộc loại “bất trị”, dưới sự
giám sát của những tên gác dang hung ác. Nhiều đảng viên cộng sản đang lãnh đạo
các kíp tù khổ sai đã bị đưa vào khám trị an. Họ bị tước hết sách vở và đồ dùng
cá nhân, mỗi người chỉ còn một bộ quần áo mặc trên người. Suốt ngày họ bị cấm cố
ở trong khám, đều bị còng cả hai chân.
Cuối năm 1939, gần chục người tù cộng sản trong khám trị an đã tuyệt thực
để phản đối chế độ “trị an”, đòi trả lại quần áo, sách vở và đòi có đèn ban đêm
trong khám. Mới tuyệt thực được một bữa thì xếp Banh III cho đem trả quần áo và
đồ dùng cá nhân. Anh em tạm kết thúc cuộc đấu tranh vì lực lượng còn rất mỏng
và đang bị cấm cố biệt lập. Ít lâu sau, 12 người tù còn lại trong khám trị an
đã đấu tranh quyết liệt đòi có đèn ban đêm, đòi được đọc sách, được viết thư,
đòi bãi bỏ cùm và bãi bỏ chế độ “trị an”. Cuộc tuyệt thực kéo dài đến ngày thứ
7, nhiều người hấp hối.
Quản đốc Buviê phải cho đưa hai người đi Nhà Thương cấp cứu và tiêm thuốc
hồi sức, bơm sữa vào hậu môn những người còn lại. Ngày thứ 8, Buviê nhượng bộ,
cho tháo cùm, anh em mới kết thúc cuộc đấu tranh. Những người tù ở khám trị an
không còn bị cùm xiềng như trước. Hằng ngày họ được ra khỏi khám làm việc ở kíp
may quần áo trong Banh III..Tháng 10 năm 1940, Buviê trả tất cả tù nhân khám trị
an về kíp Chỉ Tồn Banh I.
Khi được tin Liên Xô ký hiệp ước không xâm phạm với phát xít Đức
(23-8-1939), một cuộc tranh luận lớn đã nổ ra trong chi bộ. Có người cho rằng
Liên Xô ký hiệp ước đó là đúng. Những người không tán thành như vậy thì bi
quan, cho rằng Liên Xô thỏa hiệp với bọn phát xít. Vì không đủ cơ sở để nhận định
nên cuộc thảo luận kéo dài, nhiều người băn khoăn lo lắng cho Liên Xô. Sau
cùng, chi bộ thống nhất nhận định rằng Liên Xô là thành trì của cách mạng thế
giới, việc ký hiệp ước Xô - Đức là cần thiết để tránh tổn thất cho cách mạng, để
có thời gian củng cố, xây dựng lực lượng...
Nhận định của chi bộ đã giải quyết một cách cơ bản tư tưởng cho cán bộ đảng
viên, nhưng phải đến khi phát xít Đức bội ước tấn công Liên Xô thì mọi người mới
thật sự nhất trí với nhận định của chi bộ.
Ngày 22-6-1940, Chính phủ Pêtanh (Pétain) đầu hàng phát xít Đức, để cho
quân đội Đức chiếm đóng nước Pháp. Quản đốc Buviê ra lệnh xiềng toàn bộ khám tù
cộng sản (khám 6 Banh I). Chi bộ đặc biệt phát động ngay một cuộc đấu tranh
trong khám 6 đòi tháo xiềng, đòi ăn rau, ăn thịt đúng khẩu phần quy định. Chi ủy
đề xuất một hình thức quyết liệt là nhịn ăn và nhịn uống để chặn đứng sự khủng
bố của kẻ thù.
Cuộc đấu tranh kéo dài 3 ngày rưỡi thì phải ngừng lại. Nhịn ăn và nhịn uống
cùng một lúc là một hình thức đấu tranh quá cao, nhất là khi kẻ thù đang đi vào
con đường phát xít hóa, trong khi đó ta lại chưa tranh thủ được sự đồng tình và
ủng bộ rộng rãi. Rút kinh nghiệm cuộc tuyệt thực này, chi bộ thận trọng hơn mỗi
khi đưa ra khẩu hiệu tranh đấu. Các hoạt động của chi bộ cũng bí mật hơn.
Lấy lý do chiến tranh, Quản đốc Buviê cứ tăng dần từng mức khổ sai và bớt
dần khẩu phần ăn của tù nhân. Trong tình hình không thuận lợi, chi bộ chủ
trương về phương châm đấu tranh trong lúc này là duy trì các quyền lợi mà tù
nhân đã giành được trong những năm trước đây bằng một thái độ ôn hòa hơn. Hình
thức đấu tranh phổ biến trong thời kỳ này là lãn công, duy trì mức khổ sai như
trước. Chi bộ hết sức chú ý theo dõi tình hình ở trong nước và tình hình thế giới
để có chủ trương thích ứng kịp thời.
Mùa thu năm 1940, kíp dọn tàu nhận được tài liệu của Xứ ủy Nam Kỳ gửi
ra, trong đó có bản Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11- 1939 về vấn đề giải
phóng dân tộc. Chi bộ đặc biệt đã tổ chức học tập ngay bản nghị quyết quan trọng
này. Những vấn đề về tình hình thế giới, tình hình trong nước, những điều kiện
khách quan và chủ quan để nổ ra vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền được thảo
luận rất sôi nổi.
Các vấn đề thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, vấn
đề sách lược phân hóa kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù nguy hiểm nhất là đế quốc
và tay sai... cũng được thảo luận kỹ và đi đến nhất trì. Chi bộ còn dự kiến
tình hình trên đảo, thảo luận sách lược đấu tranh với bọn gác ngục và phương
châm hành động mới, khi tình thế cách mạng trực tiếp nổ ra ở Đông Dương.
Lợi dụng sự suy yếu của thực dân Pháp, ngày 22-9-1940, quân Nhật từ
Trung Quốc đánh vào Lạng Sơn. Quân Pháp sau vài trận đụng độ đã bỏ chạy tháo
thân. Bọn phản động thuộc địa đầu hàng, quỳ gối dâng Đông Dương cho phát xít Nhật.
Trong lúc quân Pháp tan rã tháo chạy, đảng bộ và nhân dân Bắc Sơn (Lạng Sơn) đã
cướp vũ khí của địch, vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện lỵ Bắc Sơn.
Thực dân Pháp sau khi đầu hàng phát xít Nhật đã quay lại đàn áp cuộc khởi
nghĩa.
Hội nghị Trung ương lần thứ 7 từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940 tại Đình Bảng
(Bắc Ninh) đã nhận định tình hình: “Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy.
Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng lãnh đạo các dân tộc bị
áp bức ở Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do, độc lập”1.
Trong khi đó, Xứ ủy Nam Kỳ chủ trương phát động nhân dân võ trang khởi
nghĩa. Mặc dù Trung ương đã quyết định hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nhưng khi đồng
chí Phan Đăng Lưu mang chỉ thị của Trung ương về đến Sài Gòn thì lệnh khởi
nghĩa của Xứ ủy đã phát đi khắp nơi.
Đêm 23-11-1940, cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ làm rung chuyển nhiều vùng
nông thôn Nam Kỳ. Tin tức về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ làm cho những người cộng sản
đang bị đày ở Côn Đảo vô cùng hồi hộp và lo lắng theo dõi. Thực dân Pháp đã dìm
cuộc khởi nghĩa trong bể máu. Bọn chúa ngục Côn Đảo cũng bắt đầu một thời kỳ
đàn áp man rợ đối với tù nhân.
Đầu năm 1941, thực dân Pháp đày lớp tù bị bắt trong Nam Kỳ khởi nghĩa ra
Côn Đảo. Banh I, Banh II và Banh III đều nhốt chật tù. Mỗi khám trước đây giam
nhiều nhất từ 80 đến 120 người, nay chúng tăng lên 150 đến 180 người, tù nhân
phải nằm nghiêng sắp lớp chen chúc nhau trên sàn khám.
Vẫn chưa hết, ở Banh II bọn chúa ngục còn cho dựng sạp gỗ để giam hai tầng
tù nhân trong một khám. Con số tù nhân ở Côn Đảo tăng vọt lên cao nhất trong suốt
80 năm qua kể từ khi có nhà tù1. Nhiều tên gác ngục hung ác được phái trở lại
Côn Đảo chúng đánh tù luôn tay, chẳng cần phải có lý do gì. Sáng ra điểm danh
đánh, trưa ra ăn cơm đánh, chiều ra ăn cơm lại đánh.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940) đã làm rung chuyển cả nến móng của
chế độ thuộc dịa khiến cho bọn thực dân vừa điên cuồng khủng bố trả thù, vừa
nơm nớp lo sợ. Chúng sợ cả đến những người tù đang bị chúng đày đọa, xiềng
xích. Bọn gác dang đi tuần suốt đêm. Rình mò xem tù nhân có hội họp hay có ý đồ
bạo động gì không.
Khoảng một, hai tháng chúng lại ập vào khám xét thấy một mảnh giấy vụn,
một mẩu san hô hay gạch non là chúng đều tịch thu và đánh đập tù nhân rất tàn tệ
Xét khám không thấy gì chúng cũng vu cho là mất trật tự, đánh cả khám một trận
rồi mới trơ trẽn rút. Buviê cho lập lại chế độ Khám trị an ở Banh III dành cho
những người tù mà chúng gọi là “bọn cứng đâu” (réfractaires). Xiềng, cấm cố, ăn
uống tồi tệ, các yêu sách đều được trả lời bằng roi vọt.
Giữa năm 1941, Thống đốc Nam Kỳ cứ Bơruionnê (Brouinonnet) ra làm Quản đốc
thay Buviê. Là một tên quan hai sen đầm trung thành với chính phủ Pêtanh,
Bơruionnê đã gây nhiều tội ác tại Côn Đảo. Hắn cấm tù nhân không được nhận thư
từ, không được đọc sách báo, không được hội họp... Bưu phẩm từ đất liền gửi ra
bị kiểm soát rất kỹ, thuốc bổ, thuốc bệnh và sách báo đều bị chúng tịch thu.
Tháng 7-1941, một tên tù lưu manh đã vu cáo về các hoạt động của Chi bộ
đặc biệt và chỉ bắt các đồng chí lãnh đạo trong khám 6 Banh I. Hắn còn chỉ những
nơi giấu tài liệu và vu cáo tù cộng sản đang chuẩn bị bạo động vượt ngục, cướp
tàu đi Xanhgapo (Singapore) gia nhập phe Đồng Minh chống phát xít, ủng hộ Liên
Xô. Lúc ấy phát xít Đức đã tấn công Liên Xô và trong nội bộ bọn Pháp đã có mâu
thuẫn giữa phái Pêtanh và phái Đờ Gôn (De Gaune) nên bọn Pháp tin ngay.
Một số đồng chí lãnh đạo của chi bộ bị nhốt hầm tối. Hơn 40 đồng chí ở
khám 6 bị tước hết quần áo, chiếu, đồ dùng cá nhân và bị cấm cố trở lại. Bọn mật
thám ở Sài Gòn ra điều tra một thời gian không khai thác được gì hơn nhưng đó
là một dịp để Bơruionnê tước hết những quyền lợi mà tù nhân đã giành được trong
những năm trước. Nhiều người tù thường phạm trước đây tham gia Hội tù nhân vì Hội
tù bảo vệ quyền lợi thiết thực của họ, đến nay thấy chi bộ và Hội tù bị khủng bố,
quyền lợi của tù nhân bị tước bỏ thì họ bất mãn và trở mặt nói xấu những người
cộng sản.
Trong tình hình bất lợi, Hội tù nhân tuyên bố tự giải tán. Chi bộ đặc biệt
cũng giảm bớt hai phần ba số đảng viên, chỉ tuyển lại những đồng chí trung kiên
và có năng lực hoạt động trong tù. Mạng lưới cứu tế tù nhân vẫn được củng cố dưới
sự chỉ đạo trực tiếp của chi bộ. Chi bộ tìm mọi cách bố trí cho đảng viên vào
làm ở Nhà Thương và Nhà bếp các banh để liên hệ và tiếp tế cho anh em.
1.
Văn kiện Đảng
(1930-1945), tập III, Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản 1977,
tr.141.
2.
Năm 1940, Nhà
tù Côn Đảo có hơn 2.000 tù nhân. Theo số liệu tổng kết chưa đầy đủ, có khoảng gần
4.000 người đã bị đày ra Côn Đảo trong hai năm 1941-1942. Hai năm này tù nhân
Côn Đảo cũng chết hàng loạt do chế độ khủng bố dã man của thực dân Pháp. Cuối
năm 1942, tù nhân đã chết vợi đi nhiều, thế mà theo báo cáo của Thống đốc Nam Kỳ
gửi toàn quyền Đờ cu (Decoux) thì tháng 11-1942, Nhà tù Côn Đảo có 4.403 tù
nhân (Báo cáo ngày 15-11 -1943).
Tên Quản đốc Bơruionnê đặt ra nhiều luật lệ quái ác
như ra vào khám phải trần truồng, múa phượng hoàng cho chúng xem; vào khám bệnh
cũng phải cởi hẳn quần áo để một nơi; mỗi lần điểm danh chúng bắt tù nhân cúi đầu
và gõ hèo cồm cộp lên đầu họ. Bọn gác ngục vừa đánh tù vừa đe dọa: Mặt trận
nhân dân của chúng mày chết rồi. Hãy coi chừng1.
Khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, mỗi lần đánh tù chúng lại rít lên: “Hồng
quân của chúng mày chết rồi, đừng có mà hy vọng (!)”. Thì ra chúng hiểu niềm
tin của những người cộng sản bắt nguồn từ sức mạnh tất thắng của chủ nghĩa cộng
sản mà Liên Xô là ngọn cờ tiêu biểu. Lớp tù nhân ra sau Nam Kỳ khởi nghĩa hầu hết
bị cấm cố ở Banh III và Banh II. Chế độ cấm cố, chế độ khô mục và chế độ đánh đập
hằng ngày của bọn gác ngục làm cho sức khỏe tù nhân suy sụp và bệnh tật phát
triển rất nhanh.
Bệnh xá Côn Đảo chật, Bơruionnê cho lựa những người tù bệnh tập trung về
Banh II (lúc ấy gọi là Banh Nhà Thương). Hằng ngày, thầy thuốc vào coi bệnh và
phát thuốc. Căn bệnh phổ biến và nguy hiểm lúc ấy là kiết lỵ và ghẻ hợm (còn gọi
là ghẻ hầm). Nhưng bất cứ bệnh gì, thấy thuốc nhà tù cũng chỉ cho có hai thứ
thuốc: nước vôi và bột than. Chỉ trường hợp cấp cứu mới đưa vào Nhà Thương và
được tiêm một, hai ống thuốc hồi sức. Thật ra, những tù nhân bệnh tật chẳng được
chữa chạy gì. Họ chỉ được tập trung về một nơi và lần lượt chết ở dấy.
Ghẻ hợm là một loại ghẻ lớn, hay lây và phát triển rất nhanh. Ghẻ mới xuất
hiện hôm trước là hôm sau đã lan khắp người. Con ghẻ đục rãnh sâu làm thối thịt
da, hút cạn dinh dưỡng làm cho người bệnh đau nhức và kiệt sức. Ghẻ thường xuất
hiện ở chân, lan lên đùi và lên khắp người là không cứu được nữa. Bọn thầy thuốc
thực dân mỗi khi thấy người bệnh ghẻ hợm vào Nhà Thương là chúng cưa chân ngay.
Có người đã bị cưa cụt cả hai chân nhưng rồi cũng chết. Cuối năm 1941, tù nhân
phát bệnh chết nhiều. Các banh ngày nào cũng có người chết. Riêng Banh II có thời
gian mỗi ngày hơn 20 người tù chết.
Những người kiết lỵ nặng bị tập trung về “bệnh xá
kiết lỵ” phía sau Banh III, giáp chân Núi Chúa. Bệnh xá kiết lỵ là một cái lán
mới dựng trong khu vực Sở Ruộng để cách ly những người kiết lỵ nặng không được
cứu chữa. Những người bị đưa ra đây chỉ một, hai hôm là chết. Nói đúng hơn, đây
là một nhà xác. Ở “nhà xác” này, mỗi ngày thường có trên dưới 20 người tù qua đời.
Từ giữa năm 1941 đến cuối năm 1943, tù nhân chết vợi hẳn đi, chôn chật nghĩa địa
Hàng Keo, bọn chúa ngục cho mở thêm nghĩa địa Hàng Dương2 để chôn tù .
Theo số liệu tổng kết chưa đầy đủ, có khoảng 3.000
tù nhân đã chết trong thời kỳ này bởi chế độ tù đày ải nghiệt ngã của thực dân
Pháp, trong đó có nhiều nhà yêu nước như Nguyễn An Ninh, Võ Công Tồn... Mỗi người
chết được bó hai chiếc bao bàng3, một chiếc
trùm từ đầu xuống, một chiếc từ chân lên, sau đó được cột chặt bằng 7 nút lạt ở
cổ, ở bụng và ở chân. Xế chiều, một tên ma tà đưa vài người thường phạm đến lượm
xác tù nhân chất lên xe bò chở ra Hàng Dương vùi qua loa xuống cát, nhiều người
còn đang hấp hối chúng cũng bắt bó lại đem chôn luôn, cảnh tượng thật là thê thảm.
Khi nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn An Ninh hy sinh, những người cộng sản đã
vận động Phuốchiyê (pouminier), người kỹ sư, chủ sự Nhà Đèn Côn Đảo, bỏ tiền
mua cho ông một cỗ áo quan bằng gỗ nhưng chúa đảo đã lạnh lùng bác bỏ, bắt bó
bao bàng đem chôn như hàng ngàn người tù đã chết. Những người tù chính trị và
tù thường, mỗi lần đi làm khổ sai qua Hàng Dương lại nhặt đá đắp lên ngôi mộ của
ông và mộ đồng chí Lê Hồng Phong, bất chấp sự đánh dập của bọn gác ngục.
Mặc dù nhiều đồng chí bị cấm cố, Chi bộ đặc biệt vẫn tích cực chỉ đạo chống
khủng bố. Thông qua những đảng viên làm ở Nhà bếp, Sở tẩy và các sở tù ngoài,
chi bộ đã liên hệ được với các đoàn tù mới ra để nắm bắt tin tức và thông báo
tình hình trên đảo, phổ biến kinh nghiệm đấu tranh chống khủng bố, kinh nghiệm
bảo vệ sức khỏe, chống bệnh tật trong tù.
Trong tình hình địch khủng bố ác liệt và bệnh tật phát sinh nhiều, chi bộ
đã đặt công tác cứu tế tù nhân lên hàng đầu. Chi bộ chỉ thị cho tất cả các trại
giam, các sở tù, những nơi có tù chính trị đều phải lập các tổ cứu tế, đoàn kết,
tương trợ lẫn nhau, bằng mọi giá phải báo vệ mạng sống của tù nhân, bảo vệ cán
bộ của Đảng.
Các đồng chí đảng viên, qua nhiều năm được chi bộ trong tù rèn luyện đã
trở thành lực lượng nòng cốt trong việc xây dựng tổ chức cứu tế tù nhân và triển
khai các chủ trương chống khủng bố của chi bộ. Nhờ mạng lưới đảng viên ở các sở
tù bên ngoài, chi bộ đã tổ chức việc tìm kiếm và chế biến thuốc nam chữa bệnh
cho tù nhân. Chi bộ còn tổ chức làm kinh tế để đóng góp vào quỹ cứu tế.
Những đồng chí có tay nghề được phân công làm các loại kim khâu, kim máy
may, tiện các hộp thuốc lá bằng gỗ găng, làm tẩu thuốc lá bằng cây dương nước,
làm cúc áo vòng, lược, bằng đồi mồi, v.v... để bán cho gác dang, ma tà và thủy
thủ. Các sản phẩm được tập trung về một đầu mối, tiền bán được đem về nộp cả
vào qũy cứu tế.
Qua các cơ sở ở Nhà Thương và Nhà bếp các banh, chi bộ đã gửi đến các
khám tù cấm cố từng nhúm muối để ăn thay khô mục, từng trái ớt tươi, từng ngọn
rau xanh đến lọ dầu xoa, viên thuốc bệnh. Các khám tù cộng sản thường tổ chức
theo hình thức phổ biến lúc đó là Ban trật tự để lãnh đạo mọi hoạt động của tù
nhân.
Phần lớn những người bị bắt trong cuộn khởi nghĩa Nam Kỳ là quần chúng
cách mạng, ít được rèn luyện thử thách trong những điều kiện cực kỳ khó khăn.
Ban trật tự phân công những đảng viên trung kiên phụ trách từng mâm cơm (mười
người) để quản lý, động viên và bồi dường ý chí cách mạng cho anh em. Cơm tù
ngày càng ít đi, đồng chí trưởng mâm phải chia cơm cho từng người, có khi đến
phần mình chỉ còn những hạt cơm cuối cùng ít ỏi.
Có đồng chí còn bớt cả phần cơm của mình lén đưa vào trong khám nghiền
ra nấu cháo cho những người ốm nặng. Cháo nấu trong lon sữa bò, chụm bằng những
mảnh áo tù xé ra, ống tay áo và ống quần của nhiều đồng chí cứ cụt dần đi sau mỗi
lần chăm sóc người bệnh. Bọn gác dang mà xét thấy một hạt cơm, một đốm lửa
trong khám là nhiều người đổ máu với chúng.
Khu vực gần cửa thoáng mát được ưu tiên dành cho những người già yếu. Một
vài tia nắng lọt vào qua kẽ ngói rọi vào trong khám cũng được nhường cho các đồng
chí bệnh lao sưởi ấm lá phổi trong khoảnh khắc. Mỗi lần bọn gác dang vào khủng
bố thì lập tức anh em lại chuyển những người đau yếu vào phía trong. Cá đồng
chí trung kiên lập thành một hàng rào bên ngoài để đỡ đòn cho những anh em khác.
Những người tù cộng sản luôn sẵn lòng chia nhau từng muỗng cơm tù, từng tấm áo
tù và chia sẻ với nhau cả những trận đòn đổ máu. Thương người hơn cả thương
thân là phẩm chất cao quý của người cộng sản trong tù.
Trước ngưỡng cửa của thần chết và sự đày đọa nghiệt ngã nhất của kẻ thù
thì đức độ của những người cộng sản càng sáng ngời. Nhiều đồng chí đã nhường
nhau một vệt nắng trong khám tối, một viên thuốc khi lâm bệnh, một miếng cháo
khi đói lòng... Có những lúc, tổ chức phải phân xử cho ai được nhận phần nhường
nhịn ấy.
Đồng chí Vu Văn Hiếu, người bí thư đầu tiên của Đặc khu mỏ Hòn Gai, khi
bị bắt cùng với đồng chí Nguyễn Văn Cừ và đồng chí Lê Duẩn, đã nhận hết các chứng
cớ về mình để cho đồng chí khác nhẹ án. Đến khi ra Côn Đảo bị bệnh nặng, biết
không sống nổi, đồng chí đã trao chiếc áo cuối cùng của mình cho đồng chí Lê Duẩn
và dặn lại: “Ráng sống phục vụ cho cách mạng!”.
Đồng chí Trần Xuân Độ, một đồng chí lớn tuổi, bị đày ra Côn Đảo từ năm
1930 đã tận tình chăm sóc, giúp đỡ và giáo dục động viên các đồng chí mới ra.
Lúc đồng chí Độ lâm bệnh nặng, Ban cứu tế gửi cho mấy quả trứng gà thì đồng chí
lại đem chia hết cho những anh em cùng bị bệnh. Khi có người trách thì đồng chí
trả lời rằng: “Tôi bệnh nặng quá, ăn chưa chắc đã sống, nên nhường cho các đồng
chí trẻ ăn dưỡng sức để sống về hoạt động cho cách mạng”.
Có hàng trăm tấm gương như vậy. Người cộng sản sống để phấn đấu cho lý
tưởng cách mạng nhưng sẵn sàng chết cho sự nghiệp cách mạng. Ngay cả khi biết
không sống nổi nửa, họ cũng chọn một cái chết có ích nhất cho cách mạng.
Nhiều đồng chí được đưa ra ngoài làm đã tranh thủ gài bẫy bắt từng con
chim sẻ về góp cho Ban cứu tế để nấu cháo cho những người yếu, bệnh. Đồng chí
Tôn Đức Thắng trở lại Sở Lưới lái canh, mỗi lần đi đánh cá đều lượm những con
cá nhỏ giắt vào kẽ áo tơi, về ngang qua Bản Chế gỡ ra để anh em kho nấu và chuyển
vào cho khám tù cấm cố. Chi bộ bố trí cho Lang Kiều ra ngoài làm thuốc nam, chữa
bệnh ho anh em.
Lang Kiều được xếp vào “phần tử nguy hiểm”. Mười năm ở đảo, Lang Kiều tổ
chức vượt ngục hơn 10 lần, có lần về đến đất liền lại bị bắt đày ra đảo. Mỗi lần
vượt ngục không thành, bị Toustou săn đuổi bắt được là một lần bị phạt. Bọn gác
ngục rất ngán, nhưng phục tài Lang Kiều chữa bệnh. Lần này, nhờ sự vận động của
chi bộ, chính Toustou, Chủ sở Recherche đưa Lang Kiều từ hầm cấm cố ra chữa bệnh
cho Sở Truy tầm tù trốn.
Toustou chẳng thiện cảm gì, nhưng hắn cần Lang Kiều ra chữa bệnh cho
nhân tình của hắn, vợ của một tên gác ngục khác, đang có vấn đề phụ khoa mà thầy
thuốc Tây bó tay, nhân thể, sử dụng Lang Kiều chữa bệnh cho đám nhân viên
Recherche.
Tương kế tựu kế, Lang Kiều tranh thủ cơ hội này kiếm thuốc chữa bệnh cho
anh em. Lang Kiều đề xuất, Toustou đồng ý điều thêm người, cho lập tổ bào chế
thuốc Nam, cứu sống hàng trăm sinh mạng tù chính trị. Lang Kiều thạo chữ Hán, đọc
nhiều sách thuốc, rành y lý phương Đông, giỏi về Nam dược. Trong hoàn cảnh lao
tù anh sử dụng nhiều bài thuốc đặc trị như dùng huyết heo chữa bệnh đường ruột,
dùng cơm cháy chữa bệnh bao tử, dùng cỏ tranh chữa bệnh đái đường, dùng chuối hột,
cám gạo chữa bệnh kiết lỵ, thương hàn, dùng hồ tiêu hành củ, ngải rừng chữa bệnh
sốt rét...
Đối với bọn nhân viên Recherche gian ác, anh cũng có luật chơi. Anh bốc
thuốc công hiệu nhanh nhưng công phạt mạnh để hành hạ chúng. Lang Kiều còn hướng
dẫn cho anh em ở các sở tù khổ sai chú ý tìm kiếm và chế biến các loại thuốc
Nam ở Côn Đảo. Hàng trăm gói thuốc Nam do đồng chí bào chế đã được gửi đến Ban
cứu tế ở các banh, cứu sống được nhiều người.
Theo lời kêu gọi của Đảng, đồng bào ta ở trong nước, bất chấp sự theo
dõi và đe dọa của mật thám, đã quyên góp tiền, mua đồ tiếp tế cho tù chính trị.
Hằng trăm gói bưu phẩm, trong đó có rất nhiều gói hàng quý của quần chúng cách
mạng gửi ra Côn Đảo. Anh em tù chính trị nhận được nhiều gói quà của những người
chưa hề quen biết. Đồng chí Dương Bạch Mai có lúc nhận được 40 gói quà, chia
cho anh em cùng sử dụng. Một số công chức tiến bộ cũng nhận hộ tiền và quà rồi
chuyển cho anh em tù chính trị.
Tình đồng chí, nghĩa đồng bào đã tiếp thêm sức mạnh vật chất và tinh thần
cho cuộc đấu tranh chống khủng bố cửa tù chính trị ở Côn Đảo. Các lớp lý luận,
chính trị tiếp tục được mở dưới nhiều hình thức. Có lớp học được tổ chức dưới dạng
giải thích các khái niệm lý luận như giai cấp, giai cấp vô sản, đấu tranh giai
cấp, chuyên chính vô sản, vấn đề dân tộc, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Có lớp chuyên dạy về cách mạng dân tộc dân chủ và nhiều lớp dạy các môn văn
hóa, dạy ngoại ngữ và các tác phẩm ưu tú của nền văn học Việt Nam.
Trong các khám tù cấm cố, các lớp lý luận, chính trị thường học vào buổi
sáng, các lớp văn hóa thường mở vào,buổi chiều. Buổi tối anh em sinh hoạt văn
hóa nghệ thuật bằng các hình thức diễn kịch miệng, ngâm thơ, bình luận các tác
phẩm văn học mà anh em còn giữ được lúc đó như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Người
mẹ của Mácxim Goócki (Gorki), Ximăng của Gơlátcốp (Gladkov), Tam Quốc chí của
La Quán Trung...
Các buổi sinh hoạt và học tập đã thu hút được đông đảo quần chúng cách mạng
và tù thường. Nhiều người ham học đến mức bệnh nặng vẫn không rời cuốn sách, với
một lời tâm niệm: “có chết làm ma biết chữ vẫn hơn”. Bọn gác ngục vẫn thường
rình rập nhưng Ban trật tự đã cắt cử người canh gác và có kinh nghiệm đối phó.
Các khám tù cộng sản còn bí mật kỷ niệm ngày Quốc tế lao động (1-5), ngày Xô viết
Nghệ Tĩnh (12-9), ngày sinh Lênin (22-4), ngày Cách mạng tháng Mười Nga (7- 11)
dưới nhiều hình thức.
Khám 8 Banh III là nơi tập trung nhiều tên Tơrốtkít đầu sỏ. Bọn Tơrốtkít
thường xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản, nói xấu Liên Xô và Quốc tế cộng sản. Các đồng
chí ở khám 8 phải kiên trì đấu tranh với chúng và giác ngộ quần chúng, lôi kéo
họ ra khỏi ảnh hường của Tơrốtkít. Bọn này là những tên hay lý sự, chống cộng
có kinh nghiệm nên đấu tranh với chúng rất căng thẳng.
Từng giờ, từng phút trong lao tù, những người cộng sản Việt Nam hồi hộp
và lo lắng theo dõi cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô. Căn
cứ vào các tài liệu về Đại hội lần thứ 7 của Quốc tế cộng sản (7-1935), tổ chức
Đảng ở Côn Đảo đã phân tích rõ thế yếu của chủ nghĩa phát xít, giáo dục lòng
tin tất thắng và sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Liên Xô và các lực
lượng tiến bộ chống chủ nghĩa phát xít. Mặc dầu bọn Pháp tìm mọi cách bơng bít
tình hình nhưng tin tức về những trận chiến đấu của Hồng quân Liên Xô ở Xmôlenxcơ
và Xtalingơrát vẫn truyền đến tận nhà ngục Côn Đảo làm nức lòng những người cộng
sản Việt Nạm trong lao tù.
Đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Lã Vĩnh Lợi đã tổ
chức nhiều buổi sinh hoạt chính trị để giới thiệu những thành tựu trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hói ở Liên Xô để củng cố niềm tin tất thắng cho mọi người.
Tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng của cách mạng, đồng chí Lê Hồng Phong đã làm một
bài thơ 8 câu vẽ nên viễn cảnh đất nước sẽ được giải phóng, “địa ngục trần
gian” Côn Đảo sẽ được xóa bỏ, Côn Đảo sẽ trở thành một thắng cảnh rất đẹp, trên
bến dưới thuyền, thành nơi nghỉ mát của những người lao động. Đồng chí còn dạy
cho anh em bài Cô gái Nga mà đồng chí sáng tác trong thời gian học ở Liên Xô1. Trước khi
hy sinh, đống chí còn nhắn các đồng chí ở khu cấm cố biệt lập: Nhờ các đồng chí
nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng
ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng.
Phân hóa kẻ thù, tranh thủ gác ngục
Ngày 2-2-1943, Hồng quân Liên Xô thắng lớn ở Xtalingrát, tạo ra bước ngoặt
căn bản của cuộc chiến, tranh chống phát xít và sau đó lại giành những thắng lợi
vang dội ở Cuốcxcơ trong mùa hè năm 1943 khiến cho toàn thể thế giới phải kinh
ngạc và khâm phục.
Ngày 8-12-1943, Đờ Gôn đang lưu vong ở An giê
(Angiêri) tuyên bố “sẽ giải phóng Đông Dương” để chuẩn bị cho mưu đồ theo gót
quân đội Đồng Minh vào chiếm lại Đông Dương1. Mâu thuẫn
giữa Pháp và Nhật ở Đông Dương, cũng như mâu thuẫn giữa Pháp Pêtanh và Pháp Đờ
Gôn ngày càng trở nên sâu sắc.
Nắm được tình hình trên, Chi bộ đặc biệt chủ trương tích cực phân hóa bọn
gác dang, tranh thủ những tên thuộc phái Đờ Gôn, tuyên truyền chủ trương của những
người cộng sản liên hiệp với các lực lượng dân chủ, tiến bộ chống phát xít, giải
thích cho họ hiểu về Đảng cộng sản Pháp liên minh với Đờ Gôn chống phát xít...
Gác dang Pháp rất phục những người cộng sản Việt Nam trong việc phân tích tình
hình. Họ thường lặng im nghe, không phản ứng gì. Mỗi khi có điều thắc mắc không
giải thích được là họ lại đến hỏi anh em tù cộng sản.
Chủ trương liên minh với phái Đờ Gôn là một đề tài gây nhiều tranh luận.
Một quan điểm cho rằng muốn thực hiện được sự liên minh, cần phải có sự nhân
nhượng quốc tế, bằng cách thừa nhận chủ quyền Pháp ở, Đông Dương. Quan điểm thứ
hai kiên quyết phản đối việc thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương.
Những người theo quan điểm này đã xác định cách mạng là sự nghiệp của
nhân dân Đông Dương, phối hợp với cuộc chiến đấu của nhân dân Liên Xô và các lực
lượng chống chủ nghĩa. Việc liên minh với phái Đờ Gôn là nhằm tranh thủ một lực
lượng chống phát xít, cô lập cao độ kẻ thù chủ yếu để đánh đổ chúng. Sách lược
liên minh chỉ được thực hiện trên nguyên tắc bớt đổ máu cho cách mạng nhưng
không được thủ tiêu mục tiêu cơ bản của cách mạng là giải phóng dân tộc.
Quan điểm thứ hai đã trở thành ý kiến chỉ đạo ở Côn Đảo lúc ấy.
Từ giữa năm 1943, quân Nhật ở Đông Dương bắt đầu khốn đốn vì vòng vây của
Đồng Minh ngày càng siết chặt. Ở Côn Đảo trước đây mỗi tháng có từ một đến hai
chuyến tàu ra tiếp tế, nay 6 tháng mới có một chuyến tàu. Lương thực, thực phẩm,
quần áo, thuốc men thiếu nghiêm trọng. Các bệnh kiết lỵ, ghẻ hợm, lao phổi tiếp
tục hoành hành, giết hại những người tù đã kiệt sức.
Tên quan tơ Tít xe (Tisseyre) ra nhậm chức Quản đốc quyết định giảm khẩu
phần ăn của tù nhân xuống 350 gam gạo mỗi ngày. Hắn còn bắt “tù Côn Lôn tự túc”
nhằm huy động sức tù để giải quyết những khó khăn trên đảo. Nhiều khám tù cấm cố
cũng được đưa ra đập xơ dừa, tước chỉ dứa, xe chỉ, dệt vải, thuộc da... Các Sở
Rẫy, Sở Ruộng, Sở Chuồng Bò, Sở Bản Chế đều được bổ sung thêm tù nhân. Các công
việc kéo lưới và câu cá mập cũng được đẩy mạnh.
Nhân dịp này chi bộ vận động cho nhiều anh em cộng sản ra ngoài làm việc.
Những người tù thường phạm làm thư ký ở Văn phòng Xếp chánh và Văn phòng Quản đốc
đã được giác ngộ cũng góp phần đưa các đồng chí cộng sản ra khỏi cấm cố. Nhiều
đồng chí lãnh đạo Chi bộ đặc biệt lâu nay bị cấm cố đã được đưa ra ngoài làm.
Các đồng chí có trình độ lãnh đạo của Đảng cũng được chi bộ chú ý vận động đưa
ra những nơi mà công việc khổ sai đỡ khắc nghiệt hơn.
Sau những năm bị khủng bố ác liệt và bị phân tán ở nhiều nơi, Chi bộ đặc
biệt đã hình thành được Trung tâm lãnh đạo bên ngoài trại giam. Hầu hết đảng
viên trong chi bộ và nhiều cán bộ có năng lực của Đảng lúc ấy đã được bố trí về
Sở Lưới, Bản Chế, Nhà Đèn, Nhà Thương, Văn phòng Xếp chánh, Văn phòng Quản đốc,
v. v. .. Một số đồng chí còn ở trong Banh III cũng được liên lạc thường xuyên.
Chi bộ đã bố trí được một số đảng viên vào làm ở Sở dây thép và Sở dây thép
gió. (T.S.F) để nắm tin tức, tình hình.
Kiên định tư tưởng, đấu tranh chống Tơrốtkít và chống phái
thân Nhật
Tháng 1-1944, Hồng quân Liên Xô quét sạch phát xít Đức ra khỏi Lêningrát
sau 900 ngày chiến đấu anh dũng. Tháng 4-1944, Hồng quân lại thắng lớn ở Ucờraina
và đuổi bọn phát xít đến tận biên giới. Việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít chỉ
còn là vấn đề thời gian. Theo đà chiến thắng của quân đội Đồng Minh, phái Pháp
Đờ Gôn ở Côn Đảo hoạt động mạnh hơn. Họ thường kể cho anh em cộng sản nhiều tin
tức về cuộc chiến tranh, cả những thắng lợi của Hồng quân Liên Xô và nghe anh
em cộng sản phân tích tình hình. Đó là những dịp thuận lợi để anh em tuyên truyền
chủ trương liên minh với các lực lượng dân chủ chống phát xít của những người cộng
sản.
Mùa hè năm 1944, thực dân Pháp đày 140 tù chính trị án nặng (trên 15
năm) ở Sơn La và Hỏa Lò (Hà Nội) ra Côn Đảo. Đây là chuyến tù cuối cùng bị đày
ra Côn đảo trước Cách mạng tháng Tám (1945), trong đó có nhiều đồng chí lãnh đạo
cấp Trung ương, Xứ ủy và tỉnh ủy.
Theo đúng lệ, bọn gác dang đánh cả đoàn tù một trận phủ đầu ngay tại cầu
tàu rồi đưa về Banh III cấm cố ở dãy khám 9-10-11-12. Đây là khu cấm cố biệt lập,
có tường ngăn cách với hai dãy khám của Banh III, dành cho những người tù thuộc
loại cực kỳ nguy hiểm. Tù nhân ở dãy khám này bị phạt theo chế độ cấm cố hầm,
vì thế mà dãy khám còn có tên là hầm cấm cố Banh III. Chi ủy đoàn tù Sơn La, Hỏa
Lò tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo trong khu cấm cố Banh III và liên lạc với
Trung tâm lãnh đạo1.
Qua bộ phận Nhà bếp, Trung tâm lãnh đạo đã gửi thực phẩm thuốc men cho
đoàn tù Sơn La - Hỏa Lò và Các đoàn tù mới ra đều tìm cách bắt liên lạc. báo
cáo tình hình và xin ý kiến chỉ đạo, xem như Đảo uỷ. thông báo tình hình trên đảo,
phổ biến kinh nghiệm chống khủng bố và chỉ đạo phương châm đấu tranh.
Chi ủy đoàn tù Sơn La - Hỏa Lò đã bố trí một số đồng chí ra khám bệnh ở
nhà thương, báo cáo với Trung tâm lãnh đạo nội dung Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ 8 (5-1941), Mười chính sách của Việt Minh, tình hình chuẩn bị võ
trang giành chính quyền và 8 tháng đánh du kích ở Bắc Sơn - Võ Nhai
(1941-1942). Chi ủy còn báo cáo tình hình nội bộ đoàn tù và xin ý kiến chỉ đạo.
Ngay từ khi còn ở Hỏa Lò (Hà Nội), trong lúc thảo luận về sách lược liên
minh với phái Pháp Đờ Gôn đã có một vài đồng chí nêu ý kiến rút bỏ khẩu hiệu Độc
lập trong cương lĩnh của Mặt trận Việt Minh và thay bằng khẩu hiệu Tự trị, tức
là thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Mặc dù chi bộ đã kiên quyết đấu
tranh bác bỏ nhưng các đồng chí này vẫn giữ ý kiến và tiếp tục nêu lại vấn đề
này khi mới ra Côn Đảo.
Cuộc thảo luận gây không khí căng thẳng, không lợi cho sự đoàn kết nhất
trí. Chi ủy đã báo cáo với Trung tâm lãnh đạo và nhận được sự chỉ đạo kịp thời.
Trung tâm lãnh đạo kết luận việc rút bỏ khẩu hiệu “độc lập” là hữu khuynh. Cần
phải tích cực phân hóa và tranh thủ phái Pháp Đờ Gôn để hình thành mặt trận chống
phát xít, song trong lúc liên minh không được quên mục tiêu cơ bản của cách mạng
là giải phóng dân tộc, giành độc lập, chủ quyền.
Nhờ sự chỉ đạo đúng đắn của Trung tâm lãnh đạo, vấn đề sách lược liên
minh với phái Pháp Đờ Gôn đã được sáng tỏ. Chi bộ khu cấm cố Banh III được củng
cố lại tăng cường sự đoàn kết nhất trí. Quá trình đấu tranh về quan điểm trong
việc liên minh với phái Đờ Gôn đã làm cho những người cộng sản trong tù nhận thức
một cách sâu sắc về bản chất thực dân và mưu đồ của bọn phàn động Pháp đối với
thuộc địa Đông Dương.
Sau này, trong cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, những người cộng sản Việt
Nam đã chuẩn bị cả tinh thần và lực lượng, chống cuộc chiến tranh xâm lược trở
lại của thực dân Pháp, ngay trong lúc chuẩn bị giành chính quyền từ tay Nhật.
Tranh thủ thời gian trong cấm cố, chi bộ tổ chức tổng
kết kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, kinh nghiệm công vận, nông vận, thanh vận,
phụ vận và biên soạn chương trình lý luận Mác-lênin huấn luyện cho anh em. Ít
lâu sau, phần lớn anh em bị điều ra làm ở kíp xe chỉ, tước chỉ trong Banh III,
một số bị điều ra các sở ngoài, một số đồng chí vẫn còn bị cấm cố. Chi bộ vân
duy trì các lớp học, bố trí giảng viên theo từng kíp công việc để huấn luyện
cho nhau. Tối về khám, Ban tuyên huấn khu cấm cố còn làm báo miệng đọc cho nhau
nghe, gây không khí lạc quan tin tưởng.
1. Trên đường đi đày Côn Đảo, chi bộ Sơn La và chi bộ Hỏa Lò đã sáp nhập
lại, chi ủy có 5 người do đồng chí Quỳnh Tây (tức Ngô Ngọc Du) làm Bí thư. Lúc ấy
Chi bộ đặc biệt là Trung tâm lãnh đạo ở Côn Đảo.
Trong đoàn tù Sơn La - Hỏa Lò có nhiều đồng chí đã tham gia làm báo bí mật
và công khai của Đảng. Anh em tập hợp hơn 20 người, mở lớp huấn luyện cán bộ
làm báo. Lớp học không có thầy, anh em tự nghiên cứu xây dựng chương trình và
thảo luận với nhau, trọng tâm là hai phần: Nghiên cứu học tập và Nghiệp vụ báo
chí. Lớp học nghiên cứu tổng quát lịch sứ văn học thế giới chú ý phân tích đặc
điểm văn hóa của các chế độ xã hội. Những nét lớn của lịch sử văn học Việt Nam
cũng được nghiên cứu và thảo luận sôi nổi.
Sau khi nghiên cứu kỹ phần văn họe, các học viên thảo luận về nghiệp vụ
báo chí từ các thể loại, cách trình bày cho đến việc tổ chức in ấn, phát
hành... Có người từng học ở Liên Xô về, có người là học trò trực tiếp của đồng
chí Nguyễn Ái Quốc, có người học ở trong các nhà tù, có người trường thành
trong cuộc đấu tranh cách mạng; mỗi người góp vào một ý, vận dụng tất cả kinh
nghiệm làm báo bí mật và công khai trong thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương
(1936-1939) để xây dựng chương trình. Nhiều đồng chí dự lớp huấn luyện này đã
trở thành những cây bút của báo Đảng sau Cách mạng tháng Tám (1945).
Ở Banh III lúc ấy còn có 12 binh sĩ yêu nước tham gia cuộc khởi nghĩa Đô
Lương (31-1-1941) do Đội Cung lãnh đạo. Ban lãnh đạo đã giao cho tổ chức cứu tế
ở Banh III phải tìm mọi cách giúp đỡ và phân công một đảng viên trực tiếp giác
ngộ chủ nghĩa cộng sản cho anh em. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Nhà tù Côn Đảo,
những người bị giặc bắt trong ba cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), Nam Kỳ
(23- n-1940) và Đô Lương (31-1 1941) đã sát cánh bên nhau chống chế độ khủng bố
dã man của thực dân Pháp.
Banh III lúc ấy còn có một số tù người Khơme tham gia các phong trào chống
Pháp của sư sãi Phnôm Pênh (Campuchia). Chi bộ khu cấm cố giáo dục cho cán bộ đảng
viên tinh thần đoàn kết các dân tộc Đông Dương chống Pháp. Nhiều đồng chí được
phân công gần gũi giúp đỡ anh em tù Khơme. Các đồng chí đã nhờ anh em dạy tiếng
Khơme và dạy cho anh em tiếng Việt. Nhiều cuộc nói chuyện về đất nước, con người
và phong trào cách mạng của hai dân tộc Việt Nam - Khơme đã tăng cường tình
đoàn kết giữa những người tù trong khu cấm cố. Chi bộ giới thiệu về cương lĩnh
Mặt trận Việt Minh và đường lối đoàn kết các dân tộc Đông Dương trong một Mặt
trận dân tộc thống nhất chống đế quốc của Đảng cộng sản Đông Dương cho anh em.
Mặc dù phong tục tập quán và trình độ giác ngộ có khác nhau, những người
tù Khơme trong khu cấm cố đều có thiện cảm với những người cộng sản Việt Nam.
Sau khi Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, những người tù Khơme đều được
đưa về đất liền và được tạo điều kiện trở về quê quán. Trong cuộc kháng chiến
chống Pháp, Pátsuôn (Patchhoeun) đã được cử làm Chủ tịch ủy ban dân tộc giải
phóng người Khơme ở Châu Đốc. Sau này làm việc cho Xihanúc, ông vẫn giữ mối thiện
cảm với cách mạng Việt Nam.
Ở Banh III lúc này còn có một số tù thuộc các đảng phái thân Nhật Bọn
này ra sức ca tụng chủ nghĩa phát xít chống Liên Xô và tuyên truyền cho chính
sách Đại Đông Á của Nhật. Chúng đe dọa bọn gác dang Pháp và đả kích những người
cộng sản. Anh em cộng sản rất bất bình nhưng vẫn giữ thái độ ôn hòa với chúng.
Một số tên quá khích như tên Bể, tên Thu chửi cộng sản suốt ngày. Một lần tên
Thu xuyên tạc lá cờ đỏ sao vàng của Việt Minh một cách rất bỉ ổi, anh em kíp xe
chỉ phẫn nộ đã đánh y một trận để cảnh cáo.
Bọn Tờrốtkít hùa vào một phía với đám thân Nhật để xuyên tạc cộng sản. Đảng
bộ Côn Đảo chủ trương cô lập bọn đầu sỏ, phân hóa những phần tử trung gian và
lôi kéo giác ngộ những người ngộ nhận. Anh em cộng sản đã bố trí những đồng chí
có trình độ kèm chặt những tên đầu sỏ để kiềm chế và và có thể bác bỏ ngay những
luận điệu xuyên tạc của chúng. Tên Thu có lần viết thư cho chúa đảo tố cáo những
người tù cộng sản có tổ chức bí mật, có quan hệ với bọn Pháp Đờ Gôn, có âm mưu
vượt ngục và chỉ điểm những đồng chí tích cực. Anh em cảnh giác lấy được thư và
giáo dục y. Một số quần chúng thân Nhật có chuyển biến, một vài người sau trở về
tham gia kháng chiến. Một số nhân viên y tá ở Nhà thương Côn Đảo cũng được giác
ngộ và giúp nhiều việc đắc lực cho Đảng bộ Côn Đảo, có người sau này trở thành
đảng viên cộng sản.
Những tin tức về cuộc chiến tranh và thắng lợi của Hồng quân Liên Xô làm
cho bọn Pháp ở Côn Đảo hết sức lo lắng. Thỉnh thoảng chúa đảo Tít xe lại cho bọn
lính hành quân, tập trận trên các đường phố xung quanh trại giam để tự trấn an
tinh thần và đe dọa tù nhân. Đảng ủy Côn Đảo vẫn theo dõi sát tình hình và chỉ
đạo hoạt động của các kíp tù, đấu tranh với những yêu sách thích hợp như đòi nới
rộng chế độ nhà tù và hạn chế bóc lột khổ sai.
Kíp xe chỉ dứa trong Banh III đã đấu tranh dai dẳng trong gần một tháng trời
bằng hình thức ngầm lãn công chống việc tăng định mức xe chỉ. Tên gác dang
ôbênăng (Obénans) giám sát rất kỹ tù nhân làm việc suốt ngày vẫn không tăng được
mét chỉ nào. Ôbênăng quyết định bắt tù nhân làm việc một ngày căng thẳng dưới sự
kiểm soát chặt chẽ của chính hắn. Anh em vẫn lặng lẽ làm việc nhưng có cách làm
cho xa quay mà chỉ không quấn. Cuối buổi chiều, mức chỉ vẫn y nguyên như cũ
Ôbênăng bắt làm thêm một tiếng đồng hồ nữa mà kết quả cũng không nhích lên được
chút nào. Tức điên người, hắn phạt cả kíp xe chỉ 7 ngày ăn cơm nhạt, uống nước
lã, nhưng đành phải chấp nhận mức chỉ như cũ.
Kíp vận chuyển đá từ Núi Chúa về Cầu Tàu lãn công một buổi sáng và phẫn
nộ phản đối tên gác dang Pháp đã thúc ép tù làm, để đá đè gãy chân một người
tù. Trước sự đoàn kết nhất trí của tù nhân, tên gác dang hung ác cũng phải chùn
bước.
Chuyến tù Sơn La - Hỏa Lò ra đầu năm 1944 còn có 2 người bị bắt oan là cộng
sản. Anh Mẫn một lần cùng gánh xiếc lên biểu diễn ở Đền Hùng (Phú Thọ), gặp
ngày hội đông người, Việt Minh rải truyền đơn cách mạng. Mật thám Pháp nghi anh
Mẫn lợi dụng gánh xiếc để rải truyền đơn nên bắt anh và khép vào tội “tuyên
truyền cộng sản”. Không chịu được đòn, anh phải nhận bừa là cộng sản và khai
người đứng đầu tổ chức là ông Khuê, một trạng sơ có tiếng trong vùng với hy vọng
được ông cãi cho khỏi tội.
Đến lượt ông Khuê cũng không chịu được đòn, đành phải nhận bừa là cộng sản.
Thế rồi mỗi người lãnh một án chung thân khổ sai và bị đày ra Côn Đảo. Ngay từ
thời bị giam ở Hỏa Lò, chi bộ Đảng trong tù đã hết sức giúp đỡ và giác ngộ ý thức
cách mạng cho hai người. Ra Côn Đảo, chi bộ khu cấm cố Banh III phân công người
kèm cặp và giúp đỡ. Mẫn “xiếc sớm được giác ngộ đã huấn luyện cho anh em Banh
III làm một “gánh xiếc” với nhiều tiết mục và những động tác nghệ thuật điêu
luyện. Sau Mẫn “xiếc” được kết nạp vào Đảng và tham gia cuộc kháng chiến chống
Pháp.
Riêng trạng sư Khuê thì luôn miệng oán trách cộng sản, rằng vì cộng sản
mà ông bị tù tội, mất nghiệp, mất gia tài. Đau khổ và không chịu nổi sự đày ải
khắc nghiệt, ông lâm bệnh kiết lỵ, người quắt lại chỉ còn da bọc xương, khó qua
khỏi. Nỗi oán hận của ông tăng lên gấp bội. Những người cộng sản đã huy động mọi
khả năng tìm kiếm thuốc, cứu sống ông. Ông rất cảm phục và thôi không oán trách
cộng sản nữa. Sau Cách mạng tháng Tám 1945), Đảng bộ Côn Đảo dã đưa ông về đất
liền và sau đó Xứ ủy Nam Kỳ tạo điều kiện cho ông trở về quê quán.
Tết âm lịch 1945, chi bộ khu cấm cố Banh III đã tổ chức một chương trình
văn nghệ để bồi dường tinh thần lạc quan cách mạng. Tấu ông Táo về trời phê
phán thói cẩu thả lười biếng, mất vệ sinh. Kịch vui một màn Bóc lột tố cáo chế
độ thực dân và phong kiến bóc lột đến tận xương, tận tủy những người lao động.
“Gánh xiếc” Banh III biểu diễn 28 tiết mục luyện tập công phu làm cho bọn gác
dang hết sức ngạc nhiên, tưởng như “cả gánh xiếc bị bắt vào tù”.
Đặc biệt là vở kịch thơ Chiến sĩ và Hằng Nga có tác dụng giáo dục sâu sắc.
Vở kịch do đồng chí Vương Gia Hương biên soạn và trình diễn ở Hỏa Lò (Hà Nội) gồm
2 màn ca ngợi ý chí chiến đấu của người chiến sĩ cách mạng đã vượt qua mọi khó
khăn gian khổ và cám dỗ để chiến đấu cho cho sự nghiệp giải phóng đất nước.
Ra Côn Đảo, đồng chí Nguyễn Văn Vịnh biên soạn thêm 2 màn nữa, đưa vở kịch
đến một kết thúc hùng tráng. Người chiến sĩ chiến đấu và hy sinh, vợ chiến sĩ ở
nhà nuôi con khôn lớn để tiếp tục cuộc chiến đấu. Chất thơ và nội dung tư tưởng
vở kịch có sức cảm hóa sâu sắc đối với những chiến sĩ cách mạng đang bị tù đày,
thôi thúc họ kiên trì, vững chí.
Ở sở Bản Chế, anh em tù cộng sản cũng tổ chức diễn kịch của Môlie và
Coóchây. Một số anh em Quốc dân đảng đã từng tham gia đóng kịch ở Banh II trong
những năm trước có kinh nghiệm làm mũ áo, râu tóc đúng mốt, mấy người thường phạm
bị tù vì làm bạc giả cũng hăng hái tham gia trang trí, vẽ phông màn. Anh em tập
kịch bằng tiếng Pháp và tổ chức diễn công khai để 'tranh thủ bọn gác dang. Tên
quan tư Tít xe rất thích xem kịch. Tít xe bắt thợ mộc làm sân khấu ngay tại
dinh, bắt tù nhân diễn đêm kịch đầu tiên cho riêng hắn và người thân xem rồi
đêm sau mới cho diễn công khai ở Bản Chế.
Nghe tin tù nhân diễn kịch Tây, bọn gác dang và lính Pháp kéo cả vợ con
đến xem chật bãi. Họ trầm trồ thán phục sự hiểu biết sâu sắc về nghệ thuật của
những người tù cộng sản, họ ngạc nhiên không thể hiểu được vì sao mà trên hòn đảo
tù này, những nạn nhân của nước Pháp thực dân lại có thể thưởng thức và truyền
bá những giá trị của nền văn hóa Pháp. Nghệ thuật đã thức tỉnh nhân cách con
người văn hóa trong những người gác ngục. Gác ngục Pháp bớt hung ác hơn và đề
nghị tù chính thức tiếp tục diễn kịch.
Đầu năm 1945 anh em dựng vở kịch tiếng Việt Tội của ai tố cáo chế độ cũ
chà đạp lên hạnh phúc con người. Vở kịch đã gây ấn tượng tốt cho số ma tà và
công chức người Việt. Nhân dịp đó, anh em vận động cho một số đồng chí lãnh đạo
trong cấm cố ra Bản Chế.
Giải phóng Nhà tù Côn Đảo lần thứ nhất (1945)
Từ năm 1942 bọn Nhật đã đổ quân lên Côn Đảo nhưng ít lâu sau chúng rút về.
Ngày 6-2-1945, tàu chiến Nhật đã đổ lên đảo một toán lính khoảng 20 tên và đóng
lại, bất chấp sự phản đối của lính Pháp. Lính Nhật chiếm ngay đài vô tuyến điện
(T.S.F), tước hết rađiô của những nhân viên Pháp, khống chế khu nhà ở của chúa
đảo và sĩ quan Pháp.
Tên sĩ quan Nhật hằng ngày ra vào dinh Tham biện, trại lính Pháp và các
trại giam tù chính trị để điều tra tình hình. Bọn Pháp hoang mang, lo sợ. Chúa
đảo Tít xe ra lệnh cấm cố tất cả tù nhân thân Nhật đang làm khổ sai ở các nơi
trên đảo vào Banh III. Những tên tù thân Nhật đầu sỏ lồng lộn trong Banh III,
chúng đe dọa và luôn miệng chửi rủa bọn gác ngục Pháp.
Đảng ủy Côn Đảo nhận định mâu thuẫn giữa Pháp và Nhật đã đến mức quyết
liệt, sắp bùng nổ và có thể xuất hiện tình thế cách mạng. Đảng ủy đã chỉ thị
cho tất cả đảng viên phải hết sức tỉnh táo, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống
phức tạp có thể xảy ra. Anh em ở các banh phải cảnh giác cao đó với bọn tù nhân
Nhật, cất giấu kỹ sách báo tài liệu và giữ vững nguyên tắc hoạt động bí mật.
Đảng ủy còn chỉ thị cho tất cả các cơ sở Đảng phải tích cực chuẩn bị vượt
ngục, đưa cán bộ về đất liền tăng cường lực lượng cho Đảng ta đón thời cơ lãnh
đạo võ trang khởi nghĩa giành chính quyền. Nhiều chuyến vượt ngục được chuẩn bị
ngay trong tháng 2-1945. Các cơ sở ở Bản Chế và Nhà Đèn đã cung cấp cưa, đinh,
dây đồng, sơn, dầu hắc, vải bạt... Một số đồng chí ở các sở tù ngoài được lệnh
chọn địa điểm, hạ gỗ, đóng thuyền, đảng ủy khẩn trương bố trí cho một số đồng
chí có năng lực lãnh đạo chuẩn bị vượt ngục. Đồng chí Phạm Hùng sau nhiều năm bị
cấm cố cũng được anh em vận động đưa ra làm ở Bán Chế.
Đêm 9-3-1945, Nhật làm đảo chính, hất cẳng Pháp để trừ hậu họa và độc
chiếm Đông Dương. Hội nghị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngay trong đêm ấy
tại làng Đình Bảng (Bắc Ninh) đã ra chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta. Bản chỉ thị là một cương lĩnh hành động nhằm gấp rút chuẩn bị mọi mặt
tiến tới tổng khởi nghĩa.
Rạng sáng ngày 10-3-1945, hai tàu chiến Nhật đã đổ thêm một trung đội
lính lên Côn Đảo. Không đầy một giờ sau, toàn bộ đại đội bộ binh thuộc địa và mấy
chục gác dang Pháp bị tước hết vũ khí. Quản đốc Tít xe và tên sĩ quan chỉ huy
đơn vị lính Pháp bị bắt giải về Sài Gòn sau đó mấy ngày. Lính Pháp cũng bị bắt
giam, công chức Pháp bị quản thúc tại nhà, còn bộ máy trị tù vẫn được sử dụng
dưới quyền chỉ huy của Lê Văn Trà, một công chức thân Nhật.
Bọn gác ngục người Việt (ma tà) được trọng dụng, được trang bị súng ngắn
thay cho súng trường. Bọn tù thân Nhật được ra khỏi trại giam, nhảy vào làm thư
ký, công chức các công sở trên đảo. Nhiều tên cũng mang súng ngắn vào sục sạo
các trại giam, soi mói bọn gác ngục và rình mò tù cộng sản. Bọn thân Nhật chia
nhau giám sát tất cả gác dang Pháp, nhất là phái Pháp Đờ Gôn. Chúng đã lôi Tút
tu, Lăngtali và nhiều tên gác dang trước đây hung ác ra đánh đập, trả thù. Bọn
gác dang Pháp bị thất thế, lo sợ, bi quan và thờ ơ trong việc coi tù.
Được sự giáo dục của Đảng bộ Nhà tù Côn Đảo, những người tù cộng sản đã
tỏ thái độ đúng mực với gác dang Pháp. Anh em đã giải thích cho họ đường lối của
Mặt trận Việt Minh là chống thực dân, chống phát xít và tay sai để giành độc lập
dân tộc, giống như cuộc đấu tranh của nhân dân Pháp chống phát xít Đức, giải
thích cho họ hiểu về chủ trương liên minh giữa những người cộng sản và những
người Pháp dân chủ chống phát xít ở Pháp cũng như ở Đông Dương.
Anh em còn khẳng định thắng lợi tất yếu của Liên Xô và các lực lượng dân
chủ, tiến bộ chống phát xít đang tới gần và chỉ cho gác dang Pháp cách đối phó
với bọn thân Nhật. Cơrítsơchiani, một gác dang đã từng gây nhiều tội ác đã cảm
phục mà nói với những người tù cộng sản rằng:
-
Có trái tim
như các anh thì không cảnh ngộ nào làm cho đau khổ được.
Tút tu, một gác dang trước đây khét tiếng hung ác cũng bộc lộ thái độ
thiện cảm với tù cộng sản:
-
Trước đây tôi
ghét cộng sản, bây giờ tôi mới thấy người cộng sản đứng đắn, không thù oán cá
nhân.
Bọn thân Nhật không để cho tù cộng sản được yên. Sục sạo mãi không tìm
thấy chứng cớ gì, chúng mạo thư chửi phát xít Nhật và ca tụng Liên Xô đem nộp
cho quan Nhật, nói là bắt được tài liệu của cộng sản, nhưng quan thầy chúng
đang rầu rĩ vì những thất bại liên tiếp của quân đội Nhật trên các chiến trường
nên không có phản ứng gì. Chúng lại tiếp tục bày mưu bắt tù cộng sản ra chào cờ
Nhật nhằm hạ uy thế của của những người tù cộng sản và khủng bố những người chống
đối. Anh em cộng sản hết sức phẫn nộ và kiên quyết chống, nếu chúng bắt chào cờ
Nhật.
Bọn Nhật đang lo lắng cho số phận của chúng trên ác chiến trường nên
không để ý gì đến hành động của đám tay chân. Vẫn không chịu từ bỏ ý đồ đen tối,
bọn thân Nhật xoay sang lập danh sách những người tù cộng sản mà chúng liệt vào
loại “nguy hiểm, đề nghị bọn Nhật thủ tiêu, nhưng rốt cuốc vẫn không thành.
Qua tin tức của những gác dang Pháp thuộc phái Đờ Gôn và những công chức
tiến bộ ở Sở dây thép và Sở dây thép gió, anh em tù cộng sản nắm được tin tức về
phong trào kháng Nhật của ta ở Cao - Bắc - Lạng. Nhận định tình hình cách mạng
đang đứng trước thời cơ lớn, Đảng ủy Côn Đảo chỉ thị cho các cơ sở Đảng gấp rút
tổ chức vượt ngục trở về hoạt động. Các công việc đóng thuyền, tích trữ lương
thực, thực phẩm, thuốc men... được tiến hành rất khẩn trương.
Giữa tháng 4 năm 1945, Đảng ủy bố trí cho các đồng chí Tôn Đức Thắng, Phạm
Hùng về tham gia lãnh đạo cướp chính quyền, cùng đi có Lang Kiều, Cẩm Tài, Văn
Viên. Toustou, Chủ sở Rờsẹc lờ đi nhưng tên Quản Liễn dã cho quân vây bắt lại để
tâng công với quân Nhật. Toustou không đánh, không phạt, chỉ bắt phơi nắng chiếu
lệ rồi cho về khám.
Nghe tin tù cộng sản vượt ngục, bọn thân Nhật lồng lộn lên. Nhiều gác
dang Pháp mà chúng nghi ngờ cũng bị đánh đập dã man. Từ đó bọn thân Nhật càng
tăng cường theo dõi cả gác dang Pháp và tù cộng sản.
Vòng vây của Đồng Minh ngày càng siết chặt Đông Dương, thỉnh thoảng lại
có một chiếc tàu Nhật thất trận dạt vào Côn Đảo. Máy bay Đồng Minh nhiều lần sà
xuống nhằm các tàu Nhật bắn phá. Máy bay Mỹ đã bắn hỏng Hải Đăng - Côn Đảo, bắn
phá cả Sở Lưới, Bản Chế, Nhà Đèn, làm chết một số tù nhân. Máy bay Mỹ còn rải
truyền đơn vận động việc cứu giúp các nhân viên phi hành của Đồng Minh khi bị nạn
và giúp đờ khi quân Đồng Minh đổ bộ lên.
Đảng ủy Côn Đảo ra một chỉ thị phân tích tình bình và xác định nhiệm vụ
cho cán bộ, đảng viên. Chỉ thị đã nhận định: ở Đông Âu, Hồng quân Liên Xô đang
tiêu diệt phát xít Hít le tận sào huyệt của chúng; ở mặt trận phương Đông, quân
Đồng Minh đang thắng Nhật và có thể nhảy vào Đông Dương. Bọn Pháp Đờ Gôn sẽ
theo gót chúng mà trở lại đặt ách đô hộ. Vì thế những người cộng sản phải hết sức
cảnh giác, không những với bọn Pháp Đờ Gôn mà với cả quân Anh - Mỹ; chỉ có dựa
vào nhân dân mới có thể giành được thắng lợi chân chính; phải quyết tâm vượt ngục
trở về để chớp lấy thời cơ giành chính quyền... Bản chỉ thị được phổ biến đến
các cơ sở Đảng trên toàn đảo.
Trước thất bại không thể tránh khỏi, bọn Nhật tổ chức “Lễ trao trả độc lập”
giả hiệu tại sân banh (bãi đá bóng) Côn Đảo. Bọn thân Nhật dựng khán đài quay mặt
về phía đông, kẻ khẩu hiệu và hô hào rùm beng. Trước mật gần 2.000 chính trị phạm,
Lê Văn Trà đọc đạo dụ của chính phủ Trần Trọng Kim, tuyên bố phóng thích tất cả
tù chính trị. Đạo dụ có đoạn viết: “Các chính trị phạm kể từ ngày này được
chính phủ Việt Nam (tức chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim) trả lợi quyền tự do
và coi như mọi người dân khác trong nước”.
Nhưng mỉa mai thay, sau cuộc mít tinh, chúng lại xua ngay tù vào trong
banh, sập cứa lại và cho bọn gác ngục tiếp tục canh giữ. Chỉ có 150 tù thân Nhật
được phóng thích sau đó vài tháng.
Theo sự chỉ đạo của Đảng ủy Côn Đảo, tù nhân Banh II, Banh III đã đấu
tranh đòi được ra ngoài làm, đòi được mở cửa banh và trả lại tự do cho tù chính
trị. Sau nhiều lần đấu tranh với lý lẽ đanh thép, Lê Văn Trà phải nhượng bộ một
bước, cho phần lớn tù nhân ra ngoài làm và mở cửa trại giam từ 6 giờ sáng đến
21 giờ.
Sau khi tiêu diệt hoàn toàn phát xít Đức, ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên
chiến với phát xít Nhật và nhanh chóng đánh bại đạo quân Quan Đông gồm hơn một
triệu quân tinh nhuệ nhất của Nhật. Ngày 15-8-1945, phát xít Đức chính thức đầu
hàng Liên Xô và các nước Đồng Minh không điều kiện. Đảng ta đã lãnh đạo nhân
dân cả nước nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Bọn Nhật ở Côn Đảo cho tàu chở súng đạn ra biển đổ. Chúng phá trạm vô
tuyến điện, đập phá tất cả rađiô, không cho ai nghe tin tức nữa. Chuyến tàu
ngày 25-8-1945 chở những tên lính Nhật cuối cùng và số tù thân Nhật về đất
(trên chuyến tàu ấy còn có 5 đảng viên cộng sản được trả lại tự do). Binh lính
và gác dang Pháp cũng được đưa về Sài Gòn để giao lại cho Đồng Minh. Côn Đảo hết
Nhật, hết Tây, chỉ còn lại khoảng ba ngàn tù nhân do Lê Văn Trà cùng bọn ma tà
cai quản. Một đơn vị linh bảo an được phái ra đảo làm nhiệm vụ giữ trật tự trị
an.
Một số binh lính bảo an vốn là những quần chúng yêu nước. Người sĩ quan
chỉ huy đơn vị bảo an lại là cơ sở của Xứ ủy Nam Kỳ, được Xứ ủy bố trí ra Côn Đảo
'để liên lạc và hỗ trợ anh em tù chính trị. Nhờ đó Đảng ủy Côn Đảo nắm chắc
tình hình Đức - Nhật bại trận, Đảng ta phát động tổng khởi nghĩa và đã giành
chính quyền ở hầu hết các tỉnh từ Bắc chí Nam.
Được biết Xứ ủy Nam kỳ sẽ ra đón tù chính trị ở Côn Đảo về, Đảng ủy Côn
Đảo chủ trương đoàn kết các lực lượng tù chính trị trên đảo giành chính quyền bằng
phương pháp hòa bình, đồng thời nắm chắc lực lượng bảo an làm hậu thuẫn, khi cần
sẽ sử dụng làm áp lực tước vũ khí của bọn gác ngục.
Đảng ủy phân công người đi các banh và các sở tù phổ biến chủ trương cho
các cơ sở Đảng. Hầu hết anh em tù chính trị đều nhất trí với chủ trương của Đảng
ủy, nhưng có một số đồng chí trẻ ở Banh III cứ yêu cầu bạo động cướp chính quyền,
nhất là khi nghe tin bọn Pháp đã nhảy dù xuống nhiều nơi ở Đông Dương thì anh
em càng thôi thúc đòi giành chính quyền ngay và tổ chức vượt biển về đánh Pháp.
Đảng ủy cứ người giải thích cho anh em Banh III rằng cách mạng trong nước
đã thành công, nhất định Đảng và Chính phủ sẽ đưa tàu ra đón tù chính trị; mỗi
một đảng viên còn sống đến hôm nay đều là vốn quý của Đảng mà Đảng bộ Côn Đảo
có trách nhiệm phải bảo vệ bằng được, vì vậy cần tránh nôn nóng để khỏi đổ máu
vô ích. Ý kiến của Đảng ủy được chấp hành một cách nghiêm túc, nhưng một số đồng
chí vẫn ấm ức đến ứa nước mắt.
Thực hiện chủ trương giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình, Trung
tâm lãnh đạo đã cử một đoàn đại biểu đến gặp Quản đốc
Lê Văn Trà yêu cầu:
-
Mở cửa trại
giam suốt đêm ngày. Tù nhân được tự do đi lại.
-
Bãi bỏ hết sự
kiểm soát của ma tà.
-
Trao trả chính
quyền trên đảo cho tù chính trị vì chính quyền trong đất đã về tay Việt Minh.
Lấy lý do là chưa có lệnh của Chính phủ, Trà không chịu bàn giao chính
quyền. Tuy nhiên trước áp lực của tù chính trị, hắn buộc phải đồng ý cho tù
nhân tự do đi lại ban ngày, ban đêm vẫn phải vào khám, khóa cửa lại; đồng ý tổ
chức chính quyền liên hiệp trên đảo, có sự tham gia của tù chính trị; đồng ý tổ
chức sửa chữa vô tuyến điện, sưa rađiô để nghe tin tức; sửa canh để đưa đoàn đại
biểu về đất liền xin ý kiến của Chính phủ.
Sau mấy phiên họp bàn giữa Quản đốc Lê Văn Trà và đại diện tù chính trị,
việc cử đại biểu tham gia bầu cử chính quyền liên hiệp được ấn định một cách rất
chênh lệch: Quản đốc là một đại biểu; công chức 3 người một đại biểu; giám thị
5 người một đại biểu; còn tù chính trị thì 50 người một đại biểu; tù thường
không được tham gia.
Đảng ủy tăng cường công tác tuyên truyền việc giành chính quyền của Việt
Minh ở trong nước và vạch mặt bọn bù nhìn thân Nhật. Nhiều công chức có cảm
tình đã bỏ phiếu cho đại biểu tù cộng sản, nhiều ma tà đã từng bị bọn thân Nhật
hành hạ cũng bỏ phiếu cho tù cộng sản, vì vậy những người cộng sản đã thắng phiếu.
Hội đồng liên hiệp quốc dân Côn Đảo ra đời với phần lớn là tù cộng sản.
Bị lép vế và trơ trẽn trong cuộc bầu cử, Lê Văn Trà và bọn tay sai rút
súng đe dọa những người cộng sản, định xóa bỏ kết quả cuộc bầu cử. Tình thế hết
sức căng thẳng, nhưng lực lượng bảo an yêu nước đã được bố trí án ngữ tất cả cứa
ra vào và cứa sổ phòng bầu cử. Theo hiệu lệnh của đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Đảng
ủy, anh em đồng loạt lên đạn và chĩa súng vào Lê Văn Trà cùng đồng bọn.
Tình thế được xoay chuyển hẳn, đã đến lúc không thể cưỡng lại nữa, Lê
Văn Trà đành hạ súng nộp cho những người cộng sản. Bọn tay chân cũng ngoan
ngoãn làn theo hắn. Chính quyền thực tế ở trên đảo đã thuộc về những người cộng
sản. Lê Văn Trà vẫn được sử dụng để điều hành công việc hành chính dưới sự chỉ
đạo của Đảng ủy Côn Đảo. Đồng chí Lã Vĩnh Lợi, thành viên trong Hội đồng được
cử làm đại diện của tù chính trị trực tiếp làm việc với Lê
Văn Trà để giải quyết mọi việc.
Đảng ủy quyết định tổ chức lực lượng vũ trang để củng cố thực lực của
cách mạng và chiến đấu bảo vệ đảo trong tình huống quân Pháp đổ bộ xâm lược trở
lại. Đoàn phòng thủ Côn Đảo ra đời vào những ngày cuối tháng Tám 1945 với khoảng
300 đội viên, do đồng chí phạm Hùng, Bí thư Đảo ủy trực tiếp phụ trách. Ban chỉ
huy còn có các đồng chí Phan Trọng Tuệ, Quỳnh Tây (Ngô Ngọc Du), Văn Viên và
Thành Ngọc Quản. Vũ khí lúc đầu có vài chục khẩu súng lục tước được của Lê Văn
Trà và hơn chục khẩu súng trường “mượn” của anh em bảo an. Anh em công xưởng (Bản
Chế) ngày đêm rèn giáo mác, mã tấu, để trang bị cho Đoàn phòng thủ. Một số đồng
chí đã từng là du kích Bắc Sơn được cử ra huấn luyện quân sự. Anh em bảo an
cũng giúp việc huấn luyện. Hàng ngày Đoàn phòng thu luyện tập, đi lại rầm rập
trên các khu phố. Khí thế cách mạng bừng bừng, xua tan bầu không khí ảm đạm bao
trùm Côn Đảo trong hơn 80 năm qua.
Đồng chí Tôn Đức Thắng cùng với một số anh em thợ giỏi đi làm việc suốt
đêm ngày, quyết tâm sửa bằng được chiếc rađiô để nghe tin tức và sửa chiếc canh
để liên lạc với đất liền. Tổ thợ máy chế tạo nhiều phụ tùng thay thế, trong
vòng một tuần đã đại tu xong chiếc canô bị hư hỏng nặng.
Một buổi sáng đẹp trời, Côn Đảo bừng lên một tin vui: chiếc rađiô đã được
sửa xong. Hàng chục mái đầu tù hồi hộp chụm quanh chiếc rađiô đang thu sóng điện.
Tất cả lặng đi khi bắt gặp làn sóng điện một đài nước ngoài đang phát lại nội
dung bản Tuyên ngôn độc lập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba
Đình ngày 2-9-1945 và công bố danh sách Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.
Tiếng nói của một dân tộc đã thực sự giành được tự do, độc lập như một
luồng điện lan truyền trong những người tù Côn Đảo. Những giọt nước mắt nóng bỏng
tuôn trào trên gò má sạm nắng của người thợ máy Tôn Đức Thắng.
Đảng ủy Côn Đảo tổ chức ngay một cuộc mít tinh chào lá cờ đỏ sao vàng, mừng
nước nhà độc lập, sau đó chia thành nhiều đoàn tuần hành biểu dương lực lượng
trên các ngả đường Côn Đáo. Lời thề bảo vệ độc lập tự do đã khắc sâu trong lòng
các chiến sĩ Côn
Đảo.
Tình huống thực dân Pháp quay trở lại đặt nền thống trị đã được dự kiến
với quyết tám chiến đấu đến cùng. Có lần một máy bay B.26 của Pháp sà xuống rất
thấp phía mé biển Côn Đảo, lập tức hàng trăm chiến sĩ mang gậy gộc, giáo mác ào
ào xông ra chuẩn bị chiến đấu đánh quân đổ bộ với lời thề: “Thà chết, quyết
không chịu ở tù lần nữa!”
Đảng ủy chỉ đạo tổ chức các đoàn thể quần chúng như Thanh niên cứu quốc,
phụ nữ cứu quốc nhằm giáo dục vận động số công chức, gác ngục và gia đình họ
theo đường lối của Mặt trận Việt Minh. Một số em thiếu nhi, con của những công
chức tiến bộ đã được Đảng ủy sớm chú ý giáo dục lòng yêu nước, giáo dục thái độ
đúng đắn với tù chính trì và tổ chức các em vào Thiếu thi cứu quốc.
Đảng ủy chủ trương dẩy mạnh công tác
tuyên truyền và huấn luyện nhằm đào tạo gấp một đội ngũ cán bộ cho Đảng. Ban
tuyên huấn Đảo ủy biên soạn chương trình Việt Minh, chương trình quân sự và
chính trị cơ bản huấn luyện cho anh em. Rút kinh nghiệm sau nhiều năm đào tạo
và hoạt động, Đảng ủy đã chú trọng đào tạo những cán bộ vừa có lý luận, vừa có
năng lực hoạt động thực tiễn, biết cách tổ chức và vận động quần chúng. Đó là một
bước tiến trong việc huấn luyện và đào tạo cán bộ trong tù.
Đồng chí Lê Văn Lương, Đảo ủy viên được phân công trực tiếp chỉ đạo xuất
bản tờ báo Độc Lập để góp phần phổ biến đường lối chính sách của Đảng ta và của
Mặt trận Việt Minh. Ban biên tập có các đồng chí Nguyễn Xuân Hoàng, Trịnh Đình
Trọng, Nguyễn Văn Vịnh, Nguyễn Mạnh Hoan, Sư Thiện Chiếu... Báo in thạch được
khoảng 20 bản. Vì không có giấy khổ lớn nên phải in trên nhiều trang giấy học
trò, khổ nhỏ như cuốn tạp chí; trang đầu in hai chữ Độc lập thật to, tiếp theo
là bài xã luận nhan đề: Kiên quyết bảo vệ Độc lập - Tự do của Tổ quốc.
Rước chính trị phạm về đất liền
Ngay sau khi giành được chính quyền ở Sài Gòn, Xứ ủy Nam Kỳ triệu tập cuộc
họp ngay trong đêm 25-8-1945 để bàn việc tổ chức chính quyền cách mạng. Quyết định
đầu tiên của Xứ ủy là phải lập tức giải phóng Nhà tù Côn Đảo và tổ chức đón các
chiến sĩ cách mạng ở Côn Đảo trở về. Hai đồng chí Đào Duy Kỳ và Nguyễn Công
Trung vừa ở Côn Đảo về trong chuyến tàu ngày 25-8-1945 được giao nhiệm vụ này.
Một ủy ban ủng hộ chính trị phạm được thành lập tại trụ sở báo Dân Chúng.
Bọn Pháp ở Sài Gòn đã câu kết với bọn Nhật đang đóng quân chờ giải giáp
phá hoại việc tìm kiếm tàu thuyền. Chúng xui bọn Nhật tịch thu mất chiếc tàu Đờ
Lanétxăng (De Lanessan) mà anh em công nhân Cảng Sài Gòn đã kéo về sửa chữa để
đón tù chính trị. Được sự chỉ đạo trực tiếp của ủy ban hành chánh Nam Bộ và sự
giúp đỡ tận tình của chính quyền cách mạng tỉnh Gò Công, ủy ban ủng hộ chính trị
phạm đã huy động được chiếc tàu Phú Quốc cùng 32 chiếc ghe bầu chuyên đi biển.
Đồng chí Chủ tịch ủy ban hành chánh Nam Bộ Trần Văn Giàu còn ký quyết định huy
động 2 chiếc tàu kéo để nhanh chóng đưa đoàn ghe về địa điểm tập kết. Anh em
công nhân Cảng Sài Gòn đã làm việc đêm ngày, tu sửa thật tốt con tàu Phú Quốc để
sớm ra đón tù chính trị.
Ngày 12-9-1945, hai chiếc tàu kéo rời bến đưa đoàn ghe từ Vàm Láng (Gò
Công) về tập kết tại cửa biển Đại Ngãi (Sóc Trăng), nơi thuận gió để giong buồm
ra Côn Đảo. Anh Lý Văn Chương, một quần chúng cảm tình, ủy viên ủy ban ủng hộ
chính trị phạm được cử phụ trách đoàn ghe. Đồng chí Tương Dân Bảo là đặc phái
viên của ủy ban hành chánh Nam bộ ra rước anh em tù chính trị đi trên tàu Phú
Quốc. Biết tin có đoàn ghe đi rước chính trị phạm, ủy ban hành chánh tỉnh Mỹ
Tho và ủy ban hành chánh huyện Trà Ôn (Cần Thơ) đã mua trên 10 tấn gạo và thực
phẩm gửi ra tiếp tế cho các đồng chí ở Côn Đảo.
Được sự hướng dẫn của đồng bào đánh cá vùng này, 5 giờ sáng ngày
16-9-1945, đoàn ghe nhổ neo, căng buồm ra Côn Đảo. Gần trưa, một cơn giông lớn ập
đến, sóng gió dữ dội đánh tan đội hình đoàn ghe, có chiếc lạc đến tận cù lao
Nam Sa, có chiếc dạt về Cồn Nốc. Anh em thủy thủ phải hạ buồm, lựa theo con
sóng mà lái. Một thủy thủ bị cánh buồm gạt phăng xuống biển, sóng cuốn đi mất
tích. Trận giông lớn làm lạc mất 7 chiếc ghe và làm các thủy thủ đều say sóng mệt
lả nhưng 25 chiếc ghe còn lại đều quyết tâm ra Côn Đảo. 19 giờ ngày 16-9-1945,
hai chiếc ghe đi đầu đã cập bãi Cỏ Ong - Côn Đảo. Tàu Phú Quốc cũng đến Cỏ Ong
trong đêm ấy. Một số ghe bị dạt về Cồn Nốc nhờ đồng bào cư dân ở đây giúp đỡ đã
sửa lại neo buồm và tiếp tục trở ra Côn Đảo trong những ngày sau đó.
Thấy tàu lạ, tổ quan sát ở Cỏ Ong lập tức cử người băng rừng về Côn Đảo
báo cáo ngay trong đêm. Đoàn phòng thủ Côn Lôn được lệnh triển khai lực lượng
chiến đấu. Suốt đêm hôm ấy Ban chỉ huy lo bố trí lực lượng theo phương án đánh
quân đổ bộ trên 3 tuyến phòng thủ. Trong khi đó, tổ quan sát ở Cỏ Ong cử một số
chiến sĩ dùng thuyền thúng áp sát tàu để điều tra mới biết là tàu của Chính phủ
ra đón tù chính trị.
Tổ quan sát cứ người về ngay Côn Đảo báo cáo lúc rạng sáng ngày
17-9-1945. Đồng chí Tôn Đức Thắng cùng cùng đồng chí Lã Vĩnh Lợi được Đảo ủy cử
sang Cỏ Ong đưa đoàn tàu thuyền và phái đoàn của Chính phủ về cầu tàu trong tiếng
hò reo vang dậy. Cờ, khẩu hiệu và người chen nhau chật cầu tàu Côn Đảo. Cuộc
mít tinh diễn ra ngay tại chỗ, nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu của Chính phủ.
Đồng chí Tưởng Dân Bảo gặp lại những người bạn tù năm xưa, ôm nhau mừng đến rơi
nước mắt.
Buổi chiều ngày 17-9-1945, cuộc mít tinh chính thức được tổ chức trọng
thể tại sân banh Côn Đảo. Lễ đài được dựng trang nghiêm hướng về phương Bắc. Đồng
chí Tưởng Dân Bảo đọc quyết định của ủy ban hành chánh Nam Bộ về việc đón chính
trị phạm Côn Đảo và tuyên bố: Từ giờ phút này, Côn Đảo là một mảnh đất hoàn
toàn tự do và độc lập. Tham tá Lê Văn Trà nộp ấn tín của nhà ngục Côn Đảo lên vị
đại diện của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Một loạt súng nổ vang
cùng những tiếng hò reo như sấm rền trên Côn Đảo giải phóng.
Các đại biểu của Đảo ủy, của Đoàn phòng thủ Côn Lôn, đại diện Thanh niên
cứu quốc và Thiếu thi cứu quốc Côn Đảo đã phát biểu trong cuộc mít tinh. Trên
2.000 người dự mít tinh và chia thành nhiều đoàn tuần hành qua cát ngả đường và
hò vang các khấu hiệu cách mạng. Những đảng viên người Hoa và những người tù
chính trị Campuchia cũng hân hoan hát những bài ca bằng tiếng Trung Hoa và tiếng
Thơm.
Trong giây phút thiêng liêng của tự do và độc lập, mọi người đều ngậm
ngùi tưởng nhớ đến hàng ngàn người con ưu tú đã hy sinh trong những năm tháng
khủng bố ác liệt của kẻ thù. Anh em tù chính trị chia nhau đi viếng mộ và tạc
bia cho các đồng chí của mình. Lối chôn tù vô nhân đạo của bọn chúa ngục làm
cho việc tìm mộ từng người rất khó khăn. Gió cát đã xóa đi dấu vết riêng biệt của
từng ngôi mộ. Hàng ngàn nấm mộ chỉ còn là những mô cát nhấp nhô. Nhiều gò cát bị
mưa gió làm xói lở để lộ ra từng mảng xương trắng xám. Đoàn đại biểu của Chính
phủ cùng với các thủy thủ đã kính cẩn đặt vòng hoa trên mộ nhà chí sĩ yêu nước
Nguyễn An Ninh và mộ đồng chí Lê Hồng Phong. Không ai cầm được nước mắt khi đứng
trước hàng ngàn nấm mồ vô danh của nhiều thế hệ, giữa một vùng cát vàng, xương
trắng mênh mông.
Được tin Chính phủ ra sắc lệnh xây dựng Quỹ độc lập và tổ chức Tuần lễ
vàng (4-9-1945), Đảo ủy đã thành lập Ban vận động quyên góp tiền và vàng đóng
góp cho nước nhà. Các đoàn thể Thanh nên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc cũng tích cực
tuyên truyền vận động. Nhiều công chức, ma tà vừa được trở thành công dân của một
nước độc lập đã tháo cả nhẫn vàng, dây chuyền ra đóng góp cho cách mạng. Chỉ
trong mấy ngày, Ban vận đóng đã thu được một số tiền và vàng trị giá 2.000 đồng
(tiền Đông Dương) đem về góp cho Chính phủ.
Đảo ủy lập danh sách toàn bộ tù chính trị để đưa về đất liền. Những người
tù chính trị người Trung Quốc, Campuchia, Lào, Thái Lan cùng một số tù tường phạm
và công chức đã giác ngộ cũng được bố trí đưa về đất liền. Đảo ủy còn lập một
danh sách những đảng viên trung kiên, đã được thử thách trong tù để giới thiệu
với Đảng. Anh em thủy thủ tích cực tu sửa thuyền buồm cho chắc chắn.
Rạng sáng 23-9-1945, tàu Phú Quốc cùng 25 chiếc ghe bầu đá nhổ neo đưa 1.800
tù chính trị trở về đất liền. Chiếc canô mà anh em tù chính trị đã chữa lại được
mang tên Giải phóng, do chính tay người thợ máy Tôn Đức Thắng lái đưa một số đồng
chí trong Ban lãnh đạo trở về. Đảo ủy phân công một đồng chí ở lại lãnh đạo những
anh em tù còn chờ chuyến tàu sau. Tháng 9 biển thường nổi giông, đoàn ghe lại bị
một trận sóng to gió lớn giữa biển như để thử thách cả đoàn thủy thủ và đoàn tù
chính thức trên đường trở về. Chiếc canh Giải phóng bị đánh văng mất một thùng
dầu.
Toàn bộ danh sách Đảo ủy bố trí đưa về khoảng 2.300 người. Tàu Phú Quốc
chỉ chở được hơn 400, môi ghe chở được từ 40 đến 60 người, chiếc canh chở 13
người. Còn lại khoảng 500 người, tàu Phú Quốc phải ra chuyến nứa mới chở hết.
và làm vỡ chiếc la bàn mà đồng chí Tôn Đức Thắng tự chế. Sóng lớn nhồi lắc làm
nước cặn trong đáy thùng dầu nổi lên, khiến máy bị chết nhiều lần. Tổ thợ máy vừa
lái canh vừa thay nhau xả cặn nước trong máy và chăm sóc các đồng chí say sóng
ói mửa. Từ khi vỡ la bàn, đồng chí Tôn Đức Thắng không rời tay lái, nhằm bướng
gió mà cắt sóng trở về phía đất liền.
Chiều 23-9-1945, tàu Phú Quốc và những chuyến ghe đầu tiên đã cập bến Đại
Ngãi (Sóc Trăng) trong sự tiếp đón nồng nhiệt của Đảng bộ và nhân dân địa
phương. Chiếc canô Giải phóng sau nhiều lần trục trặc trên biển đã được đồng
chí Tôn Đức Thắng điều khiển chạy vào cửa biển Mỹ Thanh. Bác Tôn là người cầm
lái vĩ đại không phải chỉ trên chiếc canh này mà trong suốt 15 năm trong ngục
Côn Đảo. Bên cạnh Bác là hai chàng trai trẻ Lê Văn Lương - Phạm Hùng đầu đội án
ghém, gan góc và thông minh khiến cả dám gác ngục Tây - ma tà đều kính nể,
nhưng với đồng chí mình thì rát đỗi thân thương. Lê Văn Lương nắm chặt tay Phạm
Hùng, ngắm nhìn gió biển lướt trên mái tóc bạc bồng bềnh của Bác Tôn trong bình
minh của Tự do - Độc lập.
Đồng bào ở các cửa biển được chính quyền cách mạng thông báo trước đã
căng cờ, khẩu hiệu đón tù chính trị từ nhiều ngày. Canh còn cách bờ hơn một cây
số, ghe xuồng ở trong đất đã lao ra vây quanh đón anh em tù chính trị. Nhiều đồng
chí lả đi trên tay đồng bào. Các bà má và các chị phụ nữ không ai cầm được nước
mắt.
Đêm hôm ấy được tin từ Sài Gòn báo về, bọn Pháp phản động đã nổ súng
đánh phiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược lần thứ hai. Đồng chí Phạm Hùng và một
số đồng chí trong Đảo ủy vội lên xe về ngay Sóc Trăng để gặp Xứ ủy nhận nhiệm vụ.
Đồng chí Tôn Đức Thắng cùng hai người thợ máy là Nguyễn Hùng Minh và Nguyễn Hồng
Phước cũng lên canô về Cần Thơ ngay trong đêm.
Theo đề nghị của Đảo ủy Côn Đảo, những đồng chí ở Nam Bộ được bố trí trở
về quê và được Xứ ủy giới thiệu với chính quyền địa phương để tham gia công
tác. Hàng trăm đồng chí quê ở miền Bắc dều tình nguyện ở lại tham gia cuộc
kháng chiến theo lời kêu gọi của Xứ ủy và ủy ban hành chánh Nam Bộ.
Đồng chí Tôn Đức Thắng cũng nhận nhiệm vụ ngay, không kịp ghé thăm người
vợ yêu quý và hai người con gái lúc ấy đang ở cách Cần Thơ chỉ vài chục cây số.
Mười bảy năm ở tù, từng ngày từng giờ đấu tranh chống lại cùm xiềng và đày ải đồng
chí hiểu hơn hết giá trị của độc lập, tự do, cần phải bảo vệ bằng “tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải” của mình, như lời của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong Tuyên ngôn Độc lập.
Tàu Phú Quốc trở ra đảo một chuyến nữa đón ngay các đồng chí còn ở lại
Côn Đảo. Do tình hình trong đất đang phức tạp, những người tù thường phạm chưa
được đón về, nhưng họ được coi như những công dân tự do giống như những người
công chức, ma tà trên hòn đảo này. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đại diện của Việt
Minh ra lần này hướng dẫn những người tù thường phạm và công chức, ma tà còn ở
lại tổ chức chính quyền trên đảo. lviặc dầu chính quyền mới còn nhiều hạn chế, ủy
ban hành chánh Côn Đảo đã được bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu thay
thế cho bộ máy trị tù của thực dân Pháp trước đây.
Gần 2.000 tù chính trị ở Côn Đảo trở về đã tăng cường
một lượng cán bộ lãnh đạo rất to lớn cho Đảng ta. Hàng trăm đồng chí được cử
vào cương vị lãnh đạo chủ chốt của Xứ ủy, Khu ủy, Tỉnh ủy, ủy ban hành chánh
kháng chiến các cấp và trong lực lượng vũ trang trong hí”ng ngày đầu kháng chiến
chống thực dân Pháp ở sam Bộ. Cũng chính những người tù này không đầy 9 năm sau
đã cùng với quân và dân ta làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động
dịa cầu, đóng chiếc đinh cuối cùng vào cỗ quan tài chủ nghĩa thực dân cũ của
Pháp ở Đông Dương.
1.
Trước khi vào khám, tù nhân phải cởi trần truồng,
dang hai chân, hai tay, cúi gập người. há miệng, chổng mông cho bọn gác dang
xét. Động tác kỳ quặc ấy tù nhân thường gọi đùa là “điệu múa phượng hoàng vỗ
cánh” hoặc là “mùa phượng hoàng”.
2.
Nghĩa địa Hàng Keo chạy dài khoảng 2km, từ phía trước
Banh III đến giáp Lò Vôi, lối vào nghĩa địa có hai hàng cây keo nên gọi Hàng
Keo. Nghĩa địa Hàng Dương là khu động cát từ chân Sở Ruộng ra đến giáp Banh
III. Những ngôi mộ đầu tiên ở nghĩa trang này là những tù nhân chết tại “Bệnh
xá kiết lỵ Sở Ruộng”. Họ được chôn ngay tại đồi cát giáp Sở Ruộng. Khi đào móng
xây tường rào bao quanh nghĩa trang (1985), đơn vị thi công còn xới lên nhiều
hài cốt tù nhân. Tại khu vực này, hiện nay vẫn còn nhiều ngôi mộ bị bỏ ngoài tường
rào Nghĩa trang Hàng Dương, nhiều chỗ xác tù bị vùi chống chất lên nhau nhiều lớp,
mưa gió làm xói lớp cát trên mặt, để lộ ra từng mảng xương người lẫn trong cát.
Có chỗ đào sâu xuống hơn 2 mét vẫn còn thấy xương tù.
3.
Bao đựng đồ, đan bằng một loại cỏ ống mọc nhiều ở
vùng đồng trũng Nam Bộ.
1. Bài hát được nhiều người yêu thích và phổ biến trong những
năm kháng chiến chống Pháp ở Côn Đảo. (Phụ trương báo Quân đội nhân dân, tháng
8-1985, tr. 25).
1. Trong nghị quyết Hội nghị Bơradavin (1944) của Chính phủ
Lâm thời Cộng hòa Pháp (Chính phù lưu vong), cũng như tuyên bố của Đờ Gôn sau
đó về chính sách thuộc địa tương lai của Pháp thì Đông Dương phải trở thành 5 xứ
tự trị (Lào, Campuchia, Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ) do một Toàn quyền Pháp đứng
đầu (!). Chưa khi nào người Pháp nhắc tới quyền độc lập của các dân tộc thuộc địa.
Sau khi đưa toàn bộ tù chính trị và tù thường phạm đã giác ngộ về tham
gia kháng chiến, kể cả những người quốc tịch Lào, Khơme, Thái Lan, và Trung Quốc,
đặc phái viên của Chính phủ, Đảo ủy đã sắp xếp cho gần một ngàn tù thường phạm ở
lại được sinh hoạt tự do, dưới sự quản lý hành chính của Lê Văn Trà.
Bên cạnh đó, có Hội đồng tù nhân giống như hình thức chính quyền liên hiệp
trước đó, nhưng có khác một điểm căn bản là hội đồng này gồm toàn tù thường phạm.
Bộ máy hành chính ở đảo được giữ lại những cơ quan cần thiết, và được tổ chức lại
theo mô hình của một chính quyền Việt Minh. Các đoàn thể Thanh mến cứu quốc Phụ
nữ cứu quốc, Thiếu nhi cứu quốc vẫn được duy trì. Cờ đỏ sao vàng được treo trên
các trụ sở và cơ quan.
Những người tù thường phạm ở lại đều được tự do, được đi lại tìm kiếm
công việc làm ăn như mọi công dân khác. Một số tù nhân có tay nghề và sức khoẻ
được chọn vào kíp đánh cá ở Sở Lưới và phục vụ tại Nhà Đèn, còn phần lớn thì
làm ruộng làm rẫy để giải quyết lương thực, thực phẩm. Những người trước đây
quen ở Sở rẫy nào thường tìm về sở cũ để trồng tỉa. Họ hưởng một phần lớn hoa
màu và đóng góp một phần hoa lợi vào việc duy trì bộ máy hành chính.
Số gác ngục quốc tịch Pháp còn ở đảo và số thủy thủ người đáo Madagascar
bị đắm tàu được tập trung tại Banh III. Trường tiểu học vẫn mở cửa. Con em của
các công chức và gác ngục tới trường khai giảng một năm học mới, nhưng chương
trình chưa có gì thay đổi. Các công chức vẫn tới nhiệm sở. Một số tư thương ở đất
liền theo thuyền đánh cá đem hàng ra đảo buôn bán.
Đằng sau vẻ yên tĩnh bề ngoài, người dân Côn Đảo vân nơm nớp lo âu vì những
tin tức tái chiếm của thực dân Pháp; vì thiếu liên lạc và tiếp tế từ đất liền;
vì nguy cơ không thể tự túc được khi kho lương thực dự trữ đã sắp cạn, v.v...
Chế độ cai trị tàn bạo của thực dân Pháp đã để lại hố ngăn cách quá sâu, khó lấp
cho bằng giữa những viên gác ngục thô bạo trước đây và những tội nhân thường phạm
đã bị lưu manh hoá. Cả hai nhóm người này đều chẳng ai muốn ở lại đây nữa, nhất
là tháng 10-1945, một tàu chiến Pháp chạy qua nã đại bác vào Côn Đảo, đạn rơi
trúng Banh III làm chết mấy thủy thủ người Madagascar thì nỗi lo sợ và tâm trạng
đó lại càng tăng lên gấp bội.
Trung tuần tháng 12-1945, ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ lại cử phái
đoàn Văn Cừ ra Côn Đảo lần thứ hai, với nhiệm vụ thu gom vũ khí và đưa một số
máy móc ở Bản Chế về trang bị cho xưởng quân giới Nam Bộ. Trưởng đoàn Văn Cừ đã
chấn chỉnh lại bộ máy chính quyền trên đảo, kêu gọi những công nhân là thường
án trước đây yên lòng ở lại làm ăn, chờ khi có điều kiện, thì Chính phủ sẽ đưa
thuyền ra đón. Trong lúc chờ đợi, nếu ai tự chuẩn bị được phương tiện thì Chính
phủ không cấm việc trở về quê quán.
Trước sự chứng kiến của phái đoàn Văn Cừ, Lê Văn
Trà tổ chức một cuộc bầu cử dân chủ trên đảo vào ngày 11 -12-1945. Sáu đại biểu
của giới công chức, giám thị cũ và sáu đại biểu của tù thường phạm cũ đã được bầu
vào chính quyền mới. Ngày 15-12-1945, ủy ban hành chính mới - do Trương Văn Thoại
(tức Sơn Vương) làm chủ tịch đã ra mắt dân đảo. Lê Văn Trà và số lính bảo an
theo phái đoàn Văn Cừ về đất liền.
Trương Văn Thoại người gốc Gò Công, thân sinh là điền chủ
Trương Đình Cung. Thoại được học hành, sáng tác được vài truyện ngắn, in thành
tập sách nhỏ hoặc đăng tải trên báo chí hàng ngày, trong đó có truyện Chén cơm
lạt được độc giả chú ý, nhưng rồi cuộc sống xô đẩy Thoại vào con đường giang hồ,
trở thành tướng cướp nổi danh ở chợ Cầu ông Lãnh.
Sơn Vương - Trương Văn Thoại có ít nhiều uy tín trong đám công chức và
trong giới tù. Bề ngoài Sơn Vương mềm mỏng, cởi mở, nhưng khi cần có thể thi thố
những thủ đoạn “kinh thiên động địa”, làm cho các phe chống đối cũng phái nể sợ.
Buổi đầu nắm quyền, Sơn Vương được dư luận xem là người sốt sắng với bổn phận,
tỏ ra thật sự quan tâm đến công việc chung. Sau buổi lễ ra mắt của ủy ban hành
chính Côn Đảo Sơn Vương tổ chức đợt lao động gặt lúa tập thể. Chỉ trong mấy
ngày, các ruộng lúa trên cánh đồng phía tây Côn Đảo đã được gặt xong. Thóc lúa
sau khi phơi khô được chuyển vào các kho của đảo. Đám công chức, giám thị xưa
chỉ quen việc quản tù, nay cũng phải lao động thật sự. Các thành viên trong ủy
ban cũng tham gia lao động với mọi người.
Ủy ban cải tiến một số quy định trong việc đánh bắt và phân phối cá để
khuyến khích sản xuất. Theo quy định mới, Sở Lưới tổ chức đánh cá theo kiểu
kinh doanh tư nhân, buổi đầu có hoạch toán. Cá đem bán chứ không phân phối như
trước. Tiền bán cá một phần do Sở Lưới quản lý để mua sắm ngư cụ, một phần chia
cho người đánh bắt. Biện pháp này làm cho nhân viên Sở Lưới phấn khởi, sản lượng
cá tăng lên đáng kể.
Tình hình vệ sinh trên đảo cũng có tiến bộ. Uy ban quy định mỗi nhà phải
có thùng rác và tự làm vệ sinh khu vực công cộng trước nhà. Xe của Sở Vệ sinh sẽ
đến thu rác vào những giờ nhất định. Mỗi gia đình tự thanh toán tiền cho nhân
viên Sở Vệ sinh. Khu vực nào bẩn hoặc có rác đổ bừa bãi thì những nhà gần đó đều
phải liên đới chịu trách nhiệm. Những quy định đó tuy có vẻ khắt khe nhưng đem
lại hiệu lực là sạch đẹp thị trấn.
Ủy ban khuyến khích tư nhân mở cửa hàng buôn bán; khuyến khích những tư
thương trong đất liền đem hàng ra đảo, đồng thời có biện pháp ngăn cấm việc đầu
cơ tích trữ và tự tiện nâng giá hàng. Để khắc phục tình trạng khan hiếm thuốc
chữa bệnh, một lương y đã được mời ra thành lập Ban thuốc Nam để tìm kiếm dược
liệu và trị bệnh cho dân.
Sau nạn thiếu lương thực, thực phẩm thì nạn khan hiếm vải mặc cũng là một
mối lo lắng của người dân đảo Hội phụ nữ đã tận dụng số vải vụn trong kho, may
thành quần áo cộc để phát cho những người không đủ vải che thân. Cô Hoàng Hoa,
giáo viên trường tiểu học, con Vệ Liễn (Giám thị trưởng thời Lê Văn Trà) được
Sơn Vương giới thiệu làm Hội trưởng Hội phụ nữ thay Huỳnh Thị Bốn (con giám thị
Chuẩn).
Đối với người dân Côn Đảo thời ấy, vượt lên trên cả mối lo thiếu ăn, thiếu
mặc là sự nhũng nhiễu của những người có quyền thế. Sở cảnh sát do Nguyễn Thành
Út nắm. Út nổi tiếng là tay bịp bợm, bị án 10 năm khổ sai và lưu xứ, bị đày ra
Côn Đảo ngày 17-10-1939. Ngay khi đắc cử cảnh sát trưởng quần đảo, Út đã đưa lũ
đàn em lưu manh vào Sở cảnh sát. Hậu quả là nạn cướp bóc, cạy cửa khoét vách, bắt
người tống tiền xảy ra liên miên.
Ủy ban tổ chức cho dân đảo bầu Hội đồng dân biểu - cơ quan tư vấn và
thanh tra hoạt động của chính quyền. Hội đồng gồm 6 ủy viên: Một công dân gốc
thường án, một thi sĩ, một chủ nhà máy đèn, một đại diện lính bảo an, một nữ
giáo viên tiểu học, một nữ quốc tịch Pháp và một thủy thủ người Madagascar. Hội
đồng có nhiệm vụ thu thập ý kiến của dân và hạn chế những việc bắt người vô cớ ức
hiếp dân chúng của những kẻ có quyền thế. Trước tình thế quần đảo bị cô lập và
dân chúng thiếu an tâm, ủy ban cứ phái đoàn về đất liền xin tiếp tế và vận động
một số phụ nữ ra đảo lập nghiệp, xây dựng gia đình với anh em tù nhân cũ.
Trần Phẩm (cựu tù nhân) và giám thị Đức, hai thành viên trong ủy ban được
giao nhiệm vụ này. Nhưng khi ấy Pháp đã chiếm Sóc Trăng nên họ không liên lạc
được với ủy ban hành chánh Nam Bộ và không tìm được đồng chí Văn Cừ. Giám thị Đức
ở lại Sóc Trăng, còn Trần Phẩm quay trở lại đảo với những tin tức làm nản lòng
mọi người: Pháp đã chiếm hầu hết các tỉnh Nam Bộ, giao thông tắc nghẽn, không
có triển vọng gì sáng sủa.
Khả năng Pháp tái chiếm Côn Đảo là có thật. Nhiều người đã bí mật tìm
cách vượt đảo, mặc dù họ biết, nếu bị phát hiện hoặc đi không thoát sẽ bị Sơn
Vương xử phạt rất nặng (9 tháng xà lim).
Thực dân Pháp tái chiếm
Côn Đảo, lập lại nhà tù Côn Đảo
Ngày 18-4-1946, ba chiến hạm Pháp đã đổ bộ 2 đại đội bộ binh lên chiếm lại
Côn Đảo. Mờ sáng, khi nước thủy triều đang lên thì chiến hạm Pháp bắn đại bác dọn
đường. ít phút sau, tàu đổ bộ cập bãi Nhà Thờ. Bộ binh Pháp, lính âu Phi và cả
lính bản xứ kéo về thị trấn theo đội hình hành quân. Tên tù gian Đoàn Công
Thành đã kịp lẻn ra Sở Muối cung cấp tin tức và dẫn đường cho lính Pháp chiếm đảo.
Cuộc hành quân tái chiếm không gặp trở ngại gì.
Sơn Vương tập trung dân chúng tại trụ sở để nghe ông đọc bản diễn văn
bàn giao chính quyền. Đại úy Gimbe (Gimbert), người chỉ huy cuộc hành quân tái
thiết không cần đến bài diễn văn ấy. Gimbe ra lệnh bắt giam Sơn Vương và bốn
trăm cựu tù thường phạm còn lại.
Gimbe trở thành Giám đốc quần đảo và Nhà tù Côn Đảo, tên chúa đảo thứ 34
người Pháp. Gimbe có nhiệm vụ nhanh chóng khôi phục nhà tù Côn Đảo để đưa số tù
kháng chiến đang đầy ắp ở Khám Lớn Sài Gòn ra đảo.
Tính cấp bách của việc tái chiếm quần đảo, khôi phục nhà tù là một lý do
khiến cho người ta có thể hiểu được vì sao người Pháp lại phải dùng đến hai đại
đội bộ binh, dưới sự yểm trợ của không quân và pháo binh đặt trên 3 chiếc tàu
chiến, cùng với một đơn vị xe bọc thép để tấn công một hòn đảo không có lực lượng
võ trang, không có lấy một khẩu súng trường và công sự chiến đấu Trong khi đó
thì quân Pháp đang phải căng mỏng trên khắp các mặt trận ở đất liền.
Gimbe tiếp quản ngay được cơ ngơi đồ sộ của một nhà tù nổi tiếng ở Đông
Dương. Côn Đảo còn nguyên dáng dấp của một thị trấn tù với những biệt thự tiện
nghi cho quản ngục cùng với ba trại giam cỡ lớn và 30 sở tù rải khắp đảo đã từng
chứa đến hơn 5.000 tù trong những năm trước. Trong điện văn số NR-26 gửi ủy viên
cộng hoà Pháp tại Nam Kỳ, Gimbe đã mô tả thực trạng Côn Đảo:
“Khi tôi đến, thì thấy tình trạng Côn Đảo rất khá quan. Nhà cửa còn
nguyên vẹn, phố xá sạch sẽ, nhà nào cũng còn đồ đạc, nhà máy điện vẫn đang hoạt
động. Bốn gác - dang quốc tịch Pháp còn ở lại với gia đình họ. Bốn thủy thủ người
đảo Madagascar đã ra đi, số người còn lại ở lại đều khỏe mạnh. Họ không bị xử tệ
quá đáng”.
Gimbe bắt tay vào việc củng cố lại nhà tù. Theo sau đội quân tái chiếm
có cả những gác dang Pháp từng ở Côn Đảo và Khám Lớn trước đây. Những thấy chú
(giám thị người Việt) có mặt ở Côn Đáo cũng được gọi ra làm việc lại.
Sau hơn một tháng củng cố lại bộ máy nhà tù, Gimbe đã tiếp nhận chuyến
tù nhân kháng chiến đầu tiên, bị đày từ Khám Lớn Sài Gòn ra Côn Đảo vào cuối
tháng 5-1946, gồm hơn 300 người.
Từ năm 1946 đến 1950, Côn Đảo chỉ có một loại tù án. Phần lớn họ là người
tham gia kháng chiến bị thực dân Pháp bắt và đưa ra tòa án binh xét xử. Tháng
4-1951, thực dân Pháp mới bắt đầu đưa tù binh ra Côn Đảo. Phân biệt tù binh với
tù án chỉ là sự phân biệt theo thủ đoạn cai trị của thực dân Pháp. Thực chất, họ
đều là những người kháng chiến. Trong số tù án còn có tù án chính trị và tù án
tư pháp (thường phạm), nhưng sự phân biệt rõ rệt nhất, và cũng là sự phân hóa
sâu sắc nhất trong nội bộ tù nhân giai đoạn này là tù trung kiên và tù giam.
Tính đến ngày 31-12-1946, Nhà tù Côn Đảo có 784 tù nhân (Báo cáo nguyệt
kỳ số 774P ngày 8-2-1947). Mọi sinh hoạt trên đảo đều dựa vào sức lao động của
tù nhân, như việc sản xuất lương thực thực phẩm, công việc điện nước cho đến
công việc thư ký, kế toán tổng hợp, sửa chữa máy móc các loại, sản xuất công cụ
lao động, v.v... Đây là lối bóc lột tù nhân một cách triệt để của thực dân
Pháp, nhưng đồng thời cũng là một lợi thế khi người tù ý thức được vị trí của họ.
Bộ máy điều hành nhà tù vẫn tuân theo Quy chế ngày 17-5-1916. Dưới quyền
Giám đốc là Giám thị trưởng, kế đó là xếp banh và các chủ sở rồi đến giám thị
Pháp, Việt. Bên cạnh đó có bộ máy hành chánh phục vụ cho nhà tù bao gồm Kho Bạc,
Nhà Thương, Nhà Đèn, Sở Dây Thép, Sở Cò (hiến binh), Sở Rờsẹc (truy tầm tù trốn),
Trường tiểu học Pháp Việt, hợp tác xã tiêu thụ... Trong bộ máy hành chính này
thì Chủ sở Kho Bạc có vị trí quan trọng ngang với Giám thị trưởng, có thể thay
thế khi Giám đốc vắng mặt.
Chế độ khổ sai, chế độ kỷ luật của nhà tù và sự tàn bạo của gác ngục
Pháp nhìn chung không có gì khác trước Đốn củi, kéo gỗ, dọn tàu, mò san hô, sửa
pha Bảy Cạnh hay đập đá, làm đường... vẫn là những công việc khổ sai rùng rợn.
Đòn roi như cơm bừa, xiềng đơn, xiềng đôi xiềng tạ, xà lim, hầm dá, cấm cố, biệt
lập là những hình thức phổ biến để trấn áp người tù. Vẫn cảnh đánh phủ đầu từ cầu
tàu, bắt ngồi cúi đầu điểm danh bằng cách gõ cù ngoéo lên đầu; vẫn trần truồng
“múa phượng hoàng” cho chúng xét khi qua cửa. Tù nhân kháng chiến đã phải đổ
khá nhiều máu để chống lại những lối hành hạ man rợ ấy.
Gác ngục thì mỗi tên một vẻ hung ác. Viđan, Pôn Henri, Ăngđơrê, Loadô,
Saden thích đánh tù như một thú tiêu khiển. Không thấy máu tù chảy là chúng ăn
cơm không ngon. Lanh ghê thường dùng cù ngoéo có đóng đinh, đánh vào đâu là dứt
thịt, toé máu. Noócmăng đánh tù bằng bất cứ thanh sắt, khúc củi hay hòn đá nào
mà hắn vớ được. Bênarét là hung thần Sở Củi. Hắn đừng đánh đến chết một tù nhân
ngay tại sân củi vì không chịu nộp đủ mức khổ sai vào tháng 11- 1948.
Có những tên say máu như Giuyếcvave đuổi bắn một tù nhân tay không gục
ngã rồi còn cố bắn hết hai băng đạn vào đầu nạn nhân. Tên Nôvắc, chủ Sở Rờsẹc,
có đủ kiểu tra tấn tàn bạo, đến nỗi bọn giám thị thường đem hắn ra để dọa tù
nhân: “Chừng chúng mày muốn gặp Vô vắc phải không?”.
Nhưng bộ máy nhà tù cũng phân hoá rất sớm. Giám thị trưởng Tút tu đã lâu
năm ở Côn Đảo, thạo nghề coi tù và có nhiều kinh nghiệm điều hành. Tút tu được
lòng nhiều giám thị Việt Nam và gác dang Pháp. Họ làm theo bổn phận hơn là hận
thù. Họ hiểu tù kháng chiến là những người thật sự yêu nước và có nhân cách. Họ
giữ được cảm tình và sự tôn trọng đối với tù chính trị trước đây.
Số gác dang hung ác như Viđan, Noócmăng, Pôn Hiền, Saden, Loadô, v.v...
thì tập hợp xung quanh Giám đốc Gimbe và chủ kho bạc Phờ rê den, ngấm ngầm chuẩn
bị một kế hoạch vu cáo phe Tút tu với tội danh “thân Việt Minh”.
Lớp tù kháng chiến đầu tiên mới đến Côn Đảo hơn một tháng đã phải đổ máu
và điêu đứng vì mưu mô thanh trừng nội bộ của bọn thống trị. Chuyến tàu đổ bộ
chở trên ba trăm tù nhân đầu tiên cập bãi Nhà Thờ vào trưa 27-5-1946. Phần lớn
tù nhân ra chuyến này là người kháng chiến, trong đó có 56 người mang án tử
hình và 22 chiến sĩ Vệ Quốc đoàn thuộc Đại đội Ký Con bị bắt trong trận tiến
công chiếm lại đảo Cô Tô (vịnh Bắc Bộ) tháng 11 -1945.
Thực dân Pháp không áp dụng quy chế tù chiến tranh mà xử họ tại các toà
án thực dân giống như chúng đã áp dụng đối với những chiến sĩ trong các lực lượng
võ trang Nam Bộ. Đại đội trướng Lê Phú và trung đội trường Nhâm Ngọc Bình bị kết
án tử hình (sau giảm xuống chung thân), 20 chiến sĩ bị kết án chung thân khổ
sai. Nhiều người bị kết án khi chưa đủ tuổi thành niên như Đặng Ngọc Bình (số
tù C.11347), Phùng Như Hồ (C.11351), Đặng Thừa Hiền (C.11311), Nguyễn Văn Sỹ
(C.11310)...
Những người bị bắt trong buổi đầu thang Pháp tại mặt trận Sài Gòn - Gia
Định - Chợ Lớn hầu hết là thanh niên, trí thức xuất thân từ học sinh, sinh
viên, công nhân viên chức. Có người đã tham gia trong cao trào Cách mạng tháng
Tám, có người mới giác ngộ trong những ngày đầu kháng chiến; song, trong thời
điểm cách mạng “một ngày bằng hai mươi năm” họ đã trưởng thành vượt bậc và có bản
linh chính trị vừng vàng. Họ đã chiến đấu gan góc trên mặt trận và bị bắt trong
những trận giao tranh không cân sức.
Trước đòn tra tấn của mật thám cũng như trước toà án thực dân, họ tỏ rõ
khí phách của người dân một nước độc lập chống cuộc xâm lăng của bọn thực dân.
Tư thế Của người công dân nước Việt Nam độc lập và lòng tin sắt đá vào Chính phủ
kháng chiến Hồ Chí Minh là nguồn sức mạnh to lớn, tạo nên dáng vóc của người tù
kháng chiến. Lời thề với non sông thà chết không chịu làm nô lệ, quyết tử cho Tố
quốc quyết sinh đã thực sự trở thành ý chí sắt đá của họ.
Trước khi ra Côn Đảo, họ đã trải qua một cuộc đọ sức quyết liệt và một
thời kỳ hoạt động sôi nổi ở Khám Lớn Sài Gòn. Những người tù kháng chiến vào
Khám Lớn khi chế độ cặp rằng còn ngự trị. Bọn quản ngục sứ dụng những tay “anh
chị” trong làng “đao búa” làm cặp rằng để duy trì kỷ luật, trật tự, vệ sinh. Mỗi
cặp rằng lại tập hợp một lũ đàn em từng có án cướp của, giết người, sẵn sàng
đâm thuê chém mướn. Các tay “anh chị” sau khi dám ăn thua đủ với nhau mới phân
ngôi thứ rồi chia nhau cai trị các khám. Khám 1 có Tư Bé, Khám 2 có Tư Giàu, Mười
Võ Sỹ, Khám 3 có Tư Ba Đào...
Chế độ cặp rằng là thủ đoạn dùng tù trị tù, là sự thỏa hiệp giữa các cai
ngục và “tù anh chị” để trấn áp và bóp nặn người tù. Đó là lối áp bức, bóc lột
tinh vi, vô hạn định và không bị ràng buộc bởi bất cứ qui chế nào. Lực lượng tù
chính trị do các anh Phan Trọng Bình, Vũ Huy Xứng lãnh đạo đã tổ chức lật đổ chế
độ cặp rằng. Hạt nhân của lực lượng đó là Đội xung kích, gồm những người can đảm
và giỏi võ thuật. Đó là những chiến sĩ quyết tử, đội viên các Ban công tác
thành, các chi ấn sĩ Cô Tô...
Cuộc tấn công vào bọn cặp rằng đã nổ ra vào sáng ngày 12-3- 1946, đầu
tiên tại Khám I. Bọn cặp rằng và tay chân bị chặn đánh bất ngờ ngay khi chúng
xúm vào tranh cướp đồ thăm nuôi của tù nhân. Với dũng khí áp đảo lực lượng xung
kích đã giao tranh kịch liệt với bọn cặp rằng.
Bọn chúng bị đánh mẻ đầu, sứt trán phải quỳ lạy, xin những người tù
kháng chiến tha tội chết. Đúng lúc đó thì bọn gác dang đến can thiệp.
Đại diện tù nhân đã đứng ra vạch rõ tội ác chồng chất của bọn tù lưu
manh và yêu cầu bãi bỏ chế độ cặp rằng, để tù nhân tự bầu lấy đại biểu của
mình. Trước khí thế của tù nhân và những chứng cớ không thể chối cãi được, bọn
thống trị phải đồng ý với yêu sách hợp lý của họ.
Trưa hôm ấy, trong khí thế hừng hực cách mạng, tù nhân Khám 1 đã bầu ra
đại biểu một cách dân chủ. Anh Lương Văn Thắng được bầu làm đại diện của Khám
1. Ngoài ra, anh em còn bầu ra Ban trật tự, Ban xã hội, Ban bình dân học vụ, Hội
đồng hoà giải tù nhân. Chế độ dùng tù đàn áp tù đã chấm dứt. Không còn cảnh
tranh cướp trong các bữa ăn, cảnh bài bạc, hút xách, đấm bóp nữa. Ngày thăm
nuôi, Ban xã hội trải chiếc chiếu lớn gần cửa. Ai có đồ tiếp tế đều tự nguyện để
lại trên chiếu một phần, Ban xã hội sẽ chia đều cho những người không có. Chiếu
làng trở thành một nét truyền thống đẹp, là biểu tượng cho tình thương yêu, nhường
cơm sẻ áo của người tù kháng chiến.
Các anh Phan Trọng Bình, Vũ Huy Xứng tiếp tục tổ chức lực lượng và đổi
quân đi các khám khác để thực hiện “nền dân chủ khám đường trên phạm vi toàn
Khám Lớn. Bên cạnh hai anh còn có anh Tưởng Dân Bảo, một người cách mạng giàu
lý luận và dày dạn kinh nghiệm đấu tranh ở nhà tù Côn Đảo trước đây. Được bổ
sung bằng cả tinh thần và lực lượng của Khám 1, các Khám 2, 4, đã lần lượt đánh
đổ, bầu ra đại biểu của tù nhân.
Do tương quan lực lượng tại chỗ, có khám phải làm tới lần thứ 2, thứ 3 mới
lật đổ được chế độ cặp rằng. Riêng Khám III, anh Vũ Huy Xứng đã đổi lên đó và
tranh thủ được cặp rằng Tư Ba Đào. Sau bảy ngày đêm ‘tâm sự”, Tư Ba Đào đã cảm
phục và tôn những người kháng chiến vào bậc các “Anh Lớn”. Việc Tư Ba Đào đoạn
tuyệt với quá khứ giang hồ, theo gương các “Anh Lớn” đã ảnh hưởng sâu sắc đến
quá trình đoàn kết giữa tù thường phạm và tù kháng chiến ở Khám Lớn Sài Gòn trước
đó và ở Côn Đảo sau này. Cuộc đấu tranh lật đổ chế độ cặp rằng và thực hiện nền
dân chủ khám đường tại Khám Lớn Sài Gòn được tù nhân kháng chiến gọi là cuộc
“Cách mạng khám đường”.
Anh Huỳnh Tấn Phát, một trí thức yêu nước được cử làm Tổng đại diện đầu
tiên của toàn thể tù nhân Khám Lớn. Thực hiện khẩu hiệu “Biến khám đường thành
học đường”, các lớp chính trì, lý luận quân sự, võ thuật, bình dân học vụ ngắn
ngày được mở tại các khám. Hoạt động báo chí, văn nghệ, âm nhạc của tù nhân
cũng phát triển sôi nổi chưa từng thấy. Mô hình tổ chức và hoạt động của tù
nhân Khám Lớn. được những người tù kháng chiến áp dụng thành công ở Côn Đảo.
Cuộc nổi dậy chống chế độ cặp rằng và thiết lập “nền dân chủ khám đường”
ở Khám Lớn Sài Gòn có ảnh hưởng sâu sắc đến cả một thế hệ tù nhân kháng chiến từ
Khám Lớn đến Chí Hoà ra tới Côn Đảo. “Cách mạng khám đường” và những thành quả
của nó là khúc dạo đầu của bản anh hùng ca Côn Đảo thời kỳ 9 năm kháng chiến chống
Pháp (1945-1954).
Chuyến tù kháng chiến đầu tiên bị lưu đày ra đảo lúc cuộc đàm phán Pháp
- Việt sắp mở tại Phôngtennơbơlô (Fontainebleau - Paris). Chúa đảo Gimbe thuộc
phái thực dân hiếu chiến. Hắn đón những người tù kháng chiến bằng trận đòn thù
với hèo mây, cù ngoéo, báng súng khi họ bị giải từ bãi Nhà Thờ về Banh I. Ngày
hôm sau, chưa hết cái đau ê ẩm của đòn roi và sóng biển, đoàn tù áo xanh lại phải
ra dọn tàu, một loại công việc khổ sai nặng nhọc. Họ phải làm quần quật từ sáng
sớm đến đêm khuya dưới ngọn roi và báng súng trong ba ngày đêm ròng rã.
Giám đốc và Xếp chánh thường xuyên có mặt để đốc thúc việc dọn tàu. Bọn
gác ngục được dịp thẳng tay đánh tù cho vừa lòng Giám đốc và cũng là để dằn mặt,
răn đe. Máu tù nhân đổ dài trên đường vận chuyển lương thực, thực phẩm, vật liệu
từ cầu tàu về kho chứa vài ngày sau đợt dọn tàu, đoàn tù kháng chiến được phân
bổ về các sở, trong đó một số người có văn hoá được đưa ra làm thư ký văn
phòng, bồi bếp.
Buổi đầu chưa có tổ chức và lãnh đạo thống nhất, tù kháng chiến tự động
liên hệ với nhau, cứ ra đại diện để giao thiệp với nhà tù và cắt đặt trật tự, vệ
sinh trong khám. Kinh nghiệm đấu tranh ở Khám Lớn đã giúp họ có ý thức ngăn chặn
ngay việc lập lại chế độ cặp rằng ở Côn Đảo.
Tù kháng chiến phần lớn là thanh niên đang sục sôi khí thế cách mạng,
vào tù vẫn còn hừng hực lời thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Vừa ra đến Côn
Đảo, nhiều người đã tìm cách vượt ngục về tiếp tục tham gia kháng chiến. Táo bạo
hơn, một số người đã tính đến cả chuyện bạo động cướp đảo. Chủ trương bạo động
do một nhóm tù nhân gồm cụ Tú Oanh và các anh Phạm Gia, Trúc Quỳnh khởi xướng.
Cụ Tú Oanh (Võ Oanh) làm bồi ở trại lính, biết rõ lực lượng phòng thủ và
quy luật hoạt động của bọn lính. Gần 2 đại đội lính tham gia tái chiếm Côn Đảo
đã rút về gần hết để phục vụ kế hoạch đánh lấn ra Bắc Bộ. Trại lính Côn Đảo chỉ
còn vẻn vẹn 18 tên. Buổi chiều chúng thường để súng trong trại rồi rủ nhau đi tắm
biển; trừ vài tên làm nhiệm vụ canh gác. Cụ Võ Oanh nêu phương án cướp súng, bắt
tốp lính gác vào thời điểm bọn lính đi tắm biển; cùng lúc ấy cho nổ tung nồi
hơi Nhà Đèn, phát lệnh bạo động.
Anh Trúc Quỳnh làm bồi bếp lại đề xuất phương án đầu độc hàng loạt bọn
lính và gác dang. Nếu 2 phương án trên không thực hiện được thì sẽ chờ dịp cướp
tàu khi có điều kiện thuận lợi. Nhóm bạo động đã liên hệ với một số tù nhân ở
các cơ sở để bàn việc tổ chức và bố trí lực lượng.
Trong tương quan lực lượng lúc đó, việc cướp đảo không mấy khó khăn. Lực
lượng phòng thủ của địch chỉ có 18 tên mà ta đã nắm rõ quy luật hoạt động và những
sơ hở của chúng. Gác ngục Pháp, Việt chưa đầy một trăm tên, trong đó quá nửa là
thầy chú người Việt đã có sự phân hoá từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, còn lại
non nửa là gác dang Pháp vừa ra đảo mà nội bộ đang lục đục mâu thuẫn. Tàu tuần
tiễu và tiếp tế cho Côn Đảo trong tháng 6 rất thưa thớt.
Lực lượng tù nhân kháng chiến hầu hết là những chiến sĩ dám xả thân vì độc
lập và tự do của Tổ quốc. Họ đã từng giáp mặt với đạo quân viễn chinh nhà nghề
có xe tăng và đại bác yểm trợ, khi trong tay họ chỉ có tầm vông vạt nhọn và vài
khẩu súng trường cũ kỹ. Đòn roi trong những trận khủng bố phủ đầu của nhà tù
không dập tắt được niềm lạc quan của họ trước triển vọng Hội nghị
Phôngtennơbơlô sắp mở. Khát vọng độc lập tự do và ngọn cờ giải phóng Côn Đảo
khi được phất lên sẽ khơi dậy sức mạnh xung thiên trong những người tù kháng
chiến. Sức mạnh ấy đã có dịp chứng tỏ hơn một lần kể từ cuộc “Cách mạng khám đường”
tại Khám Lớn Sài Gòn.
Việc cướp đảo thì dễ nhưng trở về đất liền bằng phương tiện gì mới là việc
khó. Ở lại lập chiến khu ở Côn Đảo thì không thể được. Bởi thế, chủ trương bạo
động đã dừng lại trong ý đồ của một nhóm, trên dưới chục người. Nhóm này cũng
chưa đi đến một quyết định bạo động theo phương án nào và cũng chưa có sự chuẩn
bị gì cụ thể.
Cuối tháng 6-1946, trong lúc nhóm chủ trương bạo động còn chưa ngả về
phương án nào thì một vài nhóm khác đã tổ chức vượt ngục. Chuyến thứ nhất của
các chiến sĩ Cô Tô do các anh Đỗ Văn Chung và Đặng Trung tổ chức. Năm người ra
đi không để lại dấu vết gì, sau mới biết các anh đã hy sinh trên biển. Chuyến
thứ 2 do Nguyễn Thanh Trang ở Sở Tiêu tổ chức thì bị bắt lại gần hết: còn một
người bị chết khô trên Núi Chúa. Sau 2 chuyến vượt ngục ấy, nhóm bạo động đã từ
bỏ ý định cướp đảo và chuyển hướng sang khả năng chuẩn bị vượt ngục khi điều kiện
cho phép.
Song, khuynh hướng bạo động vẫn âm ỉ lan truyền trong một số tù nhân trẻ
tuổi. Bọn chúa ngục sử dụng một số thường phạm cũ để nghe ngóng, rình mò và khống
chế tù kháng chiến. Đoàn Công Thành, Nguyễn Thành Út, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn
Văn Tốt là những tên tay sai đắc lực. Cuối tháng 6, bọn tù gian đã báo cáo cho
chủ sở Noócmăng tin tức về tù nhân Trần Kỷ ở Bản Chế đã bí mật trao đổi với một
số tù nhân về chủ trương cướp đảo. Trần Kỷ bị bắt ngay đêm ấy.
Giám thị trưởng Tút tu cũng bị bắt và bị quản thúc tại trại lính. Được sự
đồng tình của Gimbe, phái đối lập với Tút tu gồm chủ kho bạc Phơrêgien, chủ Sở
Rờsẹc Nôvắc, chủ sở Bản chế Noócmăng, chủ Sở rẫy An Hải Viđan đã lợi dụng cơ hội
này để thanh toán Tút tu. Chúng phát hiện ở hợp tác xã tiêu thụ đang thiếu 2
bao đường và tung dư luận về việc Giám thị trưởng “thân Việt Minh”. Cả bọn vào
hùa với nhau, dựng lên chuyện Tút tu ăn cắp 2 bao đường để tiếp tế cho tù kháng
chiến chuẩn bị âm mưu bạo loạn nhằm lật đổ chính quyền trên đảo. Giám thị Liền
và bà vợ giám thị Cơ có quan hệ thân mật với Tút tu cũng bị chúng bắt giam với
tội danh thông đồng với tù nhân cướp đảo. Chúng đánh chết anh Trần Kỷ mà không
moi được chứng cớ gì.
Giữa lúc đó thì tên tù gian Lê Trọng Nghĩa chỉ điểm cho bọn chúng vây bắt
cuộc vượt ngục của nhóm tù nhân Sở Tiêu và Sở Củi. Một trong 8 người bị bắt đã
khai rằng, họ có ý vượt đảo về liên hệ với ủy ban hành chánh Nam bộ để hỗ trợ
cho kế hoạch giải thoát tù nhân. Như kẻ sắp chết đuối vớ được cọc, chúa đảo
Gimbe ra lệnh thẳng tay tra tấn, tìm ra những người có liên quan và giao cho mấy
tên tù gian Đoàn Công Thành, Nguyễn Thành Út và Lê Trọng Nghĩa dựng lên một
cách giả tạo một vụ án được mệnh danh là “vụ âm mưu cướp đảo” để lấy cớ mở chiến
dịch khủng bố tù kháng chiến và lật đổ viên Xếp chánh Tút tu.
Đoàn Công Thành được dịp thi thố những thủ đoạn bỉ ổi, chỉ mặt hầu hết
những người mà hắn không ưa vào danh sách những tù nhân dính đến “vụ âm mưu”.
Theo gợi ý của quan thầy, hắn bịa ra cả một kế hoạch cướp đảo như: Mục đích cướp
đảo là giải thoát tù nhân; bắt tất cả các giám thị chỉ trừ Tút tu; cướp súng đạn
đem về kháng chiến. Mục tiêu tiến công là trại lính, Nhà Đèn, Sở Cò, Sở Rờsẹc,
Văn phòng Giám đốc, Trạm vô tuyến điện. Thời gian hành động là ngày 14-7- 1946
(ngày Quốc khánh cộng hòa Pháp).
Trong kế hoạch bịa đặt của Đoàn Công Thành còn có cả “danh sách” ban
tham mưu, đội cảm tứ, “kế hoạch” rèn giáo mác của tù nhân sở Bản Chế, có “sơ đồ
tác chiến” tấn công trại lính và một “danh sách” gác dang, thầy chú, viên chức,
chủ sở được phân loại rõ sẽ giết tên nào tống giam tên nào cùng những “giao ước”
đảm bảo an toàn cho Tút tu và hứa hẹn sự cộng tác sau khi cướp đảo thành công.
Tiếp theo kịch bản vụ âm mưu bịa đặt đó là những cuộc bắt bớ và tra tấn
rùng rợn, 72 tù nhân lần lượt trải qua những cực hình tàn bạo, người thì bị
trói tréo cánh tay, rút lơ lửng trên xà nhà rồi bị đánh bằng roi cá đuối, roi
gân bò cho đến ngất đi ; người thì bị chấn nước đến ngạt thở; người thì bị tra
điện vào mang tai, dương vật; người thì bị quật vào ngực, vào gan bàn chân đến
tàn phế suốt dời.
Gần hai chục chiến sĩ Cô Tô bị tra tấn đến chết đi sống lại nhiều lần, mặc
dù họ không hề biết gì về kế hoạch cướp đảo. Họ bị nêu tên trong “danh sách đội
cảm tử” mà Đoàn Công Thành đã bịa ra. Điều này có vẻ hợp lý vì bọn nhà tù đều
biết họ thuộc một đơn vị Vệ Quốc đoàn đã từng gây nhiều sóng gió cho quân viễn
chinh Pháp ở vịnh Bắc Bộ. Trong đợt khảo cung này, anh Trần Nhật Quang bị đánh
lòi một con mắt, anh Trần văn Thính bị đòn hiểm nên mang bệnh và chết sau đó ít
ngày.
Bọn gác ngục đã nhẫn tâm dùng máu xương của tù nhân để thanh toán, hãm hại
nhau. Bằng chứng là chúng đánh đập hết sức dã man để truy ép tù nhân buộc phải
nhận là có âm mưu cướp đảo và bắt tất cả giám thị, trừ Túttu.
Anh Trần Văn Sở, một người tù thường phạm từng nhiều lần vào tù ra tội
đã than thở rằng anh chưa bao giờ gặp một chế độ lao tù tàn ác, nghiệt ngã một
cách vô lối như vậy. Anh tính sẽ đâm chết vài tên gác dang khát máu, rồi thì tự
vẫn hoặc chịu chết cách nào cũng được. Sau nghĩ lại, anh không nỡ để địch có cớ
khủng bố tù nhân nhiều hơn, vì thế, anh chọn cái chết bằng cách tự vẫn để ngăn
chặn tội ác của kẻ thù. Đêm 10-7-1946, Ba Sở treo cổ trên song sắt cửa tặmbua tại
Khám 8 Banh I. Cái chết của anh là lời cảnh cáo đanh thép đối với âm mưu bịa đặt
để khủng bố tù nhân.
Cùng một tâm sự với anh Ba Sở, Tư Tỷ cũng treo cổ tự vẫn nhưng không chết
vì bộ quần áo mà anh dùng để buộc dây thòng lọng đã mục nát. Thòng lọng đứt,
anh rơi xuống sàn khám. Bọn gác dang phát hiện, Xông vào lột hết quần áo và tịch
thu tất cả đồ còn lại. Chúng lùa hết tù nhân trong vụ âm mưu xuống Hầm xay lúa;
họ bị trần truồng và bị còng chân trên sàn xi măng lạnh cóng. Tư Tỷ ân hận. Anh
định chọn cái chết để góp thêm vào lời tố cáo nhằm chặn đứng tội ác của bọn
giám ngục, không ngờ địch lại đày ải anh em nghiệt ngã hơn. Tư Tỷ thề sẽ không
tự sát nữa mà ở lại cùng anh em tranh đấu.
Sau hơn một tháng tra khảo, bọn gác ngục chẳng thu được gì hơn, nhưng điều
mà chúng cần là khủng bố, hành hạ tù nhân và lật đổ Tút tu, đẩy về đất liền chờ
ngày ra tòa thì đã đạt được. Phơrêden nhận chức Xếp chánh, Viđan được làm xếp Banh
I. Noócmăng vẫn giữ chức Chủ sở Bản Chế béo bở. Chúng thiết lập một chế độ trị
tù đẫm máu.
Bảy chục tù nhân còn lại trong “vụ âm mưu cướp đảo, phải làm khổ sai tại
Banh I, dưới sự giám sát của những tên gác dang khát máu nhất như Viđan, Pôn Hiền,
ăngđơrê, Loadô, Sa den... Sáng mở còng ra điểm danh là chúng đánh. Tên Pôn Hiền
có lối điểm danh bằng cách gõ ,củ mây thật mạnh lên đầu người tù. Có lúc nổi
máu côn đồ, nó còn bắt người bị đánh phải kêu thành tiếng “binh... boong...”
như tiếng chuông nhà thờ để làm vui, nếu không kêu thì nó đánh mãi. Ra đến nơi
làm việc, tù nhân lại tiếp tục bị đánh. Tên Viđan tuyên bố với kíp đập đá: “Một
nhát búa không vỡ được hòn đá thì tụi bay vỡ đầu.”
Một kíp tù nhân khác phải đầm chà láng từ khu xà lim cuối sân dọc theo
dãy khám 10-9-8-7-6. Đầm láng sân phía trước xong, chúng bắt xới sân sau lên đầm
lại, cốt để hành hạ tù nhân chứ không chỉ là công việc khổ sai thuần túy. Đầm nặng
bảy kí lô, bảy chục con người phải đầm theo một nhịp. Chệch choạc là ăn đòn. Đầm
đi đầm lại, ngày này qua ngày khác. Chà láng xong rồi lại xới lên, tưới nước, đầm
lại. Không ai có thể tính được mỗi thước sân nhà lao đã thấm bao nhiêu mồ hôi
và máu của tù nhân.
Giờ tắm cũng được bọn gác ngục biến thành một kiểu hành hạ. Bảy chục con
người chỉ có một giếng nước và chỉ được tắm trong năm phút. Đúng giờ, họ phải
ào đến vây quanh giếng, người đứng, người khom, người ngồi, người múc nước giội
hối hả. Loáng một cái đã hết giờ. Bọn ác ôn vung gậy xua họ ra khỏi giếng. Nhiều
người nước chưa kịp thấm ướt thân thể mà máu đã phun đỏ miệng giếng.
Bữa ăn của tù cũng là cảnh cực hình. Cơm gạo hẩm và lẫn nhiều thóc sạn,
ăn rát cả miệng. Cá khô mục đắng và mặn chát. Chỉ có 5 phút cho cả việc ăn lẫn
uống. Trong khi ở các khảm khác chúng bắt ăn cơm nguội, uống nước lạnh thì kíp
này lại phải ăn cơm nóng và uống nước sôi. Họ đã phải làm cật lực, đẫm mồ hôi
dưới nắng hè tháng 7, chịu khát cháy cổ. Vậy mà đến bữa ăn, chúng lại đổ nước
sôi vào khạp và bắt ăn uống trong vài phút. Họ vây quanh khạp nước bốc hơi ngùn
ngụt nên không thể nào uống được.
Có tù nhân đã chết khát một cách thương tâm.
Anh Quý bị đánh đập nhiều nên sức cùng, lực kiệt. Không chịu được cách
hành hạ trong bữa ăn như vậy, anh đành chịu khát vào khám. Đêm ấy khát quá, anh
thều thào bảo Nguyễn Văn Bảy, người bạn tù nằm cạnh đái cho uống. Nhưng Bảy
cũng đang khát khô cả họng và chẳng có được giọt nước tiểu nào. Cả hai đều thiếp
đi trong sự dày vò của cơn khát và nỗi bất lực. Sáng ra, anh Quý đã chết khô cứng
trong còng.
Khi thói bạo ngược đã thay thế cho quy chế thì tội ác cũng được nhân lên
vô hạn. Bọn gác dang nghĩ ra đủ trò để hành hạ tù nhân. Trước khi vào khám, họ
phái “múa phượng hoàng”, trần truồng, há miệng, chổng mông, dạng chân cho chúng
khám xét. Xong nó vụt một gậy vào lưng đuổi vào. Dã man hơn, có đứa lại ngoáy cả
gậy bẩn vào miệng tù nhân. Có thằng lại bắt họ múa tiều cách cho vui mắt, múa
không “đẹp” là bị đánh. Vào khám, tra nhân trong còng còn bị đánh một lần nữa
khi chúng kiểm tra xem đã xỏ đủ chân trong còng chưa. Mỗi ngày có đến hơn chục
trận đòn giáng xuống người tù. Đó là thời kì khủng bố đẫm máu.
Nhân “vụ âm mưu”, tù nhân các khám đi làm cũng bị ăn đòn nhiều, đau ốm
đi khám bệnh cũng bị đánh đập. Những người bị nhốt trong khám tử hình chỉ còn
chờ ngày đem bắn cũng bị ngược đãi như vậy. Anh Minh, một tử tù đã chết vì đói
khát và bệnh tật trước khi anh bị hành quyết. 55 tử tù còn lại đã nghẹn ngào
hát bài Chiêu hồn tử sĩ để tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Vào dịp Quốc khánh Pháp, 14-7-1946, mười tử tù được giảm án, khám tử tù
còn 45 người. Thời Tút tu làm Giám thị trưởng, bữa ăn thỉnh thoảng còn có rau
xanh. Từ khi xảy ra “vụ âm mưu cướp đảo” thì chúng cho ăn rất tồi tệ. Có tuần
chúng cho tù ăn toàn tương chua; tuần thì toàn khô mực đắng, không có lấy một cọng
rau. 45 tử tù đã nhất loạt tuyệt thực vào cuối tháng 7-1946. Đây là cuộc tuyệt
thực đầu tiền của tù nhân tại Côn Đảo. Anh Nguyễn Văn Huệ được cử làm đại diện,
trình bày yêu sách trước Giám đốc, đòi cho ăn rau xanh hàng ngày và cho ăn cá
khô không mục.
Những yêu sách hợp lý và thật chẳng đáng bao nhiêu so với chế độ ăn, ngủ
ghi trong quy chế nhà tù, nhưng Giám đốc Gimbe trả lời bằng cách vung gậy vụt
thẳng cánh lên đầu người đại diện rồi bỏ đi. Gimbe là một trong số những tên
Giám đốc thích trực tiếp đàn áp tù nhân. Đến ngày thứ ba của cuộc tuyệt thực,
tên Viđan ra lệnh đổ khạp nước của Khám tử hình và tuyên bố “cho chết luôn, khỏi
phải bắn”.
Ngày thứ 4, anh Trí một tử tù (án tư pháp) không chịu nổi cơn khát nên
đã gọi xếp xin nước uống. Cuộc tuyệt thực phải kết thúc dở dang. Riêng anh Huệ tiếp
tục nhịn ăn, mỗi ngày chỉ nhấp vài ngụm nước lạnh. Đến ngày thứ 15 anh mới chịu
ăn, theo lời khuyên của nhiều đồng đội, để giữ sức cho những đợt tranh đấu
khác.
Ngoài báo cáo chính thức của Giám đốc nhà tù, tin tức vế vụ âm mưu cướp
đảo bay về đất liền bằng nhiều đường: qua linh mục Nguyễn Văn Mầu và thư từ của
nhiều gác dang, thầy chú. Bọn thống trị cũng không thể làm ngơ về vụ này. Thủ
tướng bù nhìn Nguyễn Văn Thinh phải đích thân ra đảo thị sát. Nhân dịp giáp mặt
hắn, anh Trần Văn Trung đã tố cáo âm mưu bịa đặt ra “vụ Côngplô” và yêu cầu bọn
thống trị phải đưa ra xét xử công khai vụ này, không dược coi rẻ sinh mạng và
nhân cách con người một cách dã man và phi pháp như vậy.
Một số tù nhân lại phản ứng theo kiểu khác. Khi Nguyễn Văn Thinh đến Hầm
xay lúa hỏi tù nhân xem ai bị oan ức, ai cần kiến nghị gì thì cụ Võ Oanh dõng dạc
trả 1ời: “Xếp chánh giới thiệu Ông là đại diện cho Chính Phủ Nam Kỳ tự trị”.
“Những người tù chính trị chúng tôi không công nhận chính phủ ấy. ông bảo cần
kiến nghị gì Chúng tôi không có gì để kiến nghị! Nếu cần gì thì chúng tôi đề
nghị với những người quản ngục ở đây, chính họ mới là kẻ có quyền thực sự ở
đây”.
Sau chuyến đi kinh lý của Nguyễn Văn Thinh, mức dộ khủng bố có giảm bớt.
Gimbe bị triệu hồi. “Vụ âm mưu” được giải toả dưới triều Giám đốc mới. Những tù
nhân vừa được giải toả đã bước vào thời kỳ tổ chức chặt chẽ và đấu tranh quyết
liệt hơn.
“Vụ Côngplô” đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm qúy về tổ chức và tranh
đấu trong tù. Không thể đấu tranh thắng lợi khi chưa có tổ chức chặt chẽ. Việc
bạo động võ trang ở Côn Đảo là hệ trọng, nó liên quan đến sinh mạng của hàng
trăm, hàng ngàn con người. Chỉ cần vài người đặt vấn đề một cách phiến diện, chủ
quan, lộ liễu là địch có cớ để khủng bố hàng trăm người khác.
Mặt khác, phải hết sức cảnh giác với bọn tù gian và những âm mưu đàn áp,
giết hại tù nhân của bọn cai ngục. Bên cạnh những tổn thất xương máu, “Vụ âm
mưu” đã để lại ý nghĩa lớn về nhân cách của người tù kháng chiến. Họ chịu đựng
mọi cực hình, song không ai khai báo hoặc nhận bừa những điều bị vu khống. Nhờ
đó, “vụ âm mưu” được giải toả, Tút tu cũng được “giải oan”.
Trong những ngày bị khủng bố thê thảm nhất, tù nhân càng đoàn kết, yêu
thương nhau hơn. Địch bắt đầm đá đều 1 nhịp, anh em tổ chức đầm theo 2 nhịp,,
ba nhịp giống như kiểu giã gạo chày đôi, chày ba để mỗi người có thể được nghỉ
1 nhịp hoặc 2 nhịp. Gác dang Pháp thường hay đánh đập vào cuối bữa đuổi tù nhân
vào khám khi chưa kịp ăn hết khẩu phần cơm ít ỏi. Anh em đã thống nhất với
nhau, đồng loạt vào ăn, ăn xong hết mới cùng đứng dậy, mặc cho chúng đánh.
Có bữa cụ Võ Oanh bị chúng đánh lủng đầu. Máu chảy đỏ ròng, cụ vẫn điềm
nhiên ngồi ăn, không thay đổi sắc mặt. Những lần khổ sai hoặc điểm danh, cụ thuộc
số người bị đánh nhiều nhưng không khi nào cụ cúi đầu hay tỏ cử chỉ run sợ. Cụ
còn động viên anh em một cách khéo léo rằng: “Đừng thấy chúng đánh tôi mà mất
tinh thần. Chúng đánh tôi, cốt là để khủng bố tinh thần anh em đó”. Cụ là một
trong những tấm gương khích lệ lòng can đảm, giữ vững khí tiết và nhân cách của
tù kháng chiến thời ấy.
Qua cuộc khủng bố quy mô lần này của bọn quản ngục, tù kháng chiến nhận
thức rõ việc xây dựng tổ chức vững vàng chắc để đoàn kết, lãnh đạo khối tù nhân
là công việc cấp bách. Một bộ phận cứu trợ tù nhân đã nhen nhóm và bí mật hoạt
động qua 2 đầu mối quan trọng là anh Phạm Gia - “tù áo trắng” làm thư ký Kho Bạc
và anh Trần Duy Giang, làm thư ký ở văn phòng Giám đốc. Nhiều tù nhân ở Nhà
Thương, Sở Củi, Nhà Đèn đã gửi phiếu tiền công lao động khổ sai cho hai anh để
mua đường, sữa tiếp tế cho anh em ở Khám tứ hình và Hầm xay lúa. Thêm vào đó là
đồ tiếp tế mà số anh em tù áo trắng đã vận động được ở những thầy chú, gác dang
có cảm tình.
Cuối năm 1946, ủy ban kháng chiến
hành chánh Nam Bộ liên lạc, gửi tiền và quà đến tay anh em tù Côn Đảo nhờ sự
giúp đỡ của linh mục Nguyễn Văn Mầu. Việc tiếp tế và các tổ chức của tù nhân có
điều kiện định hình và phát triển mạnh hơn trước.
Ngày 2-9-1946, chuyến lưu đày thứ 2 (chuyến tù áo trắng) ra đảo. Đại úy
Lê dương Hômếchcơ (Homecker) cùng ra trên chuyến tàu ấy và nhậm chức Giám đốc
nhà tù ngay ngày hôm sau. Gimbe bị triệu hồi. Hile (Hilaire) được bổ nhiệm làm
Xếp chánh. Hômếchcơ quốc tịch Pháp gốc Đức, tính tình ngay thẳng, chuộng lẽ
công bằng. Qua việc điều chỉnh chế độ cai trị, những người tù kháng chiến biết
ông là đảng viên Đảng xã hội Pháp.
Giám đốc mới thị sát các khám giam đúng vào lúc hai tên hung thần
Ăngđơrê và Loadô đang vung hèo mây quật túi bụi xuống kíp tù đầm đá trong sân
Banh I. Trước mặt tù nhân, Hômếchcơ đã bắt Ăngđơrê cùng Loadô đứng nghiêm để chịu
khiển trách. Ông tuyên bố kể từ nay, gác dang không được đánh đập tù nhân nếu họ
không phạm lỗi.
Chớp thời cơ đó, anh Lương Văn Thắng đã thay mặt tù nhân tố cáo chế độ
khủng bố của nhà tù, sự tàn bạo của gác dang và vụ âm mưu bịa đặt đế đàn áp tù
nhân. Anh yêu cầu cải thiện khẩu phần ăn, chấm dứt ngược đãi, chữa trị cho những
người đau yếu. Giám đốc hứa sẽ xem xét lại nội vụ để giải quyết.
Hômếchcơ giữ lời hứa. Ông xem lại toàn bộ hồ sơ vụ Côngplô. Ông nghe được
nhiều lời tố cáo chế độ lao tù nghiệt ngã mà thực dân Pháp đang áp dụng ở Côn Đảo;
thậm chí việc đối xử với những người kháng chiến Việt Nam còn tồi tệ hơn cả
phát xít Đức đối với tù binh Pháp. Ông đã tận mắt thấy cảnh gác dang Pháp vô cớ
hành hạ tù nhân. Ông được nghe những lời đề nghị quá đơn giản về việc cải thiện
chế độ ăn, ở, tắm, giặt, chữa bệnh.
Đi thị sát các sở Bản Chế, Sở Củi - Chuồng Bò, Chỉ Tồn, Sở Lưới... Hômếchcơ
đều nghe tù nhân đều tố cáo giống như vậy. Ông còn được nghe một số gác dang có
lương tâm và nhiều thầy chú phản ánh rằng tù kháng chiến là những người có văn
hoá và nhân cách, rằng Tút tu bị vu khống... Hômếchcơ đã công tâm điều tra và
phúc trình về Cao ủy Pháp. Kết quả là Tút tu được miễn tố.
Phần lớn số tù nhân bị bắt bừa bãi trong vụ âm mưu đã được giải toả về
các khám. Riêng 12 người bị khai là “Ban tham mưu” thì bị đưa về Khám 2 bổ sung
vào kíp may quần áo tù, trong đó có cụ Tú Oanh, và các anh Tư Ba Đào Lương Văn
Thắng, Nguyễn Văn Đường, Trần Văn Lai, Trần Văn Trung, Trần Văn Sứ, Tơ Mách, Tơ
Tỷ... Hômếchcơ không coi những người tù kháng chiến là phiến loạn như cách nghĩ
chung của bọn thực dân xâm lược bấy giờ và cũng không thích thú gì với chức vụ
Giám đốc Côn Đảo. Buộc phải nhận nhiệm vụ, ông làm theo chức phận với thái độ
riêng của mình. ông yêu cầu gác dang và các nhân viên dưới quyền làm đúng theo
quy chế.
Hômếchcơ còn trực tiếp xem xét tình hình các tù phán bị phạt xà lim và hồ
sơ án tiết của họ. Người nào quá yếu hoặc bị phạt lâu đều được giảm bớt. ông chấn
chỉnh lại chế độ điều trì ở bệnh xá. Các tù nhân khai bệnh đều được khám và cho
thuốc đúng bệnh. Bác sĩ Pốc (Po que) là người có lương tâm. Pốc đã tận tụy chữa
cho mấy chục tù nhân bị ghẻ lở đầy người lúc đó. ông còn đế nghị tăng chế độ
dinh dưỡng cho tù nhân, cho họ được tắm biển mỗi tuần một lần.
Tù nhân được gửi thư, nhận thư, tiền, bưu kiện. Anh Phạm Gia, thư ký
chính ở Kho Bạc đã liên hệ được với anh ruột là Phạm Thiều và một người bà con
là Phạm Ngọc Thuần, hai vị đó đều là ủy viên ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ.
Nhờ đó, ủy ban đã gửi tin tức và tiếp tế được cho tù nhân Côn Đảo qua những bưu
kiện gửi cho Phạm Gia, Lưu Văn Lê, Trần Duy Giang... Do vậy, đời sống và sức khỏe
tù nhân sau vụ khủng bố đỡ phần nào bi đát.
Linh mục Nguyễn Văn Mầu cũng là một đầu mối liên lạc và tiếp tế quan trọng.
Khi trực tiếp, khi gián tiếp ông nhận tin tức và tiền bạc, thực phẩm thuốc men
của ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ chuyển ra Côn Đảo. Anh Nguyễn Ngọc
Lân, thư ký Kho Bạc, và anh Quý giúp việc tại Nhà Thờ đã chuyển về để phân phát
cho các cơ sở. Cha Mầu cởi mở với cả tù nhân đạo gốc hoặc chưa theo đạo. Nhiều
người tù kháng chiến khai là có đạo để được đi lễ vào ngày chủ nhật để có dịp gặp
nhau trao đổi tin tức và bàn chủ trương hoạt động ngay trong Nhà Thờ.
Ba tháng cuối năm 1946, đòn roi, xiềng xích, phạt xà lim bớt hẳn đi. Sự
thay đổi trong chế độ lao tù Côn Đảo ít nhiều phản ánh không khí chính trị ở
Pháp lúc đó Liên minh cánh tả thuộc Đảng cộng sản và Đảng xã hội Pháp đã đánh bại
Đảng cộng hoà bình dân trong cuộc bỏ phiếu thông qua bản Dự thảo Hiến pháp của
nền cộng hoà thứ 4 (10- 1946) và việc tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội vào
ngày 10-11- 1946.
Do chính sách cai trị thời Hômếchcơ tương đối cởi mở, tù nhân ở nhiều cơ
sở đã tự tổ chức bầu ra Ban tự quản (có nơi gọi là Ban quản trị). Người đại diện
lúc đầu gọi là cặp rằng, nhưng do anh em tù nhân bầu ra chứ không phải là nhà
tù chỉ định. Có nhiều cặp rằng là tù thường phạm đã giác ngộ lợi ích chung của
tù nhân, phục tùng sự chỉ đạo của tập thể. ổn định trật tự, sinh, tăng gia cải
thiện, tổ chức tương tế, sinh hoạt văn hoá văn nghệ v.v... là những hoạt động
chính của cặp rằng và Ban tự quản.
Tù nhân đã vận dụng kinh nghiệm của cuộc “cách mạng khám đường” để không
lặp lại chế độ cặp rằng theo kiểu tù trị tù ở Côn Đảo. Phá hoại, lãn công là
hình thức phản kháng của tù nhân được phổ biến từ rất sớm. Nhờ sự cảm thông của
bác sĩ Pốc, số tù nhân lãn công bằng cách khai bệnh khá đông. Trung bình mỗi
ngày có tới 50 người nghỉ ốm, tương đương với số lao động khổ sai ở một sở quan
trọng như Bản Chế.
Tù nhân Sở Bản Chế nhiều lần phá hỏng máy canh để bọn gác ngục không có
phương tiện tuần tra, đuổi bắt tù trốn. Tù nhân ở Nhà Đèn làm hỏng, làm yếu nồi
hơi, đến nỗi 3 máy phát, tổng cộng 75KVA mà khó khăn lắm mới đạt được 1/3 công
suất thiết kế. Sở Rẫy thì không phát triển măng tây và các loại rau cao cấp
theo lệnh Giám đốc mà trồng nhiều cà chua, rau xanh để chúng ăn không hết, phải
đưa vào bếp Banh I. Tù Sở Lưới thường làm rách lưới, kéo được cá to thì hạ lưới
cho cá quẫy ra, vì cá to chẳng bao giờ chúng để cho tù nhân ăn.
Giám đốc mới không can thiệp vào những sinh hoạt văn nghệ của tù nhân.
Năm 1946, anh Hoàng Hữu mình, người tử tù vừa được giảm án, làm thư ký Sở rẫy
Chuồng Bò đã khéo léo đề nghị tổ chức “Đêm văn nghệ mừng Chúa giáng sinh” và được
Giám đốc đồng ý. Ngoài số gần trăm tù nhân Sở Củi - Chuồng Bò, còn có mấy chục
tù nhân làm thư ký, bồi bếp và một số ở Chỉ Tồn. Nhiều gác dang Pháp và hầu hết
thầy chú người Việt cùng vợ con họ đã đến xem. Những dịp giải trí như thế thật
hiếm có trên hòn đảo này.
Đêm diễn mở màn bằng bài Thanh niên hành khúc, sau đó là điệu vũ Công
chúa ngủ trong rừng. Bài hát Lên Đàng bừng bừng khí thế cách mạng đã chuyển tiếp
từ điệu vũ sang vở kịch Nguyễn Trãi biệt Phi Khanh, nội dung vừa đượm tình cha
con vừa nặng lời thề với non sông đất nước.
Vở diễn được nửa chừng thì chủ Sở Cò bắt dừng lại để báo cáo Giám đốc. Hắn
đề nghị Giám đốc có biện pháp đối với những tù nhân dám tổ chức diễn kịch
“tuyên truyền cho Việt Minh”. Trái với thái độ hậm hực của tên chủ Sở Cò, Hômếchcơ
điềm nhiên trả lời rằng vụ này tù nhân đã xin phép và Giám đốc đồng ý, còn chuyện
nội dung văn nghệ tuyên truyền cho Việt Minh là tất nhiên, bởi vì họ là tù
chính trị, là Việt Minh. Đêm văn nghệ lại tiếp tục trong niềm hân hoan của tù
nhân.
Tình thế đã đổi thay. Mới trước đó hơn 3 tháng, chúa đảo Gimbe đã phạt 3
tù nhân Sở Củi nhiều ngày xà lim, cơm nhạt, nước lạnh vì dám tổ chức đêm văn
nghệ. Giám đốc Hômếchcơ được tù nhân đặt cho biệt hiệu là “Đại úy Việt Minh”.
Sau đêm văn nghệ ở Sở Củi - Chuồng Bò, tù nhân lại ráo riết chuẩn bị chương
trình văn nghê mừng xuân Đinh Hợi (1947). Trong dịp đó có 14 tù nhân được ân xá
đã trở về đất liền trên tàu Goeland ngày 31-1-1947. Họ là những người tù cũ, được
đại úy Gimbe đề nghị ân xá từ tháng 5-1946. Tết năm ấy, tù nhân được yên.
Giám đốc Hoónếchcơ đã ghi trong báo cáo nguyệt kỳ, số 774P, ngày
8-2-1947: “Người Việt Nam tổ chức ăn Tết Nguyên đán. Việc tiếp tế đến đúng lúc,
trước đó 2 ngày...” “... Tù nhân đã cử hành lễ Tết. Không có việc gì xảy
ra.”.“... Những sự kiện xảy ra ở Bắc kỳ không có tiếng vang trong số dân tự do
cũng như trong tù nhân”.
Sự kiện xảy ra ở Bắc Kỳ mà Hômếchcơ nói tới đây chính là cuộc kháng chiến
của nhân dân cả nước, bắt đầu từ đêm 19-12-1946 tại thủ đô Hà Nội.
Cuộc đấu tranh của tù nhân Côn Đáo cũng bước sang một giai đoạn mới. Bầu
không khí “dễ thở” dưới thời “Đại úy Việt Minh” kéo dài không lâu. Phái hữu
ngày càng thắng thế trong chính phủ Pháp. Bọn thực dân ở Đông Dương đưa ra Côn
Đảo những tên Giám đốc nhiều thủ đoạn hơn, không đến mức dâm ô, tàn bạo một
cách trắng trợn như Gimbe, nhưng cũng không nương tay với tù nhân như Hômếchcơ.
Những tên Giám đốc sau này vừa độc ác, tàn nhẫn lại
vừa thạo các thủ đoạn lừa mị tinh vi,
thâm độc.
Những thủ đoạn mới của thực dân Pháp
Tháng giêng 1947, Chính phủ Ramađiê (Ramadier) lên cầm quyền ở Pháp.
Ramađiê dựa vào viện trợ Mỹ, củng cố thế lực của giai cấp tư sản phản động, gạt
tất cả các bộ trường cộng sản ra khỏi chính phủ và tiếp tục cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam. chính phủ Pháp cử Bôlae làm Cao ủy Đông Dương với sứ mệnh
nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh bằng cách dùng lực lượng quân sự đè bẹp lực
lượng võ trang và Chính phủ kháng chiến, dọn đường đưa Bảo Đại về nước, lập
chính phủ bù nhìn.
Tháng 5-1947, Cao ủy Bôlae cử đại úy lê dương Bruylê (Jacques Brulé) làm
Giám đốc Côn Đảo. Bruylê có bằng cử nhân Văn chương, có tham vọng để lại dấu ấn
của một thời làm quan cai trị ở Côn Đảo. Hắn tỏ ra quan tâm đến đời sống tù
nhân, hạn chế đánh đập, tăng cường bóc lột khổ sai bằng các biện pháp vật chất
và tinh thần tinh vi và xảo quyệt.
Nhân dịp Bộ trưởng Bộ hành động xã hội và bình dân của Chính phủ bù nhìn
Nam Kỳ công cán tại Côn Đảo Bruylê đã đề nghị tăng tiền công lao động khổ sai
cho tù nhân. Theo Nghị định ngày 16-11-1916 của Thống đốc Nam Kỳ thì mỗi ngày
công lao động của tù nhân được trả 3 xu, trong đó một xu nộp lại cho ngân sách
Nam Kỳ, một xu vào quỹ lưu ký. Người tù chỉ được lãnh một xu dưới dạng tích kê
mua hàng ở hợp tác xã tiêu thụ của nhà tù. Người tù khỏe mạnh, đi làm suốt
tháng lãnh được 26 xu.
Thời giá lúc ấy, theo lời Bruylê thú nhận trong báo cáo thì tù nhân có
lao động cả năm cũng chỉ đủ tiền mua 2 bao thuốc lá. Trước đó, Giám đốc Oóchếchcơ
đã đề nghị trả từ 9 đến 12 xu cho một ngày công. Nay Bruylê đề nghị tăng lên ít
nhất là 10 lần (tức 30 xu cho một ngày công). Ngày 8-11-1947, Thủ tướng bù nhìn
Nguyễn Văn Xuân đã ký quyết định tăng đồng loạt tiền công của tù nhân lên 40 xu
một ngày, không kể tính chất nặng nhẹ của công việc.
Bruylê cho phép các tù nhân có tiền ký gửi ở phòng lục sự kế toán được
rút dần dể mua hàng, mỗi tháng không quá 30 đồng. Đối với kíp tù sản xuất đồ mỹ
nghệ bằng đồi mồi, sò ốc, sừng và gỗ quý, y cho phép chủ sở trích lại một phần
sản phẩm làm phần thưởng để kích thích lao động. Y cho mở cửa thơ viện và phòng
đọc báo, cử 2 tù nhân là Lương Văn Thắng và họa sĩ Nam Hải trông coi. Thư viện
và phòng đọc dành cho viên chức nhà tù nhưng cho phép tù nhân đến đọc trong
ngày nghỉ. Bruylê còn tổ chức chiếu phim, cho phép một số tù nhân “có hạnh kiểm
tốt” được đi xem và sửa sang lại sân khấu, cho phép tù nhân diễn kịch; xin thêm
dụng cụ thể thao để giải trí, sứ dụng nhiều tù nhân có văn hoá làm thơ ký, bồi
bếp và làm việc ở các sở ngoài. Một số tù nhân được giao nhiệm vụ tập hợp tư liệu
ở thư viện và lưu trữ của nhà tù để giúp Bruylê viết một cuốn sách về Côn Đảo.
Chỉ trong vòng mấy tháng, cuốn Poul Condore (Côn Đảo) đã hoàn thành và đưa in tại
nhà in T.F.E.O ở Sài Gòn (12-1947).
Vừa sử dụng các biện pháp mị dân để bóc lột khổ sai, Bruylê đồng thời siết
lại kỷ luật của nhà tù. Ngay trong tháng đầu nhận chức, y đã phạt xiềng và xà
lim 30 tù nhân. Xiềng và xà lim là 2 hình phạt phổ biến trong hơn 2 năm đương
nhiệm của y. Giờ đi làm khổ sai, hàng chục tù nhân bị phạt kéo lê xiềng trên những
con đường đá lổm nhổm. Tiếng kim khí va vào đá nghe đến rợn người. Bụi cuốn lên
từng đám.
Được tận mắt nhìn cảnh tượng rùng rợn ấy trong chuyến đi công cán tại
Côn Đảo, Bộ trưởng Bộ hành động xã hội và bình dân đã đề nghị bãi bỏ hình phạt
xiềng tay chân, “bởi vì nó là một hình phạt chà đạp lên nhân phẩm và vô hiệu”1.
Bruylê còn có ý đồ khôi phục lại Hầm xay lúa, một
nhục hình khổ sai đày ải tù nhân tàn bạo như thời trung cổ. Y giao cho chủ sở Bản
Chế thiết kế và tìm thợ đóng cối. Kíp thợ mộc đã từ chối, viện cớ là không biết
đóng. Họ chẳng dại gì tiếp tay để bọn chúa ngục lập lại hình phạt rùng rợn có một
không hai ở nhà tù này.
1. Báo cáo số 2589/1VIL/DAA ngày 5-8-1947 của Tổng nha hành chánh. Hồ sơ
của Trung tâm Lưu trữ Nhà nước II.
Nhà tù Côn Đảo lúc ấy đang khủng hoảng trầm trọng về nhân lực. Tính đến
ngày 31-5-1947, nhà tù chỉ còn 606 tù nhân (phúc trình tháng 5-1947 số 1033-P).
44 tù nhân thuộc đối tượng nguy hiểm không được ra khỏi trại; 26 tù nhân được
chọn vào Sở Rờsẹc (truy tìm ít trốn); 29 tù nhân làm thư ký các loại; 95 người
làm bồi bếp và lao động khổ sai. Mỗi sở tù khổ sai trước năm 1945 có hằng trăm
lao động, nay chỉ còn đủ nhân lực tập trung vào một vài sở thiết yếu, mỗi sở
vài chục người.
Theo phúc trình tháng 5-1947:
-
Sở Bản Chế: 51
tù nhân Sở Củi: 47 tù nhân Sở Vệ Sinh: 27 tù nhân ‘
Các sở khác chỉ có dăm ba người tù. Tình trạng thiếu nhân lực đã ảnh hưởng
đến mọi hoạt động cửa nhà tù. 44 tù nhân mãn án được đưa về Sài Gòn ngày 10
5-1947 và tiếp theo một danh sách gần 50 tù nhân chuẩn bị rời đảo đã được
Bruylê coi là “khủng hoảng trầm trọng”, “ảnh hưởng xấu đến tình trạng nhà tù”..
Y khẩn khoản yêu cầu: “Phải tăng con số phạm nhân lên rất nhiều... Khẩn thiết gửi
ngay cho chúng tôi một đợt phạm nhân khá đông, như vậy vừa có thể giảm bớt được
kinh phí chung, vừa nâng cao được năng suất lao động”.
Bọn thực dân đầu sỏ không để Bruylê phải nhắc nhiều. Côn Đảo là một nhà
tù lý tưởng ở xứ Đông Dương, dành riêng cho những người tù nguy hiểm. ở đó, người
tù hoàn toàn bị cô lập khỏi xã hội và phong trào cách mạng. Lao động khổ sai và
kỷ luật của nhà tù sẽ đày ải họ chết dần chết mòn về thể xác và tinh thần. Chuyến
tù thứ 3 đày ải gần 400 tù nhân từ Khám Lớn Sài Gòn ra Côn Đảo ngày 6-8-1947 đã
nâng số tù Côn Đảo lên 960 người.
Bruylê cho sửa sang lại nhà giam Sở Muối để thay thế cho nhà giam Sở rẫy
An Hải sắp sụp đổ; tăng thêm nhân công cho sở Bản Chế để đóng một chiếc xà lan
gỗ trọng tải 40 tấn phục vụ việc chuyển hàng từ tàu lớn vào bờ. Một kíp tù nhân
khác được huy động khai thác các loại ốc xà cừ để thu lợi theo hợp đồng bán
5.000 kg sản phẩm cho chi nhánh xuất nhập khẩu Sài Gòn.
Cuối năm 1947, tù nhân ở Khám Lớn Sài Gòn liên tục đấu tranh đòi xoá án
tử hình, đòi cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho tù nhân và tổ chức 2 cuộc
vượt ngục bằng cách dỡ mái ngói và chui qua đường cống ngầm.
Ngày 2-12-1947, Cao ủy Pháp đã quyết định chuyển đến Côn Đảo một số lượng
lớn tù nhân để giảm bớt mật độ và tình trạng căng thẳng ở Khám Lớn. Cuối tháng
12-1947, Ba tê (Battet) Tư lệnh hải quân Pháp ở Viễn Đông đã ra lệnh cho tất cả
các tàu chiến hoạt động trên vùng biển tham gia vận chuyển, tiếp tế theo yêu cầu
của Côn Đảo.
Những ngày đầu năm 1948, mấy chuyến tàu kế tiếp nhau chở hằng trăm tù
nhân từ Khám Lớn ra Côn Đảo, trong đó có 63 tù nhân án tử hình và 69 tội phạm
Nhật Bản. Tù binh Nhật bị giam riêng ở khu vực Banh III, có lúc lên tới 89 tên
(31-8-1948). Họ cũng phải làm khổ sai và được đối xử đỡ khắc nghiệt hơn tù án.
Viên bác sĩ quân y Nhật Sa tô được điều ra phục vụ tại Nhà Thương. Có tên được
về Nhà Đèn trông coi máy móc để hạn chế sự phá hoại của tù kháng chiến.
Một sĩ quan Nhật được tin cậy giao cho trông coi chiếc canô của nhà tù.
Chúa đảo Bruylê trong các báo cáo gửi Thống đốc Nam kỳ đã khen ngợi tù binh Nhật
về tinh thần tuân thủ kỷ luật và chịu khó nhọc trong lao động khổ sai. Vài tù
binh Nhật đã bị tai nạn chết thê thảm. Trại Nhật lặng lẽ cắt cử người đi chôn.
Họ âm thầm chịu đựng và nén chặt nỗi đau trong lòng. Họ yên phận và dễ bảo dưới
sự sai khiến của gacdang Pháp mà mới 2 năm trước đó, còn xun xoe với lính Nhật
trên hòn đảo này.
Có thêm lao động khổ sai, nhà tù lại gặp thêm nhiều khó khăn mới. Bộ máy
cai trị còn quá yếu. Theo báo cáo của nhà tù, tháng 3 năm 1948 để cai quản hơn
1.000 tù nhân, chỉ có 34 giám thị Pháp, 22 gác ngục người Việt và một phân đội
lính thuộc địa 18 tên (cả sĩ quan). Ngoài ra còn có một trạm liên lạc của Hạm đội
Viễn Đông do tên quan tư hải quân Mêniê (Meynier) trực tiếp chỉ huy. Theo báo
cáo của Giám đốc thì cần phải có thêm ít nhất là 7 giám thị Việt Nam và 19 giám
thị Pháp “có kiến thức nghiệp vụ và ý thức trách nhiệm cao” mới khắc phục được
tình trạng thiếu nhân viên quản tù một cách trầm trọng như hiện tại.
Tỷ lệ tù chính trị tăng lên là một nỗi lo ngại lớn cho bọn chúa đảo. Báo
cáo tháng 3 cho biết tỷ lệ tù chính trị đã tăng từ 30% (5-1947) lên 62%
(3-1948). Bruylê đã nhận xét tương đối chính xác rằng, “tù chính trị” khó cai
quản gấp mấy lần tù thường phạm về mọi phương diện” (Công văn 93-C ngày
20-3-1948).
Tổ chức và hoạt động của tù nhân kháng chiến.
Bước vào năm 1947, tế chức và hoạt động của tù nhân Côn Đảo chưa có sự
lãnh đạo tập trung và thống nhất. Tù nhân ở các sở tự tập hợp nhau lại theo nhu
cầu bảo vệ quyền sống và nhân phẩm con người. Mỗi sở tù có những cách tổ chức
và hoạt động khác nhau. Xây dựng tổ chức, chống sự ngược đãi của nhà tù; cải
thiện đời sống, đẩy mạnh các phong trào bình dân học vụ, văn nghệ và vượt ngục về
kháng chiến là những đặc trưng cơ bản của thời kỳ này.
Nhà Thương là sở tù sớm có tổ chức. Ngoài số tù nhân nằm điều trị, chủ sở
Pêtrônali (Pétronah) còn quản lý kíp tù nhân phục vụ tại Nhà Thương (y tá, hộ
lý bồi bếp tại sở); kíp vệ sinh quét đường và kíp đổ thùng cầu (tinette). Nhiều
chiến sĩ Cô Tô sau khi giải toả vụ Côngplô được điều về Nhà Thương, trong đó có
cả 2 cán bộ cán bộ của đại đội Ký Con là Lê Phú (Đại đội trưởng) và Nhâm Ngọc
Bình (Trung đội trưởng) vừa được giảm án tử hình. Anh Phạm Giang Doanh được cử
làm đại diện. Anh Trần Nhật Quang phụ trách phong trào bình dân học vụ. Anh Lê
Phú chỉ đạo bếp ăn, nuôi dưỡng những người tù bệnh. Anh Nguyễn Văn Khang (Khang
Đen) làm y tá, lo tìm kiếm thuốc men, trị bệnh. Anh Nguyễn Kim Diễn, y tá phiên
dịch ngoại trú làm nhiệm vụ tranh thủ viên bác sĩ người Pháp.
Cuối năm 1947, anh Nguyễn Kim Diễn với vai trò thư ký đã soạn thào điều
lệ của tồ chức tù nhân khu (dưỡng đường (Nhà Thương), phỏng theo những nguyên tắc
của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và thừa kế mô hình tổ chức của tù
nhân Khám Lớn. Ban chấp hành tù nhân khu đường đường gồm 5 người đã được bầu ra
theo điều lệ. Anh Nguyễn Văn Hiền (Hiền già người Bình Định) là chủ tịch.
Bản Chế là một sở quan trọng của nhà tù có nhiệm vụ quản lý các phương
tiện giao thông, cung cấp nước ngọt, chế tạo công cụ lao động, sửa chữa máy móc
các loại sản xuất đồ dùng mỹ nghệ. Tù nhân Bản Chế phần lớn xuất thân là những
người thợ tham gia cách mạng. Anh Nguyễn Văn Năm (Năm Mến) và anh Hai Nhị vốn
là những người tù chính trị trước 1945, từng trải và thận trọng, biết cách đoàn
kết, tập hợp anh em đã cùng với Nguyễn Văn Giỏi, Trần Văn Minh tổ chức nhóm
nghiên cứu Mácxít ở Bản Chế.
Ban chấp hành tù nhân khu Bản Chế gồm 5 người, được hình thành từ giữa
năm 1947, đã tổ chức việc tăng gia cải thiện đời sống và xoá nạn mù chữ cho anh
em. Các anh Nguyễn Hoà Nhã, Vũ Đắc Bằng, Nguyễn Văn Huệ, Triệu Lý, Lý Tiến
Vinh... đã góp phần tích cực vào các hoạt động văn nghệ, báo chí và bình dân học
vụ trong thời gian sau đó. Tù nhân kháng chiến ở các Sở Tồn, Sở Củi - chuồng
bò, Sở rẫy An Hải, các kíp cắt cỏ, thợ hồ, Nhà bếp, sở tẩy, lò vôi cũng cử ra đại
diện trật tự rồi lần lượt bầu ra Ban chấp hành để bảo vệ quyền lợi của tù nhân.
Chuyến lưu đày thứ 3 và các chuyến tiếp theo trong năm 1948, đã tăng cường
cả số lượng và chất lượng của tù nhân kháng chiến. Đây là lớp tù nhân đã trưởng
thành trong thời kỳ hoạt động và đấu tranh hết sức sôi nổi ở Khám Lớn - Sài Gòn
sau “cách mạng khám đường”. Nhiều người đã tham gia Ban chấp hành tù nhân ở các
khám, hoặc một số cương vị của Liên đoàn tù nhân Khám Lớn, từng dự các lớp huấn
luyện chính trị, quân sự ngắn hạn do các anh Tưởng Dân Bảo, Phan Trọng Bình, Vũ
Huy Xứng và Huỳnh Tấn Phát tổ chức. Họ còn được bồi dưỡng những kinh nghiệm hoạt
động bình dân học vụ, làm báo, văn nghệ từ thực tiễn trong tù.
Phong trào bình dân học vụ phát triển sôi nổi ở Côn Đảo trong những năm
1947-1948. Người học phần nhiều là tù thường phạm hoặc những người xuất thân là
nông dân, dân nghèo thành thị, phu phen thất học mới tham gia kháng chiến. Người
dạy có một số đã tham gia phong trào truyền bá quốc ngữ ở Khám Lớn. Các anh Trần
Nhật Quang ở Nhà Thương, Phạm Gia, Nguyễn Ngọc Lân, Trần Đống ở Khám 1, anh
Nguyễn Văn Mẹo ở Khám 3, Trần Văn Sứ, Nguyễn Văn Giỏi ở An Hải, Nguyễn Sáng,
Lưu Văn Lê, Võ Văn Nguy ở Chỉ Tồn... đã có nhiều đóng góp cho phong trào xoá nạn
mù chữ của tù nhân Côn Đảo. Anh Trần Nhật Quang từng bị tra tấn đến mù một con
mắt vẫn cặm cụi thức khuya dưới ngọn đèn tù mù chép những bài tập đọc, chính tả
cho anh em.
Ban chấp hành tù nhân ở mỗi khám đều có một ủy viên phụ trách bình dân học
vụ để tổ chức và chỉ đạo phong trào. Các hoạt động văn nghệ, báo chí cũng góp
phần tích cực cổ động tù nhân học tập. Tù nhân Sở Củi đã tổ chức đêm văn nghệ với
ca cảnh Xoá nạn mù chữ, cổ động cho phong trào bằng những lời ca sinh động. Đêm
văn nghệ còn có màn đồng ca Đời sống mới và nhạc cảnh Bảo vệ thóc vàng, phản
ánh sinh động của tù nhân hướng về các cuộc vận động lớn ở trong nước lúc đó.
Sau đêm diễn, Giám đốc Bruylê đã ra lệnh bắt anh Phan Văn Đại cùng tốp
diễn viên tra tấn 2 ngày ròng rã về tội “gây mất trật tự”. Toàn thể tù nhân khu
Sở Củi đã phản đối hành động khủng bố đó. Theo phương pháp i-tờ do hội truyền
bá quốc ngữ đề xướng, công tác xoá nạn mù chữ ở Côn Đảo đã đem lại kết quả rất
khả quan. Trong khoảng thời gian 3 tháng, người chưa biết chữ đã có thể đọc được,
viết được.
Tùy điều kiện khổ sai ở mỗi sở mà anh em bố trí thời gian học cho thích
hợp. An Hải, Sở Củi, Lò Vôi thường học buổi trưa. Nhà bếp, Chỉ Tồn, Bản Chế học
buổi tối. Tù tử hình phải còng chân thì bố trí thầy ngồi giữa, trò ngồi 2 bên.
Khi muốn đổi thầy hay đổi trò thì phải chờ đến phiên đổi còng. Anh Gác, công
nhân cao su ở miền Đông Nam Bộ nhờ được anh Lê Phú hướng dẫn tận tình trong mấy
tháng ở Khám tử hình đã đọc thông, viết thạo và làm được cả 4 phép tính thông
thường nữa.
Tên gác ngục Sa den có lần thấy tù nhân khám tử hình học văn hóa, y đã
giễu cợt:
-
Các anh sắp chết
rồi còn học làm gì?
(Người tử tù) Nguyễn Đình Chính đã trả lời:
-
Nếu không chết
thì sẽ thành người có ích. Còn nếu chết thì chúng tôi cũng phải chết một cách
có văn hoá.
Khám tử hình được thiết lập ngay từ cuối tháng 5-1946, lúc đầu ở Khám 3
Banh I, sau dời về Hầm xay lúa. Trước sự đấu tranh của dư luận tiến bộ ở Đông
Dương cũng như ở Pháp, bọn thực dân không dám bắn tất cả những tử tù mà chúng
đã xử. Sau một thời gian nhất định, chúng giảm án một số người và y án một số
khác. 56 tử tù ra chuyến đầu tiên ngày 27-5-1946 bị xử bắn tại Côn Đảo 10 người,
trong đó có anh Bùi Hữu Khiêm, một người chỉ huy ở mặt trận Phú Nhuận. 3 tử tù
đã chết vì bệnh tật, vài người bị đưa về hành quyết tại Sài Gòn, số còn lại được
giảm án nhiều đợt, đến đầu năm 1947 thì hết. Hầm xay lúa lại “dành chỗ đón” những
tử tù ra chuyến tiếp theo từ giữa năm 1947.
Tháng 1947, khám tử hình có 17 tử tù. Hai anh Nguyễn Ngọc Sớm và Nguyễn
Đình Thâu đã tổ chức cho anh em kỷ niệm sinh nhật Bác. Những tử tù bị còng
chân, có độc bộ quần áo cộc trên người đã bàn đi tính lại với nhau, làm sao lập
được bàn thờ Tổ quốc, có cờ, có ảnh Bác và có khẩu hiệu trang nghiêm. Hoàn cảnh
bị giam giữ nghiêm ngặt chính là nơi thử thách tình cảm, nghị lực và trí sáng tạo
của con người. Cờ được làm bằng giấy, từ hàng trăm mảnh giấy quấn thuốc lá nhỏ
xíu dán lại. Nền cờ được quét bằng thuốc đỏ rồi kẻ ngôi sao 5 cánh bằng thuốc
ký ninh vàng.
Để có được lá cờ họ phải nhịn hút thuốc từ nhiều ngày để dành giấy, phải
có người khai bệnh xin thuốc và nhịn suất cháo loãng để làm hồ dán. Họ đã dùng
móng tay bấm lá bàng thành chữ, dùng gân lá ghép thành khẩu hiệu “Chủ tịch Hồ
Chí Minh muôn năm” treo lên tường. Khó nhất là việc vẽ hình Bác Hồ. Anh Nguyễn
Văn Bẩy, một thanh niên khéo tay đã phác họa chân dung Bác theo trí tưởng tượng
của 17 tử tù. Đó là hình một ông cụ dáng cao gầy, chòm râu dài, tóc bạc, trán
cao, tai to, mắt sáng, gương mặt toát lên vẻ thông minh và nhân hậu. Bức họa
không thật giống, nhưng lại thật đúng là hình ảnh Bác trong tim, trong óc những
người tù thời ấy.
Rạng sáng 19-5-1947, 17 tù tử hình đứng dậy làm lễ kỷ niệm ngày sinh của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Anh Nguyễn Đình Thâu, nguyên là chi đội trưởng chi đội
13, Tư lệnh mật trận tiền tuyến Gò Vấp - Gia Định (miền Đông Nam Bộ) đã nói về
tiểu sử sự nghiệp của Bác, sau đó mọi người quây quần kể góp những mẩu chuyện
mà họ biết về đời hoạt động và đạo đức tác phong của Người. Mỗi đợt sinh hoạt
chính trị như vậy, những người tử tù động viên nhau giữ vừng khí tiết cách mạng,
xứng đáng là người lính Cụ Hồ, ngay cả khi đối diện trước cái chết.
Anh Nguyễn Hoài Cơ, đội viên Ban công tác I, người tử tù số G - 130 đã
nêu tấm gương đầy dũng khí. Lần ấy đổi còng, biết mình sẽ ra đi, anh đã thức suốt
đêm cùng bạn tử tù hát vang những bài ca cách mạng: Lên Đàng, Cùng nhau đi hùng
binh, Tiến quân ca, Chiến sĩ Việt Nam... Mờ sáng hôm sau, khi gác ngục mở cứa,
bọn lính Lê dương ập vào, anh siết chặt tay bạn tù, chào vĩnh biệt và ung dung
ra trường bắn.
Linh mục Nguyễn Văn Mầu kể lại, anh Cơ đã từ chối rửa tội. Anh chỉ vào tốp
lính Lê dương và tên chánh án có mặt tại trường bắn mà nói với linh mục: Ông phải
rửa tội cho những người này, chính họ mới có tội. Anh từ chối bịt mắt, nhìn thẳng
vào họng súng kẻ thù và dõng dạc hô:
Giọng anh lúc ấy vẫn điềm đạm như ngày thường. Linh mục Nguyễn Văn Mầu
thường trầm trồ nói với tù nhân: “Người như ông Cơ anh hùng lắm”.
Noi gương Nguyễn Hoài Cơ, những người tử tù đã biến cuộc hành hình của địch
thành một cuộc biểu dương khí phách của người cách mạng. Anh Nguyễn Đình Chính,
nguyên Trưởng ban Công tác I Sài Gòn - Gia Định bị địch gọi về xứ bắn tại Sài
Gòn. Trước khi về anh còn gửi lại bài thơ tràn đầy lạc quan tặng các bạn tù:
“Độc lập đến rồi các bạn ơi.
Chung thân Xử tử chỉ trò chơi.
Giặc Tây sắp đến giờ tận số.
Ta hát quân ca trở lại đời”.
Khí phách anh hùng trước cái chết như Nguyễn Đình Chính, Nguyễn Hoài Cơ
đã trở thành bất tử. Tù nhân kháng chiến Côn Đảo noi gương các anh về lòng tin
tất thắng vào cách mạng và dũng khí trước kẻ thù, như lời tuyên bố đanh thép của
Nguyễn Đình Chính trước toà án thực dân: “Tôi tin đến lúc chết, nước Việt Nam sẽ
độc lập”. Tù Côn Đảo gọi Khám tử hình là Khám bất tử, gọi người tử tù là tù bất
tử.
Cuối năm 1947, tù nhân các khám đều chuẩn bị chương trình văn nghệ đón
xuân Mậu Tý (1948). Ban kịch Sở rẫy An Hải dựng một vở kịch thơ của Phan Văn
Đã; Ban kịch Nhà bếp trình diễn vở Công chúa ngủ trong rừng và kịch Hội sợ vợ
do anh Lương Văn Thắng biên soạn và dàn dựng. Kỹ sư Lưu Văn Lê đạo diễn dựng vở
Thầy thuốc bất đắc dĩ cho Ban kịch tù áo trắng. Anh Hoàng Hữu Kình làm ở Văn
phòng Giám thị trướng đã khôn khéo đề nghị với Giám đốc tổ chức một “đêm kịch mừng
xuân mới”. Bruylê đồng ý với điều kiện là chính y duyệt nội dung các vở diễn.
Giáp Tết âm lịch, một phái đoàn của chính phủ bù nhìn Nam Kỳ do Trần Văn
Ân, Bộ trưởng Thông tin cầm đầu ra thăm Côn Đảo. Cùng đi có Bộ trưởng Tư pháp
Nguyễn Khắc Vệ và thứ trưởng nội vụ Lê Tấn Nầm. Ân đến thăm Bản Chế, Sở Củi, Trại
tù binh Nhật, và các khám tù, gặp gỡ một số tù nhân thuộc các đảng phái quốc
gia, sau đó đề nghị ân xá cho vài người (trong đó có cụ Võ Oanh). Nhân dịp ấy,
Giám đốc Bruylê đã mời Ân xem đêm kịch tù nhân, mưu toan leo cao trong nấc
thang danh vọng.
Đêm diễn có vở kịch Trương giả học làm sang của Môlie, nhạc cảnh Công
chúa ngú trong rừng, kịch vui Hội sợ vợ do Lương Văn Thắng biên soạn và song ca
Tết độc lập do Nguyễn Sáng và anh Quang trình bày. Nhạc cảnh Công chúa ngủ
trong rừng dựa theo truyện cổ dân gian Pháp biểu diễn thành công nhất, được
khán giả trầm trồ khen ngợi.
Anh Quang trong vai công chúa đã trình diễn điệu valse đẹp mắt theo nền
nhạc bài Tiếng rừng do Nguyễn Ngọc Lân, Nguyễn Sáng và Lưu Phê đồng ca. Trang
phục diễn viên lộng lẫy, ánh sáng hài hoà làm cho bọn Pháp hết sức thán phục. Vợ
quan tư hải quân Mêniê nói rằng bà ta có cảm giác như đang ngồi trong một rạp
hát của thành phố Paris bên Pháp. Tên gác dang Loadô tò mô đòi xem bằng được bộ
y phục đúng mốt và đắt tiền của diễn viên. Hắn hết sức ngạc nhiên khi tận mắt
thấy váy áo lộng lẫy bằng bao tải nhuộm, râu tóc bằng tơ gai tước ra, phấn son
là thuốc đỏ, thuốc tím và ký anh vàng.
Những tù nhân từng quằn quại dưới ngọn roi của hắn lại có vốn tri thức
văn hoá và thẩm mỹ nghệ thuật không ngờ. Những tù nhân làm văn nghệ không phải
để mua vui cho chúng. Họ biết lợi dụng máu hám danh của Bruylê để giảm bớt phần
nào sự đày ải của nhà tù, người tù kháng chiến thông qua hình thức nghệ thuật để
cảm hoá kẻ thù và lúc cần thì trực diện tố cáo chúng.
Khi Trần Văn Ân lên giọng ca ngợi thành công cải thiện chế độ lao tù của
Giám đốc đương nhiệm và ve vuốt tù nhân rằng: “Ở tù như thế này chẳng khác nào
đi nghỉ mát”, thì một tù nhân đã bảo hắn: “Vậy thì xin mời Ông ra đấy mà nghỉ
mát. Chúng tôi không ưa kiểu nghỉ mát này”.
Mùa xuân năm ấy không chỉ đánh dấu bằng
những thành công trong các hoạt động văn nghệ mà tù nhân Côn Đảo còn “được mùa”
vượt ngục. Hàng chục cuộc vượt ngục đã liên tiếp nổ ra từ đầu mùa gió chướng
năm ấy.
Tháng 10-1946, ba tù nhân vượt ngục trên một.chiến thuyền nhỏ. Hai lính
Pháp dùng chiếc thuyền 6 tay chèo đuổi theo. Lúc ấy nhà tù chưa có xuồng máy.
Sau vài giờ chúng đuổi kịp tốp vượt ngục, nhưng rồi tất cả không trở về. Một
con sóng lớn đã nhận chìm hai chiếc thuyền vào dòng xoáy của hải lưu. Tình cờ,
một chiếc tàu chở dầu của Hoa Kỳ đã vớt được mấy người lính và tù nhân đang hấp
hối. Họ được đưa cả về Thái Lan.
Cũng trong mùa gió chướng năm ấy, ông già Huệ, người tù án lưu quê ở miền
Tây Nam Bộ đã trốn lên núi đóng bè thân cây chuối rừng, một mình vượt biển,
lênh đênh trên biển 16 ngày liền^nắng thiêu cháy da. Hết lương thực, cạn nước
ngọt, ông phải rình bắt những con cá vô tình nhảy lên bè mà ăn sống cầm hơi.
Khi sức tàn, lực kiệt thì sóng đẩy dạt vào bán đảo Mã Lai. Những người du kích
Mailaixia đã cứu ông. Ông ở lại chiến đấu trong đội quân du kích chống thực dân
Anh và bị bắt trong một trận càn. Thực dân Anh trao trả ông cho chính quyền
Pháp và ông bị đày trở lại Côn Đảo ít lâu sau ông lại vượt ngục rồi mất tích.
Anh Mười Bù cùng một tốp thường phạm cũng đã thả bè vượt ngục vào cuối
mùa gió chướng. Năm ấy gió chướng hết sớm, bè các anh bị trôi ra phía biển
Đông. Hết nước ngọt và lương thực, cùng đường, người hấp hối sắp chết phải trở
thành nguồn sống cho những người còn lại. Một chiếc tàu tuần dương hạm của nước
Anh trên đường tới Xanhgapo đã vớt được những người sống sót và trao trả cho
Pháp. Bị đày trở lại Côn Đảo, Mười Bù lại tiếp tục chuẩn bị vượt ngục.
Ngày 31-1-1947, tàu chở hàng Goeland của Pháp đã vớt được 2 tù nhân vượt
ngục trên một chiếc bè. Báo cáo số 774/P ngày 7-2-1948 của Giám đốc nhà tù cho
biết, hai tù nhân này trên một hòn đảo nhỏ, ngắt lá rừng và bắt cá biển để ăn,
chờ đến khi gió chướng thổi mạnh mới thả bè về đất.
Mỗi mùa gió chướng, bọn gác ngục lại tăng cường các biện pháp chống vượt
ngục. Ngoài bộ máy gác ngục Pháp, Việt giám sát chặt chẽ hàng ngày, nhà tù còn
tổ chức một mạng lưới tù gian làm tay sai, ở lẫn lộn trong từng kíp tù để rình
mò, phát hiện. ở mỗi bãi biển, Sở Rờsẹc bố trí hai nhân viên truy tầm tù trốn.
Bọn này đã thông thạo từng loại gỗ nổi có thể đóng bè, từng vạt mây có thể làm
thuyền, những địa điểm mà tù nhân trường kết bè, hạ thủy, phát hiện các âm mưu
vượt ngục của tù nhân. Nhiều tù nhân bị phạt xiềng, phạt xà lim và đưa về những
sở khổ sai nặng nhọc.
Vượt ngục là cuộc chạy đua giữa tính mạng với tử thần. Nhưng không có hiểm
nguy nào ngăn được ý chí vượt ngục của người tù, cho dù chết chìm dưới biển
khơi hay vỡ thuyền, bị bắt lại. Xà lim, xiềng xích, kỷ luật của nhà tù chỉ nung
nấu thêm khát vọng vượt ngục của họ mà thôi.
Chuyến vượt ngục thành công sớm nhất của tù chính trị thời kỳ này là
chuyến của hai anh Diễn và Phong. Hai anh đã cập bến an toàn vào vùng biển Bạc
Liêu và ở lại công tác ngay tại Tỉnh đội Bạc Liêu. Chuyến thứ hai do anh Nguyễn
Ngọc Luật tổ chức vượt biển bằng thuyền ván. Nguyễn Ngọc Luật bị đày ra Côn Đảo
ngày 5-8- 1947, lọt được vào Sở Rờsẹc, canh bãi ông Đụng. Anh đã liên hệ với Tuấn,
Dưỡng ở Sở Củi, móc nối được Khánh và Thương là dân đánh cá vùng Gò Quào (Rạch
Giá). Các anh đã tháo được mấy tấm cánh cửa gỗ ở một căn nhà bỏ không phía Sở
Tiêu và đóng thuyền ở bãi ông Đụng, ngay tại khu vực Nguyễn Ngọc Luật kiểm
soát. Chập tối 15-11-1947 thuyền hạ thủy. Chiếc thuyền gỗ nhỏ đưa 5 chiến sĩ
cách mạng về vùng biển Rạch Giá sau 3 ngày đêm vượt biển.
Chỉ ít ngày sau, Ba Rùm đã cùng 4 tù nhân sở Bản Chế cướp ghe vượt ngục
ngay tại Cầu Tàu. Ba Rùm là cựu tù thường phạm ở đảo. Tháng 8-1945, anh được tù
chính trì giải phóng đưa về đất liền rồi tham gia kháng chiến, bị bắt lại đầu
năm 1946. Ra Côn Đảo lần thứ 2, anh đã tìm cách xin về Bản Chế và nuôi chí vượt
đảo. Mùa gió chướng năm ấy, một chiếc ghe câu ở Cấp (Vũng Tàu) trôi dạt vào Côn
Đảo. Ba ngơ dân được gửi theo tàu của hải quân Pháp về trả cho chính quyền dịa
phương, còn chiếc ghe tam bản chúng giao cho Sở Lưới. Rạng sáng một ngày cuối
tháng 11-1947, Ba Rùm cùng Bảy Vượng, Tư Sỏi, Năm Bé và Võ Văn Xê đã cướp ghe về
Cà Mau. Ba Rùm được phân công trở lại lực lượng võ trang Bình Xuyên, tham gia
nhiều trận đánh trên sông Lòng Tàu.
Nhóm tù nhân ở Sở rẫy An Hải và Sở Củi rủ nhau lên núi kết bè vượt đảo
vào chiều 11-1-1948. Do tổ chức lộ liễu nên bị phát hiện ngay từ khi vừa trốn
trại. Nguyễn Sáng kịp lẻn về trước giờ điểm danh, còn mười mấy người đã trốn
lên núi bị truy lùng gắt gao. Ông già Trị chém trọng thương một tên Rờsẹc truy
đuổi. Bọn lính bủa vây, súng trường, tiểu liên nổ ra khắp rừng An Hải suốt đêm ấy.
Chúng vây ráp cả tuần lễ, bắt lại từng người. Có người đói khát đã chết khô
trong hang Núi Chúa, hàng tháng sau mới tìm thấy xác.
Ngay trong đợt vây ráp và truy lùng ráo riết ấy, một chuyến vượt ngục
duy nhất của tù áo trắng đã thành công vào ngày 14-1-1948. Trong lúc nhà tù tập
trung lực lượng truy lùng trên núi và canh gác chặt chẽ bãi biển phía tây thì tốp
tù áo trắng táo bạo xuống thuyền ở phía đông, ngay tại bãi Nhà Thờ, trước mũi
dinh chúa đảo và nhân viên nhà tù. Nhờ sự chuẩn bị nỗ lực của anh em áo trắng,
còn phải kể đến tài nghệ của “vua vượt ngục” Mười Bù cùng sự tham mưu và chỉ đạo
của anh Năm Nghĩa ở Sở Củi nên chuyến vượt ngục này đã thành công.
Năm Nghĩa (còn gọi Nghĩa Sứt, Nghĩa Cơm Cháy) là một chiến sĩ tham gia từ
Nam Kỳ khởi nghĩa (1940). Anh ủng hộ và giúp đỡ chí tình cho nhiều cuộc vượt ngục
của tù nhân. Chính Năm Nghĩa đã giới thiệu Mười Bù cùng 2 tù thường phạm có sức
khỏe và kinh nghiệm vượt ngục cho nhóm tù áo trắng. Năm Nghĩa là người giữ mối
liên hệ thường xuyên giữa Mười Bù và Phạm Gia, thơ ký kho bạc trong suốt quá
trình chuẩn bị làm thuyền và góp nhiều ý kiến chỉ đạo.
Chuyến ấy đi bằng thuyền khung mây bọc vải. Trúc Quỳnh (bồi bếp) và Võ
Xuân Phong (hợp tác xã tiêu thụ) lo mua sơn, vải. Hoàng Hữu Kình, Lê Huy Báu
(Văn phòng Giám thị trưởng) thì nghiên cứu con nước thủy triều và quy luật bố
phòng của địch. Phạm Gia (kho bạc) làm nhiệm vụ tiếp tế và liên hệ giữa các
nhóm.
Toàn bộ công việc làm thuyền do Mười Bù và 2 thường phạm đảm nhiệm. Tay
lái thiện nghệ của “vua vượt ngục” Mười Bù đã đưa thuyền cập đúng mũi Cà Mau
sau 2 ngày, 3 đêm trên biển. Mười Bù giác ngộ, trở thành một chiến sĩ can đảm
trong lực lượng võ trang và hy sinh anh dũng trong cuộc kháng chiến ở miền Tây
Nam Bộ.
Chưa đầy một tháng sau, nhóm kéo cây do Lê Quỳnh Vân, Nguyễn Năng Tảo và
Lâm Quang Xuân lại tổ chức vượt đảo bằng thuyền khung mây bọc vải. Chuyến này
có 4 tù thường phạm làm Rờsẹc cạnh bãi Cỏ Ong và 12 tù chính trị ở Sở kéo cây.
Ngày 2-2-1948, các anh xuống thuyền ở bãi Cỏ Ong và cặp vào vùng biển thuộc huyện
Giá Rai (Bạc Liêu) an toàn.
Ngày 2 tết Mậu Tý (11-2-1948), 7 tù chính trị ở Sở'Bản Chế do Nguyễn Việt
Hùng tổ chức đã cướp chiếc canô duy nhất ở Côn Đảo vượt ngục về Cà Mau. Nguyễn
Việt Hùng còn có bí danh là Hùng Vịt tức Nguyễn Văn Thịnh, tức Mười Thái,
nguyên là cán bộ công vận hoạt động ở Sài Gòn từ 1944. Bị đày ra Côn Đảo từ
ngày 5-8-1947, Việt Hùng cùng một số tù trẻ có chí hướng vượt ngục tìm đến Năm
Nghĩa ở Sở Củi học hỏi kinh nghiệm. Khi được làm thợ máy trên chiếc canh Poulo
- Condore, anh đã chuẩn bị một kế hoạch cướp canô vượt đảo.
Mồng 2 tết năm ấy, có 2 tàu tuần tiễu của Pháp ghé Côn Đảo. Sau khi chở
đám sĩ quan, thủy thủ Pháp lên bờ xem kịch và dự tiệc, Nguyễn Việt Hùng được lệnh
chuẩn bị xăng nhớt và trực đêm để đón chúng về tàu. Thừa dịp ấy anh đã đưa cả
nhóm là Nguyễn Công Lý, Cù Trung Sơn, Nguyễn Văn Thước, cùng các anh Đệ, Miên,
Niên xuống canô về đất liền. Chiều 4 tết, các anh cặp vào đúng mũi Cà Mau.
Noi gương tù vượt ngục ở Sở Bản Chế, tù nhân Sở Lưới trên đường sang Hòn
Tài bắt vích đã bắt trói chủ sở Machiơ (Mathieu) cùng một lính Pháp và một tù
binh Nhật Bản (lái canh) vứt lên bãi cát rồi trở về đất liền. Chuyến ấy do các
anh Chánh, An, Đạt và một tù nhân nữa thực hiện.
Giám đốc Brơylê tỏ ra hoang mang trước các cuộc vượt ngục liên tiếp xảy
ra. Trong phúc trình số 93-C ngày 20-3-1948, y đã viện dẫn nhiều lý do khiến
cho nhà tù bất lực trước các cuộc vượt ngục. Đó là tỷ lệ tù chính trị tăng lên
một cách đáng kể, sự thiếu nhân viên quản tù, sự khủng hoảng tinh thần của những
gác ngục Pháp, Việt và sự phá sản của Sở Truy tìm tù trốn.
Bruylê cũng không giấu giếm rằng chính tình hình chính trị và quân sự (ở
Đông Dương) đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhà tù khiến cho các nhân viên coi ngục
người Việt Nam hoài nghi, co mình lại, những giám thị Pháp chán nản và kém hiệu
lực. Đáng ngại hơn cả là chính những nhân viên truy tìm tù trơn lại đồng lõa với
tù vượt ngục. Y đã đề nghị thay thế Sở truy tầm bằng những trạm kiểm soát của
lính Partisans người Lào hoặc Miên.
Bruylê chưa kịp thay đổi gì thì cuộc vượt đảo thứ 2 của tù nhân Sở Lưới
lại bồi tiếp cho hắn một đòn choáng váng. Cuộc vượt đảo này được tổ chức chặt
chẽ, do anh Nguyễn Văn Chì, đội viên Ban công tác 4 thành phố Sài Gòn - Gia Định
chỉ huy, có sự nội ứng của 2 giám thị Việt Nam là Nguyễn Văn Đang và Nguyễn Văn
Ngọc.
Tối 7-5-1948, 25 tù nhân Sở Lưới ra khơi đánh cá. Hai gác dang Bare
(Barère) và Nuộc (Muogues) cùng thầy chú Nguyễn Văn Đang với 3 tù nhân ngồi
trên chiếc ghe máy mượn của Sở Hải Đăng và Hoa Tiêu, kéo theo một chiếc ghe chèo
chở 27 tù nhân và thầy chú Nguyễn Văn Ngọc.
Khoảng 21 giờ đêm, ghe ra đến gần Hòn Tre, giảm tốc độ chuẩn bị bủa lưới
thì trên chiếc ghe đầu, giám thị Nguyễn Văn Đang một tù nhân kháng chiến đoạt
cây tiểu liên của Nuộc. Nuộc chống cự và nhảy xuống biển hòng thoát thân nhưng
hắn bị bắn chết. Trên ghe thứ 2, tù nhân cũng nhanh chóng làm chủ tình thế rồi
chuyển qua ghe máy, mở hết tốc lực, nhằm hướng đất liền.
Ngày hôm sau (8-5-1948), không thấy thuyền Sở Lưới về, Bruylê mới vội vã
tổ chức truy tìm, nhưng vô vọng. Tàu tuần tiễu và thủy phi cơ của hải quân Pháp
được huy động vào cuộc truy tìm trên biển. Bọn Rờsẹc cùng binh lính, giám thị sục
sạo khắp các bến bãi cũng không tìm được dấu vết gì. Giám đốc Côn Đảo điện báo
cho Sở cảnh sát cộng hòa và Bộ nội vụ ngụy quyền, Công điện số 30/ATS ghi:
“Trân trọng báo cáo, 25 phạm nhân vượt ngục nhân buổi đánh cá đêm 7 rạng
8-5-1948 trên một thuyền gắn máy. Hai giám thị người Âu và một người gác ngục
Việt mất tích cùng với vũ khí. Dự đoán họ bị bắt làm con tin - stop. Đã truy
tìm lập tức bằng thủy phi cơ, tàu tuần tiễu, ở biển và trên bộ, không có kết quả
- stop. Ký tên: Bruylê.
Công điện gửi đi vào lúc đoàn tù vượt ngục đã ung dung trên đất liến. Xuồng
của họ cặp vào cửa biển Mỹ Thanh (nay thuộc tỉnh Hậu Giang). Họ bàn giao vũ
khí, chiến lợi phẩm và tù binh cho chính quyền cách mạng. Hai thầy chú Nguyễn
Văn Đang và Nguyễn Văn Ngọc đã được tù nhân giác ngộ, tích cực nội ứng cho cuộc
vượt ngục tình nguyện tham gia vào đội ngũ kháng chiến. Ngọc sau hy sinh ở chiến
trường miền Đông Nam Bộ.
Gác dang Bare bị chính quyền cách mạng kết án tử hình vì có dự phần vào
những tội ác đối với tù nhân trong cuộc đại khủng bố 1940- 1945, thảm sát trên
3.000 người ở Côn Đảo; song những người tù vượt ngục đã xin tha chết cho y.
Bare thật sự cảm động nói với vị đại diện của chính quyền kháng chiến: “Lẽ ra
các ông ấy phải vứt tôi xuống biển mới xứng với tội lỗi của tôi. Tôi rất biết
ơn Cụ Hồ đã giáo dục các chiến sĩ Việt Nam dũng cảm và nhân đạo”.
Cuộc vượt ngục của tù nhân Sở Lưới lần
này gây một tổn thất nặng nề cho nhà tù: Bruylê đã phải gọi là “tấn bi kịch thảm
khốc”. Chiếc canô được bổ sung giao cho Sở Lưới đã bị một nhóm tù chính trị vượt
ngục đoạt mất cách đó không lâu. Lần này, chiếc xuồng máy vừa mượn của Sở Hải
Đăng và Hoa Tiêu để áp tải ghe đánh cá lại mất trắng. Hàng loạt cuộc vượt ngục
nối. tiếp nhau trong mùa gió chướng này đã sớm kết thúc sự nghiệp coi tù của
Bruylê.
Bruylê đang chờ đợi cơ hội để gỡ gạc lại uy tín sau một thời cai trị đày
ắp các phúc trình về tù nhân vượt ngục. Giữa lúc ấy, Cao ủy Bôlae (Emile
Bolaert) ghé Côn Đảo trước khi mãn nhiệm ở Đông Dương, trở về Pháp giữa mùa thu
1948. Bruylê quyết định ra mắt quan thày bằng vở kịch Thầy thuốc bất đắc dĩ (Le
Médecin malgrélui) của Môlie mà y đã có dịp thưởng thức tài nghệ của các diễn
viên tù. Bruylê vừa vuốt ve, vừa răn đe ban kịch: “Tôi biết các anh diễn kịch
hay lắm. Phải diễn cho tốt và nghiêm chỉnh. Cuộc sống của các anh sau này tốt
hay xấu đều phụ thuộc vào đêm diễn ấy”.
Ban kịch đã thảo luận khá gay gắt về việc diễn hay không diễn. Có người
không muốn diễn vì sợ để lại tiếng xấu là tù kháng chiến diễn kịch mua vui cho
Cao úy Pháp, làm nổi danh cho Giám đốc Bruylê, để cho hắn điều khiển theo ý muốn...
Có người lại đề nghị là cứ nhận lời, nhưng không diễn mà nhân dịp giáp mặt
Bôlae sẽ lên án chế độ thực dân xâm lược và chế độ nhà tù man rợ ở Côn Đảo. Sau
cùng, họ thỏa thuận với nhau: diễn kịch và tố cáo.
Biết đêm kịch này lành ít dữ nhiều, họ đã rút vở kịch lại còn một màn,
chọn ít diễn viên để bớt phần tổn thất. Chỉ có 5 người, thuộc Ban kịch tù áo trắng:
Lương Văn Thắng, Nguyễn Ngọc Lân (thư ký kho bạc), Trần Duy Giang (Văn phòng
Giám đốc), Lưu Phè (Sở rẫy Giám đốc), Quang (hợp tác xã tiêu thụ).
Bôlae không đặt chân lên Côn Đảo. Đoàn diễn viên tự hoá trang sau bữa
cơm chiều rồi theo tốp lính áp tải xuống canh, ra chiếc tuần dương hạm đậu
ngoài vịnh Côn Lôn. Dự “Đêm kịch Bôlae” có cả Đô đốc Tư lệnh Hải quân Pháp ở Viễn
Đông Ba tê (Battet) theo tàu hộ tống và phóng viên hãng thông tấn A.F.P, phóng
viên các tờ Sài Gòn Nhật Báo, Viễn Đông Nhật Báo cùng hàng trăm sĩ quan, thủy
thủ vây quanh boong tàu. Vợ chồng Bruylê cùng vợ chồng quan tư hải quân Mêniê tại
Côn Đảo cũng có mặt.
Mở đầu đêm kịch, thay cho lời chào mừng, anh Lương Văn Thắng, một nạn nhân
trong vụ Côngplô đã đọc bài diễn văn tố cáo chế độ nhà tù tàn bạo và nghiệt
ngã. Anh khẳng định rằng tù kháng chiến là những người yêu nước, cầm súng bảo vệ
nền độc lập của dân tộc mình, giống như những người Pháp Đờ Gôn chống phát xít
Đức, không bao giờ là quân phiến loạn như bản án mà thực dân Pháp đã gán cho họ.
Vậy mà bọn chúa ngục Côn Đảo đã đối xử với họ dã man hơn cả phát xít Đức đối với
tù binh Pháp.
Bôlae không chịu nổi, đứng dậy cắt ngang lời Lương Văn Thắng:
-
Các ông là những
kẻ phiến loạn, đốt nhà, cướp của, giết người. Các ông không có quyền so sánh với
những người Pháp yêu nước.
Tình thế mở ra một cuộc đối thoại lý thú giữa người tù kháng chiến và
Cao ủy Pháp. Lương Văn Thắng hỏi Bôlae:
-
Vậy xin hỏi
ngài, hành động của một thiếu niên yêu nước Việt Nam ném lựu đạn vào quân Pháp
có khác gì hành động tương tự của một thiếu niên Pháp đối với bọn phát xít Đức?
Bôlae trơ trẽn trả lời:
-
Khác chứ. Bọn
phát xít Đức xâm lược nước Pháp, còn nước Pháp có trách nhiệm bảo hộ và khai
hoá cho đất nước này!
Lương Văn Thắng bồi tiếp:
-
Báo chí Đức dưới
thời Pêtanh cũng nói với nhân dân Pháp như thế!
Bôlae cứng lưỡi, đỏ mặt tía tai, đập bàn đứng dậy. Giám đốc Bruylê hầm hầm
ra lệnh cho bọn lính áp tải còng tay đoàn diễn viên đưa vào cấm cố ngay đêm diễn
khi họ còn nguyên cả y phục, phấn son. Hôm sau, hắn tuyên bố phạt mỗi người một
tháng xà lim, còng chân, ăn cơm nhạt, uống nước lã.
“Đêm kịch Bôlae” nổi tiếng không phải ở thành công của sân khấu nghệ thuật
mà là dũng khí của người chiến sĩ, người nghệ sĩ trước kẻ thù. Bằng lòng can
trường và lý lẽ đanh thép, người tù kháng chiến đã lột trần bộ mặt xâm lược và
tàn bạo của thực dân Pháp. Họ đã buộc tên đầu sỏ thực dân ở Đông Dương phải đối
thoại và đến khi đuối lý, hắn đã lộ rõ nhân cách thấp hèn vốn có của bọn thực dân
xâm lược.
Tốp diễn viên kịch tù, trừ Lương Văn Thắng đã đứng tuổi, còn lại đều rất
trẻ. Họ mới giác ngộ từ những ngày đầu kháng chiến. Cách mạng tháng Tám 1945 đã
nâng họ từ người nô lệ thành công dân một nước độc lập và chính họ đã đề cao
chính nghĩa cho dân tộc Việt Nam. Họ đã biến sân khấu nhà tù thành diễn đàn
đanh thép tố cáo cuộn chiến tranh xâm lược và tàn bạo của thực dân Pháp ở Việt
Nam trước mặt tên đầu sỏ thực dân cùng hàng trăm sĩ quan, thủy binh, nhà báo, bất
chấp mọi hình phạt.
“Đêm kịch Bolae” đã đặt dấu chấm hết ,cho đoạn đời cai trị đầy tham vọng
và thủ đoạn của Bruylê. Cay đắng trước thất bại, Bruylê cấm tù nhân diễn kịch
và hát ca, đóng cửa thư viện, bỏ chiếu phim. Y cấm tất cả tù áo xanh không được
ra khỏi trại trong ngày nghỉ, ngày lễ. Y bắt tù áo trắng buổi tối phải vào ngủ
trong Banh I, không còn bộ phận nào được ngủ ngoài banh như trước nữa. Y thiết
lập chế độ cấm cố tại Khám 6, Banh I để giam riêng những người tù cứng đầu, bất
trị.
Ông già Trị vừa mãn hạn xà lim sau cuộc vượt ngục thất bại là một trong
những người đầu tiên vào cấm cố. Đoàn kịch sau một tháng bị phạt xà lim cũng về
Khám 6. Sự có mặt của những người tù vượt ngục và tốp “diễn viên kịch” đầu tiên
trong Khám 6 cấm cố chính là bằng chứng thất bại thảm hại trong thời cai trị của
Bruylê. Đó cũng là hình ảnh của sự bất lực và trả thù; là bộ mặt thật của chính
sách biến nhà tù thành “Trung tâm giáo dục lại nhân phẩm” như trong phúc trình
buổi đầu nhận chức của Bruylê..
Thống nhất lực lượng, tiến tới cao trào
Từ giữa năm 1948 tù nhân Côn Đảo đã hình thành tổ chức ở hầu hết các
khám tù, sở tù. Trong dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh (2-9) năm ấy,
các anh Nguyễn Đình Thâu (Khám tử hình), Trịnh Xuân Hà (Sở rẫy Giám đốc), Lương
Văn Thắng (thư ký kho bạc), Tư Ba Đào (Khám 3), Trương Anh Tuấn (Chỉ Tồn), Lê
Ngọc Hương (Nhà bếp), Phan Văn Đại, Nguyễn Văn Mẹo (Khám 2), Lê Trung Khá (Khám
6), Nguyễn Văn Năm (Bản Chế)... đã liên hệ với nhau bàn việc bầu ra bàn lãnh đạo
thống nhất của tù nhân Côn Đảo.
Anh Nguyễn Đình Thâu được giao nhiệm vụ dự thảo Điều lệ của Liên đoàn tù
nhân để trình Hội nghị lâm thời của đại biểu tù nhân Côn Đảo. Trên cơ sở đó, tiến
hành bầu Ban chấp hành liên đoàn tù nhân, cơ quan lãnh đạo cao nhất của tù nhân
Côn Đảo. Vài tháng sau, bản Điều lệ dự thảo được các anh Trịnh Xuân Hà, Lê Ngọc
Hương, Trương Anh Tuấn thảo luận cùng một vài tù nhân kháng chiến gần gũi.
Hoàn cảnh nhà tù khi ấy không còn cho phép triệu tập Hội nghị lâm thời.
Các anh Nguyễn Đình Thâu, Trịnh Xuân Hà, Lê Trung Khá, Tư Ba Đào, Phan Văn Đại
đã nhân danh Hội nghị lâm thời tù nhân Côn Đảo để chỉ đạo việc bầu Ban chấp
hành tù nhân ở các khu.
Ở Khám 5 (Chỉ Tồn) Ban chấp hành tù nhân đã tự quản được trong công việc
khổ sai. Anh em tù thuyết phục được Tám Nhỏ, người cầm đầu nhóm tù án tư pháp ở
đây bỏ lệ nấu nướng, uống trà buổi tối để tham gia sinh hoạt, học tập với tù
kháng chiến. Khám 5 có 3 tù nhân kháng chiến người Lào. Ban chấp hành đã bố trí
cho họ chỗ nằm tốt, hướng dẫn việc trật tự vệ sinh và sinh hoạt, học tập theo
quy định.
Khám còn hình thành nhóm nghi lễ do các anh Lê Tam, Đỗ Văn Đích, Nguyễn
Sáng và Hoàng Phúc làm nòng cốt, tổ chức chào cờ các buổi sáng, có hát Quốc ca,
Lãnh tụ ca, Hồn tử sĩ. Được nhạc sĩ Lưu Hữu Phước hướng dẫn từ ngày đầu Cách mạng
tháng Tám (1945), Nguyễn Sáng trở thành hạt nhân nòng cốt trong hoạt động âm nhạc
của tù nhân Côn Đảo. Ca khúc Ngày giải phóng được anh sáng tác tại Khám 5 Banh
I trong những ngày vận động thành lập Liên Đoàn đã củng cố niềm lạc quan cách mạng
cho tù nhân Côn Đảo. .
Ở hầu hết các khám, tù kháng chiến đã đoàn kết được với tù tư pháp (thường
phạm). Một số tư pháp giác ngộ lợi ích chung của tù nhân và phục tùng sự lãnh đạo
của tập thể đã được cử vào Ban chấp hành, được bầu làm chủ tịch hoặc đại diện.
Riêng Sở Lưới, nhóm tù tư pháp do Tô Minh Nhật tức Mười Võ Sĩ cầm đầu vẫn gây
khó khăn cho việc bầu ban chấp hành. Nhật ấm ức vì bị tù kháng chiến đánh đổ
khi làm cặp rằng ở Khám Lớn Sài Gòn. Trước tình hình đó, Ban lãnh đạo Hội nghị
lâm thời đã bố trí anh Phạm Trọng Hồng mãn hạn điều trị ở nhà thương được về
làm ở kíp xe chỉ - vá lưới, góp phần xây dựng tổ chức tù nhân ở Sở Lưới.
Phạm Trọng Hồng có biệt hiệu là Hồng Năm Căn, Hồng Võ Sĩ, nổi tiếng
trong những trận đụng độ với tù tư pháp ở Khám Lớn Sài Gòn. Khi ở Sở rẫy An Hải
(đầu 1948), anh đã có kinh nghiệm hoà giải với tù tư pháp, liên kết được với Bảy
Lửa để xây dựng Ban chấp hành tù nhân ở đó. Về Sở Lưới, anh cùng Hà Triệu Quý
xây dựng khối đoàn kết tù nhân, đồng thời tranh thủ được Tám Gáo là cặp rằng
phó, Ba Đạt (dân anh chị, ở Tân Định), Ba Hạnh (dân anh chị ở Cầu Muối) và tổ
chức hoà giải với Tô Minh Nhật. Ban chấp hành tù nhân Sở Lưới đã được bầu: Tô
Minh Nhật là chủ tịch kiêm đại diện; Phạm Trọng Hồng là phó, phụ trách tổ chức
nội bộ; Hà Triệu Quý là thư ký.
Đoàn kết giữa tù kháng chiến và tù tư pháp là nhân tố quyết định thành
công trong việc bầu ra Liên Đoàn tù nhân Côn Đảo. Tù kháng chiến đã cảm hoá tù
tư pháp bằng nhiều cách. Nhưng quan trọng hơn cả là cảm hoá bằng chính đạo đức,
nhân cách của người tù kháng chiến; cảm hoá bằng sức mạnh độc lập tự do của một
dân tộc đang gan góc chống ngoại xâm.
Tư Ba Đào khi làm cặp rằng Khám 3 - Khám Lớn Sài Gòn đã được các đồng
chí Vũ Huy Xứng và Phan Trọng Bình giác ngộ. Tư Ba Đào thường xuyên khuyên anh
em tù tư pháp nên đoạn tuyệt với quá khứ của mình mà đoàn kết với tù kháng chiến
để sau này ra tù, khỏi hổ thẹn với các bậc “Anh Lớn”.
Trong những ngày vận động thành lập
Liên Đoàn tù nhân, Tư Ba Đào ra lời kêu gọi các bạn tù tư pháp: “Các bạn hãy
quên đi quá khứ giang hồ mã thượng của chúng ta, tích cực ủng hộ Liên đoàn, tiến
tới Đại hội bầu ra một cơ quan lãnh đạo thống nhất trên toàn đảo”.
Đấu tranh chống khổ sai hà khắc
Trong những ngày sôi nổi vận động thành lập Liên đoàn tù nhân Côn Đảo, Sở
Củi đi đầu trong phong trào đấu tranh đòi hạ mức khổ sai. Sở Củi là nơi khai
thác các loại củi để cung cấp cho nhu cầu toàn đảo: Củi cành cho bếp tù; củi chẻ
nhỏ gia đình gác dang, thầy chú, binh lính; củi gộc để nung vôi, đốt gạch và củi
gỗ lớn chạy máy phát điện, máy hơi nước, máy lu, xe lửa, đốt lò than. Banh Sở Củi
nằm trên một ngọn đồi thấp dưới chân Núi Chúa. Cạnh đó là Sở rẫy - Chuồng Bò,
nơi trồng rau, nuôi trâu bò, lợn, chim bồ câu. Có lúc Sở Củi và chuồng bò tháng
một chủ sở.
Đốn củi là một loại công việc khổ sai nặng nhọc và nguy hiểm. Tù nhân Sở
Củi phải thức dậy từ mờ sáng, lót dạ một dùa1 cháo loãng rối trần trụi leo núi,
luồn rừng kiếm củi. Nhiều người bị cây đè, rắn cắn, ngã xuống vực hoặc sốt rét,
khổ sai đến kiệt sức. Tù nhân Sở Củi bị đòn như cơm bừa vì thiếu củi, vì xuống
núi trễ giờ hay vì củi không đủ quy cách; nhưng họ được tương đối tự do trong
giờ kiếm củi. Đó là cơ hội hiếm có để hội họp, thảo luận hoặc chuẩn bị vượt ngục.
Khi tù nhân được tự do trong rừng, có sẵn dao, búa trong tay, ít khi bọn gác
dang dám động tới. Chúng chỉ gây sự với họ tại cân nộp củi hoặc khi về banh.
Tù Sở Củi vượt ngục nhiều, mà số “bất trị” cũng không ít nên bọn chúa ngục
bố trí những tên gác ngục hung bạo trông coi sở này. Khi ấy, Bênarét (Bénarès)
một gác dang khét tiếng hung ác làm chủ sở. Tên này hành củi về củi gỗ, leo núi
thuộc từng lối mòn, hang ngách. Hắn thường sục sạo suốt ngày trên núi xem tù
nhân làm cho đến chiều tà mới xuống bãi. Tay vung vẩy một khúc mây, hắn sẵn
sàng vụt xuống bất cứ người nào thiếu củi hay củi xấu, chửi rủa tù nhân những
câu tục tĩu bằng cả tiếng Pháp và tiếng Việt.
Tháng 7-1948, Bênarét đã đánh đập tơi tả cả kíp tù từ sân ,củi về đến
banh. Nhiều tù nhân uất ức định dùng búa đập vỡ đầu hắn trên núi rồi ném xác xuống
vực nhưng Ban chấp hành tù nhân đã ngăn kịp thời tư tưởng manh động ấy.
Đầu tháng 11-1948, Ban chấp hành tù nhân khu Sở Củi phát động một đợt đấu
tranh đòi hạ mức củi. Đại diện tù nhân đưa yêu sách cho chủ sở, trong lúc đó
anh em tự động lãn công bằng cách làm ít củi, lấy củi không đủ quy cách, xuống
núi trễ giờ với lý do là mức củi cao, đường xa, củi tốt ngày càng hiếm. Ban chấp
hành phát động tinh thần xung phong, khuyến khích cá nhân dám chịu phạt, chịu
đòn mà chưa bãi công đồng loạt để tránh địch khủng bố truy tìm tổ chức trong buổi
đầu mới thành lập.
Trần Văn Tôn, một người tù tư pháp án 8 năm khổ sai (số tù C.11631) đã
đi đầu trong cuộc lãn công đòi hạ mức củi. Không ngày nào anh chịu nộp đủ và
cùng chịu đòn với anh em mỗi chiều trên sân củi. Ngày 7-11-1948, Mười Tôn lên
núi từ sáng đến sẩm tối mới xuống, trên vai chỉ có một bó củi nhỏ. Bênarét đánh
anh chết ngay tại sân củi. Cái chết đau thương của Mười Tôn đã châm ngòi, làm
bùng lên lửa căm thù nung nấu trong lòng tù nhân bấy lâu nay.
Ngay tối ấy, Sở Củi báo tin cho toàn thể tù nhân Côn Đảo biết. Ban chấp
hành lâm thời Liên đoàn tù nhân Côn Đảo quyết định phát động một cuộc đấu tranh
bằng hình thức đình công, tuyệt thực toàn đảo, để tang Mười Tôn, phản đối hành
động giết người của bọn gác ngục Pháp. Hai ngày sau, các sở tù khổ sai đồng loạt
đình công, không đi làm và bỏ ăn một ngày. Tù áo trắng cũng vào khám. Chiều hôm
trước, anh em đã dán nhiều truyền đơn vào gốc cây trên các con đường quanh công
sở để phản đối vụ giết Mười Tôn và tố cáo những tội ác của bọn giám thị nhà tù.
Lần đầu tiên toàn thể tù nhân Côn Đảo đã đồng tâm nhất trí đấu tranh,
không phân biệt là tù kháng chiến hay tư pháp, là tù áo xanh (khổ sai) hay áo
trắng (thư ký, bồi bếp). Họ biểu thị nỗi đau thương và lòng căm thù bằng một sự
im lặng sắt đá.
Ngày hôm ấy toàn bộ các sinh hoạt trên đảo đều ngừng
trệ. Lá bàng rụng đầy đường, nhà cầu của giám thị, công chức ngập phân không
người quét dọn. Giám thị, binh lính, công chức, sĩ quan Pháp đều phải ăn đồ hộp
hoặc chui vào bếp tự nấu. Mọi cơ chế sinh hoạt trên đảo đều dựa vào sức lao động
khổ sai của tù nhân, đến lúc này trở nên bế tắc.
1. Chén ăn cơm bằng mảnh gáo dừa.
Giám đốc La phốt (Henri Lafosse) mới tới nhận chức còn lo sợ hơn. Y ra lệnh
báo động toàn đảo, đặt trung đội lính Pháp trong tình trạng chiến đấu, Tất cả
gác ngục Pháp, Việt đều phải thường trực và được võ trang với cơ số đạn tối đa.
Số tù nhân ở các cơ sở ngoài cũng bị dồn cả vào trong Banh I. Cửa khám luôn
luôn khoá chặt.
Mặc dù tù nhân chỉ tuyên bố đình công, tuyệt thực một ngày, La phốt vẫn
thận trọng cho cấm cố và bỏ đói họ thêm 2 ngày nữa. Khi đã yên tâm vì không có
dấu hiệu bạo động, ngày 14-11-1948, y mới ra lệnh mở cửa cho tù nhân đi làm và
phạt giam xà lim 7 tù nhân: Trịnh Xuân Hà, Vũ Ngọc Toàn, Hoàng Phúc, Trần Nhật
Quang, Lê Tam, Đỗ Văn Đích và anh Bát.
7 anh hội ý với nhau và quyết định tuyệt thực ngay tại xà lim Banh I.
Các anh tuyệt thực đến ngày thứ 7 thì Giám đốc xuống giải quyết. Hắn thanh minh
chuyện phạt là vì tình nghi các anh cầm đầu tổ chức, xúi giục tù nhân đấu
tranh. Nay thấy không có chứng cứ nên hủy bỏ lệnh phạt.
Cuộc tuyệt thực đình công toàn đảo lấn đầu tiên này đã chứng tỏ sức mạnh
đoàn kết của tù nhân Côn Đảo; đánh dấu bước phát triển về ý thức chính trị, ý
thức tổ chức và ý chí đấu tranh của họ. Đó là dấu hiệu cho thấy điều kiện chín
muồi để ra đời một tổ chức thống nhất của tù nhân Côn Đảo.
Sau vụ Mười Tôn, tên Giuyếcvave (Jurvaver) gác dang Banh I lại bắn chết
anh Ba Minh tức Đồng Văn Huy (số tù B.2335) chỉ vì anh phản đối chế độ cấm cố,
đòi bỏ còng. Anh đã bị cấm cố và 2 chân ròng rã 3 năm trời, đến mức gần như
phát điên. Khi anh đã trúng đạn gục ngã, tên sát nhân còn ngồi lên ngực, nã cả
băng đạn còn lại vào đầu anh.
Tiếp đó, chủ Rờsẹc Nhắc lại tra tấn đến chết anh Nguyễn Văn Điều (số tù
C.l1802) vì bọn tay chân vu cho anh tội âm mưu vượt ngục. Mỗi lần như vậy, tù
nhân đều tuyệt thực một bữa để phản đối. Dù chưa chặn được bàn tay bọn giết người
nhưng họ đã tỏ ý thức chính trì và tình đoàn kết tranh đấu chống lại sự bạo ngược
của bọn thống trị.
Đầu tháng 12 năm 1948, La phốt được đám tù gian cho biết, một tù nhân đã
nhận được bức thư qua tàu pigeneau de Béhaine. Bức thư ấy ra lệnh thành lập những
ủy ban nhằm chuẩn bị cho một cuộc tổng nổi loạn với mục tiêu phá hủy đài vô tuyến
điện Hải quân, tiêu diệt hết viên chức nhà tù cùng gia đình họ và giải thoát tù
nhân bằng một chiếc tàu hàng. Thời điểm hành động có thể vào dịp lễ Nôen hoặc Tết.
Ngày 13-12-1948, La phốt gửi bức thư phúc trình số 154-C cho Thủ tướng chính phủ
bù nhìn.
Sau khi thông báo nguồn tin trên, y đã trình bày các biện pháp đối phó
trước mắt: “Nếu như kế hoạch đó vượt quá khả năng của tù nhân, nhất là việc vượt
ngục với một tàu to, thì ít ra, nó cũng phát hiện một tổ chức vững chắc từ đất
liền, đó là một nguy cơ không được xem thường.
... Hiện nay, tên cầm đầu tổ chức và khoảng 50 tù nhân đã bị nhốt xà lim
vì biện pháp an ninh... Đội quân đồn trú và gác dang được đặt trong tình trạng
báo động.
Một phạm nhân có cảm tình với chúng tôi (tức là mật báo của nhà tù) bị 5
tên ở gần hành hung (...) Anh ta bị thương bằng 10 nhát dùi đục, có một nhát
gây thương tích khá nặng.
Một giám thị trong khi thỉ hành công vụ bị tấn công và bị thương ở đầu
(...)
Thủ phạm các cuộc mưu hại đều bị nhốt xà lim”.
La phốt đánh giá tình hình chính trị ở Côn Lôn là “rất nghiêm trọng”, an
ninh bị uy hiếp. Nếu cuộc tổng nổi loạn xảy ra thì 80 gác dang và thầy chú cùng
26 lính Sênêgan phải trực tiếp đối đầu với 1.400 tù nhân. Hắn khẩn cấp yêu cầu
tăng cường ngay 5 gác dang chính thức, một trung đội lính tăng viện và 10 khẩu
tiểu liên.
Hắn cho giam trên 50 tù nhân trong vụ “âm mưu đảo chính mới” này vào
khám 7 theo chế độ cấm cố, hầu hết họ là tù nhân ở Sở Lưới, Chỉ Tồn và một số
tình nghi ở các sở. Đồng thời hắn cho tăng cường các biện pháp an ninh theo
phương án chống bạo động và vượt ngục. Một số người bị giam ở xà lim Banh II.
La phốt buộc tất cả binh lính và viên chức nhà tù chịu đựng tình trạng
căng thẳng ấy cho đến tết âm lịch 1949. Nhưng, không có cuộc tổng bạo loạn nào
cả. Bọn tù gian đã phóng đại rất nhiều lần những tin tức mà chúng thu lượm được.
Việc liên hệ giữa tù chính trị Côn Đảo với đất liền qua các tàu hàng vẫn được
duy trì bí mật, song không có một bức thư nào từ đất liền chỉ thị việc tổng nổi
loạn ở Côn Đảo cả.
Tuy nhiên, có nhiều cuộc giải thoát
đang được những nhóm tù nhân kháng chiến chuẩn bị thì hắn lại hoàn toàn không
biết.
Chiếm đèn pha Bảy Cạnh, vượt ngục
Vào lúc La phốt không ngờ nhất thì kíp tù nhân làm khổ sai ở Bảy Cạnh đã
bạo động chiếm pha, vượt ngục. Khi ấy đã cuối mùa gió chướng.
Từ giữa năm 1948, công việc sửa pha (Hải Đăng) đã được tiến hành. Nhân lực
ấy trong tù nhân ở Sở Lưới và Chỉ Tồn. Buổi sáng sớm kíp khổ sai phải theo sà
lan chở vật liệu sang Bảy Cạnh. Sau 2 giờ đồng hồ bị sóng gió nhồi lắc, họ lại
phải lội xuống nước, chuyển vật liệu vào bờ rồi chia nhau gùi lên đỉnh pha cao
200m. Sóng gió, nắng hè, dốc núi, đòn roi làm cho họ kiệt sức. Chiều tối họ lại
theo sà lan về banh. Kíp tù làm khổ sai Bảy Cạnh chỉ được vài ngày là ốm hết
nên chúng lại phải đổi nhân lực cho các kíp khác.
Bảy Cạnh trong những ngày ấy trở thành sở khổ sai khủng khiếp và cũng là
nơi thôi thúc chí vượt ngục của tù nhân. Kíp Chỉ Tồn và Sở Lưới do Thái Mập và
Hồng Võ Sĩ chỉ huy chuyển vật liệu từ tàu Nicôlô sang Bảy Cạnh đã tính cướp tàu
vượt đảo. Do bọn gác ngục rất cảnh giác và thiếu sự nhất trí của nhóm tù tư
pháp (Tô Minh Nhật, Tư Phát) nên việc ấy không thành.
Lần khác, ba tù nhân làm khổ sai ở Bảy Cạnh là nguyên Văn Tuy, Lục, Ngàn
đã trốn lên rừng tre phía tây đảo này để đóng bè vượt ngục. Nhà tù phải đưa một
tiểu đội lính, một tốp gác dang và một đội Rờsẹc truy lừng cả tuần. Cả ba người
tù vượt ngục đều bị bắt về sở Rờsẹc, bị tra tấn đến mức không ai còn nhận ra
hình hài, mặt mũi nữa.
Đầu tháng 5 năm 1949, Giám đốc nhà tù quyết định đưa một kíp tù sang ở hẳn
hòn Bảy Cạnh để giảm bớt thời gian đi và về, tăng hiệu quả công việc. Kíp gồm 4
tù nhân, chọn trong số tù vừa ở Khám Lớn ra được 2 ngày. Anh Đặng Xuân Hà được
chỉ định làm đại diện kíp, sau đó đã được anh em bầu làm Chủ tịch Ban chấp hành
tù nhân khu Bảy Cạnh. Đặng Xuân Hà tức Hà Lèo quê ở Huế, là cán bộ tình báo Khu
6 bị bắt tại Nha Trang, đưa về Sài Gòn (3-1948). Tại Khám Lớn, Hà Lèo đã được
nghe về hàng chục cuộc vượt ngục của tù côn Đảo, đã nuôi chí đi đảo để vượt biển.
Trên đường sang Bảy Cạnh, Hà Lèo đã bàn với những người cùng chí hướng như Vĩnh
Yên, Giỏi, Vôn, Nhiều về khả năng cướp pha vượt ngục. Cuộc bạo động nổ ra vào
tuần thứ 2 kể từ khi họ đặt chân lên Bảy Cạnh.
Một buổi sáng chủ nhật giữa tháng 5-1949, nhóm hành động đã khởi sự, bắt
gọn gác dang Sác tông (Charton) và một thày chú tại bãi đổ vật liệu dưới chân
núi. Sau đó, Hà Lèo cử một tốp lên pha bắt gác dang Brátxiê (Brasiner) và vợ chồng
gác pha Đuypay (Dupay), đoạt một tiểu liên, một súng trường và một số lựu đạn;
chủ pha Sơvaliê (Chevalier) thoát nạn vì hắn đã đem máy vô tuyến điện theo tàu
về Côn Đảo sửa từ chiều hôm trước.
Ban lãnh đạo cuộc bạo động đã giải thích cho gác ngục và vợ con họ hiểu
mục đích cuộc bạo động là để vượt ngục về tham gia kháng chiến. Những người tù
chính trị sẽ thực hiện đúng chính sách tù hàng binh, bảo đảm cho họ tính mạng
và tư trang, không bị đánh đập ngược đãi. Ban lãnh đạo còn cắt cử những người
tin cậy canh gác cẩn thận, đề phòng một số tù tư pháp lưu manh phá ngọn đèn pha
hoặc có hành động xấu với vợ con thủ pha, gác ngục.
Tù nhân được chia làm nhiều tốp chuyển vật liệu, đóng thuyền và chặn
đánh địch nếu chúng phản kích. Ngay chiều đó, họ đã xong một chiếc thuyền gỗ
hình chữ nhật, dài 6 mét, rộng 2,5 mét, cao 1,5 mét. Thuyền được bọc thiếc bên
ngoài và ép vải, quét sơn bên trong cẩn thận. Chập tối hôm đó thuyền được hạ thủy,
nhưng do làm vội nên nước rò vào nhiều, không đi nổi. Sóng lớn Xô thuyền vào bờ
đá vỡ tan. Kíp tù vượt ngục mệt mỏi gom lại từng mảnh ván đóng lại thuyền, dự định
hạ thủy vào chiều hôm sau.
Mặc dù được đóng lại cẩn thận hơn, song chiếc thuyền vẫn trở nên mong
manh vì quá nhỏ bé so với gần 50 người vượt ngục. Ban lãnh đạo cuộc vượt ngục
quyết định không đưa gác dang và vợ con họ đi theo như dự kiến. Do bất đồng ý
kiến, tốp đóng thuyền (trong đó có một số tù thường phạm) cho hạ thủy trước giờ
hẹn, bỏ lại Ban lãnh đạo cuộc vượt ngục và một số tù chính trị phải làm nhiệm vụ
trên pha. Hơn 20 người xuống thuyền đã trở về đất liền sau 4 ngày đêm vượt biển,
còn 19 người thuộc phái chủ trương không phá hải đăng, không cướp bóc tư trang,
đối xử nhân đạo và không bắt gác dang đi theo đã bị bỏ lại.
Cảm phục nhân cách cao thượng và lòng nhân đạo của tù chính
trị, vợ chồng gác pha Đuypay^cùng vợ chồng
gác dang Brátxiê đã đồng tình kiến nghị với Giám đốc nhà tù trả lại tự do cho
19 người tù còn lại. Gác pha Đuypay, nhân chứng tích cực bảo vệ cho 19 tù kháng
chiến đã khẳng định trước Giám đốc nhà tù: “Các anh ấy đã không động đến lông
chân chúng tôi, không đụng đến thân thể vợ con tôi. Các anh ấy đã bảo đảm tính
mạng cho chúng tôi và ngọn đèn pha”1.
1. Đặng Xuân Hà - Ngọn cờ đỏ sao vàng trên Côn Đảo. Hồi ký, bản viết tay
của tác giả, tr. 13. Hồ sơ lưu trừ tại Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
Bà Rịa - Vũng Tàu.
Anh Đặng Xuân Hà đã phổ biến cho anh em cách khai cung thống nhất:
“Chúng tôi muốn về với gia đình. Chúng tôi chỉ phản đối việc phá phách ở pha và
ngược đãi những người Pháp đang bị giam giữ cho nên bị bỏ rơi”.
Vợ Đuypay đã từng được Giám đốc La phốt đặc biệt ưu ái nay cũng cố gắng
bảo vệ những người tù vượt ngục bị bỏ rơi. Bà ta nói với Giám đốc rằng, nếu
không có những người tù chính trị này thì cánh tù thường phạm đã làm tan nát đời
bà rồi. Nhờ vậy những tù nhân này được điều dưỡng một thời gian ở Nhà Thương. Một
năm sau, họ được trả tự do.
Thắng lợi của cuộc bạo động pha Bảy Cạnh không chỉ dừng lại ở việc giải
thoát một số đông tù nhân mà còn có ý nghĩa trên lĩnh vực binh địch vận. Thái độ
nhân đạo và đúng đắn của những người tù chính trị trong cuộc vượt ngục đã nâng
cao uy tín của tù chính trị trong binh linh và gác ngục Pháp. Đuypay và Brátxiê
đều chân thành tâm sự với tù nhân rằng: khi về Pháp, họ sẽ kể chuyện về nhân
cách cao thượng của tù chính trị để nhân dân Pháp hiểu rõ cuộc kháng chiến của
nhân dân Việt Nam.
Việc sửa chữa pha Bảy Cạnh bị đình trệ. Trong một thời gian dài, pha được
giữ nguyên hiện trạng, 4 người tù đưa sang làm bồi phục dịch ở pha bị kiểm soát
nghiêm ngặt. Cuộc bạo động pha Bảy Cạnh nổ ra bất ngờ, dường như lại xác nhận
cho bản báo cáo ngày 13-12- 1948 của Giám đốc nhà tù về một âm mưu tổng nổi loạn
là có cơ sở. Mặc dù không đàn áp tù nhân, không nghiệt ngã với những người bị bắt
lại, Giám đốc La phốt vẫn tiến hành những biện pháp an ninh.
Nhiều tù nhân tiếp tục bị bắt vào cấm cố.
Sau sự kiện Bảy Cạnh, La phốt tăng cường bố phòng trên toàn đảo, khuyến
khích hoạt động của đám tù gian, mở nhiều cuộc khám xét nhằm phát hiện các âm
mưu bạo động, vượt ngục. Bọn tù gian đã chỉ điểm cho nhà tù bắt được nhiều tài
liệu và cơ sở in ấn tại Khám Chỉ Tồn, Banh I.
Sở Tiêu là một trong những cơ sở đóng ghe vượt ngục cũng bị bố ráp.
Chúng bắt Tú Tường tại Sở Tiêu cùng với bản Điều lệ và danh sách ban chấp hành
Liên đoàn tù nhân Côn Đảo vừa được bầu cử. Anh Duy, thơ ký lực sự bị chủ sở Rờsẹc
Nôvắc chặn lại khám xét khi anh mang giấy in, mực in vào khám. Nguyễn Quốc,hình
lái xe lửa ở Bản Chế bị tên Tốt chỉ điểm, bị chủ sở bắt với nhiều tập san, báo
chí, bản nhạc, lịch và danh sách bầu cử Ban chấp hành Liên đoàn. Cơ sở in ấn ở
Khám 2 bị lộ. Nhiều tù nhân ở kíp thợ mộc (bản chế) bị tra khảo để tìm người
làm khung in bột.
Bố phòng nghiêm ngặt, khám xét, bắt bớ, tra khảo, cấm cố, còng xiềng là
những biện pháp cấp bách của La phốt. Tù nhân bị phạt xà lim, cấm cố nhiều nên
thiếu nhân lực, La phốt áp dụng kiểu phạt xiềng vẫn bắt đi làm khổ sai để vừa
hành hạ vừa bóc lột họ. Phạt xiềng cũng có nhiều kiểu:
-
Xiềng đôi là
hai chân khóa chung một sợi xiềng đóng ngang mắt cá cổ chân; sợi xích dài khoảng
40 cm, buộc người bị phạt muốn đi lại phải nhích từng chân một, nếu chạy là ngã
ngay.
-
Xiềng tạ là
hình phạt nặng hơn. Một đầu xiềng cặp vào cổ chân, còn đầu kia là một quả tạ nặng
khoảng 5kg. Muốn đi lại, người tù phải kiếm thêm một sợi dây vắt qua vai để
nâng quả tạ lên ngang lưng, tay nắm lấy đầu dây kéo ghì xuống. Người bị phạt
cũng có thể cầm quả tạ vào tay khi đi lại. Lúc mỏi tay, phải để quả tạ lê trên
đường, mỗi bước đi quả tạ lăn qua lăn lại, giật sợi xiềng siết vào cổ chân đau
nhói như thức tỉnh người tù thận trọng hơn nữa trong kế hoạch vượt ngục.
La phốt còn cho áp dụng một hình phạt nữa đối với anh em đã trốn không
thoát, bằng cách cạo trọc đầu. Những người đã từng có án trốn thì chỉ cạo nửa đầu
để làm dấu cho gác ngục đặc biệt cảnh giác. Tất cả những người bị bắt, sau thời
hạn phạt xà lim đều bị đưa về cấm cố tại Khám 6 Banh I. Khám 6 trở thành nơi tập
trung những người lãnh đạo ở tất cả các khu, trở thành trung tâm lãnh đạo của
tù nhân Côn
Đảo lúc đó.
Để bảo vệ tổ chức và hoạt động của mình, tù nhân kháng chiến ở một số
khu đã tìm cách trừ khử những tên tù gian làm tay sai, chỉ điểm cho bọn gác ngục.
Lực lượng xung kích trừ gian là những chiến sĩ trong các Ban công tác nội thành
Sài Gòn - Gia Định và Chợ Lớn. Nguyễn Đình Chính, nguyên Trưởng ban công tác I
khi bị giam ở Khám tử hình Côn Đảo đã khích lệ đồng đội của mình: “Nhiệm vụ của
Ban công tác thành là giết giặc trừ gian thì ở ngoài đời hay vào tù đều phải giết
giặc trừ gian”.
Anh Nguyễn Văn Hai bị bắt lúc đang sơn vải làm thuyền, bị phạt hai xiềng
tạ ở hai chân. Anh cầm quả tạ vào hai tay mỗi lần di chuyển, dáng như người chiến
sĩ cầm hai quả lựu đạn xông ra mặt trận nên có biệt danh là “Hai lựu đạn”.
Mở đấu phong trào trừ gian, các anh Xây, Thể, Tâm Con và Năm Mến đã diệt
tên Nguyễn Văn Tốt (số tù C.10980), tay sai đắc lực của chủ sở Bản Chế
Noócmăng. Bị đưa về Sài Gòn để xử chồng thêm án, các anh lại tổ chức diệt luôn
tên Võ Phương Ninh, một tên chỉ điểm rất nguy hiểm ở Sở Lưới. Chính hắn đã phát
giác âm mưu cướp tàu Nicôlô và vu cáo âm mưu bạo loạn của tù nhân để bọn chúa đảo
đàn áp, bắt hàng chục tù nhân vào xà lim cấm cố. Tên Ninh đã bị các anh Trần
Văn Thành (chiến sĩ Cô Tô), Nguyễn Quốc Hương (ban công tác thành) và Linh Còm
đâm tại Côn Đảo nhưng không chết, được đưa về Sài Gòn chữa trị.
Nhóm trừ gian ở Bản Chế gặp lại Võ Phương Ninh ở Khám Lớn. Các anh Ngọt,
Xây, Tâm Con và Năm Mến quyết tâm khứ hắn. Xây rủ Võ Phương Ninh đánh cờ, Năm Mến
bất ngờ đè hắn xuống, Ngọt dùng dao nhọn đâm. Tâm Con đứng ra nhận chỉ một mình
anh giết Ninh và chịu lãnh thêm một án 5 năm tù nữa.
Mất tên tay sai đắc lực Nguyễn Văn Tốt, Noócmăng lại tìm cách mua chuộc
y tá Trương Hải. Nhận thấy Hải thường lấy thuốc trong tủ thuốc của tù nhân cho
chủ sở và được Noócmăng ưu đãi, Hải không tham gia tổ chức và sinh hoạt theo chỉ
đạo của Ban chấp hành tù nhân nên nhóm trừ gian thứ 2 ở Bản Chế quyết định giết
Hải. Các anh Trần Ngọc Phả, Nguyễn Duy Tiêu, Nguyễn Văn Lúc và Ngô Viết Hoàn đã
phân công nhau, ai gặp điều kiện thuận lợi là giết. Anh Phả xung phong đứng ra
nhận hết, dù là ai giết. Gặp dịp, Ngô Viết Hoàn đã hạ Trương Hải bằng 2 nhát đục
thợ mộc. Noócmăng tập hợp tất cả kíp tù nhân lại, mặt xám ngắt, tay lăm lăm khẩu
súng lục và tuyên bố:
-
Đứa nào giết y
tá Hai thì bước ra, nếu không tao bắn hết?
Anh Trần Ngọc Phả bước ra khỏi hàng, vừa kịp nói: “Tôi” thì Noócmăng nhằm
ngực anh nã luôn ba viên đạn. Anh em ở Nhà Thương đã cấp cứu cho anh Phả, còn
tên Hải bị bỏ mặc cho chết.
Noócmăng là gác dang lâu đời ở Bản Chế, tàn bạo và hiểm độc. Hắn thường
đánh tù bằng bất cứ thứ gì vớ được trong xưởng như dùi đục, kìm sắt, thanh gỗ,
hòn đá. Đối đầu với một tên chủ sở vào loại hung ác nhất, tù nhân ở Bản Chế đã
nung nấu căm thù, chỉ chờ dịp đấu tranh. Hôm ấy, Ban chấp hành tù nhân khu Bản
Chế đã nhắc nhở anh em kìm nén, không để bột phát nổ ra trong tình thế bất lợi.
Chỉ ít hôm sau, nỗi uất ức của tù nhân đã có dịp bùng lên. Hôm ấy, bác
Tư chở nước ngọt đến nhà Noócmăng thì bỗng nhiên con bò trở chứng bất kham làm
xe nước đổ lênh láng. Noócmăng không nói không rằng, rút cọc xe phang luôn vào
đầu bác. Hắn còn nhặt đá ném theo khi bác chạy về phía anh em đang làm. Anh Huệ
và anh Thăng là ủy viên trong ủy ban tranh đấu có mặt ở đó đã phát lệnh cho anh
em tắt máy ngừng làm việc. Dự đoán địch sẽ đưa quân xuống khủng bố, anh Huệ đã
rạch thêm vài nhát dao lam dưới chân tóc bác để máu chảy nhiều, tạo ra tình thế
nghiêm trọng.
Khi Noócmăng đuổi theo tới xưởng thì anh em đã ngồi yên lặng vây quanh
bác Tư. Bác nằm thiêm thiếp, máu từ đầu chảy loang trên mặt, thấm đỏ áo.
Noócmăng báo cáo Giám đốc là tù nhân Bản Chế nổi loạn, yêu cầu tiếp viện. Hai
mươi phút sau, bọn lính da đen đã vây kín và chĩa những họng súng đen ngòm vào
mấy chục người tù. La phốt bước vào, theo sau là Giám thị trưởng cùng tên trung
úy chỉ huy đội lính và hơn chục gác ngục Pháp. La phốt hỏi:
Anh Huệ và anh Thắng bước ra điềm tĩnh trả lời:
-
Thưa thiếu tá,
ở đây không có ai chỉ huy ngoài ông Noócmăng. Còn đại diện cho anh em tù là hai
chúng tôi.
Không khí căng thẳng đã dịu bớt. La phốt bắt đầu cuộc đối thoại và lắng
nghe tù nhân trình bày. Anh Huệ và Lương Văn Thắng đã thay mặt tù chính trì tố
cáo hành động đánh đập dã man, xứ phạt vô cớ của chủ sở và tuyên bố:
- Trước hành động dã man của chủ sở Noócmăng đã bắn anh Phả hai hôm trước,
nay lại đánh vỡ đầu bác Tư, chúng tôi tuyên bố sẽ không đi làm nữa, nếu ông
Noócmăng còn ở sở Bản Chế này.
Giám đốc nhượng bộ, đưa Đôminíchcơ Mai, một gác ngục lai, quốc tịch Pháp
về thay Noócmăng.
Nhà tù đang cần phải hoàn thành gấp chiếc sà lan gỗ đang đóng dở ở Bản
Chế để phục vụ việc bốc dỡ, vận chuyển hàng. Noócmăng bị hất khỏi một sở có nhiều
bổng lộc nhất thì rất ấm ức. Hắn cho già Keo, một tay sai trung thành uống rượu
say rồi đốt kho Bản Chế để hại giám thị Mai và kiếm cớ khủng bố tù nhân, âm mưu
bị phát hiện, đám cháy được dập tắt. Giám thị Mai trực tiếp lấy cung già Keo.
Biết toàn bộ âm mưu bị bại lộ, Noócmăng tìm mọi cách chạy chọt, hiến cả vợ và
con gái Hêlen (Hêlène) mới 17 tuổi cho Giám đốc nhà tù. Kết quả là già Keo được
tha. Noócmăng về làm xếp Banh I. Một thời gian sau hắn đổi về Sài Gòn rồi chết
vì bệnh lao.
Tháng 6 năm 1949, tên mật thám Trần Dư đã bị đền tội tại Sở Ruộng. Dư
làm mật thám cho Pháp khảo cung tù nhân ở bót Catina (Sài Gòn) dưới quyền của
hai tên ác ôn Mai Hữu Xuân và Trần Bá Thành. Không có người tù nào qua bót
Catina lại không đổ máu vì chúng. Nhiều đội viên Ban công tác I đã tính giết hắn
từ Sài Gòn mà chưa có dịp. Nay do mâu thuẫn nội bộ mà hắn bị phạt tù, đày ra đảo.
Bọn giám thị nhà tù cho hắn nuôi vịt ở Sở Ruộng, cách ly hắn với tù kháng chiến,
nhưng không thoát.
Hôm ấy, tù ở Khám 6 đập đá ở ngoài bãi gần Chuồng Bò, Nguyễn Quốc Hương
và Nguyễn Trí Tuệ được cắt phiên đi lấy rau về cải thiện. Hương qua Sở rẫy Chuồng
Bò mượn một lưỡi mác giắt sau lưng. Đến Sở Ruộng, không thấy Dư, Hương và Tuệ lội
xuống ruộng hái rau muống. Đúng lúc ấy, Dư về cũng lội xuống hái rau. Tuệ ôm
Dư, Hương đâm chết Dư ngay tại ruộng. Sau đó Quốc Hương đến thẳng Sở Cò tự nhận
mình đã giết Trần Dư (số tù A.2392).
Sau những trận đòn trả thù ở Sở Cò, Hương bị đưa về Sài Gòn nhận thêm bản
án mới. Bọn tù gian chỉ điểm ở các sở khác cũng bị tù nhân trừng trị. Tên Sổ ở
Sở Củi đã bị Hoàng Kiếm Thanh trừ khử với sự hỗ trợ của Vũ Văn Thùy tức An.
Hoàng Kiếm Thanh là một người tù tư pháp loại anh chị, được giác ngộ từ Khám Lớn.
Hoàng Kiếm Thanh đi tham gia tổ chức của tù nhân kháng chiến, thực hiện xuất sắc
nhiều nhiệm vụ của Liên đoàn tù nhân. Trong vụ diệt tên Sổ, anh Vũ Văn Thùy nhận
hết để Hoàng Kiếm Thanh khỏi bị truy tố, ở lại đảm nhiệm những nhiệm vụ của
Liên đoàn tù nhân. Vũ Văn Thùy sau khi lãnh thêm án, trở ra đảo là một chiến sĩ
giao liên xuất sắc, có lúc được bầu làm Chủ tịch Ban chấp hành tù nhân liên khu
II với bí danh Ngô Tùng.
Ngày 5-12-1950, anh Giáp và anh Sáu Cầy tức đoàn Minh Đình đã diệt tên
Vàng (số tù A.2293) chỉ điểm tại Nhà Thương. Anh Giáp nhận, nhưng Sáu Cấy cũng
bị truy tố ra tòa.
Công tác trừ gian đã chặn đứng hoạt động phá hoại, chỉ điểm của bọn tù
gian, bảo vệ được tổ chức và lực lượng của tù nhân.
Tháng 7-1949, anh Nguyễn Đình Thâu được giảm án tử hình về Khám 6 Banh
I. Anh đã góp sức cùng anh em đẩy mạnh việc xây dựng Liên đoàn tù nhân Côn Đảo
Anh Phan Văn Đại sau một thời gian làm thư ký thường trực Hội nghị lâm thời chỉ
đạo việc bầu Ban chấp hành ở các khu cũng bị phạt xà lim rồi về Khám 6. Hai anh
Lê Ngân và Trần Quốc Phiên mới ra sở Chỉ Tồn được cử làm thư ký thường trực để
chỉ đạo các khu hoàn thành việc bầu cử.
Mùa gió chướng thứ hai của thời chúa đảo La phốt, những cuộc vượt ngục
thưa hẳn đi. Hàng loạt các biện pháp an ninh và kỷ luật của La phốt tỏ ra có hiệu
lực trong một chừng mực. Mặt khác, khối tù nhân lại đang tập trung tất cả hoạt
động vào việc bầu ra cơ quan lãnh đạo cao nhất của tù nhân trên toàn đảo.
Tháng 11-1949 các khám đã hoàn thành việc bầu cử, Tạp chí Côn Đảo Mới,
tiếng nói của Liên đoàn tù nhân đã công bố danh sách ban chấp hành gồm: Chủ tịch
Tư Ba Đào, Phó chủ tịch kiêm tổng đại diện Trịnh Xuân Hà, Trưởng ban tuyên truyền
Trương Anh Tuấn, Trưởng ban huấn học Lê Ngọc Hương, Trưởng ban xã hội Nguyễn Tiếp,
và Nguyễn Ngọc Sớm, ủy viên phụ trách giao thông liên lạc...
Bản điều lệ của Liên đoàn tù nhân quy định rõ nhiệm vụ và chức năng của
các thành viên Ban chấp hành Côn Đảo. Điều lệ qui định liên đoàn được tổ chức
theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Tù nhân các khu trực tiếp bầu ra Ban chấp
hành khu và bầu đại biểu vào Hội đồng tù nhân Côn Đảo. Hội đồng sẽ cử ra Ban chấp
hành Liên đoàn tù nhân.
Nhưng hoàn cảnh trong tù không cho phép hội họp tự do dân chủ như vậy.
Trên thực tế là tù nhân các khu đã bầu thẳng các thành viên của Ban chấp hành
Côn Đảo, phần nhiều là chấp nhận bản danh sách đề cử mà thư ký thường trực lâm
thời gửi đến.
Khi chuẩn bị tranh đấu, thì ở mỗi cấp bầu ra ủy ban tranh đấu để chỉ đạo
cuộc đấu tranh theo yêu cầu mà Ban chấp hành Liên đoàn đề ra. ủy ban tranh đấu
là cơ quan lãnh đạo cao nhất trong đợt đấu tranh. Sau khi kết thúc đấu tranh, ủy
ban tranh đấu mới giao quyền lãnh đạo lại cho Ban chấp hành Liên đoàn tù nhân
các cấp.
Điều lệ cũng quy định mỗi tổ chức cơ sở của Liên đoàn (khám tù, sở tù)
là một khu; mỗi trại giam (banh), gọi là một liên khu, và cấp cao nhất là Ban
chấp hành liên đoàn. Buổi đầu, do số lượng tù nhân ít nên hệ thống tổ chức của
Liên đoàn chỉ có 2 cấp: Cấp cơ sở (khu) và cấp Liên đoàn (toàn đảo); cấp liên
khu có tên mà chưa có Ban chấp hành.
Ban chấp hành tù nhân ở các khu cũng có cơ cấu tương tự như cấp Liên
đoàn nhưng có thêm Ban trật tự. Công tác trật tự rất quan trọng. Kể từ lúc anh
em thức dậy cho đến khi đi làm, ăn uống, nghỉ ngơi, đều cần có sự điều khiển của
Ban trật tự. Khi cuộc tranh đấu nổ ra, nhiệm vụ của Ban trật tự rất quan trọng
cả về phương diện tổ chức, an ninh nội bộ cũng như đối phó với giám thị. Khi địch
đàn áp, Ban trật tự sẽ câu tay nhau chịu đòn ở vòng ngoài, bảo vệ lãnh đạo và
những người ốm yếu. Đối với nội bộ, Ban trật tự theo dõi những người sa sút
tinh thần và ngăn cản có hiệu lực những trường hợp bỏ cuộc, nhảy ra đầu hàng địch.
Các khu tự chọn phiên hiệu cho đơn vị mình để dùng trong Văn bản giao dịch
nội bộ, không dùng tên gọi của nhà tù. Banh I mang tên Liên khu Võ Nguyên Giáp,
vị Tổng tư lệnh các lực lượng võ trang kháng chiến. Banh II mang tên Liên khu
Nguyễn Bình, vị Tư lệnh các lực lượng võ trang ở Nam bộ. Sau những cuộc thảo luận
dân chủ, tù nhân các khu đều chọn tên cho đơn vị mình. Có khám mang tên một vị
anh hùng dân tộc hoặc mang tên những đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ, Quân đội...
Có khám mang tên một chiến sĩ ưu tú đã hy sinh anh dũng.
Nhân dịp Liên đoàn tù nhân Côn Đảo ra đời, Chủ tịch Tư Ba Đào ra lời hiệu
triệu, in trên tạp chí Côn Đảo Mới, kêu gọi toàn thể tù nhân:
“Đoàn kết nhất trí xung quanh Ban chấp hành, tạo thành một lực lượng vững
chắc đối phó với mọi âm lưu đen tối của nhà tù.
Mọi hành động cử chỉ của tù nhân đều tuân thủ theo sự chỉ đạo của các
Ban chấp hành khu, Ban chấp hành khu thực hiện đúng các chủ trương đường lối của
Ban chấp hành Côn Đảo.
Đẩy mạnh các hoạt động không
ngừng nâng cao ý chí chiến đấu, cải thiện sinh hoạt vật chất và tinh thần”1.
Liên đoàn tù nhân Côn Đảo ra đời đã tạo nên một bước chuyển biến lớn lao
trong đời sống chính trị của lớp tù nhân kháng chiến. Liên đoàn vừa là hình ảnh
của khối đoàn kết dân tộc trong tù, vừa giống như một chính quyền của tù nhân,
trên thực tế có đầy đủ hiệu lực với khối tù trong hoạt động bí mật cũng như khi
tranh đấu công khai. Ngay cả kẻ thù, dù không thừa nhận nhưng trong nhiều trường
hợp đã không thể bác bỏ được vai trò của Liên đoàn tù nhân Côn Đảo.
Nếu như phong trào vượt ngục trong
mùa gió chướng 1947-1948 như một cơn lốc cuốn, làm sụp toàn bộ tham vọng trị tù
bằng thủ đoạn lừa mị của Bruylê thì phong trào đấu tranh quyết liệt của khối tù
nhân, sau kh Liên đoàn ra đời, đã làm cho những biện pháp “cứng rắn” nhất của
La phốt cũng trở nên vô hiệu. Đổi lại, trong cuộc đối đầu với La phốt, tù nhân
cũng phải đổ khá nhiều xương máu.
Đẩy mạnh phong trào văn hóa,
văn nghệ, báo chí trong tù
Từ khi có Liên đoàn, phong trào Bình dân học vụ phát triển mạnh theo khẩu
hiệu: “Biến khám đường thành học đường”. Ban huấn học tích cực vận động mọi người
học tập theo phương châm “Không để một ai ngồi không mà không học, không đọc “.
Khám 6 có ông già Trị (thường phạm) mù chữ. Khi còn làm khổ sai ở các sở
ngoài, ông chú tâm vượt ngục nên chẳng học được chữ nào. Vào cấm cố thấy mọi
người say mê học, ông mới thèm khát được biết đọc, biết viết và đọc được thư của
con cháu như mọi người. Ông cặm cụi mài từng mẩu san hô thành viên phấn nhỏ, nắn
nót viết từng nét chữ theo sự hướng dẫn của những người tù trẻ. Ba tháng sau,
ông viết được thư về nhà. Khi nhận được thư hồi âm, ông rưng rưng đọc nhẩm từng
chữ, xúc động như cảm nhận một điều kỳ diệu. ông cười mà nước mắt giàn giụa.
Ông nói với anh em tù chính trị chỉ trạc tuổi con ông: “Tụi bây khá quá. Tao
không ngờ ở với tụi bây lại sáng mắt ra”.
Khám 6 còn có ông già Kim mù chữ, vốn là một người nghèo khổ, bị xã hội
thực dân ngược đãi đến bần cùng, rồi trở thành tướng cướp. Ông lầm lì ít khi
nói chuyện, chỉ nằm hút thuốc một mình, rất thờ ơ khi anh em vận động học chữ.
Lý lẽ của ông là mấy chục năm nay không biết chữ mà vẫn sống được thôi. Cánh tù
trẻ cứ theo ông thuyết phục hàng ngày. Cuối cùng, nằm mãi một mình cũng chán,
ông nhận lời học nhưng thiếu kiên trì, thích thì học, chán thì bỏ, học trước
quên sau. Thầy nào gặp ông cũng chán, không ai dạy được ông quá một tuần. Ban
huấn học phải nhiều lần động viên khuyến khích cả thầy lẫn trò. Đến lượt Vương
Tự Kiên nhận dạy ông theo phương pháp mới. Khi nào ông thích thì anh dạy, lúc
ông chán thì thôi ngay. Hằng ngày anh gần gũi ông, vừa năn nỉ vừa khích lệ. Thấy
ông thèm thuốc, bần thần là anh đến Ban xã hội xin thuốc cho ông hút. Nhờ vậy,
ông theo học được một thời gian dài, biết đọc, biết viết, mặc dù chữ rất xấu.
Phong trào học văn hóa lôi cuốn nhiều người tham gia. Người nào biết chữ
rồi thì học chương trình phổ cập cấp I Trật tự viên chia cho mỗi người một ô nhỏ
trên sàn khám. Họ giấu sẵn những mẩu san hô non, mẩu gạch mài đi làm phấn để viết
chính tả, giải toán, làm văn. Sôi nổi nhất là những kỳ sát hạch, thi lên lớp hoặc
chuyển cấp. Học viên làm bài thi ngay trên Ô bảng của mình. Lưng trần bóng nhẫy
mồ hôi, cặm cụi cho đến hết giờ khi trật tự viên ra hiệu lệnh hết giờ bằng
chuông miệng “boong... boong!” thì tất cả ngưng làm bài. Họ hồi hộp chờ thầy đến
chấm, cũng “ghen tuông” tự ái hoặc nằn nì xin thêm điểm như trẻ nhỏ. Người đạt
điểm cao trong mỗi kỳ thi được nhận phần thưởng là bằng khen miệng của Ban huấn
học trong buổi phát thanh tối ấy.
Sinh hoạt buổi tối của tù nhân ở các khu rất sôi nổi: mở đầu bằng buổi
phát thanh ở từng khu. Khi tiếng chuông miệng “boong!... boong!” của trật tự
viên vang lên, mọi người đều ngồi ngay ngắn và yên lặng. Từ góc khám vang lên
tiếng nói: “Đây là đài phát thanh khu... Tiếng nói của tù nhân khu...”. Chương
trình phát thanh thường ngắn gọn, nhằm phổ biến chủ trương, chỉ thị của Liên
đoàn. Kế đó là phát thanh viên đọc tin, điểm báo. Thứ bảy hoặc ngày lễ có
chương trình văn nghệ truyền thanh.
Buổi phát thanh ở khu thường diễn ra trong khoảng 30 đến 60 phút. Đó là
một hình thức sình hoạt tập thể có tính giáo dục cao của Liên đoàn tù nhân. Nó
không chỉ bó hẹp ý nghĩa trong việc thông tin, giải trí, phát thanh mà còn biểu
hiện sự trương thành của ý thức tập thể, của sự thống nhất lực lượng và hiệu quả
của sự giáo dục, rèn luyện hằng ngày.
Sau buổi phát thanh, tù nhân mới tản ra theo các nhóm học tập và viết
thông báo, chỉ thị, tổng hợp tin tức tình hình, in ấn tài liệu Ban trật tự cử
người canh gác đề phòng bọn gác dang tuần tra, rình mò để kịp thời báo động cho
anh em trong khám và các khám bên cạnh.
Các hoạt động báo chí văn nghệ đã có tác động tích cực đối với hoạt động
của tù nhân, Ngoài tờ Côn Đảo Mới, tiếng nói của Liên đoàn, Ban tuyên huấn còn
phụ trách tờ Dời Sống Mới nhằm phục vụ công tác tuyên truyền và cổ động phong
trào “đời sống mới” trên Côn Đảo. Các anh Trương Anh Tuấn, Trịnh Xuân Hà vừa là
người lãnh đạo vừa là chủ bút và là người viết bài chính; họa sĩ Nam Hải trình
bày; Trần Quốc Phiên thư ký tòa soạn; Lê Tam, Hoàng Phúc, Đỗ Văn Đích, Vũ Ngọc
Toàn là những cộng sự đắc lực trong việc biên tập, chế bản, in ấn phát hành.
Hội văn nghệ tập hợp hợp những anh em văn nghệ sĩ
trong tù, động viên hướng dẫn phong trào sáng tác. Công tác báo chí, văn hóa,
văn nghệ tập trung vào nhiệm vụ xây dựng khối đoàn kết tù nhân. Báo tường và kịch
ngắn là loại hình chủ yếu mà phổ biến là kịch “cương”1. Kịch “cương” đáp ứng được
hoàn cảnh trong tù, sáng tác nhanh, biểu diễn nhanh, phản ánh một cách trực tiếp
sinh hoạt tù nhân, cổ vũ tình đoàn kết chiến đấu đả kích bọn thống trị.
1. Không có kịch bản, mà định ra nội dung tư tưởng, phân vai rồi tự
“cương” lên mà diễn.
Ngoài kịch cương còn có kịch thơ và thơ là những món ăn tinh thần được
anh em say sưa sáng tác và thưởng thức. Anh Lý Tiến Vinh là một diễn viên hài kịch
nổi tiếng ở sân khấu Bản Chế với câu xưng danh muôn thuở: “Tôi sinh ra vào năm
cáttó, (quattorze).... Mỗi lần anh xuất hiện là anh em được những trận cười thoải
mái, xua tan không khí ảm đạm, đen tối của nhà tù. Anh đã từng bị chủ sở đánh bể
đầu vì diễn kịch châm biếm chúng.
Tờ báo Văn Nghệ là tiếng nói của Hội Văn nghệ tù nhân. Các anh Phan Văn
Đại, Nguyễn Kim Diễn, Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Thanh Nhơn, Lê Đăng Tam, Đỗ Văn
Đích, Phướn Đồng Mạ, Lý Tiến Vinh, Nguyễn Sáng, Vũ Đắc Bằng, Nguyễn Văn Mẹo,
Hoàng Phúc... vừa là các chiến sĩ đi đầu trên mặt trận văn hóa, văn nghệ báo
chí trong tù, vừa là những người lãnh đạo của Ban chấp hành tù nhân các khu, phụ
trách các tờ báo ở các khu. Báo chí là công cụ cổ vũ tích cực cho sáng tác.
Hàng trăm bài thơ đã được đăng rải rác trên các báo, với những cây bút thân thuộc
của tù nhân Côn Đảo như Song Việt, Văn Quý, Tô Lịch, Đồng Mạ, Lê Đình, Sóng đồng,
Văn Lân, Kim Diệu Lý...
Báo tường các khu có từ tờ: Cởi áo Giang Hồ của tù thường phạm; Bạn Tù của
Khám tử hình; Đoàn Kết của Sở rẫy An Hải; Tiến Lên của kíp Lò Vôi; Xây Dựng của
kíp Thợ Hồ; Thắng Lợi của Sở Củi; Tiền Phong của Sở Chỉ Tồn... Riêng khu Bản Chế,
ngoài tờ báo Lao Động, còn có tập san Công Nhân ra hàng tháng. Báo thường được
chép tay trên 2 trang giấy học trò. Tập san (tạp chí) từ 4 đến 8 trang được in
bột thành nhiều bản. Báo được chuyền tay nhau xem, được đọc trên đài phát thanh
của các khu trong buổi tối.
Tờ Bạn Tù của Khám tử hình có nhiều bài viết sắc sảo và cảm đóng, được
tù nhân trân trọng. Tờ Cởi áo Giang Hồ trước đây xuất bản ở Khám Lớn (Sài Gòn)
là tiếng nói của tù tư pháp, nay tái xuất bản ở Côn Đảo do Tư Ba Đào chủ trì, với
sự cộng tác đắc lực của các anh Phan Văn Đại, Nguyễn Văn Mẹo.
Tờ báo có xu hướng giải thích quá khứ giang hồ bắt nguồn từ sự nghèo
đói, bất công, bế tắc của con người trong xã hội thực dân, phong kiến? đồng thời
khơi lên những đức tính đáng quý của một số người trong giới giang hồ là trọng
nhân nghĩa thủy chung, có khát vọng được sống trong một xã hội công bằng, bác
ái, từ dó cắt nghĩa việc thức tỉnh ý thức dân tộc của những người tù tư pháp,
theo gương các “Anh Lớn” Ba Dương, Tám Mạnh đi kháng chiến... kêu gọi các bạn
tù tư pháp biểu quyết cởi bỏ tấm áo giang hồ để đi theo kháng chiến, ủng hộ
Liên đoàn.
Âm nhạc cũng nở rộ và được “mùa”. Nguyễn Sáng có nhiều thành công trong
sáng tác và đóng góp tích cực cho phong trào. Các ca khúc Ngày giải phóng, Mộng
thoát ly, Học nhạc, Tình không biên giới, Mùa gió chướng, Ma Thiên Lãnh... của
anh và đồng nghiệp đã đi vào tâm hồn của người tù, trở thành máu thịt của họ,
gây niềm lạc quan thôi thúc họ tranh đấu với kẻ thù.
Với lòng say mê âm nhạc, tù nhân nhiều khu còn chế tạo ra đàn, nhị trang
bị cho các ban nhạc. Các anh Châu Nháy (tức Trần Minh Thân) ở Nhà bếp, anh Bình
ở Nhà Đèn đã làm ra những cây đàn đầu tiên, mở ra một thời kỳ biểu diễn ca khúc
có nhạc đệm. Hộp đàn được cuốn từ tôn thùng cầu, cần đàn cũng là gỗ thùng cầu
dây đàn, phím đàn đều từ những mảnh dây điện các loại mặt đàn là những mảnh da
kiếm được. Tiếng đàn đầu tiên cất lên trong đêm làm xao xuyến bao tâm hồn bị
đày đọa nơi ngục tối. Cây đàn của các anh được chuyền tay qua nhiều khám, bị bọn
gác dang tức tối đập nát, nhưng nhiều cây đàn khác lại ra đời.
Tiếp sau Nhà bếp, Nhà Đèn, nhiều cây đàn đã xuất hiện ở Bản Chế, Nhà
Thương, Sở rẫy An Hải, Chuồng Bò. Nhà Thương có cả ghita và măngđôlin. Nhạc sĩ
Nguyễn Sáng đã tham gia tổ chức một dàn nhạc phối âm phối khí để hòa tấu một
vài bản nhạc. Nhiều nhạc cụ làm giả, nhạc công phối âm bằng miệng.
Chủ sở Nhà Thương Pêtrônali và bác sĩ Giăng Sác (Jean Charles) rất thích
thú khi được xem dàn nhạc biểu diễn. Nhạc sĩ Nguyễn Sáng mở lớp ký âm, bồi dưỡng
cho những người có năng khiếu âm nhạc ở các khám. Một số con em các giám thị có
cảm tình cũng được anh dạy nhạc. Hoạt động âm nhạc, văn nghệ trong thời kỳ này
không chỉ dừng lại trong phạm vi giải trì hoặc tập hợp lực lượng và tranh thủ
gác ngục mà đã phát triển tới một bước cao hơn.
Như một nhu cầu không thể thiếu được của đời sống tinh thần, văn nghệ,
âm nhạc đã đi vào sinh hoạt của tù nhân từ lĩnh vực thưởng thức nghệ thuật đến
sáng tác, biểu diễn. Tình yêu quê hương đất nước, tình đồng chí, tình nhân loại,
tình bạn tù cùng với lòng căm thù thực dân, đế quốc đã qua những bài thơ, bản
nhạc mà đi vào tâm hồn người tù, biến thành niềm tin vào thắng lợi, thành ý chí
đấu tranh với kẻ thù. Văn nghệ, âm nhạc còn tiếp tục gắn bó với mỗi bước đấu
tranh và trưởng thành của tù nhân.
Phong trào “Đời sống mới” và công tác địch vận, giao liên phong trào “Đời
sống mới” với nội dung thực hiện nếp sống văn minh, vệ sinh, ngăn nắp, giờ nào
việc ấy, bỏ nói tục, chửi thề do Liên đoàn tù nhân phát động được toàn thể tù
nhân hưởng ứng sôi nổi.
Song song với công tác giáo dục nếp sống văn minh, tư cách của người
kháng chiến, Ban đời sống mới còn có quy định nghiêm khắc đối với những người
hay nói tục, chửi thề. Người nào nói tục phải đeo vào cổ một thẻ “đời sống mới”,
phải đứng nghiêm cho người phát hiện được tát một cái vào má, sau đó phải đứng
nghiêm nhắc lại một câu qui định: “Nếp sống văn minh không cho phép nói tục hoặc
chửi thề. Tôi xin hứa sẽ không vi phạm nữa”.
Cái tát không đến nỗi như đòn thù, nhưng cũng phải đủ đau để cho người
vi phạm nhớ lâu. Nếu thương hại bạn, nương nhẹ tay mà người khác phát hiện được
thì phải chịu “phạt đền” cho chính mình bằng một cái tát trở lại của bạn, dưới
sự chứng kiến của người thứ ba.
Người vi phạm tuy bị tát đau, song không hề bực dọc hay xấu hổ và nhờ thế
mà nhớ lâu, mà đi vào nếp sống có văn hóa. Những khi làm khổ sai cực nhọc, tù
nhân thường hay buột miệng chửi thề. Ngay lúc ấy, người làm bên cạnh bắt đứng
nghiêm, tát vào má, bắt đeo thẻ “đời sống mới” và bắt nhắc lại câu quy định về
nếp sống văn minh. Bọn giám thị Pháp rất ngạc nhiên. Đại diện tù nhân phải giải
thích về quy định của Ban đời sống mới và kỷ luật của Liên đoàn. Khi hiểu ra, họ
rất phục tù chính trị.
Giám thị Đôminíchcơ Mai mở miệng là nói tục, chửi thề lại rất thích thú
phong trào đời sống mới. Hắn tuyên bố với tù nhân: “Đ.m. Tôi cũng hay nói tục,
chửi thề, thiếu lịch sự, nhưng từ nay tôi quyết tâm sửa cho mà coi”. Nhưng chỉ
một lát sau hắn đã lỡ miệng chửi thề làm cả kíp khổ sai cười ồ lên. Mai xấu hổ,
đứng nghiêm, tự vả vào miệng và lặp lại câu quy định về nếp sống văn minh mà hắn
đã nghe. Nhiều lần như vậy, Mai bớt chửi thề và ngày càng tôn trọng tù nhân.
Giám thị Pêtrônali, chủ sở Nhà Thương cũng nói: “Tôi coi tù từ khi còn
trẻ, nay đã sắp tuổi nghỉ hưu. Tôi chưa bao giờ thôn tập thể tù nào sống có văn
hóa như các anh”. Pêtrônali trước đây hay say rượu, hay đánh tù. Được vợ y một
người Việt có lương tâm khuyên ngăn và sau đó được nhiều tù nhân ở Nhà Thương cảm
hóa, y bớt hẳn tính hung hãn, bớt say rượu, ít đánh tù.
Các chủ trương của Liên đoàn đề ra đều được tù nhân hưởng ứng và tự giác
thi hành. Đối với các trường hợp vi phạm, Liên đoàn có thể thi hành kỷ luật nội
bộ khi cần thiết. Có nhiều mức kỷ luật, từ khiển trách, phê bình, cảnh cáo cho
đến khai trừ ra khỏi Liên đoàn. Thời hạn khai trừ có thể dài, ngắn tùy theo mức
độ khuyết điểm. Cá biệt, có thể khai trừ vĩnh viễn.
Án kỷ luật khai trừ do Hội đồng kỷ luật Liên đoàn quyết định, sau đó
giao cho Ban trật tự từng khu thi hành án. Người thụ án khai trừ phải nằm riêng
một chỗ (thường là góc khám gần cầu tiêu), ăn riêng một mẻ dùa, không được quan
hệ, giao dịch với ai, chỉ còn quyền làm việc, chữa bệnh và tự học. Trong thời
gian thụ án, nếu có nhu cầu gì chỉ được báo cáo với Ban trát tự để xem xét, giải
quyết.
Kỷ luật của Liên đoàn vừa dân chủ, vừa nghiêm minh. Xét xử các vụ kỷ luật
bao giờ cũng công khai trong tập thể tù nhân, không bao che, ô dù hoặc nương nhẹ
kỷ luật đối với những người có thành tích hay có chức vụ. Có ủy viên Ban chấp
hành cấp Liên đoàn cũng bị kỷ luật khai trừ khi vi phạm. Nhiều người coi thường
đòn roi, xiềng xích, xà lim, hình phạt của nhà tù lại rất sợ kỷ luật của Liên
đoàn. Ở tù mà còn bị tách rời tập thể, ăn một mình, nằm một chỗ, lủi thủi câm lặng
suốt ngày, không được thân thiện, trò chuyện với ai thì khổ tâm chẳng khác nào
như bị tù thêm một lần nữa.
Có lần, một người tù tư pháp có hành động xấu với gia đình công chức mà
anh ta làm bồi bếp. Vốn có quan hệ tốt với tù kháng chiến, vị công chức này phản
ánh với Liên đoàn tù nhân, có ý để cho tập thể giáo dục mà không báo cho Giám đốc
xử phạt. Không ngờ, kỷ luật của Liên đoàn lại rất nghiêm. Hội đồng kỷ luật cứ
người thẩm tra rồi xét xử công khai, thi hành mức kỷ luật khai trừ khỏi Liên
đoàn.
Vụ này làm Xôn xao dư luận trong công chức, gác ngục Việt Nam. Từ đó, thấy
tù nhân nào có thái độ xấu với vợ con gác ngục, họ thường dọa “kiện tới Liên
đoàn”, thay vì trước đây hù dọa bằng chủ sở Rờsẹc Nôvắc hoặc báo Giám đốc xử phạt.
Chuyện đến tai chúa đảo, La phốt quở trách và răn đe: “ở đây tao làm Giám đốc
chứ không phải Liên đoàn tù nhân làm Giám đốc”.
Hắn ra lệnh cho tất cả công chức, giám thị Việt Nam là bất cứ chuyện gì
cũng phải báo cáo lên Giám đốc chứ không được báo với Liên đoàn. Nhưng, sự đe dọa
của chúa ngục không còn đủ hiệu lực.
Cách mạng tháng Tám 1945 và sự ra đời của Chính phủ Hồ Chí Minh đã làm sụp
đổ thân tượng “Nước mẹ Đại Pháp” và thức tỉnh tinh thần dân tộc của những công
chức Việt Nam lâu nay làm thuê cho Pháp. Hầu hết gác ngục Việt Nam suy nghĩ về
thân phận hèn kém của họ, về tương lai khi người Pháp thua trận ở Việt Nam. Dự
cảm ấy mỗi ngày một rõ rệt. Họ gần gũi tù chính trị, theo dõi tin tức, chiến sự,
thăm dò xem thái độ của Chính phủ kháng chiến đối với những người làm thuê cho
Pháp như thế nào? Liệu những người làm thuê cho Pháp có bị coi là Việt gian cả
hay không? Nhiều người đã tích cực giúp đỡ tù nhân kháng chiến. Giám thị số 39
Trần Tần đã bí mật cung cấp quần áo, vải, lương thực, thuốc men cho nhiều chuyến
vượt ngục của tù nhân Sở rẫy An Hải, Sở Củi, Sở kéo cây tù áo trắng. Ông đóng
góp phần tiếp tế, liên lạc cho liên đoàn tù nhân khi có yêu cầu. Thầy chú Ba
Thà thường giúp tù nhân giấy viết. Thầy chú Hai Nhỏ, bà Nguyễn Thị Năm (vợ
Mourges) bà Hồ Thị Ba (vợ Lasomme) giúp thuốc men, đường sữa, sơn, vải. Ông
Ruby, nhân viên kho bạc (gốc ấn Độ) bảo lãnh nhận bưu kiện tiếp tế cho Liên
đoàn để chuyển cho anh Phạm Xuân Phụ và một số tù kháng chiến ở kho bạc. Trước
đó, hai thầy chú Ngọc và Đang thì làm nội ứng cho tù nhân Sở Lưới cướp canh vượt
ngục. Nhiều người khác cũng tỏ thái độ thiện chí sẵn sàng giúp đỡ tù kháng chiến
hoặc thận trọng giữ mình.
Trong báo cáo số 93.C ngày 20-3-1948, Giám đốc nhà tù đã phải đánh giá rằng
tình hình chính trị và quân sự ảnh hưởng sâu sắc đến các gác ngục người Việt. Họ
không còn là cánh tay đắc lực cho các gác dang người Pháp nữa. Trong nhiều trường
hợp, thái độ của họ khó hiểu và đáng ngờ. Báo cáo có đoạn viết: “... Họ thu
mình trong một sự đợi chờ thận trọng, làm việc uể oải, nhẹ tay đối xử với phạm
nhân, thận chí có những khi quá thân mật trong đối xử có thể dẫn đến thái độ đồng
tình. Trong sự hoài nghi đối với tương lai, họ tìm cách làm sao vẫn giữ được chức
vụ mà không có hành vi gì bất lợi cho mình. Trên thực tế, trong hoàn cảnh hiện
nay, người ta chỉ có thể tin tưởng ở họ một cách có giới hạn”.
Bác sĩ Giăng Sác có thiện cảm với tù kháng chiến ngay từ Khám Lớn Ra Côn
Đảo, ông tìm gặp ngay những người bạn tù mà anh Hoàng Xuân Bình, Tổng đại diện
tù nhân Khám Lớn đã giới thiệu. Ông ngỏ lời với anh Trịnh Xuân Hà, Tổng đại diện
của tù nhân Côn Đảo rằng anh em cứ luân phiên khai bệnh ra, ông sẽ cho nghỉ. Ông
là đảng viên Đảng xã hội Pháp (S.F.I.O), không tán thành chủ nghĩa cộng sản,
nhưng rất tôn trọng nhân cách của những người tù kháng chiến.
Người ốm đau bệnh tật được ông khám cẩn thận, cho thuốc và săn sóc tận tụy
với lương tâm thầy thuốc. ông còn mua tặng Liên đoàn tù nhân nhiều sách mác xít
do Nhà xuất bản Xã hội Pháp ấn hành. Những người chỉ mệt mỏi mà khai bệnh, Sác
cũng cho nghỉ việc vài ngày. La phốt thường khiển trách ông về việc ông quá dễ
dãi, cho tù nghỉ nhiều nên nhà tù thiếu nhân công khổ sai.
Một lần, La phốt đích thân kiểm tra và gay gắt với Sác trước mặt gần
trăm tù nhân chờ khám bệnh ở sân Banh I. Sác cũng không vừa, tuyên bố thẳng thừng:
“Nếu tất cả tù nhân có bệnh thật thì tôi sẽ cho nghỉ việc hết. Nhưng dẫu họ
không có bệnh thật thì ăn uống như thế, làm khổ sai quần quật quanh năm suốt
tháng cũng kiệt sức, cần cho họ nghỉ vài ngày”.
Sác rất thích những tờ báo của tù nhân mà anh Nguyễn Kim Diễn, y tá
phiên dịch ở Nhà Thương mang đến cho ông xem. Khi hết nhiệm kỳ ở Côn Đảo
(3-11-1949), Sác đã nhờ anh Diễn chọn cho vài số báo tù để mang về giới thiệu
cho nhân dân Pháp.
Tù kháng chiến còn một nguồn sách báo quan trọng do Uy ban kháng chiến
hành chánh Nam bộ gửi ra qua nhân mối trên các tàu De Lanessan, Nicolaux,
Pigheau de Béhaine định kỳ chở hàng ra Côn Đảo. Kíp dọn tàu có tín hiệu riêng để
bắt liên lạc với các nhân mối để nhận tài liệu, giấu trong các bao hàng chuyển
vào nhà tù.
Anh em thủy thủ ngoài việc tiếp tế, liên lạc còn giúp tù nhân bằng cách
cho hoặc mua giúp những thứ cần thiết. Thủy thủ tàu Nicolaux định tặng tù nhân
kíp dọn tàu một chiếc xuồng gắn máy có đầy dủ nhiên liệu để vượt ngục nhưng
không thành. Thủy thủ tàu De Lanessan tặng hàng chục mét vải bạt cho các cuộc
vượt ngục.
Anh Nguyễn Mười Mè, thủy thủ tàu De Lanessan nhận bán giúp các loại đồ mỹ
nghệ chạm trên gỗ găng, các đồ trang sức kham đồi mòi, do anh Hồng ở Nhà bếp,
anh Mai Văn Hạc khu bất tử làm để gây quỹ cho Liên đoàn. Tiền bán được dùng mua
giấy, mực in, thuốc men, đường sữa giao cho Ban xã hội.
Một đầu mối liên hệ khác giữa tù Côn Đảo với đất liền do linh mục Nguyễn
Văn Mầu đảm nhiệm. ông nhận thơ từ, tài liệu, tiền, hàng tiếp tế của uỷ ban
kháng chiến hành chánh Nam Bộ chuyển về Nhà thờ Côn Đảo, từ đó chuyển về các
khám. Đầu mối thứ 2 do anh Đầy, công chức phụ trách thú y ở Côn Đảo đảm nhiệm.
Hàng tháng về Sài Gòn lấy thuốc phòng dịch cho gia súc, anh làm liên lạc giữa
tù nhân Côn Đảo và ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ.
Sách báo và đồ tiếp tế do anh Thái Sơn (Trần Ngọc Sơn), người phụ trách
tài chánh nội thành của Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định mua và chuyển giao
ở một điểm hẹn trước. Anh Trần Ngọc Sơn được Chủ tịch ủy ban kháng chiến hành
chánh Nam Bộ Phạm Văn Bạch giao nhiệm vụ lập ra Ban cứu trợ tù nhân, dùng tiền
quyên góp mua đồ tiếp tế.
Anh Huỳnh Tấn Phát sau khi mãn tù ở Khám Lớn đã cùng vợ và một số người
tham gia tích cực vào hoạt động cứu trợ tù nhân. Việc liên lạc và tiếp tế cho
tù nhân Côn Đảo sau đó được ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ giao hẳn cho Đặc
khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia định phụ trách. Thông tin liên lạc của tù nhân ở
các khám, các banh do mạng lưới tù nhân làm bồi bếp, thư ký, Nhà bếp Sở tẩy,
Nhà Thương đảm nhiệm.
Thư từ, chỉ thị viết trên những mảnh giấy nhỏ xíu, luồn vào vạt áo, giấu
ở những chỗ kín trong người. Tài liệu dày hơn thì giấu trong các thùng 2 đáy,
nón bàng hai lớp, gáo dừa 2 ngăn. Tài liệu, thư từ từ nhiều nguồn thường qua đầu
mối của Sở tẩy về Nhà bếp, rồi qua các thùng cơm, canh đi các khám, các sở tù.
Một đường liên lạc khác là từ các khám tù, sở tù, thư từ, tài liệu theo
những người khám bệnh đến Nhà Thương, rồi từ đó chuyển giao cho các đầu mối. Đó
là kiểu như đi bằng “đường bộ”. Nhà bếp còn có sáng kiến đưa thư bằng “đường thủy,
giấu trong bụng cá, trong thùng canh. Khi địch khủng bố, khám xét gắt gao thì
kíp đổ thùng lại phải trổ tài đưa thư từ qua thùng cầu.
Anh em còn sứ dụng kiểu đi thư bằng “đường không”, từ Banh I qua Banh II
hoặc từ ngoài banh vào trong banh. Giấy in, tài liệu được “bay” qua tường ở những
điểm vắng được ấn định trước. Các giao thông viên trao đổi tín hiệu với nhau bằng
những viên sỏi ném qua, ném lại để báo hiệu việc chuyển giao tài liệu, nhận
xong trả lời. Anh em còn dùng dàn thun để “bắn” thư từ qua tường, “bắn” từ
ngoài sân qua cửa sổ lọt vào trong khám rất an toàn. Đường “hàng không” còn có
kiểu đi thư không “bay” mà “bò” lên mái nhà rối tuồn từ khám này qua khám khác.
Một loại cỏ ống mềm hơn cói, mọc ở các bàu, trũng ở Nam Bộ, được sứ dụng đan
các bao, giỏ, nón, chiếu...
Những người tù tư pháp, xuất thân từ giang hồ, khi giác ngộ lại trở thành
những giao liên xuất sắc. Các anh Tám Nhỏ, Sinh, Vinh, Thân, Hoàng Kiếm Thanh
leo tường lẹ như thạch sùng, chuyền trên mái nhà thoăn thoát như vượn leo cây.
Trong những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn thì thư từ tin tức lại có cách
chuyển bằng những đường dây đặc biệt, qua những nhân mối trong bộ máy nhà tù
như gác dang Béctơram (Bertram), thầy Lũy y tá... Đường dây đặc biệt này được
Ban ngoại giới của Liên đoàn sử dụng hiệu quả trong những năm sau.
Người được chọn làm giao liên phải có nhiều mưu mẹo và gan góc. Địch
phát hiện ra kiểu liên lạc này, lập tức phải thay bằng cách khác. Anh Quý
(Dương Ngọc Quẩy) ở Sở rẫy Giám đốc nhờ anh em ở Bản Chế làm cho một đôi thùng
gánh cơm có khoan lỗ ở thang thùng. Đôi thùng ấy trở thành “thùng thư di động từ
bếp Banh I đến Sở tẩy, qua bao nhiêu cặp mắt cú vọ.
Anh bị bọn tù gian chỉ điểm ba lần, bị chủ sở Rờsẹc tra tấn đủ các kiểu,
có lần bị Nôvắc dùng 2 thanh tre cột chéo kẹp nát ống chân nhưng không hề hé
răng khai báo. Chúng biết anh là liên lạc mà không làm gì được. Trở về Sở rẫy,
anh lại quẩy đôi “thùng thư di động trước những cặp mắt tức tối của bọn gác ngục.
Nhà bếp là trọng diềm chỉ đạo của Ban xã hội Liên đoàn, vừa tổ chức đường
dây liên lạc từ các khám ra ngoài banh; đồng thời tổ chức cải thiện đời sống
cho anh em. Anh Trần Văn Sứ là một trong những chiến sĩ giao liên tích cực.
Nguyễn Ngọc Sớm cùng Lê Ngọc Hương (tử tù giảm án) và Bảy Lửa, một người tù tơ
pháp (từng là Chủ tịch Ban chấp hành khu An Hải), tổ chức bầu Ban chấp hành tù
nhân khu Nhà bếp.
Từ khi có tổ chức của tù nhân kháng chiến lãnh đạo, Nhà bếp giống như là
trái tim giữ mạch máu giao thông liên lạc cho Liên đoàn tù nhân Côn Đảo. Hơn thế
nữa, tù nhân khu nhà bếp còn làm nhiệm vụ người chị hiền, người mẹ nuôi chăm lo
cải thiện bữa ăn, nuôi dưỡng anh em.
Liên đoàn tù nhân Côn Đảo ra đời đã mở đầu thời kỳ hoạt động sôi nổi và
đấu tranh quyết hệt của tù kháng chiến. Là cơ quan lãnh đạo cao nhất của tù
nhân, được dân chủ bầu ra, Liên đoàn tập hợp được tất cả lực lượng tù nhân
thành một khối duy nhất, dẫn dắt họ vào cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống và
nhân phẩm của những người tù kháng chiến.
Cuối năm 1949, qua đường dây liên lạc của ủy ban kháng chiến hành chánh
Nam Bộ, Liên đoàn tù nhân được một tài liệu mới về chủ trương của Đảng đưa cuộc
kháng chiến chuyển mạnh sang tổng phản công. Tài liệu phản ánh tinh thần của Hội
nghị cán bộ lần thứ 6 do Ban chấp hành Trung ương Đảng triệu tập từ ngày 14 đến
ngày 18-1- 1949.
Ban chấp hành Liên đoàn quyết định kỷ niệm ngày Toàn quốc kháng chiến
(19-12) với nghi thức long trọng nhằm biểu dương lực lượng và củng cố lòng tin
vào thắng lợi. Báo Tiếng Tù của Liên đoàn ra trong dịp đó đã đưa tít lớn trên
trang đầu những khẩu hiệu:
-
Một khối - Một
ý chí - Một hành động.
-
Tổng phản công
nhất định thắng.
Tối 18-12-1949, các khám lập bàn thờ Tổ quốc, chào cờ, cử quốc ca rồi
liên hoan văn nghệ đến nửa đêm. Ban xã hội tập trung tiền quỹ, đường, sữa, thuốc
lá, làm bánh, nấu chè liên hoan. Anh em đặt tên cho các mục liên hoan là “cơm
chiến thắng - cháo đuổi giặc - bánh tổng phản công.”.
Ngày 19-12-1949, tất cả các khám đều tập trung ăn cơm ngoài hiên. Trước
bữa cơm, đại diện của Ban chấp hành khu đứng ra phổ biến chủ trương tổng phản
công của Đảng, tin tức chiến sự trên chiến trường và mục đích, ý nghĩa bữa cơm
liên hoan mừng chiến thắng. Bọn giám thị Pháp thấy lạ xúm vào nghe. Đến khi diễn
thuyết xong, tù nhân các khám nắm tay hô vang các khẩu hiệu:
- Tổng phản công nhất định thắng!
Bọn giám thị hoảng sợ tường tù nhân bạo động. Chúng lên đạn, súng lăm
lăm trong tay. Sáng 20-12-1949, La phốt và Giám thị trưởng Rô nhông (Roghon)
đích thân chỉ huy cuộc khủng bố. Một tiểu đội lính da đen lăm lăm súng tiểu
liên trong sân Banh I. Gác dang mở cửa từng khám, Rô nhông thét: “Ra ngoài tập
hợp”.
Tù nhân ra khỏi cửa khám là phải đi qua hàng rào roi mây của tốp gác
dang đứng 2 bên cửa. Đứa bổ lên đầu, đứa quật ngang người, đứa vụt vào ống
chân, đứa đánh vào chỗ hiếm. Người tù bị đánh tối tăm mặt mày, té sấp té ngửa mới
ra đến sân. Khi tập hợp, chúng 'bắt tù ngồi cúi đầu ngẩng lên là chúng đánh.
Khám 6 bị đánh nặng nhất vì chúng biết đây là khám đầu não chỉ huy. Trương Anh
Tuấn bị đánh bể mắt kính, máu chảy ròng ròng trên mặt.
Khi tất cả tù nhân đã ra khỏi khám ngồi từng tốp trong sân, bọn gác dang
vẫn vụt lốp bốp trên đầu họ, miệng gào lên: “Cúi đầu!... Cúi đầu!”. Cho đến khi
Giám đốc La phốt đứng giữa sân chỉ huy quát “Thôi”, thì tiếng roi mới thưa dần.
Chúng bắt tù nhân cởi hết quần áo, chất thành từng đống, trần truồng ngồi phơi
nắng trong lúc bọn gác dang sục sạo vào các khám moi móc từng góc tường, sân
khám, góc cột, cầu tiêu để truy tìm tài liệu, vũ khí mà tù nhân có thể sử dụng
vào mục đích bạo động, nhưng kết quả ngược lại, những thứ mà chúng thu được chỉ
là đồ dùng của tù nhân như quần áo, khăn mặt, bàn chải, sách đọc, giấy bút,
viên phấn. Chúng sục sạo Khám 6 rất kỹ, lôi ra hàng đống sách vở, bút mực, báo
chí.
Trừ bọn tù gian và Khám 1 (áo trắng) tất cả tù nhân còn lại đều bị bỏ
đói 2 ngày, bị dồn lại, nhốt kín trong mấy khám. Ngày 23-12-1949, chúng mới cho
ăn uống bình thường, trả tù nhân về khám cũ với chiếc chiếu và một bộ quần áo
xanh cộc, còn tất cả đồ dùng khác đều bị thu hết, nhiều nhất là sách học văn
hóa của Khám 6.
Trong gần một tháng khủng bố, các lớp học phải ngừng lại hết. Hai mươi
người mà chúng nghi là cầm đầu bị biệt giam ở xà lim Banh II, trong đó có nhiều
người trong Ban chấp hành Liên đoàn và Ban chấp hành Khám 6.
Liên tiếp trong 3 ngày, tù đi làm khổ sai bị bọn gác dang đánh đập rất dữ
và lập lại chế độ kiểm danh cúi đầu. Không kịp liên lạc được với Ban chấp hành
Côn Đảo đang bị biệt giam ở xà lim Banh II, Trương Anh Tuấn đã nhân danh Đặc
phái viên của Liên đoàn thảo chỉ thị Cương quyết chống cúi đầu. Khẩu hiệu hành
động lúc đó là: “Tất cả hãy ngẩng đầu lên”.
Nguyễn Ngọc Sớm ở Nhà bếp vừa tìm cách liên hệ với lãnh đạo Liên đoàn ở
biệt giam để trao đổi chủ trương chống khủng bố, vừa truyền đạt chỉ thị của Đặc
phái viên Liên đoàn đến các cơ sở, phát động cuộc đấu tranh chống cúi đầu. Khám
6 bầu lại Ban chấp hành khu, thay cho những người vừa bị bắt. Ban chấp hành mới
gồm những người có dũng khí đấu tranh. Nghị quyết đầu tiên của Ban chấp hành mới
là kiên quyết chống cúi đầu. Ai cúi đầu sẽ bị kỷ luật khai trừ.
Khám 6 Banh I đi đầu trong cuộc đấu tranh chống cúi đầu. Hàng ngày đi
làm, bọn gác ngục tập trung đánh tốp đi trước. Chiều về, chúng đánh tốp đi cuối,
lúc chờ xếp hàng vào khám. Ban chấp hành mới đã bố trí những người có sức khoẻ,
dũng cảm, chịu đòn đi đầu và đi cuối để giữ vững đội ngũ. Các anh Lê Trung Khá,
Lê Ngọc Hương, Nguyễn Trí Tuệ, Nguyễn Thành Phương, Vương Tự Kiên, Nguyễn Văn
Hai... là lực lượng xung kích trong đợt chống cúi đầu, chịu đòn thay cho anh
em.
Nguyễn Trí Tuệ cao hơn mọi người nửa cái đầu nên nhiều lần bị đánh trào
máu. Nguyễn Thành Phương có bộ dạng dềnh dàng nên chúng ngứa mắt đánh luôn tay,
có lần dính cú đá chỏ hiểm suýt chết. Các anh Thái Mập (Lê Văn Trình), Hồng Mùi
(Tạ Văn Hồng) càng bị đánh càng lỳ ra. Những tên gác dang hung bạo nhất cũng phải
bất lực trước những cái đầu không chịu cúi bạo giờ. Thái Mập, Hồng Mùi từng là
đại diện, đứng đầu các cuộc đấu tranh ở Sở Củi, Sở Lưới, Chỉ Tồn, từng làm cho
bọn gác ngục ngao ngán. Họa sĩ Nam Hải nhiều lần bị Sa den đánh gục xuống vẫn
nhỏm dậy, ngẩng đầu hô “Hồ Chủ tịch muôn năm”. Anh là người chuyên vẽ hình Bác
Hồ trên các tờ báo của Liên đoàn và cung cấp hình Bác cho các khám trong những
ngày lễ kỷ niệm.
Nửa thế kỷ sau, lớp tù nhân kháng chiến vẫn nhớ mãi hình ảnh hiên ngang
của Lê Ngọc Hương trong cuộc đấu tranh chống cúi đầu năm ấy. Một buổi sáng, tù
nhân Khám 6 điểm danh trong sân Banh 1 như thường lệ bỗng có tiếng hô dõng dạc
của trật tự viên:
- Tất cả hãy đứng dậy! Nghiêm!
Tên Xếp chánh Rô nhông sửng sốt chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì Lê Ngọc
Hương bước tới trước mặt Rô nhô ng, từ tốn nói:
-
Thưa ông Xếp
chánh, ông cho phép chúng tôi từ nay được chào ông bằng động tác đứng nghiêm
như thế nàv. Như vậy có vẻ văn minh và lịch sự hơn là ngồi cúi đầu.
Mặt Rô nhông tái đi, nó vung roi cá đuối quật vào mặt anh liên hồi. Lê
Ngọc Hương vẫn đứng nghiêm, đầu ngẩng cao, mặt không biến sắc. Rô nhông tiếp tục
quật roi xuống đầu anh và gầm lên: “À cái đầu thằng này cứng”.
Lê Ngọc Hương điềm tĩnh trả lời: “Thưa ông cái đầu của chúng tôi có thể
rơi khôi cổ nhưng từ nay không bao giờ cúi nữa!”.
Bọn gác ngục xông vào đánh anh té sấp xuống sân rồi lôi theo kíp tù ra
nơi đập đá. Tên Saden đứng gác cổng Banh I, cầm dùi cui đập liên hồi vào đầu của
kíp tù miệng gào lên “cúi đầu!... cúi đầu!”. Khi Lê Ngọc Hương đi qua, Saden
vung dùi cui quật thẳng cánh lên đầu anh rồi ấn mạnh xuống, Hương quắc mắt, ném
vào mặt tên sát nhân đểu cáng một cái nhìn nảy lửa và tuyên bố một câu bằng tiếng
Pháp mà cả lớp tù kháng chiến không ai quên được:
-
Chúng tao chưa
nói lời cuối cùng đâu! (Nous nảvons pas encora dit notre demier mot!).
Lê Ngọc Hương, còn gọi là Hương Bà Điểm, nguyên là chủ tịch ủy ban nhân
dân xã Bà Điểm quận Hóc Môn tỉnh Gia Định lúc mới giành chính quyền. Hương bị kết
án tử hình rồi giảm án, là một trong những người có công xây dựng Liên đoàn tù
nhân. Dũng khí đấu tranh và lời tuyên bố hùng hồn của Lê Ngọc Hương trở thành
biểu tượng của người tù kháng chiến, trở thành bài học về nhân cách và khí tiết
của người chiến sĩ cách mạng trong ngục tù của thực dân Pháp. Phải đến hơn bốn
năm sau, bọn chúa ngục mới hiểu dược “lời cuối cùng” mà Lê Ngọc Hương tuyên bố
năm ấy.
Đầu năm 1950, các thành viên của Ban chấp hành Liên đoàn tù nhân Côn Đảo
và Ban chấp hành Khám 6 (cũ) vẫn còn bị biệt giam ở xà lim. Khám 6 bị khủng bố
và phong tỏa chặt chẽ. Việc liên lạc giữa các khu với cơ quan chỉ đạo hết sức
khó khăn. Trong tình hình đó, các anh Nguyễn Văn Năm, Hoàng Phúc, Vũ Ngọc Toàn ở
khám Chỉ Tồn đã trao đổi với đại diện tù nhân ở một số khám để thành lập Ban
thường trực Hội đồng tù nhân Côn Đảo để chỉ đạo phong tràol. Ban thường trực đặt
Văn phòng tại Khám 5 Chỉ Tồn. Các anh Đỗ Văn Đích, Lê Đăng Tam, Lê Ngân, Trần
Quốc Phiên tham gia tích cực trong việc thông tin liên lạc, ấn loát, ra báo. Tờ
báo Tiếng Tù vẫn ra tại Khám 5 trong những ngày khủng bố ác liệt. Anh Năm Mền
(bí danh Thanh Mi) nhân danh Ban thường trực ra hiệu triệu kêu gọi toàn thể tù
nhân vừng vàng trước đợt khủng bố, siết chặt đội ngũ, kiên quyết chống cúi đầu,
đòi thả những người bị biệt giam ở xà lim, chống đánh đập vô lý.
Hưởng ứng chỉ thị của Đặc phái viên Liên đoàn và lời kêu gọi của Ban Thường
trực Hội đồng tù nhân, nhiều khám đã nhất loạt chống cúi đầu. Tù nhân khu Nhà bếp,
Sở tẩy tuyệt thực phản đối khủng bố. Tù nhân Khám 2 (thợ hồ) đã chống cúi đầu
và chịu đòn cho đến khi cả khám bị đánh tả tơi, gục ngã. Trong ngày làm khổ sai
đẫm máu ấy, anh Tám Đỏ (tù tư pháp) đã phẫn nộ đổ cả một Xô vôi lên đầu tên gác
dang hung hãn Tômaxini (Thomacini). Chủ sở Rờsẹc bắt anh về tra tấn, kẹp điện
quay đến đứt một tai làm anh bị điếc hẳn.
Sau ba ngày khủng bố ác liệt, hằng trăm tù nhân bị đổ máu, biếu dầu, tím
mặt, bầm mình mẩy, nhưng không ai khuất phục. Bọn gác dang vẫn bắt điểm danh vẫn
đánh đập nhưng lờ hẳn chuyện cúi đầu. Sự tàn bạo không khuất phục được khí
phách người tù.
Ban thường trực chỉ đạo các khám nhượng bộ một bước, không ngẩng cao đầu
để khiêu khích địch mà giữ tơ thế hiên ngang, mắt nhìn thẳng. Đòn roi bớt dần.
Lê Ngọc Hương sau một tháng phạt xà lim, ăn cơm nhạt lại trở về Khám 6. Đó là
trận tranh đấu quyết liệt của tù kháng chiến nhằm xóa bỏ hẳn lệ điểm danh cúi đầu.
Họ là người chiến thắng.
Cuộc đấu tranh chống khủng bố vẫn tiếp tục diễn ra, khi thì riêng lẻ từng
khám, có lúc bùng lên ở phạm vi toàn đảo. Ngày 31-1-1950, anh Nguyễn Văn Điều,
số tù C.11802 bị gác ngục đánh chết tại Sở Củi. Báo cáo nguyệt kỳ của La phốt
(số 250-P ngày 5-2-1950) đã xuyên tạc sự thật, vu cáo anh Điều vượt ngục và cải
chính tội ác cho bọn gác ngục. Toàn thể tù nhân đã bỏ ăn một ngày để phản đối
hành động giết người.
Hàng loạt cuộc đấu tranh chống khủng bố đã diễn ra trong năm ấy. Tháng 2
năm 1950, tù nhân kíp cắt cỏ đi làm về ngang sân vận động thì bị 2 tên Vidan và
Tômaxim đánh đập tàn tệ vì không ai chào hỏi chúng. Đoàn tù vẫn tiếp tục đi về
banh, không tránh đòn mà cung chẳng ai thèm chào. Hai tên gác dang nổi máu côn
đồ đuổi đánh đến tận Banh II. Tù nhân kíp Lò Vôi ở chung trong Khám 4 đã hò la
phản đối đánh đập vô cớ. Hai tên này Xông vào đánh cả khám một trận nữa. Tên Bê
quy (Bé cu) gác Banh II cũng nhảy vào phụ họa đánh đập anh em cho đến lúc Giám
đốc La phốt và Giám thị trưởng Rô nhông đến. Mười tù nhân bị thương nặng, lủng
đầu, toạc da thịt đã kéo ra tố cáo ba tên gác ngục khát máu. Giám đốc không can
thiệp. Giám thị trưởng xoa dịu mấy câu rồi bỏ đi.
Phẫn nộ trước hành động dã man của bọn gác ngục và sự dung túng của bọn
cầm đầu nhà tù, toàn thể tù nhân hai ,kíp Cắt Cỏ và Lò Vôi đã biểu quyết tán
thành một cuộc đấu tranh bằng hình thức bãi công và tuyệt thực để phản đối đánh
đập với khẩu hiệu:
-
Đuổi 2 tên
Vidan và Tômaxim khỏi Côn Đáo
Khi ấy La phốt mới tỏ thái độ. Hắn đưa một tiểu đội lính da đen chĩa
súng bao vây vòng ngoài, rồi cho 15 giám thị Pháp Xông vào đánh cả khám tù một
trận tơi tả. Anh Nguyễn Trí Tuệ, Chủ tịch Ban chấp hành tù nhân kíp Lò Vôi và 8
người nữa bị chúng, đánh bằng củ mây, báng súng vào bụng, vào ngực vào đầu gối
và mắt cá chân cho đến khi chết ngất, rồi phạt xà lim, cho ăn cơm nhạt.
Tù nhân hai kíp Cắt Cỏ và Lò Vôi tiếp tục tuyệt thực,
đình công, giữ vững yêu sách đấu tranh và phản đối hình phạt vô lý. Ngày thứ 3,
bọn gác ngục đổ cả nước uống, nước tắm. Ban chấp hành tù nhân hai khu vận động
viên anh em kiên trì tranh đấu. Liên đoàn tù nhân đã chỉ thị cho các sở tù
khác, tuyệt thực và lãn công hưởng ứng. Nhiều sở tù đã gởi đơn phản đối việc
đánh đập dã man.
1.
Hơn một tháng
sau, các thành viên trong Ban chấp hành Côn Đảo mãn hạn phạt xà lim về Khám 6,
Ban thường trực Hội đồng tù nhân mới tuyên bố hết nhiệm vụ, trao quyền lãnh đạo
lại cho Ban chấp hành.
Cuộc đấu tranh có chiều hướng phát triển thành một cuộc tổng đình công
bãi thực toàn đảo. Laphôt buộc phải nhượng bộ. Hắn tuyên bố chấp nhận đuổi hai
tên Vidan và Tômaxini về đất liền, hứa sẽ cấm gác ngục vô cớ đánh đập tù nhân.
Đợt đấu tranh này do yêu sách quá cao (đuổi gác ngục khỏi Côn Đảo) nên hai kíp
tù phải đổ khá nhiều xương máu. Nguyễn Trí Tuệ sau khi bị phạt xà lim, phải vào
cấm cố tại Khám 6.
Lời hứa của bọn thống trị chỉ cốt xoa dịu dư luận, khi thấy không thể
đàn áp được nữa. Thỉnh thoảng chúng lại khủng bố từng bộ phận tù nhân, giảm dần
những điều đã nhân nhượng. Trong khi áp dụng hàng loạt các biện pháp cứng rắn,
Laphốt cũng không quên những thủ đoạn lừa mị. Hắn nới bớt chế độ khắt khe cho
Khám 6 cấm cố như tăng giờ ra chơi, kéo dài giờ ăn uống, tắm rửa.
Tù chính trị đã khéo lợi dụng tính thích oai quyền của Laphốt để giảm bớt
tình hình căng thẳng. Mỗi lần Laphôt đến, trật tự viên Khám 6 lại hô “nghiêm”
thật to và dài, tất cả tù nhân đứng dậy chào Giám đốc. Laphốt đáp lễ bằng cách
giơ tay chào đúng nghi thức nhà binh, sau đó dạo vài vòng rồi đi, tỏ vẻ hài lòng.
Hắn vẫn cho tù nhân Khám 6 đập đá lớn thành đá dăm trên bãi đá gần con đường đi
lên sở Chuồng Bò. Mỗi ngày y còn cho 7 tù nhân Khám 6 lên Sở Ruộng hoặc Chuồng
Bò kiếm rau về cải thiện.
Gácdang Lanhghê (Lainguet) coi kíp đập đá, người da đen, nghiêm khắc
nhưng không độc ác. Y chỉ muốn làm tròn bổn phận một người gác tù, không đế cấp
trên khiển trách vì một khuyết điểm nào đó mà ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo của
y. Y giao khoán cho cả kíp tù một khối lượng đá phải hoàn thành trong ngày, thường
là ở mức không nặng lắm. Nhờ vậy, cuộc sống của Khám 6 có phần dễ chịu hơn, việc
liên lạc giữa Ban chấp hành tù nhản Côn Đảo với các khu cùng dễ dàng hơn.
Trong một lần được phân công di lấy rau cải thiện, hai anh Nguyễn Văn Mẹo
và anh Giàu đã bỏ trốn lên núi tìm cách vượt ngục, không báo gì cho Ban chấp
hành biết để có cách đối phó. Chiều hôm Khám 6 bị cấm cố trở lại, mỗi ngày
chúng cho ra tắm giặt một giờ nhưng bắt ăn cơm trong khám. Chúng đình chỉ luôn
việc phát bưu kiện cho tù nhân Khám 6. Rônhông cho chuyển đá hộc vào sân sau
Banh I, bắt tù nhân Khám 6 đập thành đá dăm. Toàn thể tù nhân Khám 6 đã nhất
trí đấu tranh tuyệt thực, đòi nhà tù:
1. Phải sắp xếp địa điểm lao động ngoài bốn bức tường của banh.
2.
Phải để cho tù
nhân được đi lấy rau xanh.
3.
Phải cho nhận
bưu kiện của gia đình gửi ra, trả lại những bưu kiện mà nhà tù còn giữ.
Anh em bầu ngay Ban tranh đấu gồm các anh: Lê Trung Khá, Vương Tự Kiên
và Hoàng Phúc. Ban trật tự gồm những người khoẻ mạnh, tập câu tay nhau chịu đòn
để bảo vệ cấp lãnh đạo Liên đoàn và Ban chấp hành khu. Các anh em ốm yếu được
chuyến chỗ nằm vào sâu trong góc khám. Anh Lê Trung Khá, Trương ban đấu tranh
đưa bản yêu sách và tuyên bố đình công tuyệt thực.
Một giờ sau, Rônhông chỉ huy cuộc đàn áp tù nhân. Bọn gácdang kéo hàng một
vào khám, mỗi đứa cầm một khúc mây dài, vụt thẳng cánh xuống đầu, xuống lưng
tù. Anh em câu tay thành hàng rào che chắn, cắn răng chịu đòn, người khoẻ che đỡ
cho người yếu.
Rút kinh nghiệm cuộc khủng bố trước, chúng bắt cởi quần áo, lần này anh
em tự cởi quần áo chất đống ngay cửa khám để thể hiện tinh thần kiên quyết đấu
tranh.
Đánh tù khoảng nửa tiếng, chúng đổ nước trong khạp và sàn khám và còng
chân hết lại. Để cổ vũ tinh thần chiến đấu của anh em, Ban xã hội cho châm lửa
mồi 4 điếu thuốc phát cho 4 dây còng, chuyền tay nhau rít mỗi người một hơi và
ôn lại trận chống khủng bố quyết liệt.
Ngày thứ 5 của cuộc đấu tranh, Rônhông vào giải quyết, đồng ý để Khám 6
không đập đá ở trong Banh I, cho tù nhân nghỉ ít ngày, chờ Giám đốc ở Sài Gòn về
sẽ chỉ định chỗ làm việc. Đồng thời Rônhông trả các bưu kiện mà y còn chặn lại
từ ngày xảy ra vụ trốn của 2 anh Giàu và Mẹo.
Tuần lễ sau, Laphôt tù Sài Gòn về, quyết định cho Khám 6 được đi làm đường
ở Bến Đầm. Sáng có xe tải chở qua Đầm, trưa ăn cơm tại chỗ và chiều đưa về Banh
I. Laphôt nhiều lần tự lái xe con, qua gặp anh em. Mỗi lần hắn xuống xe, họ vẫn
giữ nghi thức cũ chào y bằng cách hô to lệnh: nghiêm!
Trong thời gian lao động ở Bến Đầm, Khám 6 tận dụng hết cả khả năng để cải
thiện, mỗi ngày chặt hàng chục cổ hũ dừa để nấu ăn và tiếp tế cho các khám. Hôm
nào bữa ăn cũng có cá, hào, ốc tai tượng và hải sản khác. Ta cũng tranh thủ
Lanhghê, thường nói chuyện tình cảm với y, và không quên mỗi ngày gửi cho gia
đình y bó củi, vài trái dừa hoặc mớ ốc.
Thái độ của Laphôt có chiều hướng ôn
hòa hơn trước. Y muốn giữ một trạng thái yên ổn cho nhà tù, nhất là khi sắp mãn
nhiệm Côn Đảo. Y cũng biết rằng đối với những người đã không sợ mọi hình phạt,
kể cả cái chết thì không dễ gì khuất phục.
Tính đến ngày 31-1-1950, Côn Đảo có 1.392 tù nhân, trong đó có 95 người
Khơme, 9 người Lào, 66 người Hoa, 3 người Xiêm (Thái Lan) và 72 tù binh Nhật,
trong đó, 1.157 tù nhân người Việt được phân chia theo các địa phương như sau:
751 người ở miền Nam, 233 ở miền Bắc, 161 ở miền Trung và 2 ở miền Thượng (dân
tộc thiểu số). Những tù nhân quê miền Trung bị bắt trong các cuộc hành quân, bị
đưa thẳng vào Khám Lớn -
Chí Hòa rồi đưa ra Côn Đảo. Số tù nhân quê miền Bắc, trừ 22 chiến sĩ Đại
đội Ký Con bị bắt trong trận đánh đảo Cô Tô (vịnh Bắc Bộ), còn lại hầu hết là
những người đã tham gia chiến đấu và bị bắt ở mặt trận Sài Gòn - Chợ Lớn và Gia
Định rồi đày ra Côn Đảo, sau khi trải qua một thời gian bị giam ở Khám Lớn -
Chí Hòa.
Trong số 1.392 tù nhân lúc đó chỉ có chưa tới hai chục đảng viên, chiếm
một tỷ lệ rất nhỏ (gần 2%). Số đảng viên ít ỏi ấy là hạt nhân đoàn kết góp phần
tích cực trong các hoạt động của tù nhân, gương mẫu, đi đầu trong đấu tranh,
trong vai trò người lãnh đạo, xây dựng tổ chức Liên đoàn tù nhân...
Theo mô hình tổ chức ở Khám Lớn - Chí Hòa, một số đảng viên ra Côn Đảo
đã liên hệ nhau, hình thành nhóm nghiên cứu mácxít để truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin và lãnh đạo tù nhân ở các cơ sở. Từ năm 1948 - 1949, các anh Nguyễn Văn
Năm (Năm Mên), Trần Minh, Nguyễn Văn Giỏi, Hai Nhị (ở Bản Chế), Nghĩa “Cơm
cháy” ở Sở Củi, Trương Anh Tuấn ở Chỉ Tồn, Nguyễn Đình Thâu (khi giảm án tử
hình về Khám 6)... là những thành viên của nhóm nghiên cứu mácxít ở Côn Đảo.
Bên cạnh đó còn nhiều người chưa phải là đảng viên nhưng có trình độ và
uy tín cũng đã tham gia truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin cho các bạn tù gần gũi.
Nhóm thanh niên trí thức ở Khám 6 Banh I do Lê Trung Khá,
Vũ Đắc Bằng và một số người có trình độ đã tổ chức dịch một số cuốn sách
như Cộng sản sơ giải. Những nguyên lý của chủ nghĩa Lênin, Làm gì?, Ba mươi năm
chính quyền Xô viết. Sách dịch xong được chép hoặc in thành nhiều bản để góp phần
phổ biến lý luận Mác-Lênin. Với ý nghĩa đó, anh em trong nhóm đã hào hứng đặt
tên cho công việc của mình là Nhà xuất bản Hồng Quang.
Dù là đảng viên hay chỉ mới giác ngộ, những người tù kháng chiến vẫn
tràn dầy niềm tin vào cuộc kháng chiến của nhân dân ta do Đảng cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Họ đã sống, chiến đấu như những người cộng
sản. Chống khủng bố, vạch trần tội ác của bọn thực dân xâm lược, đề cao chính
nghĩa của cuộc kháng chiến, tổ chức và đấu tranh cùng hàng loạt hoạt động phong
phú, sôi nổi trong những ngày thành lập Liên đoàn tù nhân là bằng chứng về sự
giác ngộ và trưởng thành của lớp tù nhân kháng chiến.
Bước phát triển trong hoạt động và tranh đấu của tù nhân đòi hỏi trình độ
tổ chức và lãnh đạo ngày càng cao hơn, đủ sức ứng phó với những thủ đoạn ngày
càng xảo quyệt của kẻ thù. Nhu cầu bức thiết ấy cùng với những biến Cố chính trị
trong năm 1950 đã dẫn đến sự ra đời Đảng bộ Côn Đảo, bộ tham mưu chiến đấu của
tù nhân Côn Đảo.
Ngày 5-3-1950, những đảng viên trong chuyến lưu đày từ Khám Lớn - Chí
Hòa ra Côn Đảo đã hình thành nhóm nghiên cứu mácxít do Trần Chính Quyền phụ
trách. Hai tháng sau, thực dân Pháp đày 50 tù nhân ở các nhà lao miền Trung ra
Côn Đảo. Giám đốc Laphốt không phân tán tù nhân về các sở tù mà giam riêng chuyến
tù này vào Khám 6 Banh II, phiên chế thành một kíp lao động khổ sai đập đá ở dưới
chân Núi Chúa. Đoàn tù nhân miền Trung đã làm đơn xin gia nhập Liên đoàn tù
nhân và đặt phiên hiệu là khu Trần Phú.
Đoàn tù miền Trung đã thành lập chi bộ đảng từ nhà lao Huế, gồm 11 đảng
viên, lấy tên là Chi bộ Nguyễn Chí Diểu, do Lê Trọng Bộ tức Lê Doãn Thiết là bí
thư, chi ủy có Lê Quang Thuyết, Lê Nam Kim, Hồ Duy Khoảng, Võ Dự, Lê Trọng Bộ.
Chi bộ Nguyễn Chí Diểu đã liên hệ với các đồng chí Nguyễn Đình Thâu và Nguyễn
Văn Năm, tha thiết đề nghị các nhóm mácxít sớm thống nhất quan điểm, tiến tới
thành lập Đảng bộ nhà tù Côn Đảo. Cuối tháng 5-1950, Ban củ tập đã được hình
thành gồm đại diện các chi bộ và nhóm nghiên cứu mácxít, làm nhiệm vụ tập hợp,
soát xét lại tư cách của các đảng viên cũ, chuẩn bị thành lập Đảng bộ, Lê Trọng
Bộ là Trương ban củ tập.
Ngày 24-6-1950, đoàn tù án chính trị đầu tiên ở nhà lao Hỏa Lò (Hà Nội)
gồm 54 người dặt chân lên Côn Đảo. Đoàn tù Hà Nội đã lập
chi bộ đảng từ Hỏa Lò, do Lê Đình Cầu làm bí thư, chi ủy có
Trần Khắc Du tức Nguyễn Ngọc Cảnh, Doãn Chiêm (Minh Kính). Hai đại biểu của chi
bộ Hỏa Lò được bổ sung vào Ban củ tập. Trần Khắc Du được bố trí ra nhà thương với
bệnh án kiết lỵ, để làm nhiệm vụ thường trực Ban củ tập. Trần Minh (Minh ốm) y
tá tại nhà thương đảm nhiệm đầu mối liên lạc cho thường trực Ban củ tập.
Các đoàn tù ở đất liền liên tiếp bị đày ra Côn Đảo đầu năm 1950 đã bố
sung những kinh nghiệm tổ chức và hoạt động ở các nhà lao cho Côn Đảo, góp phần
làm biến chuyển về chất lượng lãnh đạo và tố chức tù nhân. Việc củ tập đảng
viên, thành lập đảng bộ được khẩn trương triển khai. Hơn 30 đảng viên đã được
công nhận trong tháng 7-1950.
Đảng viên được củ tập với điều kiện là khi bắt phải giữ được khí tiết,
không đầu hàng khuất phục; vào tù phải có ý thức tổ chức, gương mẫu, có tinh thần
chiến đấu, được tập thể tù nhân tín nhiệm và được tập hợp từ cơ sở. Mỗi đảng
viên phải được 2 đảng viên khác biết và giới thiệu. Trường hợp không có ai giới
thiệu thì phải tự khai báo. Nhưng dù có người giới thiệu, bảo đảm hay chỉ là tư
khai báo thì nguyên tắc cao nhất để công nhận đảng viên là phải qua thực tiễn đấu
tranh trong tù, thể hiện được phẩm chất đảng viên, được tập thể trong tù công
nhận. Cơ sở đảng trong các đoàn tù, các sở tù giới thiệu và nhận xét đảng viên,
sau đó gửi danh sách để Ban củ tập xem xét và làm quyết định công nhận đảng
viên.
Tháng 8-1950, các cơ sở tiến hành Đại hội thành lập Đảng bộ nhà tù Côn Đảo.
Bộ phận thường trực ở nhà thương soạn dự thảo nghị quyết chi bộ, lấy ý kiến các
đồng chí trong Ban củ tập, tổng hợp lại rồi gửi đến các chi bộ tham gia ý kiến.
Bộ phận thường trực tập hợp ý kiến, bổ sung thành Án nghị quyết của Đảng bộ.
Kế thừa kinh nghiệm của Chi bộ đặc biệt ở nhà tù Côn Đảo trước đây và
kinh nghiệm hoạt động ở nhiều nhà tù khác, Đại hội đã xác định nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng bộ là lãnh đạo đấu tranh đòi cải thiện đời sồng tù nhân và biến nhà tù
đế quốc thành trường học cách mạng. Đại hội uốn nắn tư tưởng của một số đảng
viên trước đây, quá say sưa với chủ trương “tự giải phóng” chỉ tìm cách vượt ngục
mà xem nhẹ việc xây dựng tổ chức, lãnh đạo đấu tranh trong tù.
Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành (gọi là Hội ủy để giữ bí mật) gồm 7 người
do Lê Trọng Bộ làm bí thư; Nguyễn Đình Thâu là phó bí thư phụ trách tuyên huấn;
Trần Khắc Du phụ trách dân vận; các anh Nguyễn Văn Năm, Trần Chính Quyền, Lê
Quang Thuyết, Nguyễn Văn Thương là ủy viên phụ trách các cơ sở.
Đảng bộ đánh giá cao tinh thần chiến đấu và ý thức kỷ luật của những người
tù kháng chiến cùng với sự trưởng thành của Liên đoàn tù nhân. Từ nay, Liên
đoàn được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, giống như một đoàn thể rộng rãi nhất,
vừa như là một hình thức chính quyền dân chủ và trực tiếp của tù nhân. Đảng bộ
chỉ đạo cải tổ một số điểm trong cơ cấu tổ chức và hoạt động của Liên đoàn. Ban
tư pháp được thay bằng Hội đồng kỷ luật. Các hình thức kỷ luật mang tính chất
nhục hình, cực đoan được bãi bỏ, thay vào đó là các biện pháp thuyết phục và
giáo dục. Đại hội quyết định bồi dưỡng và kết nạp những cán bộ ưu tú của Liên
đoàn tù nhân vào Lớp đảng viên tháng Tám (1950).
Thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ, từ ngày 19-8- 1950, các cơ SỞ đã tổ chức
kết nạp một loạt đảng viên mới - Lớp đảng viên tháng Tám. Những người được kết
nạp trong đợt này đã trải qua nhiều cuộc đấu tranh ở Côn Đảo, đã giác ngộ về
chú nghĩa cộng sản, chứng tỏ lòng trung thành với Đảng và đều phải được 2 đảng
viên giới thiệu.
Lớp đảng viên tháng Tám hầu hết là những người hoạt động tích cực trong
Liên đoàn tù nhân Côn Đảo ở các cấp, trong đó các anh: Trịnh Xuân Hà, Nguyễn
Văn Thìn, Nguyễn Văn Khang, Vũ Ngọc Toàn, Đặng Nguyên, Lê Ngọc Hương, Lê Tấn
Vinh, Ngô Đăng Đức, Trần Văn Đĩnh, Lâm Thái Côn, Trần Văn Hai, Lê Thúc Bính,
Nguyễn Văn Trường, Trần Văn Bảy, Lê Hoàng Yến, Võ Tuyền... Các anh Phạm Xuân Thụ,
Nguyễn Duy, Đinh Văn Dần, Vũ Ngọc Chung, Lê Đăng Tam không đủ điều kiện trong đợt
củ tập tháng 7-1950 cũng được kết nạp lại và công nhận chính thức trong dịp
này.
Trong tháng 9 và tháng 10-1950, Đảng bộ tiếp tục kết nạp thêm một số cán
bộ có thành tích trong Ban chấp hành Liên đoàn tù nhân ở các khu, trong đó có Tạ
Văn Hồng, Nguyễn Trí Tuệ, Nguyễn Văn Tùng, Trần Việt Xuân... Lớp đảng viên mới
vừa góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ của chi bộ, vừa trực tiếp tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với Liên đoàn tù nhân.
Đầu mối liên lạc và ấn loát của Đảng bộ ở Nhà Thương do Nguyễn Văn Khang
và Trần Minh đảm nhiệm. Văn phòng của Bí thư Đảng bộ đặt tại Khám 6 Banh II, Võ
Nguyên, Nguyễn Đức Triêm, Võ Bằng, Hò, Hội, vừa làm công tác ấn loát, giao liên
và bảo vệ. Nguyễn Văn Giỏi và Huy Nghĩa đặc trách đường dây liên lạc của Đảng bộ
giữa Banh I với Banh II và các sở.
Lê Quang Thuyết được Đảng ủy giao nhiệm vụ soạn thảo đề án hoạt động và
tranh đấu của Đảng bộ. Lê Trọng Bộ và Trần Khắc Du đã biên soạn nhiều tài liệu
phục vụ công tác giáo dục tư tưởng và đường lối của Đảng cho đảng viên và quần
chúng như: Tiểu sử Hồ Chủ tịch, Thư của Hồ Chủ tịch gửi các đồng chí Trung bộ,
Sửa đổi lề lối làm việc, Cách mạng dân chủ mới, Trường kỳ kháng chiến nhất định
thắng lợi.
Vào thời điểm đó, tù nhân Sở Củi và Lò Vôi vẫn bị đánh đập nhiều. Ban chấp
hành tù nhân khu Sở Củi đã chuẩn bị phương án đấu tranh và đề nghị Liên đoàn
phát động các khu hỗ trợ. Đảng ủy đề xuất cuộc đấu tranh toàn đảo bằng hình thức
đình công tuyệt thực đòi các yêu sách chính:
-
Nhà tù phải
nhìn nhận tổng đại diện của tù nhân.
-
Giảm nhẹ các mức
khổ sai, hạ mức củi.
-
Bãi bỏ chế độ
hành hạ đánh đập tù nhân.
-
Tù nhân đi làm
khổ sai không phải đeo xiềng.
-
Đảm bảo khẩu
phần ăn đúng quy chế, bỏ khô mục, gạo sạn, tuần có 2 bữa thịt.
-
Tù nhân đau ốm
được khám bệnh và điều trị.
-
Được nhận thư
từ, bưu kiện, báo chí sách vở và tự do học tập.
-
Khám cấm cố được
ra sân chơi ngày 2 buổi, sáng và chiều, mỗi buổi 2 giờ.
Giữa lúc đó, qua gácdang Béctơram, tù nhân biết các báo Sài Gòn đều đưa
tin về thất bại của thực dân Pháp ở mặt trận Biên giới với những hàng tít lớn:
-
Thất Khê lọt
vào tay Việt Minh.
-
Lepage -
Charton bị bắt làm tù binh.
-
Việt Minh làm
chủ đường số 4.
Tù nhân hết sức phấn khởi lao vào cuộc tranh đấu. Họ dự cảm về cuộc tổng
phản công quét sạch thực dân Pháp ra khỏi đất nước không còn xa nữa. Tin tức về
các cuộc đấu tranh thắng lợi của tù nhân ở Chí Hòa củng góp phần cổ vũ họ.
Theo sự chỉ đạo chung, tù nhân các khu Sở Củi, Chỉ Tồn và các Sở khổ sai
tuyệt thực mở màn. Ngày hôm sau, kíp tù áo trắng và nhiều khám khác tuyên bố
tuyệt thực đình công. Khám 1 (áo trắng) và Khám 6 (cấm cố) đập bể khạp nước,
tuyệt ẩm luôn, đồng thời cởi hết quần áo, chất đống ngoài cửa, sẵn sàng chịu trận.
Khí thế cuộc đấu tranh lên rất cao.
Ngày thứ 3 thì khí thế chững lại. Nhóm Mười Võ Sĩ ở Sở Củi và một số tù
tư pháp ở các khám nhảy ra ăn. Mười Võ Sĩ trước đã tham gia Ban chấp hành tù
nhân khu Sở Lưới, sau vụ âm mưu cướp tàu Nicôlô không thành, bị đưa về cấm cố ở
Khám 7 rồi làm khổ sai ở Sở Củi. Giống như phần đông số tù tư pháp, Mười Võ Sĩ
chưa quen rèn luyện và chịu đựng những hình thức đấu tranh ở mức cao như tuyệt
thực. Sau này, y ngả về phe Liên xã, đối lập với Liên đoàn.
Mặc dù không đánh đập khủng bố như trước, Laphôt dứt khoát không chấp nhận
tổng đại diện. Hắn chỉ ra lệnh cho Giám thị trưởng Rônhông mời một đại diện tù
nhân ra Văn phòng thương lượng. Anh Thái Mập tức Lê Văn Trình, số tù c. 11746
là Chủ tịch ủy ban tranh đấu được cử ra thay mặt cho toàn thể tù nhân. Rônhông
yêu cầu tù nhân chấm dứt tuyệt thực, đi lao động bình thường. Hắn hứa sẽ nghiên
cứu giải quyết các yêu sách, trừ việc nhận tổng đại diện.
Cuộc tuyệt thực kết thúc sau buổi thương lượng. Cả hai phía đều có sự
nhân nhượng. Nhà tù bớt đánh đập, chế độ ăn uống được cải thiện khá hơn. Một thời
gian sau chúng mới bỏ hẳn kiểu phạt xiềng. Sở Củi được hạ bớt mức khổ sai và ít
bị đòn roi. Việc sinh hoạt và học tập của tù nhân được dễ dàng hơn trước.
Trong dịp kỷ niệm ngày toàn quốc kháng chiến năm ấy, tù nhân Sở Củi biên
soạn và dàn dựng vơ ca kịch Ngọn đuốc Bác Hồ, trình diễn tại sân củi trưa 19-
12-1950, có kíp tù làm đường cạnh đó đến xem. Mở đầu vở kịch là cảnh giữa đêm tối,
mọi người mò mẫm đi, không tìm ra đường lối và vấp ngã. Cảnh 2 xuất hiện ngọn
đuốc, tượng trưng cho tư tưởng cách mạng của Bác Hồ. Nhờ ánh đuốc soi đường mở
lối, mọi người đã đứng dậy nô nức đi theo. Cảnh 3 là tất cả vây quanh ngọn đuốc,
kết thành hình ngôi sao 5 cánh, tượng trưng cho sự đoàn kết của dân tộc Việt
Nam xung quanh Đảng - Bác. Nhiều thầy chú cai quản hai kíp tù cũng xem và tỏ ra
xúc động.
Trong dịp ấy, tù nhân Sở Củi và Sở rẫy An Hải đã tranh thủ sự ủng hộ của
các thầy chú bằng cách bán đấu giá một chiếc áo len để lấy tiền ủng hộ tù nhân
khám tử hình và cấm cố. Ban chấp hành tù nhân thu được gần một ngàn đồng (tiền
Đông Dương) cho quĩ xã hội của Liên đoàn.
Gần Tết âm lịch 1951, Laphốt mới cho trả lại một số sách báo, tư trang
mà bọn gác ngục tịch thu trước đó. Hắn cũng cho trả các bưu kiện mà nhà tù còn
giữ lại. Đại diện của tù nhân đã đưa yêu sách đòi tổ chức vui chơi trong ngày tết;
các khám được thăm nhau theo phong tục cổ truyền. Được Giám đốc nhà tù đồng ý,
Ban kịch Khám 6 đã qua Khám 5 (Chỉ Tồn) trình diễn vở kịch Hội nghị Diên Hồng
do Vũ Đắc Bằng biên soạn. Gácdang, thầy chú trực phiên hôm đó đứng ở cửa Khám 5
ngó xem.
Tết ấy, các khám đều lập bàn thờ Tổ quốc, có cờ đỏ
sao vàng và ảnh Bác Hồ. Có khám làm cả bản đồ Tổ quốc Việt Nam bằng bông gòn
dán trên giấy rồi phun thuốc đỏ, vị trí thủ đô Hà Nội được điểm một ngôi sao
vàng. Laphôt đến thăm Khám 6 cấm cố, tỏ thái độ trân trọng và trang nghiêm trước
bàn thờ Tổ quốc Việt Nam. Đó là cử chỉ mị dân cuối cùng của chúa đảo Laphốt,
trong khi hắn đã chuẩn bị một âm mưu mới thâm độc hơn và tàn ác đối với tù nhân
kháng chiến.
1. Tham luận của đồng chí Trịnh Xuân Hà (tức Trịnh Văn Hà),
nguyên Tổng đại diện của Liên đoàn tù nhân Côn Đảo tại cuộc hội thảo tháng
8-1990 tại Thành ủy Hà Nội. Hồ sơ lưu trữ tại Phòng Lịch sử Đảng Ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy Bà Rịa - Vung Tàu.
Thất bại ở Biên Giới thu đông 1950 đã làm cho thực dân Pháp nhận ra rằng,
chúng không thể thắng được trong cuộc chiến tranh này bằng quân sự.
Chiến thắng Biên Giới còn để lại tiếng vang lớn trên các lĩnh vực chính
trị, ngoại giao, binh địch vận. Ngay khi tiếng súng ở Biên Giới vừa ngừng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gặp gỡ một số tù binh Pháp tại
mặt trận. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định trao trả tất cả tù binh là thương
binh cho quân đội Pháp tại Thất Khê. Đài tiếng nói Việt Nam công bố chính sách
của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đối với tù hàng binh trong buổi
phát thanh bằng tiếng Pháp, tăng thêm lượng tin tức chiến sự và tù hàng binh. Lễ
Nôen 25-12-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh ân xá cho một sô tù binh Pháp.
Chính sách nhân đạo của Chính phủ Hồ Chí Minh đối với tù hàng binh Pháp
có tác động mạnh đến binh lính và nhân dân Pháp. Quan tư thầy thuốc Đuyarít
(Duaris) sau khi được ấn xá đã lên tiếng tố cáo Chính phủ Pháp đã lừa gạt, đẩy
thanh niên Pháp vào cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu. Bị điều về nước,
Đuyarít tiếp tục phản đối cuộc chiến tranh xâm lược và tuyên truyền về chính
sách nhân đạo của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhân dân Pháp yêu cầu
Chính phủ Pháp phải đối xử nhân đạo với tù binh Việt Nam và kết thúc chiến tranh
để con em họ được trở về Pháp.
Ở Côn Đảo, bọn chúa ngục vẫn tiếp tục chính sách khủng bố. Ngày
6-1-1951, tù nhân ở nhiều khám làm lễ kỷ niệm ngày thành lập Đảng và ngày bầu cử
Quốc hội. Khám 6 Banh II (khu Trần Phú) bị đánh đập và bỏ đói một ngày. 44 tù
nhân trong khám họp hội nghị bất thường, quyết định tuyệt thực để phản đối. Mặc
dù bị xé lẻ thành 4 nhóm, giam riêng ở 4 nơi (Bản Chế, Nhà Thương, Chuồng Bò và
Khám 6) nhưng cả 4 nhóm đều đồng tâm tuyệt thực cho đến khi địch nhượng bộ, chấp
nhận cải thiện đời sống, bỏ đánh đập.
Đoàn tù nhân ở Chí Hòa mới ra Côn Đảo chưa được 10 ngày cũng bị khủng bố
trong đợt kỷ niệm ấy. Các anh Đinh Khắc Phong, Trần Bình Hẳn, Nguyễn Văn Một (tức
Long), Bảy Vinh (tức Đào Năng An) bị phạt xà lim Banh I, còng chân và bỏ đói. Đại
diện tù nhân ở nhiều khám đã lên tiếng phản đối việc khùng bố Khám 6 Banh II và
đoàn tù ở Chí Hoà mới ra. Trước áp lực đấu tranh của tù nhân, Laphốt cho giải tỏa
đợt khủng bô, trả hết tù nhân bị phân tán và phạt xà lim về khám cũ.
Laphôt chuẩn bị một đợt khủng bố tù quy mô hơn bằng chế độ biệt lập hết
sức khắc nghiệt và sự câu kết giữa nhà tù với những tên tù gian làm tay sai cho
chúng. Laphôt đã gửi phúc trình cho Cao ủy Pháp, báo động về tình hình an ninh ở
Côn Đảo về khả năng bạo loạn của tù nhân mà y cảm thấy như một nguy cơ thường
trực.
Cuộc đổ bộ bất đắc dĩ của một đơn vị Việt Minh lên Côn Đảo do một tai nạn
thuyền bè trong chuyến chở vũ khí vào Nam Bộ (ngày 29- 1-1950) cũng được đề cập
tới như một dấu hiệu đáng ngờ về sự phôi hợp tấn công của lực lượng vũ trang từ
đất liền. Laphốt đã đề nghị Cao ủy cho phép áp dụng chế độ biệt lập, biện pháp
an ninh cao nhất đối với những tù nhân kháng chiến nguy hiểm. Khu biệt lập Banh
II được hình thành.
Tháng 2-1951, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo tổ chức Đại hội lần thứ 2. Đảng ủy
chuẩn bị báo cáo và đưa xuống các chi bộ thảo luận, góp ý bổ sung rồi gửi về
văn phòng Đảng ủy. Báo cáo đánh giá trong nhiệm kỳ 6 tháng, Đảng bộ đã xây dựng
được tổ chức Đảng thống nhất trên toàn đảo; phát triển số đảng viên tăng lên gấp
rưỡi; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Liên đoàn tù nhân. Đảng bộ đã phổ
biến đường lối kháng chiến cho cán bộ, đảng viên, nâng cao nhận thức và lòng
tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến, về sách lược, Đảng bộ phân biệt đối tượng
cụ thể, từng loại kẻ thù, từ chúa đảo đến xếp banh, chủ sở, gácdang, thầy chú để
tranh thủ và có sách lược đấu tranh cụ thế.
Đại hội lần thứ hai đã bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ gồm 9 người. Bí thư
Đảng ủy Lê Trọng Bộ được bố trí ra Nhà Thương với bệnh án ho lao cùng Trần Khắc
Du (Nguyễn Ngọc Cảnh), Phó bí thư hình thành bộ phận thường trực của Đảng ủy tại
Nhà Thương.
Khi ấy Laphốt đã cho dọn dẹp xong dãy Khám 8-9- 10 ở Banh II (trước
chúng làm kho vật liệu) và rào dây thép gai xung quanh, thiết lập một khu biệt
lập để cách ly và siết chặt kỷ luật với những người tù kháng chiến trung kiên.
Những người tù kháng chiến hoàn toàn bị bất ngờ trước thủ đoạn mới của Laphốt.
Được sự khuyến khích của Laphôt, một nhóm tù gian đã lập ra tổ chức Liên
minh dân chủ xã hội, gọi tắt là Liên xã. Cầm đầu Liên xã là những tù nhân thuộc
các đảng phái quốc gia (Việt Nam Quốc dân đảng, Đại Việt, Cao Đài, Hòa Hảo) như
Nguyễn Văn Tân, Lê Trung Chánh, Nguyễn Văn Kỷ, Già Huệ... Có tên từng theo
kháng chiến như Võ Văn Nguyệt, từng tham gia Liên đoàn tù nhân nhưng bất mãn, bị
quyền lợi vật chất lôi kéo.
Ngày 28-2-1951, bọn Liên xã ở kíp Lò Vôi đem dao nhọn vào Khám 5 Banh II
khiêu khích đòi lật đổ Ban chấp hành tù nhân khu. Các anh Nguyễn Trí Tuệ, Chủ tịch
Ban chấp hành tù nhân khu Lò Vôi đã cùng với Trác Quang Lành, Điệp, Hưng tổ chức
lực lượng, tay không đánh trả bọn Liên xã, Nguyễn Trí Tuệ bị đâm trọng thương ở
cổ. Giám thị trưởng Rônhông kịp thời can thiệp, y phạt hầm Nguyễn Trí Tuệ vì tội
gây rối trong tù!?
Rônhông vẩn cho phép bọn Liên xã được giữ vũ khí trong khám, bất chấp
quy chế nhà tù. Ngày hôm sau, bọn Liên xã dùng dao nhọn khiêu khích tù kháng
chiến ở Chuồng Bò, nhưng Liên đoàn tù nhân đã đánh trả chúng đích đáng. Giám thị
trưởng Rônhông lại có mặt đúng lúc, y ra lệnh còng chân tất cả tù kháng chiến rồi
cho bọn Liên xã đánh đập bằng gậy gộc để trả thù. Anh Trần Văn Đức tức Mi, trưởng
ban trật tự của tù nhân khu Chuồng Bò bị đánh ngất đi, đầu và mặt sưng húp. Mười
hai tù nhân kháng chiến bị phạt xà lim. Các anh Đức, On, Tâm bị tên cò Busăng
(Bouchand) tra tấn tàn bạo và bị chồng án thêm 4 năm tù nữa.
Ngày 4-3-1951, Rônhông lại hỗ trợ cho bọn Liên xã mang dao vào gây rối ở
Khám 7 Banh I. Anh Phạm Trọng Hồng (Hồng Võ Sĩ) đã cùng với Nguyễn Sáng lãnh đạo
tù nhân Khám 7 đập bể lu nước, lấy mảnh vỡ làm vũ khí chống lại dao nhọn của
chúng. Trước sức mạnh áp đảo, bọn Liên xã phải chạy tháo thân, tên Kỳ bị đứt
gân chân không đi nổi. Rônhông lại can thiệp ngay, bắt 50 tù kháng chiến vào cấm
cố và cho bọn Liên xã quay trở lại chế ngự Khám 7.
Trước sức mạnh đoàn kết và tinh thần chiến đấu của tù nhân kháng chiến,
bọn tù gian Liên xã không sao lật đổ được Liên đoàn bằng vũ lực. Khi ấy nhà tù
mới ra mặt khủng bố. Ngày 6-3-1951, viên
Giám thị trưởng
Rô nhông chỉ huy hàng chục gácdang, có lính và tay sai Liên xã đi theo ập
vào từng khám. Bọn Liên xã đã lập sẵn danh sách những người lãnh đạo ở các khu,
những tù nhân trung kiên kháng chiến. Chúng mở cửa, gọi tên, chỉ mặt và bắt
hàng loạt tù trung kiên ở tất cả các khám đưa về Khu biệt lập Banh II.
Trước đó, Khám 6 cấm cố ở Banh I đã bị thanh lọc. Khoảng 30 người bị đưa
thẳng về Khu biệt lập Banh II. Số còn lại chúng chia thành 2 kíp, mỗi kíp 25
người, ở Khám 6 và Khám 7 Banh I. Sau vụ xung đột với Liên xã Khám 7 (Sở Chuồng
Bò, ngày 29-2-1951), chúng đưa hầu hết tù kháng chiến ở Khám 6 và Khám 7 vào
khu biệt lập, còn bọn Liên xã thì ở lại.
Bọn Liên xã tiếp tục được nhà tù cho phép sử dụng dao nhọn và vũ khí thô
sơ để chế áp tù kháng chiến. Chúng dựng lên tổ chức phản động Liên xã ở tất cả
các khu chống lại Liên đoàn tù nhân. Chúng chiếm “đài phát thanh”, kêu gọi tù
nhân phải tuân theo sự lãnh đạo của chúng.
Trong vòng 2 tháng sử dụng bọn tù tay sai, Laphốt đã đưa 250 tù kháng
chiến vào biệt lập, hỗ trợ cho Liên xã lập tổ chức phản động ở Sở rẫy An Hải, Sở
Lưới, Chuồng Bò, Lò Vôi, Sở Bản Chế và Nhà Thương. Tuy chúng có tổ chức nhưng
tù kháng chiến vẫn giữ được tương quan, không để chúng lấn át. Khám 1 (áo trắng)
thì Liên xã chưa giành được quyền lãnh đạo nhưng chúng khống chế hoạt động của
Liên đoàn. Nhà tù sử dụng Liên xã như kiểu cặp rằng trước đây, ưu đãi bọn này về
vật chất để sử dụng làm tay sai không chế hoạt động của tù nhân kháng chiến.
Vụ Liên xã và chế độ cấm cố biệt lập là đợt khủng bố quy mô và hết sức
thâm độc. Những người tù kháng chiến đã phải đấu tranh dai dẳng và quyết liệt
trong nhiều năm sau đó.
Tháng 5-1951, Giátty (Henri Jarty) ra nhận chức Giám đốc Côn Đảo. Giátty
được đánh giá là một “sĩ quan ưu tú, rất gắn bó với chức vụ... khéo léo và kiên
quyết” (Văn thư số 1574/CB/MIL của Thủ tướng Nam Việt Nam gửi Trung tâm hành
chánh Viễn Đông). Ngay trên chuyến tàu ra nhận chức, Giátty đã đàn áp đẫm máu
đoàn tù từ Chí Hòa ra Côn Đảo khi họ hát bài Quốc ca chào đất liền, vào lúc tàu
nhổ neo rời bến. Đến Côn Đảo, hắn còn đuổi theo đánh đoàn tù một trận nữa, từ cầu
tàu vào Banh I.
Giátty ráo riết tăng cường bố phòng Côn Đảo. Ngay trong tháng đầu nhận
chức, y làm công văn xin đổi 3 trung liên F.M của Nhật (cỡ nòng 303) để sử dụng
đạn 303 sẵn có, xin cấp bổ sung 25 súng lục để đủ trang bị cho mỗi gácdang Pháp
một súng; xin thêm 5 gácdang, đưa tổng số gácdang lên 50 tên; xin thêm 54 lính
Âu - Phi, đưa tổng số lính Âu - Phi lên 104 tên vào cuối năm 1951; xin cấp một
canô tốc độ 8 hải lý giờ để tuần tra quanh đảo.
Giátty tiếp tục duy trì chế độ cấm cố biệt lập, tiếp tục chính sách dùng
tù trị tù và khủng bố tù kháng chiến. Y đưa Pátxi (Passi) làm Giám thị trưởng
thay Rônhông. Mới đến Côn Đảo hơn một tháng, Giátty đã chỉ huy cuộc tổng khủng
bố toàn đảo vào ngày 20-5- 1951. Từ sáng đến trưa, bọn gác ngục đánh tất cả tù
nhân ở các khám, trận ấy không ai không đố máu. Anh Lan bị đánh gãy một tay, nằm
liệt luôn 3 tháng. Anh Huệ bị đánh đến ho ra máu, mấy tháng sau thì chết.
Ngày 1-7-1951, Giátty và Pátxi lại cầm đầu một toán ác ôn đánh đập tàn
nhẫn đoàn tù ở Chí Hòa vừa ra Côn Đảo, đánh anh Lý Hải Châu chết ngất vì Giátty
và Pátxi biết anh lãnh đạo cuộc đấu tranh tuyệt thực 11 ngày vừa nổ ra ở Chí
Hòa và tổ chức cho một số tù nhân vượt ngục.
Vào nghề gác ngục từ thời trai trẻ, Pátxi từng qua hết các nhà tù lớn ở
Đông Dương như Sơn La, Hỏa Lò, Khám Lớn, Chí Hòa và trở thành con cáo già trong
nghề, leo hết ngạch gác ngục ở Côn Đảo. Pátxi thâm thù cộng sản từ trong xương
tủy. Y là một trong những tên gác ngục gian giảo và rất thủ đoạn. Gặp lại một
người cộng sản từng bị tù ở Sơn La năm 1944, y reo lên một cách thân mật như gặp
được bạn cũ. Với những tù nhân biết tiếng Pháp, y lễ độ gọi là ngài. Biết tù cộng
sản có văn hóa, y vui vẻ đàm luận về một tác phẩm văn học Pháp, một trường phái
âm nhạc, hội họa, hoặc về vẻ đẹp một loài hoa. Nhưng khi hắn đưa quân vào khủng
bố thì không trận nào không đẫm máu. Đánh xong, hắn lại chào hỏi ngọt ngào, lại
nói chuyện vui vẻ, đôi khi còn mời tù nhân hút thuốc.
Bọn chúa ngục Côn Đảo sau mỗi lần thất
bại trong chính sách trị tù thì chúng lại xảo quyệt hơn. Thủ đoạn dùng tù “quốc
gia” trị tù kháng chiến khởi đầu từ Laphốt và Rônhông đã được Giátty và Pátxi
thực hiện một cách hữu hiệu. Nhưng ngày tàn của bọn chúa ngục cung không còn xa
nữa. Thủ đoạn ấy chỉ là cơn giãy giụa cuối cùng của thực dân Pháp và tay sai
trên hòn đảo này.
Đấu tranh chống Liên xã,
củng cố lại Liên đoàn tù nhân
Sau vụ Liên xã, hầu hết những người lãnh đạo trong Đảng ủy và Liên đoàn
tù nhân bị bắt vào biệt lập. Đảng ủy quyết đjnh bổ sung thêm một số ủy viên:
Tùng Lam tức Thép, Hoàng Sinh Hồng tức Tân, Trần Nam tức Trần Chiêm. Cả ba đều
thuộc nhóm dân quân Sài Gòn - Gia Định vừa bị đày ra Côn Đảo, làm khổ sai ở kíp
Chỉ Tồn, có điều kiện trực tiếp chỉ đạo phong trào.
Đảng ủy tích cực chỉ đạo chống khủng bố. Chỉ thị của Đảng ủy gửi đến các
cơ sở đã phân tích âm mưu “dùng tù trị tù” của thực dân Pháp và vạch mặt bọn cầm
đầu Liên xã làm tay sai đắc lực cho nhà tù. Đảng ủy kêu gọi tù nhân đoàn kết
xung quanh Liên đoàn tù nhân, kiên quyết lập lại tồ chức ở những khu bị Liên xã
khống chế.
Tù nhân các khu tiến hành bầu bổ sung một số ủy viên Ban chấp hành đã bị
bắt vào biệt lập. Ở các khu Liên xã không chế, tù kháng chiến đã bầu ra Ban chấp
hành bí mật để lãnh đạo tù nhân. Tư Ba Đào, người tù thường phạm có uy tín
trong giới giang hồ ra lời hiệu triệu vạch mặt bọn đầu sỏ Liên xã là tay sai
cho giặc và kêu gọi những người lầm đường lạc lối hãy quay lại sát cánh với
Liên đoàn, chống âm mưu dùng tù trị tù của thực dân Pháp.
Vào lúc đông nhất, Liên xã tập trung được chừng 300 tên. Ngoài mấy tên cầm
đầu thuộc đảng phái quốc gia, bọn tay chân hầu hết là tù tư pháp, lưu manh
giang hồ. Trong bọn này có một số người trước đây đã đi theo Liên đoàn, nhưng
không quen nếp sinh hoạt chặt chẽ hoặc không chịu đựng được những hình thức đấu
tranh quyết liệt do Liên đoàn tổ chức nên đã đầu hàng địch. Trong bọn này còn
có cả một đôi người đã từng tham gia kháng chiến nhưng bất mãn hoặc cầu an, cầu
lợi nên can tâm làm tay sai cho địch.
Bọn Liên xã ở Sở Lưới bắt tù nhân mỗi ngày đánh 5 giác lưới (trước chỉ 3
giác). Chúng còn quản lý cá cho nhà tù, ^ không để tù chính trị giấu một phần về
cải thiện như trước nữa. Ở kíp cắt cỏ, chúng bắt nộp mỗi ngày 60kg (trước là
30kg). Bọn Liên xã ở Sơ Củi tiếp tay cho Nhà tù bắt tù nhân tăng mức củi. Củi
Nhà Đèn trước đây đã hạ xuống 3 tấc, chúng bắt tăng 3,5 tấc mỗi ngày. Anh em
không làm đủ, chúng đánh đập và còng chân ở Khám 6 Banh I. Liên tục trong một
tuần, Ban chấp hành bí mật của tù nhân Sở Củi đã lãnh đạo anh em chỉ làm đúng 3
tấc, cuối cùng chúng phải nhượng bộ.
Ban chấp hành Liên đoàn tù nhân sở Chỉ Tồn lãnh đạo tù nhân chống tăng mức
khổ sai. Khu Sở tẩy - Nhà bếp, tù kháng chiến đã chiếm lại “đài phát thanh”, lập
lai Ban chấp hành, anh Hưng làm Chủ tịch, Vũ Văn Thùy tức An là Phó Chủ tịch,
giữ vững đầu mối liên lạc cho Đảng ủy và Liên đoàn tù nhân kháng chiến. Cuối
năm 1951, Sở Rẫy An Hải lập lại dược Ban chấp hành, sau khi Đảng ủy bố trí một
số tù nhân có uy tín về đó.
Cuộc đấu tranh chống Liên xã ở Khám 1 (áo trắng) và Sở Lưới diễn ra quyết
liệt nhất. Các anh Nguyễn Văn Mẫn làm bồi ở Sở Cò; Nguyền Minh Sướng làm bồi
cho xếp Banh I; Mai Hữu Hương thư ký kho bạc đã tố chức đánh áp đảo bọn Liên xã
trong lúc chúng đang phát thanh đưa tin tức phản động, nói xấu kháng chiến. Bọn
Liên xã bị dồn vào góc tường, không dám ho he. Ban chấp hành tù nhân được lập lại,
nhưng không được bao lâu. Một tên trong Liên xã lợi dụng lúc sơ hở, chạy vọt ra
cửa khám kêu cứu ầm ĩ. Gácdang đến can thiệp, bắt tù nhân ra sân xếp 2 hàng. Ba
anh cầm đầu bị chúng lôi ra cho Liên xã đánh bằng củi tạ rồi phạt còng.
Tại Sở Lưới, Vũ Ngọc Chung (tức Lý Trứng, công an Hà Nội) được Đảng ủy bố
trí về cùng Châu Bình Phong và Nguyễn Thống lật để tên Trần Văn Khánh, tay sai
đắc lực của chủ sở Machiơ. Nhà tù lại can thiệp, Châu Bình Phong bị lôi về hầm
xay lúa cho mấy tên Rờsẹc và Liên xã đánh đập dã man. Vũ Ngọc Chung bị đưa vào
khu biệt lập. Ngày 23-12-1951, cuộc xung đột giữa tù kháng chiến và bọn Liên xã
lại nổ ra tại Sở Lưới. Giám thị trưởng Pátxi cùng Saden và 3 tên gácdang khác,
6 lính lê dương đến can thiệp, đưa bọn Liên xã ra ngoài rồi xông vào đánh đập
tàn nhẫn cả khám. Ba người tù kháng chiến là Nguyễn Văn Lực (C.11899), Bùi Đình
cầu (C.12747) và Nguyễn Văn Lác (C. 12477) bị phạt xà lim, còng chân rồi còn bị
đánh tiếp.
Cuộc đấu tranh ở Sở Lưới còn dai dẳng cho đến năm 1954. Với sự dung dưỡng
của tên gácdang đểu cáng Saden, bọn Liên xã ở Sở Lưới đã đâm chết anh Trần Vần
Vinh (tức Vinh Rỗ) vào ngày 3-5- 1954, khi anh từ khu biệt lập vừa giải tỏa, được
điều ra Sở Lưới. Vinh Rỗ là một người tù thường phạm hoạt động tích cực cho
Liên đoàn. Bọn Liên xã lôi kéo không được nên đã trả thù hèn hạ. Các bạn tù ở
Nhà Thương hết lòng điều trị nhưng không cứu được anh.
Ớ các khu khác thì vai trò bọn Liên xã kết thúc sớm hơn. Cuối năm 1952,
các khu Nhà Thương, Chuồng Bò, Lò Vôi đã được củng cố lại. Bọn Liên xã qua nhiều
trận đụng độ với Liên đoàn đều bị khối tù trung kiên đánh cho sứt đầu mẻ trán.
Mấy tên cầm đầu không được đưa về tham gia nội các chính phủ bù nhìn như nhà tù
đã hứa nên chúng bớt hung hăng. Bọn thống trị thấy liên xã không lật nổi Liên
đoàn nên cũng nhạt dần. Nhiều tù thường phạm nhận rõ bộ mặt cơ hội và phản động
của bọn cầm đầu Liên xã nên đã có thái độ trung lập.
Theo báo cáo của Đảng ủy nhà tù, tháng 9-1952, trong tổng số 2.337 tù
nhân, có 2.000 người tham gia tổ chức Liên đoàn, chỉ còn 100 tên theo Liên xã.
Hơn hai trăm người còn lại thuộc số mới ra, chưa gia nhập Liên đoàn và một số
già yếu, tư tưởng trung lập, chỉ xin ủng hộ Liên đoàn mà không tham gia.
Tên Nguyễn Văn Tân, cầm đầu Liên xã số tù C.11815 phải thắt cổ tự tử vào
ngày 27-2-1953. Có nhiều dấu hiệu Tân bị bức tử vì có dính vào vụ lạm dụng
200.000đ ở hợp tác xã tiêu thụ. Vụ này liên quan đến Giám thị trưởng và chủ sự
hợp tác xã. Tân là thư ký nắm hết đầu dây mối nhợ nên khi phái đoàn thanh tra ở
Sài Gòn ra điều tra, Tân bị bắt lên Sở Cò khai thác. Đêm ấy, Giám thị trương
Pátxi bảo lãnh cho Tân. Sáng hôm sau, người ta thấy xác Tân treo trên cây bằng
lăng trong vườn nhà Pátxi.
Số phận mây tên khác cũng không khá hơn. Lê Trung Chánh được ân xá về
Sài Gòn rồi chết vì bệnh ho lao. Người ta nói rằng Chánh sinh bệnh mà chết vì
không ai đoái hoài tới như những lời hứa hẹn đền đáp công lao cho một thời làm
tay sai trong tù. Võ Văn Nguyệt thì bị Pháp bỏ rơi hẳn. Năm 1954, Pháp đưa Nguyệt
về trao trả tại Sầm Sơn, vì Nguyệt đã từng có một thời đi với kháng chiến. Nguyệt
trốn dưới hầm tàu không dám lên. Thủy thủ Pháp lôi ra đánh cho một trận nhừ tử,
nhưng cuối cùng thì Nguyệt cũng về được Sài Gòn. Nguyệt đổi chủ, bán mình cho Mỹ.
Hoạt động của tù chính trị tại Khu biệt lập Banh II
Trong lúc các sở ngoài tập trung vào cuộc đấu tranh chống Liên xã thì tù
nhân khu biệt lập củng cố tổ chức, học tập văn hóa, chính trị và lý luận.
Chương trình lý luận, chính trị gồm các môn học:
-
Lịch sử Đảng cộng
sản Việt Nam.
-
Tình hình
trong nước và thế giới.
-
Hiến pháp nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Tài liệu do một số đảng viên có trình độ nhớ và biên soạn lại. Anh Bảy
Vinh là người biên soạn chủ yếu và là một thuyết trình viên xuất sắc. Do có một
số sai lầm trong khi bị bắt chưa được xử lý, anh tự nguyện xin không tham gia
sinh hoạt đảng trong tù, nhưng anh nhận và hoàn thành tốt mọi việc Đảng ủy giao
như tổ chức học lý luận, làm đại diện tranh đấu, góp ý xây dựng các phương án đấu
tranh, giải quyết những vấn đề nội bộ. Những người bạn tù gần gũi đều học được ở
anh phương pháp tư duy biện chứng và phong cách đạo đức của người cộng sản
trong tù.
Năm 1951, nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, khu biệt lập đã tố chức
một cuộc kiểm điểm 7 ngày liền để giải quyết những vướng mắc trong nội bộ.
Trong đội ngũ tù nhân kháng chiến, có nhiều người thuộc tầng lớp trí thức vừa
tham gia cách mạng. Họ lao vào cuộc kháng chiến với lòng yêu nước thiết tha pha
chút lãng mạn cách mạng, dũng cảm đi đầu trong đấu tranh, thể hiện khí phách
trước kẻ thù, song lại cố chấp và coi thường một số cá nhân trong Đảng ủy.
Trong khi đó, một vài đảng viên cũ hạn chế về trình độ lãnh đạo, tác
phong gia trương, quan cách, sinh hoạt thiếu gương mẫu. Có đảng viên giữ vai
trò lãnh đạo đã đánh giá hẹp hòi đối với anh em trí thức. Khi quần chúng phản đối
tư cách cá nhân một người lãnh đạo thì bị chụp mũ là chống Đảng, bị truy nguyên
tư tưởng, quy kết lập trường. Mâu thuẫn phát sinh từ khi còn ở Khám 6 Banh I
trong những năm 1949-1950, do không được giải quyết triệt để nên đã dẫn đến
tình trạng có quần chúng không thừa nhận tư cách một số đảng viên, thiếu lòng
tin vào tổ chức Đảng.
Trước tình hình đó, chi ủy khu biệt lập quyết định tiến hành cuộc kiểm
điểm nội bộ, công khai trả lời những thắc mắc của quần chúng. Không khí kiểm điểm
dân chủ và cởi mở. Ai có thắc mắc gì thì nêu lên hết rồi cùng nhau thảo luận.
Được tự do phát biểu, quần chúng đã nêu ra nhiều câu hỏi xung quanh vấn đề tổ
chức Đảng, sự lãnh đạo của Đảng và tư cách đảng viên như:
-
Trung ương có
cho phép thành lập tổ chức Đảng trong tù không?
-
Tổ chức Đảng
trong tù hoạt động công khai hay bí mật?
-
Những ai được
kết nạp vào Đảng có phải đạo đức tốt cả không?
-
Tại sao tù
nhân phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản?
Với sự đóng góp của đồng chí Bảy Vinh (Đào Năng An) và một số cản bộ có
trình độ lý luận và có uy tín, những thắc mắc của quần chúng được giải đáp thỏa
đáng, bằng sự phân tích sâu sắc, lý lẽ thuyết phục, thái độ chân thành.
Nội dung giải đáp trong đợt kiểm điểm ấy tựu trung là: Do hoàn cảnh
trong tù chưa liên lạc được với Trung ương Đảng và Chính phủ nên chưa xin phép
được, nhưng không vì thế mà đảng viên lại nằm im, không tổ chức, không lãnh đạo
quần chúng đấu tranh. Nhiệm vụ của người đảng viên là ở đâu củng phải tập hợp
thành tổ chức, lãnh đạo quần chúng, chống áp bức hóc lột. Việc đảng viên tập hợp
lại là hoàn toàn hợp lẽ. Nêu hiểu công khai là phải có bảng hiệu, có địa chỉ,
ai cũng biết thì không cho phép vì địch sẽ khủng bố. Nếu hiểu bí mật là không
ai biết thì không thể lãnh đạo quần chúng được, quần chúng có thể có người biết
trước, người biết sau. Ai đã biết thì phải giữ bí mật, bảo vệ Đảng; ai chưa biết
thì sau sẽ biết. Tất cả những người có giác ngộ cộng sản, tiền phong chiến đấu
cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, làm đúng 5 nhiệm vụ đảng viên thì đều được kết
nạp vào Đảng. Những người được kết nạp vào Đảng đều có tiêu chuẩn của người đảng
viên, nhưng con người không phải siêu phàm, không tránh khỏi khuyết điểm. Những
người có khuyết điểm, Đảng giáo dục để tiến lên, còn những ai không tiếp thu,
không phấn đấu thì không đủ tiêu chuẩn nữa, phải đưa ra khỏi Đảng.
Cuộc kiểm điểm tháng 8-1951 là một bài học về dân chủ và công khai trong
tù. Những đảng viên có tư tưởng quân phiệt, độc đoán, thiếu tin tướng ở quần
chúng hoặc cầu an đã bị phê phán nghiêm khắc. Nhiều ý kiến đã tập trung làm rõ
phong cách lãnh đạo của Đảng. Hơn bất cứ nơi nào, tổ chức Đảng trong tù không
thể lãnh đạo bằng chức, bằng quyền mà phải bằng phẩm chất và năng lực. Quần
chúng đòi hỏi Đảng phải dân chủ và công khai, phải nhìn thẳng vào những yếu kém
mà sửa chữa, đảng viên phải trở thành gương soi, thành mực thước cho quần chúng
noi theo.
Khi đã hiểu rõ những điều ấy thì cả quần chúng và đảng viên đều thấy
mình ấu trĩ, hẹp hòi và cùng nhau xác định trách nhiệm xây dựng Đảng. Anh Phạm
Văn Thất, một quần chúng tích cực tham gia công tác xã hội đã khóc vì ân hận.
Anh rất thành kiến với một số đảng viên mà không hiểu rõ vai trò lãnh đạo của Đảng.
Anh Sỹ nói với mọi người: “Bây giờ tôi đã hiểu Đảng, tôi tình nguyện phấn đấu để
trở thành đảng viên”. Anh Phước Sẹo đã tự giác phản tỉnh là khi làm liên lạc
cho Liên đoàn đã thủ tiêu nhiều công văn tài liệu để phản đối người lãnh đạo một
cách tiêu cực. Anh Sỹ, anh Thất, anh Phước Sẹo sau một thời gian phấn đấu đã được
kết nạp Đảng ngay trong tù. Những người khác chưa được kết nạp đều là quần
chúng tốt, sau trở về thành những người có ích trên nhiều lĩnh cực công tác.
Cuộc kiêm điểm tháng 8-1951 đã giải đáp trúng những thắc mắc của quần
chúng đối với đảng viên và xóa bỏ cả thành kiến hẹp hòi của một số cán bộ, đảng
viên. Ai cũng thấy mình trưởng thành thêm một bước. Đảng cởi mở với quần chúng,
quần chúng chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng và bảo vệ Đảng. Chi bộ trong khu biệt
lập sinh hoạt công khai, không còn phải bí mật với quần chúng nữa. Trong mấy
năm ở biệt lập, không có trường hợp nào bị tố giác. Điều đó chứng tỏ một nguyên
lý là: không có pháo đài nào vững chắc hơn là lòng dân khi đã tin yêu, bảo vệ Đảng.
Lúc nhàn rồi, trong tù có nhiều chuyện trên đời để bàn luận. Tù ở nhiều
địa phương tụ hội về, mang theo phong tục, ngôn ngữ khác nhau. Khu biệt lập mở
một cuộc vận động nói đúng tiếng Việt. Ai nói sai phải đứng nghiêm, sửa lại cho
đúng theo hướng dẫn của người phát hiện, đồng thời phải đeo vào cổ một thẻ đời
sống mới để làm dấu mỗi lần nói sai. Muốn bớt thẻ thì phải phát âm cho đúng, và
phải bắt được người nói sai thì mới được chuyến thẻ. Tối về kiểm số thẻ mà phê
bình hay khen ngợi. Cuộc vận động nói đúng tiếng Việt ở khu biệt lập đã giúp
cho nhiều người có được độ chuẩn trong ngôn ngữ khi nói và viết, nâng cao ý thức
về Sự chuẩn mực và trong sáng của tiếng
Việt.
Ông già Tiếu là người cuối cùng được thanh toán nạn mù chữ trong khu biệt
lập. Ông bị mật thám Pháp đánh thành tật bàn tay phải. Kẹp mẩu gạch vào mấy
ngón tay tàn tật viết không thành, ông chuyển sang tập viết bằng tay trái. Kiên
trì và nhẫn nại trong một thời gian dài, mãi đến cuối năm 1952, ông mới viết được
bức thư đầu tiên cho vợ. Dòng đầu tiên ông viết: “Má bầy nhỏ à, nhờ cách mạng
tôi đã biết đọc, biết viết thơ này gởi cho má nó”.
Ở biệt lập thiếu thốn nhiều thứ, từ miếng cơm, ngọn rau, hạt muối, viên
thuốc cho đến ánh sáng, khí trời; nhưng bù lại, anh em có thời gian, có sách,
có thầy nên có điều kiện để học tập. Lê Trung Khá dạy toán, Trần Nhật Quang, Vũ
Đắc Bằng dạy văn, Trần Bảo Trung dạy tiếng Bắc Kinh, Trịnh Văn Hà dạy kỹ thuật
nông nghiệp...
Mọi người tự giác học tập, theo nhu cầu, khát vọng và sở trường của
mình. Nhóm các anh Tỵ, Đô, Tín, Mè, Túc, Lý, Mười Nhỏ... phấn đấu đạt mức phổ cập
bậc tiểu học. Các anh Vũ Ngọc Chung, Trần Khắc Du, Vương Tự Kiên, Nguyễn Văn
Hai... theo học toàn diện lên bậc tú tài. Anh Phạm Văn Bửu thì chỉ say mê học
toán. Lớp toán tự học theo sách giáo khoa của George Eve, Matignon, Lamireaud,
Bontaire, Wood Beiley, sau đó tự làm các đề thi tú tài ở các thành phố Lyon,
Marseille, Toulouse, Alger, Bordeaux bên Pháp. Thành thạo rồi thì tổ chức thi
và chấm cho nhau, tự phong bằng tú tài cho những người đỗ đạt. Anh Nguyễn Trí
Tuệ, trật tự viên làm nhiệm vụ giữ trật tự trong các buổi thi. Anh chế tạo một
chiếc đồng hồ bằng lon vải hộp, đục lỗ, khắc vạch, đổ nước đầy lúc ra đề thi, rồi
theo vạch nước rút mà tính thời gian thu bài.
Lớp kỹ thuật canh nông do kỹ sư Trịnh Văn Hà phụ trách học khá sôi nổi.
Học viên ngồi vây quanh thầy, say sưa nghe trình bày từng chuyên mục về kỹ thuật
trồng trọt, chăn nuôi, cách tổ chức một nông trang tập thể. Kỹ sư Lưu Văn Lê
trong một thời gian ngắn ở biệt lập cũng đóng góp cho lớp học những kinh nghiệm
thực tiễn của mình. Lớp học còn tổ chức thảo luận về “Chương trình khai thác Đồng
Tháp Mười” với những ý tưởng cải tạo vùng đất phì nhiêu này thành một vựa lúa của
Đông Nam Á. Nhiều người tự nguyện tham gia nhóm Thanh niên Đồng Tháp Mười và hẹn
ước với nhau, kháng chiến thắng lợi sẽ cùng nhau trở về cải tạo Đồng Tháp Mười
thành vựa lúa cho đất nước.
Kể chuyện là một sinh hoạt văn hóa bổ ích. Lê Hoàng Yến có biệt tài kể
chuyện trinh thám. Minh Tâm kể chuyện Nhà thờ Đức Bà Paris, Đinh Khắc Phong tự
kể về đời hoạt động cách mạng gian khổ của mình. Lý Tiên Vinh với biệt hiệu
Vinh “cát tó” nổi tiếng trong vai hề trên sân khấu Bản Chế, nay đem lại tiếng
cười lạc quan yêu đời cho khu biệt lập, đẩy những ngày tù khổ đau ngắn lại.
Chế độ biệt lập làm suy kiệt sức khỏe tù nhân rất nhanh. Thiếu dinh dưỡng
trầm trọng, thiếu khí trời và ánh sáng là căn nguyên của các loại bệnh mờ mắt,
xơ cứng cơ bắp, sưng chân răng, lở miệng, thiếu máu, ho lao, tê bại. Trong bức
thư gửi Giám đốc ngày 11-11- 1951, bác sĩ Đờ Rôdie (De Rozière) đã xác nhận: “Cứ
10 người tù ở biệt lập thì có 3 người tê bại. Củng trong 10 người ấy có một người
lao nặng, 7 người lao trung bình vì thiếu máu”.
Ông đã đề nghị cho tù nhân khu biệt lập được tăng giờ phơi nắng, tăng khẩu
phần ăn, có cá tươi và rau xanh mỗi tuần 3 lần, người ốm đau được ra nằm Nhà
Thương điều trị. Trước đó tù nhân khu biệt lập ốm phải nằm riêng ở xà lim Banh
II, bệnh nặng cũng không được về Sài Gòn chữa. Anh Lê Văn Đôi (C.11579) bị
phong giật nhưng không được điều trị, co giật 48 lần trong 24 giờ rồi trút hơi
thở cuối cùng. Các anh Nguyễn Văn Mười (C.12551), Nguyễn Văn Tình (Cas.1436),
Nguyễn Văn Hà (B.2322), Trần Chính Quyền (C. 12588), Vũ Đắc Bằng (C.1603), Trần
Văn Lục (C.11808), Nguyễn Văn Huệ, Rồi, Rinh cũng đều chết vì chế độ biệt lập,
tất cả đều chưa đến tuổi 30.
Vũ Đắc Bằng, tức Khắc Minh, án 11 năm khổ sai chết lúc 13 giờ 15 phút
ngày 29-3-1952 tại khu biệt lập. Cho đến những ngày cuối đời anh vẫn dịch sách,
làm thơ, dạy học. Nhiều vở kịch của anh đã được dàn dựng tại các buổi văn nghệ
trong tù. Nhiều bài thơ của anh được Nguyễn Sáng phổ nhạc. Các bạn tù dựng bia
mộ anh và khắc lên đó những vần thơ hay nhất trong bài Tình không biên giới của
anh mà hầu như không mấy ai không thuộc.
Vượt lên sự khủng bố đọa đày, tù nhân khu biệt lập sống có tổ chức và
thương nhau như ruột thịt. Tù ở biệt lập chỉ có chiếc quần lót đang mặc là được
xem như của riêng, còn tất cả đều góp lại dùng chung, từ thuốc men, áo quần, sách
vở, đồ tiếp tế của gia đình đến nắm rau anh em các sơ gửi cho. Ban chấp hành
liên đoàn tù nhân khu biệt lập vận động mọi người tích cực viết thư về nhà xin
đồ tiếp tế. Tùy theo nhu cầu chung và hoàn cảnh từng người mà có gợi ý nên xin
thứ gì, nhưng chủ yếu vẫn là thuốc bổ và thuốc bệnh. Anh Nguyễn Vãn Năng bị ho
lao nặng, đã được cứu sống bằng hàng trăm lọ Péniciline và Streptomicine từ tủ
thuốc của tù nhân. Anh Lê Trung Khá cũng bị ho lao nặng, được gia đình gửi cho
rất nhiều thuốc nhưng đều góp cả vào tủ thuốc dùng chung, nhiều người tù đã được
cứu sống bằng phần thuốc của anh. Riêng anh cũng được mọi người thương yêu săn
sóc tận tình.
Trong hoàn cảnh hết sức khắc nghiệt
như biệt lập, chỉ có tình thương yêu và biết tổ chức mới tồn tại được. Đó cũng
là mô hình một “xã hội cộng sản” mà thời ấy anh em đã hình dung và xây dựng.
Những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bọn thực
dân vẫn xem Việt Nam như thuộc địa cũ, coi tất cả những người kháng chiến là
phiến loạn. Chúng ngang nhiên mở tòa án quân sự, xét xử những người kháng chiến
với “tội danh” phiến loạn, để rồi giết họ bằng hàng loạt án tử hình hoặc giết dần
mòn bằng các án cấm cố, khổ sai trong các nhà tù khắc nghiệt.
Cho đến khi bị bại trận ở mặt trận Biên Giới (1950), thái độ của bọn thực
dân bắt đầu đổi khác. Hàng ngàn binh lính và sĩ quan Pháp bại trận bị bắt làm
tù binh, trong đó có cả quan tư, quan năm thực dân sừng sỏ như Lepage, Charton,
Beauíré Communal... Đã đến lúc bọn thực dân buộc phải thú nhận rằng chúng đang
đương đầu với một cuộc chiến tranh thật sự, buộc phải tính đến việc lập lại trại
tập trung tù chiến tranh và yêu cầu ta đối xử với tù binh Pháp theo Công ước quốc
tế.
Cao ủy Pháp ở Đông Dương đã quyết định thành lập Úy ban kiểm lựa (Commision
De Triage) tại các vùng chúng chiếm đóng để phân loại những người bị bắt trong
các trận càn quét thành tù binh PIM (Prisonies Interné Militaire) và tù chiến
tranh P.G (Prisonier de Guèrre). Những người bị bắt tại trận, bị bắt khi đang
chiến đấu hoặc có vũ khí thì được xếp ngay là tù binh (PIM). Cao ủy Pháp thông
qua bản “Chỉ thị về quy chế các tù binh” quy định các đôi tượng sau đây cùng được
coi là tù binh:
-
Những người
thuộc lực lượng dân quân kháng chiến, tham gia đắc lực hoặc có khả năng tham
gia kháng chiến.
-
Những người hoạt
động trong các tổ chức, đoàn thể có dính líu vào phong trào kháng chiến.
-
Những người có
dính líu hoặc khả nghi vào những hoạt động được coi là phiến loạn như tuyên
truyền, giao lưu với Việt Minh (điều 2).
Ngoài các đối tượng quy định trên, những người bị tình nghi hoặc tham
gia ít nhiều cho kháng chiến đều có thể coi là tù chiến tranh (P.G), Những phần
tử nguy hiểm phải giam riêng trong các trại đặc biệt (điều 12 và điều 28). Ủy
ban kiểm lựa căn cứ vào kết quả thẩm vấn và hồ sơ mà phân loại tù binh thành:
-
Phần tử nguy
hiểm loại D (Dangeureux) là những người hoạt động tích cực cho kháng chiến như
tuyên truyền, phá hoại, ám sát, quân báo, công an...
-
Phần tử nguy
hiểm loại DI (Dangeureux No - 1) là thủ trưởng các đơn vị.
-
Phần tử nguy
hiểm loại D2 là bộ đội (Điều 27).
Trong năm 1950, Cao ủy Pháp ở Đông Dương và Tư lệnh quân đội Pháp ở Đông
Dương còn ra nhiều văn bản hướng dẫn hoạt động của Ủy ban kiểm lựa và phân loại,
giam giữ tù binh, tù chiến tranh. Nhiều trại tù binh đã hình tthành
trong vùng thực dân Pháp chiếm đóng. Khi bị đánh mạnh ở Bắc Bộ, thực dân Pháp
chuyển một phần tù binh ở các trại phía bắc vào Nam Bộ. Bọn thực dân cũng nhanh
chóng nhận ra rằng Côn Đảo là nơi lý tưởng nhất để biệt giam những phần tử nguy
hiểm, không phải chỉ đối với tù án mà cả tù binh nữa.
Ngày 3-5-1951, chuyến tù binh đầu tiên thuộc các tỉnh đồng bằng và trung
du Bắc Bộ bị đày ra Côn Đảo. Đoàn tù binh cũng phải nếm trải đủ các thủ tục nhập
đảo như tù án, từ trận đòn phủ đầu đến “điệu múa phượng hoàng” mỗi khi vào trại.
Sau khi làm thủ tục, bọn Pháp chuyển cả 111 tù binh sang Banh II, giam ở Khám 6
và Khám 7, cạnh khu biệt lập. Buổi đầu, tù binh cũng bị đối xử chung một chế độ
như tù án: cơm gạo hẩm, cá khô mục và những công việc khổ sai nặng nhọc. Điều khác
nhau duy nhất lúc đó là có thêm tốp lính da đen canh gác ở trại và mỗi khi đi
làm khổ sai.
Ngay đêm đầu tiên đến Côn Đảo, Ban chấp hành Liên đoàn tù nhân đã gửi
thư thăm hỏi và yêu cầu đoàn tù binh thông báo tin tức trong nước, tình hình nội
bộ đoàn tù. Liên đoàn giữ mối liên lạc hàng ngày với đoàn tù binh, thông báo về
âm mưu của nhà tù, tình hình nội bộ khối tù, hệ thống tổ chức của Liên đoàn.
Sau khi nghiên cứu điều lệ của Liên đoàn tù nhân Côn Đảo, 2 khám tù bính đã làm
đơn tập thể, 100% tự nguyện tham gia tổ chức Liên đoàn, lấy tên là Liên khu Trần
Thành Ngọ. Anh Phạm Quý Tuyển (Thọ) đại diện Khám 6, anh Hoàng Bách (Nguyễn Văn
Nhã) đại diện Khám 7.
Nhân dịp này, Liên khu tù binh đã tặng Liên đoàn tù nhân Côn Đảo một món
quà đặc biệt: Bức hình Chủ tịch Hồ Chí Minh do họa sĩ Trịnh Vượng phác thảo, Trần
Quyết thêu bằng tóc mình và những sợi chỉ màu do anh em góp lại. Sau hơn 2 tuần
lễ đến đảo, đoàn tù binh đã tham gia lễ kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh
do Liên đoàn tù nhân chỉ đạo. Ngày hôm sau, đoàn tù binh chịu chung trận khủng
bố trả thù như mưa roi” trên toàn đảo của bọn chúa ngục. Hai khám tù binh còn
phải chịu phạt theo chế độ xà lim 3 tháng liền.
Ngày 6-10-1951, Đoàn tù binh thứ 2, gồm 135 người, ở Bắc Bộ bị đày ra
Côn Đảo. Sau khi làm thủ tục nhập đảo tại Banh I, họ bị chuyển về Banh II, ở
các Khám 1, 2, 3. Đoàn tù binh thứ 2 cũng làm đơn tập thể xin gia nhập Liên
đoàn. Anh Phan Cơ làm đại diện chung. Hai đoàn tù binh thống nhất với nhau hình
thành Liên đoàn tù binh, đổi tên là Liên khu Trần Đại Nghĩa. Đảng ủy nhà tù Côn
Đảo đã chỉ đạo công tác củ tập đảng viên ở khối tù binh, chuẩn bị cho đại hội lần
thứ 3 của Đảng bộ. Khối tù binh đã có những đóng góp tích cực trong việc xác định
phương châm và phương pháp hoạt động của Đảng bộ nhiệm kỳ này.
Giám đốc Côn Đảo sử dụng lực lượng tù binh làm khố sai trong việc tu bổ
“con đường đồn điền” từ Sở Rẫy An Hải qua Sở Chuồng Bò và rải đá đoạn đường từ
Chuồng Bò lên mỏ đá. Đầu năm 1952, Giátty đưa một kíp tù binh khai đá, một kíp
mở con đường ra Bến Đầm.
Lực lượng tù binh thống nhất thành một khối, giữ tư thế của một đội quân
chính quy có tổ chức chặt chẽ. Ngày đầu tiên đi làm khổ sai, đoàn tù binh tập hợp
hàng 4, đi đều theo hiệu lệnh của đại diện. Lúc trở về trại tù, họ cũng đi theo
đội ngũ, khi đến thị trấn là đi đều cho đến khi vào trại, vốn là những chiến sĩ
có tổ chức và kỷ luật, họ giữ được nền nếp quân sự ngay cả ở trong tù. Đầu trần,
chân đất, cuốc xẻng trên vai, đoàn tù binh đi đều tăm tắp trên đường phố Côn Đảo
và hát vang những bài ca cách mạng, dù trưa ngày nắng hay ngày mưa. Nhiều người
bị đá răm đâm rách chân, toé máu cũng không rời hàng ngũ. Gác ngục, công chức
và vợ con họ ra xem rất đông. Họ nhận xét rằng tù binh Việt Minh đi đều bước
hay hơn lính Âu-Phi. Một số người lén tặng quà cho tù binh, khi thì vài bó rau,
khi thì vài gói thuốc lá. Anh em tù binh tặng lại họ những đồ lưu niệm bằng gỗ
găng, vỏ ốc hoặc những chiếc khăn tự thêu.
Tháng 7-1952, đoàn tù binh thứ 3 ở Bắc Bộ bị đày ra Côn Đảo, đưa thẳng về
Banh III, ở Khám 1 và Khám 2. Hoàng Minh Chính làm đại diện Khám 1. Lâm Văn Độ
đại diện Khám 2. Các anh: Nguyễn Văn Nghĩa, Vũ Duy Tiêu, Nguyễn Văn Phúng, Trần
Dừa giúp Đảng ủy củ tập đảng viên trong đoàn tù binh thứ 3. Nhà tù sử dụng ngay
số tù binh mới ra vào việc sửa chữa lại
Banh III. Tháng
10-1952, thực dân Pháp đày ra Côn Đảo 2 chuyến tù binh nữa, gồm 160 người ở cả
ba miền, Bắc, Trung, Nam, đưa thẳng về Banh III. Sau khi sửa xong Banh III,
chúng chuyển dần số tù binh ở Banh II về đó, thành lập trại tù binh. Theo báo
cáo của Giám đốc Côn Đảo, đến tháng 12-1952, đã có 548 tù binh bị đày ra Côn Đảo1.
Trong lúc cuộc đấu tranh chống Liên xã diễn ra hết sức gay gắt, Đảng ủy
đã tích cực chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ lần thứ 3. Anh Lê Văn Hiến (tức Văn, tức
Hiến, tức Ý), nguyên Tỉnh ủy viên, Trưởng ban Chính trị Tỉnh đội Hải Dương, đã
báo cáo với Đảng ủy nội dung cơ bản của Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng
(2-1951) và tham gia soạn thảo các nghị quyết của Đại hội Đảng bộ. Nhờ nắm vững
tinh thần Đại hội lần thứ II của Đảng và biết tiếp thu những kinh nghiệm lãnh đạo
của Đảng bộ trong 2 năm trước, anh Văn đã có đóng góp tích cực vào việc xác định
phương hướng đấu tranh trong giai đoạn mới. Dự thảo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
đã xác định rõ các mục tiêu đấu tranh trong tù:
-
Cải thiện đời
sống vật chất.
-
Nâng cao đời
sông tinh thần.
-
Xây dựng lực
lượng dự bị cho kháng chiến và tổ chức giải thoát khi có điều kiện.
Để thực hiện các mục tiêu đó, cần sử dụng và kết hợp nhiều phương pháp
như kiến nghị, dư luận, trực diện yêu sách, đình công bộ phận hoặc tổng đình
công khi cần thiết. Yêu sách đưa ra phải thiết thực, tranh thủ giành thắng lợi
từng bước, hết sức hạn chế đấu tranh tuyệt thực để tránh hao tổn sức khỏe và lực
lượng. Điều kiện quyết định thắng lợi trong tranh đấu là phải thống nhất lực lượng,
tổ chức chặt chẽ, đoàn kết thành một khối và giữ được kỷ luật nghiêm minh.
Kỷ luật tự giác là một nội dung được nhấn mạnh trong nghị quyết Đại hội.
Giáo dục, giác ngộ, thuyết phục, đoàn kết và thương yêu vừa là phương châm lãnh
đạo, vừa là động lực trong các hoạt động của Đảng bộ nhiệm kỳ này. Một số hình
thức kỷ luật có tính chất nhục hình đều bãi bỏ.
Nghị quyết Đại hội xác định, vào tù là tiếp tục cuộc kháng chiến trên một
mặt trận mới, vì thế nhiệm vụ của Đảng bộ là phải tổ chức, giáo dục, rèn luyện
đội ngũ cán bộ, đảng viên, rèn luyện lực lượng cho kháng chiến, đồng thời phải
góp phần với kháng chiến, tiến công dịch bằng các hình thức phá hoại kinh tế địch,
chia rẽ hàng ngũ địch, chuẩn bị lực lượng để khi có thời cơ sẽ tự giải phóng
cho mình. Nghị quyết còn đề cập đến nhiệm vụ của Đảng bộ trong việc đoàn kết và
lãnh đạo bộ phận tù nhân là người thiểu số, người gốc Cao Miên, Lào, Trung Quốc.
Vấn đề xây dựng kinh tế tập trung, phục vụ các cuộc tranh đấu và các hoạt động
của Đảng bộ cũng được đề cập một cách cụ thể.
Đại hội lần này có số lượng đảng viên đông hơn trước, với sự đóng góp
tích cực của gần trăm đảng viên thuộc khối tù binh mới củ tập và phân chi bộ
Khám tử hình mới thành lập do Lý Hải Châu làm Bí thư. Một số đảng viên của phân
chi bộ Khám tử hình đã hy sinh anh dũng trên trường bắn ngay sau ngày Đại hội
như các anh Lê Như Thu tức Anh (G.236), Nguyễn Văn Vầu (G.221), Nguyễn Văn Cơ tức
Huỳnh (G.226), v.v...
Vào những ngày cuối năm 1951, đầu năm 1952 Đại hội đại biểu lần thứ 3 Đảng
bộ Côn Đảo được tổ chức. Ở khu biệt lập, việc nhóm họp khá thuận lợi. Khu vực
tù binh, các đại biểu báo ốm nghỉ lao động khổ sai để thảo luận tại khám. Ở các
kíp khổ sai thì tùy theo điều kiện từng nơi mà bố trí họp. Mỗi nhóm đại diện đều
có một người phụ trách, nhận tài liệu và hướng dẫn thảo luận. Ngày đầu các đại
biểu nghe và thảo luận phần I nghị quyết, đánh giá tình hình hoạt động trong
hơn một năm qua của Đảng bộ; ngày hôm sau tiếp tục nghe và thảo luận phần II về
phương hướng hoạt động của Đảng bộ. Các ý kiến đóng góp được chuyển về bộ phận
tổng hợp qua đường dây liên lạc.
Đại hội lần thứ 3 nhấn mạnh yêu cầu đấu tranh cho quyền sống hàng ngày,
chống khủng bố đánh dập, đòi nhà tù thực hiện đúng theo quy chế, đối xử với tù
binh phải theo công ước quốc tế. Đại hội chủ trương tiếp tục phân hóa bọn tù
gian Liên xã, cô lập và vạch mặt những tên đầu sỏ làm tay sai đắc lực cho Pháp;
tranh thủ số quần chúng Liên xã, hạn chế những hoạt động khiêu khích của chúng,
tiến tới lập lại tổ chức Liên đoàn ở các khu bị chúng chiếm giữ. Đại hội nhất
trí với các nhiệm vụ mà nghị quyết Đại hội đã nêu, trước hết, hướng hoạt động của
khối tù nhân vào các cuộc đấu tranh hàng ngày, đồng thời phải bí mật chuẩn bị
cho cuộc giải thoát lớn, quy mô toàn đảo khi có điều kiện.
Đại hội bầu ra Ban chấp hành Đảo ủy, thống nhất giữa tù binh và tù án. Đồng
chí Lê Văn Hiến (tức Văn, thường gọi là Văn Hiến) là Bí thư với bí danh là Vũ
Chính. Đồng chí Lê Mai là Thường vụ Đảo ủy, kiêm Chủ tịch Liên đoàn tù nhân.
Giúp việc cho Đảo ủy có Ban tuyên huấn, Ban kinh tế - xã hội, Ban đảng vụ, Ban
tuyên truyền văn nghệ và Ban thi đua. Mỗi banh có một chi bộ (5 chi ủy viên), mỗi
khám là một phân chi (3 phán chi ủy viên).
Đại hội quyết định đổi tên Liên đoàn tù nhân thành Liên đoàn tù nhân
kháng chiến Côn Đảo. Dưới cấp toàn đảo, mỗi banh có Ban chấp hành liên khu, mỗi
khám đều có Ban chấp hành khu. Ban chấp hành khu còn tổ chức tù nhân trong khám
thành từng toán 10 người theo mâm ăn, có toán trưởng phụ trách; trong toán còn
có tổ 3 người (tổ tâm giao), chặt chẽ như một đạo quân chiến đấu.
Thực hiện nhất nguyên chế trong lãnh đạo, các cấp ủy đảng đều cử người
tham gia và trực tiếp lãnh đạo Liên đoàn tù nhân kháng chiến ở các cấp. Ngoài
những người được giao chuyên trách một công tác của Đảng bộ, các đảng viên còn
lại đều đảm nhiệm một nhiệm vụ của Liên đoàn. Liên đoàn vừa là một tổ chức quần
chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, vừa giống như một chính quyền của tù nhân
kháng chiến. Mỗi đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là một thành viên của
Liên đoàn với đầy đủ quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ.
Đại hội lần thứ 3 kết hợp được kinh nghiệm của lực lượng tù án trong nhiều
năm xây dựng phong trào với trình độ tổ chức chặt chẽ của lực lượng tù binh và
những chủ trương mới mà các đoàn tù binh vừa đem ra; kết hợp việc củng cố tổ chức
Đảng với kiện toàn tổ chức Liên đoàn. Đại hội đề ra được những chủ trương và biện
pháp thực hiện sự lãnh đạo toàn diện và trực tiếp của Đảng trên mọi lĩnh vực hoạt
động của tù nhân kháng chiến Côn Đảo.
Cuối tháng 2-1952, 75 tù nhân án khổ sai từ 20 trở lên ở nhà lao Hỏa Lò
(Hà Nội) bị đưa vào Chí Hòa rồi đưa ra Côn Đảo, giam riêng ở Khám 6 Banh II,
phiên chế thành một ê kíp Chỉ Tồn, làm các việc khổ sai và dọn tàu. Khám tù này
ra nhập Liên đoàn tù nhân, mang tên khu Hoàng Sâm. Anh Lương Quang Thăng làm Chủ
tịch khu kiêm Đại diện. Khám Hoàng Sâm có chi bộ từ nhà lao Hỏa Lò, gồm 11 đảng
viên do Hoàng Nam tức Phan Xuân Tiềm làm bí thư; Phạm Gia Thọ và Lương Quang
Thăng trong chi ủy. Đảo ủy công nhận chi bộ Hoàng Sâm là một phân chi bộ trong
Banh II.
Những biến động trên chiến trường trong những năm 1951-1952 đã để lại
nhiều dấu ấn trong chính sách trị tù của thực dân Pháp tại Côn Đảo. Mùa hè năm
1951, ta mở chiến dịch Quang Trung (tức chiến dịch Hà Nam Ninh), tên quan hai
Bernard de Lattre bị bắn chết tại trận. Tháng giêng 1952, trung úy Leclère, con
trai đại tướng Leclère bị bắt sống trên mặt trận Hòa Bình. Tướng Lattre de
Tassigny Tổng chỉ huy kiêm Cao ủy Pháp ở Đông Dương về Pháp và từ trần. Chính
phủ Pháp vẫn tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến tranh. Ngày 17- 1- 1952, Thủ tướng
Pháp Edgar Faure tuyên bố trước Quốc hội Pháp: “Chiến tranh vẫn được thúc đẩy mạnh,
mặc dù De Lattre qua đời’\
Để trả thù cho những trận thua đau và cũng là để tỏ rõ dã tâm thúc đẩy
chiến tranh, thực dân Pháp đã xử bắn hàng loạt các chiến sĩ cách mạng. Riêng
năm 1952, chúng đã bắn 35 người tại Côn Đảo, chiếm 56,4% số người bị xử bắn
trong suốt 9 năm (1946-1954) tại đây. Ngay trong tháng giêng 1952, chúng đã xử
bắn 3 đợt, tổng số 16 người, trong đó có thiếu nữ Võ Thị Sáu.
Võ Thị Sáu sinh năm 1933, là đội viên Đội Công an xung phong huyện Đất Đỏ,
tỉnh Bà Rịa. Gia nhập công an xung phong từ năm 13 tuổi, chị đã tham gia nhiều
trận đánh, đặc biệt là các trận phá cuộc họp do tỉnh trưởng Lê Thành Tường tể
chức tại Đất Đỏ năm 1948, nhân dịp Quốc khánh Pháp (14-7-1948); trận diệt tên
cai tổng Tòng (11-1949). Tháng 2-1950, Võ Thị Sáu bị bắt trong trận diệt hai
tên ác ôn Cả Suốt, Cả Đay và bị kết án tử hình. Bản án tử hình người thiếu nữ
chưa đủ tuổi thành niên này đã làm chấn động dư luận lúc đó. Thực dân Pháp giam
Võ Thị Sáu ở Chí Hòa gần 2 năm. Cho đến đợt khủng bố trả thù này, chúng mới y
án và đưa chị ra Côn Đảo xử bắn.
4 giờ sáng 21-1-1952, bọn Pháp đưa hơn 40 tù nhân xuống tàu ra Côn Đảo,
trong đó có Võ Thị Sáu và 3 tù án tử hình. Tàu ghé Vũng Tàu đón cố đạo và chánh
án ra dự cuộc hành quyết. Ngày 22-1-1952 tàu đến Côn Đảo. Chúng giam riêng Võ
Thị Sáu tại xà lim của Sở Cò, canh gác nghiêm ngặt. Được tin thực dân Pháp đưa
người thiếu nữ Võ Thị Sáu ra đảo xử tử, Đảo ủy và Liên đoàn phân công ngay một
số tù nhân làm bồi ở Sở Cò và văn phòng Giám đốc bí mật tiếp xúc, động viên chị
giữ vững tinh thần trước phút hành hình. Ngay buổi chiều ấy, bộ phận tù áo trắng
đã chuyển đến chị Sáu lời chào của Đảo ủy và Ban chấp hành Liên đoàn tù nhân
Côn Đảo. Các anh cũng tìm hiểu được lý lịch và thành tích chiến đấu của chị Sáu
đế làm cơ sở tố cáo kẻ thù và giáo dục truyền thống cho tù nhân.
Mờ sáng ngày hôm sau, 23-1-1952, thực dân Pháp đưa Võ Thị Sáu đi bắn. Tại
văn phòng Giám thị trưởng, chị từ chối rửa tội.
Trời chưa sáng hẳn. Gió chướng rít từng hồi. Người con gái bé nhỏ bình
thản đi giữa những tên đao phủ ra nơi hành hình. Những người tù ở các khám đều
đứng dậy hất vang vài Chiến sĩ ca đưa tiễn chị.
Phút cuối cùng, chị Sáu từ chối bịt mắt. Chị cất giọng hát bài Tiến quân
ca và hô to các khẩu hiệu:
-
Đảng cộng sản
Việt Nam muôn năm!
Cùng trong buổi sáng đó, bọn Pháp bắn thêm một tử tù nữa là anh Hồ Văn
Năm (Năm Đen, số tù G.248). Mộ anh chôn ngay cạnh mộ chị Sáu.
Trưa hôm ấy, tù nhân ở nhiều khám đã bỏ ăn và viết đơn tố cáo thực dân
Pháp hành hình Võ Thị Sáu. Một người lính Lê dương già, gốc Đức đã bỏ ăn ba
ngày. Trong mấy ngày chờ tàu về Sài Gòn, người lính Lê dương đã nói với những
tù nhân làm bồi rằng anh ta hoàn toàn bị ám ảnh bởi đôi mắt bình thản và thái độ
trầm tĩnh đến lạ lùng của chị Sáu. Sau đó, anh ta xin đổi về Pháp, bỏ hẳn nghề
bắn thuê.
Các kíp tù đi làm khổ sai ở ngoài đã nhặt đá xếp quanh ngôi mộ chị. Tù
nhân Sở thợ hồ dành từng nhúm xi măng, gom lại đúc bia mộ chị. Được tin ấy,
chúa đảo Giátty ra tận nơi, đập nát tấm bia và cho lính cào bằng ngôi mộ. Ngày
hôm sau lại có một tấm bia mới đặt lên, đống đá được xếp cao hơn trước. Bọn gác
ngục đã đánh nát lưng cả kíp thợ hồ để tìm người đúc bia nhưng không sao tìm được.
Trận ấy, anh Bảy “gà cồ” đã chìa lưng đỡ đòn cho những bạn tù yếu đuối. Tấm
lưng anh nát tướp, ứa máu, không còn chỗ nào lành lặn.
Bác sĩ Huy làm nhiệm vụ khám nghiệm tử thi đã chứng kiên từ đầu đến cuối
cái chết anh hùng của Võ Thị Sáu. Ông luôn miệng trầm trồ: “Thật là một người
gang thép, một người anh hùng thật sự bằng xương bằng thịt mà ông tận mắt chứng
kiến”. Ông dành mối thiện cảm ngày một nhiều hơn cho những người tù kháng chiến
và trở thành liên lạc cho tù nhân. Nhiều tài liệu như Duy vật biện chứng, Bàn về
mâu thuẫn do anh Bảy Vinh biên soạn, cuốn Tuyên ngôn dộc lập của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do anh em khu biệt lập Banh
II chép lại đã được chuyển qua bác sĩ Huy đến đầu mối liên lạc tại Nhà Thương.
Nguyễn Văn Danh, thư ký văn phòng Giám thị trưởng đã chứng kiến và rất
khâm phục thái độ can đảm của Võ Thị Sáu. Danh nhiều lần trầm ngâm bày tỏ lòng
khâm phục chị Sáu trước các bạn tù. Danh vốn là tù kháng chiến, bị Liên xã chia
rẽ và lôi kéo. Sau nhiều lần, Danh trung lập thái độ, không làm hại gì cho Liên
đoàn.
Giống như Nguyễn Hoài Cư trước đây, Võ Thị Sáu đã làm cho cái chết trở
thành bất tử. Dũng khí của chị trước phút hy sinh đã tô thắm thêm truyền thống
bất khuất của Đảng bộ và toàn thể tù nhân kháng chiến Côn Đảo.
Bằng mọi cách để vượt ngục là tư tưởng thường trực trong những người tù
kháng chiến. Các chiến sĩ trong lực lượng võ trang khi sa vào tay giặc đã không
ngần ngại khi tính đến những phương án bạo động giải thoát mà họ vốn có sở trường.
Đoàn tù binh khi còn ở căng Đoạn Xá (Hải Phòng) đã có phương án đục tường,
vượt rào nhưng chưa thực hiện được. Xuống tàu ra Côn Đảo, anh em lại tổ chức lực
lượng tính cướp chiếc tàu L’Espérant rồi đổ bộ vào vùng tự do nhưng không
thành. Đến Côn Đảo, đi làm khổ sai một thời gian, họ đã tự tính một phương án
võ trang giải thoát. Khối tù án đã giúp Đảo ủy tống kết những kinh nghiệm vượt
đảo, kể cả thành công và thất bại và các loại phương tiện vượt ngục mà tù nhân
đã sử dụng.
Phương án võ trang giải thoát được đặt ra sau khi nghiên cứu tất cả các
phương tiện vượt ngục, các loại vật liệu trên đảo, từ vạt mây trên rừng đến tấm
ván trên vách nhà xưởng; tính toán việc bố trí lực lượng và dự toán những khả
năng thời cơ. Nếu thời cơ hoàn toàn thuận lợi, có thế võ trang cướp đảo, tổ chức
vượt ngục bằng tất cả các phương tiện như thuyền nan, thuyền ván, thuyền khung
mây bọc vải, sà lan, ca nô hoặc chiếm tàu của địch. Trong điều kiện hạn chế
hơn, có thể giải thoát từng bộ phận lớn hay bộ phận nhỏ mà khả năng cho phép.
Khác với các cuộc vượt ngục lớn hay nhỏ, toàn bộ kế hoạch giải thoát (dù
là một bộ phận nhỏ) đều do thường vụ Đảo ủy trực tiếp chỉ đạo. Mục đích đặt ra
là tổ chức giải phóng một lực lượng cách mạng chứ không mang ý nghĩa giải thoát
sinh mạng cho cá nhân. Các cuộc vượt ngục lẻ thì tùy theo điều kiện của từng
nhóm, nhưng kế hoạch giải thoát từng bộ phận thì cá nhân phải phục tùng tập thể.
Đầu năm 1952, nhà tù đưa một kíp tù binh xẻ gỗ ở phía Cỏ Ống và một bộ
phận tăng cường để chuyển ván đã xẻ về nhà lao. Kíp thợ xẻ lúc đầu có 10 người,
do gácdang Lơben (Lebel) gốc Ấn Độ phụ trách, có 3 lính Âu-Phi đi cùng. Thời
gian sau, kíp thợ xẻ tăng lên gần ba chục người. Anh Lê Phong tức Lê Đức Lâm
làm đại diện. Kíp thợ xẻ
được Đảo ủy giao chuẩn bị phương tiện cho một chuyến vượt
biển. Người đi do Đảo ủy bố trí. Các anh Phan Du, Trần Văn Xược, Đỗ Quang Hiệp,
Thê đã thay nhau vào tổ đi kiếm rau cải thiện để luồn rừng, chặt tre, vót nan
đan thuyền. Tre ở cỏ Ông khá nhiều. Thuyền nan tre là phương tiện khá quen thuộc
của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Công việc đang tiến triển thuận lợi thì đột nhiên nhà tù rút toàn bộ kíp
thợ xẻ điều về Bản Chế xẻ gỗ thay cho máy cưa. Mấy chục súc gỗ do kíp kéo cây ở
Bảy Cạnh đưa về rắn quá, cưa đĩa ở Bản Chế không nhá nổi. Xẻ xong đợt gỗ ở Bản
Chế thì nan tre trên rừng đã mục. Phương án thuyền nan tre bỏ dở.
Lần thứ 2, kíp thợ xẻ bị điều đi xẻ gỗ trên rừng phía cầu Ma Thiên Lãnh.
Nhận được lệnh tiếp tục chuẩn bị vượt ngục, kíp thợ xẻ quyết định phương án đi
thuyền ván vì ở Ma Thiên Lãnh rất hiếm tre. Nhờ làm binh vận tốt, kíp thợ xẻ được
bổ sung thêm người. Một bộ phận dựng lán xẻ ở phía đầu Mom (mũi Cá Mập). Anh em
đã đào tạo thêm nhiều tay thợ xẻ, mỗi ngày vài người luồn sâu vào trong núi hạ
gỗ búng (một loại gỗ nổi, có nhiều ở Côn Đảo) xẻ ván giấu đi, chuẩn bị đóng
thuyền. Bọn lính Âu-Phi khá dễ dãi. Chúng chỉ cần đếm đủ đầu người lúc đi, lúc
về, còn công việc thì để cho đại diện ta điều khiển. Anh em sở Bản Chế đã cung
cấp đai thùng, đục, giũa để làm thêm cưa.
Đáng ngại là bọn Rờsẹc. Chúng rất tinh thông và hay sục sạo. Nơi nào có
gỗ búng, nơi nào có tre mây, chỗ nào đóng được thuyền bè, bãi nào thường hạ thủy
là chúng đều biết hết. Nhóm xẻ ván đóng thuyền phải ngụy trang từng gốc cây vừa
hạ, chôn giấu hết lá cành, gỗ xẻ xong giấu biệt làm nhiều nơi, nhưng bọn Rờsẹc
đã phát hiện kíp đầu Mom đang xẻ ván đóng thuyền với đầy đủ tang chứng. 8 tù
binh trong kíp xẻ ở đầu Mom bị bắt về tra khảo để tìm ra manh mối tổ chức vượt
ngục. Kíp xẻ ở Ma Thiên Lãnh được tin cũng phải thủ tiêu toàn bộ số ván đã giấu
đủ để đóng 2 chiếc thuyền. Ai cũng tiếc đứt ruột.
Được Đảo ủy chỉ đạo, các anh Trần Văn Xược, Đỗ Quang Hiệp, Phan Lượng,
Thép, Qua (tức Mậu) đứng ra nhận hết để khỏi lộ phương án giải thoát của Đảo ủy.
Cả 5 anh đều phải trải qua đủ mọi cực hình nhưng không ai hé răng khai gì,
ngoài việc nhận chủ mưu vượt ngục. Anh Qua (Mậu), quê ở Hoành Bồ, tỉnh Quảng
Yên (nay thuộc Quảng Ninh) bị đánh bầm dập cả người, máu chảy ròng ròng từ đầu
xuống mặt vẫn không nao núng. Anh không trả lời những câu hỏi của tên cò như tổ
chức có những ai? Cưa, giũa lấy ở đâu?..., mà quay lại hỏi hắn: “Các ông còn
cách đối xử nào dã man hơn nữa không”.
Khí phách can trường của anh làm bọn chúa ngục phải kiêng nể, lau máu mặt
cho anh và thôi không đánh nữa. Chúng kết thúc hồ sơ 5 người.
Sau khi tu bổ xong “con đường đồn điền” qua An Hải và rải đá đoạn đường
700 mét lên Chuồng Bò, Giátty đưa lực lượng tù binh mở con đường ra Bến Đầm. Hắn
trù tính sẽ nối Côn Đảo với vịnh bến Đầm trước mùa gió chướng. Trong các báo
cáo gửi về Sài Gòn, Giátty cho rằng công việc mở con đường này đang trở nên cấp
thiết để cung cấp thực phẩm cho Côn Đảo. Bến Đầm là vịnh duy nhất mà tàu bè ra
vào được trong mùa gió chướng. Trong tương lai, y sẽ kéo dài con đường này vòng
qua phía tây của đảo, nối liền với nhánh đường phía bắc, từ thị trấn qua đèo
ông Đụng. Con đường này sẽ giúp chúng kiểm soát được toàn bộ phía tây hòn đảo,
nơi xuất phát phần lớn các cuộc vượt ngục.
Cuối tháng 5-1952, địch đưa một kíp tù binh hơn trăm người ra mở đoạn đường
từ mũi Cá Mập ra Bến Đầm. Chúng cho tù nhân dựng lán ở trong một thung lũng nhỏ.
Kíp tù binh thứ hai, khoảng 100 người rải đá đoạn đường từ Sở Đá ra mũi Cá Mập.
Kíp tù này sáng có ô tô đưa đi, tối xe đưa về banh ngủ. số tù binh còn lại làm ở
công trường đá. Kíp thợ xẻ tiếp tục xẻ gỗ về đóng đồ cho bọn thống trị. Một kíp
khác sửa Banh III.
Tình thế đã xuất hiện thời cơ cho một cuộc giải thoát. Các Đảo ủy viên
trong khối tù binh đã phác thảo một phương án võ trang cướp đảo, đưa toàn bộ tù
nhân trở về. Theo phương án, bộ phận ở Đầm sẽ tổ chức làm thuyền và lực lượng
xung kích phát động cuộc khởi nghĩa, bắt gọn trung đội lính Âu-Phi ở đó. Kíp rải
đá ở đầu mũi Cá Mập đồng thời hưởng ứng. Sau đó tất cả cải trang thành đội lính
rồi lên ô tô về đảo, bất ngờ đánh chiếm trại lính, dinh chúa đảo, đài vô tuyến
điện ở cầu Tàu. Kíp làm đá (cách thị trấn chưa đầy lkm) sẽ vận động theo lệnh
cho các khu đồng loạt nổi dậy cướp đảo.
Ba mục tiêu quan trọng nhất là trại lính, dinh Giám đốc và trạm vô tuyến
điện ở Cầu Tàu được tính toán kỹ và xây dựng lực lượng nội ứng tại chỗ. Tốp tù
binh lao công ở trại lính hàng ngày (gần chục người) do các anh Lê Bá Linh,
Nguyễn Ngọc Điệt và Trương Đăng Dũng phụ trách có nhiệm vụ cướp vũ khí và đánh
chiếm trại lính từ bên trong đã điều tra nắm chắc quân số, trang bị và bố phòng
của địch.
Mục tiêu dinh Giám đốc và trạm vô tuyến điện Cầu Tàu do lực lượng tự vệ
bí mật của tù án làm nội ứng. Đội tự vệ của tù áo trắng phần lớn là những người
làm bồi bếp có một số chiến sĩ Cô Tô tham gia sẽ đánh chiếm dinh Giám đốc, bắt
gácdang. Tù áo trắng là lực lượng am hiểu hơn cả quy luật hoạt động và đặc điểm
của mỗi tên gác ngục, kể cả đường ngang ngõ tắt của chúng.
Đội xung kích thứ 2 của tù án làm nhiệm vụ đánh chiếm trạm vô tuyến điện
đã được hình thành trong kíp làm cỏ về (trồng hoa, dọn vệ sinh) ở Cầu Tàu. Đảo ủy
chỉ định Hoàng Xuân Tuế, chiến sĩ công an Hà Nội, một đảng viên trung kiên được
kết nạp tại Côn Đảo chỉ huy. Mạng lưới tù áo trắng đã bố trí cho Tuế từ kíp Chỉ
Tồn về Cầu Tàu để nhận nhiệm vụ mới.
Đội xung kích thứ 3 của tù án là khu Hoàng Sâm, chuyên đi dọn tàu. Kíp
Hoàng Sâm có nhiệm vụ chiếm tàu chở hàng làm phương tiện vượt đảo. Đoàn Hoàng
Sâm có 75 tù án ở Hỏa Lò, đến Côn Đảo vào đầu tháng 5 năm 1952, được bổ sung
thêm 18 tù nhân ở Trung Bộ mới ra, tổng số 93 người. Phạm Gia Thọ, Phó bí thư
phân chi bộ Hoàng Sâm phụ trách xây dựng lực lượng đã chọn được hơn 30 người
hăng hái, trung kiên lập ra một trung đội tự vệ, lấy tên là “đội hành động”
(trong giao dịch thì gọi là “đội trật tự” để giữ bí mật). Nguyễn Phạm Toán tức
Nguyễn Thanh Sơn là trung đội trưởng, Nguyễn Văn Phòng là trung đội phó.
Sau khi trinh sát nắm tình hình, tiếp cận mục tiêu, kế hoạch chiếm tàu
hàng được vạch ra cụ thể. Tiểu đội một sẽ mở màn trận đánh chiếm buồng chỉ huy,
đài vô tuyến trên tàu, bắt thuyền trưởng, thuyền phó, chiếm lĩnh độ cao quan
sát và chi viện cho 2 tiểu đội còn lại. Tiểu đội 2 sẽ chiếm buồng lái, bắt lái
chính, lái phụ, thủy thủ và chi viện cho tiểu đội 3. Tiểu đội 3 bắt gácdang, thầy
chú, thủy thủ trên boong và thợ máy dưới hầm tàu.
Mỗi sở tù khổ sai khác, kể cả khu biệt lập, đều có tổ chức lực lượng tự
vệ bí mật. Nhiệm vụ của mỗi khu là bắt gácdang, thầy chú, lính gác trong khu vực
mình khi có hiệu lệnh, sau đó sẽ theo sự phân công của Đảo ủy. Anh Tùng Lam,
Phó bí thư Đảo ủy chỉ đạo việc bố trí lực lượng quân sự ở khối tù án. Anh Trần
Nam, Đảo ủy viên đặc trách ngoại giới vận, trực tiếp chỉ huy mũi xung kích của
tù áo trắng đánh vào dinh Giám đốc và bắt gácdang, thầy chú. Anh Vũ Ngọc Toàn,
Chủ tịch Liên đoàn tù nhân Liên khu Võ Nguyên Giáp (Banh I), chỉ huy mũi xung
kích của sở Chỉ Tồn đánh chiếm đài vô tuyến điện và chiếm tàu hàng.
Trong tương quan lực lượng lúc đó, việc võ trang chiếm đảo không phải là
chuyện khó. Báo cáo năm 1952 của Giám đốc Giátty (số 2270- P, ngày 5-1-1953)
cho biết, đến tháng 12-1952, Côn Đảo chỉ có 104 lính Âu - Phi, 10 sĩ quan và thủy
thủ Pháp, 47 gácdang người Âu. Nếu kể thêm mấy chục thầy chú và công chức người
Việt thì lực lượng chiến đấu của chúng cũng chỉ có trên 200 tên. Bọn này lại thạo
dùng roi mây, báng súng, còng xiềng hơn là tác chiến. Cùng thời điểm đó, Côn Đảo
có 548 tù binh và 1.739 tù án. Quá nửa số tù án đó là những chiến sĩ trong lực
lượng võ trang (công an xung phong, biệt động, tự vệ thành, Vệ quốc đoàn, bộ đội
địa phương...). Địch có vũ khí trong tay, còn tù nhân thì có lòng căm thù, có
khát vọng được giải phóng và nhiều mưu mẹo.
Toàn đảo lao vào chuẩn bị cho phương án võ trang giải thoát một cách hết
sức khẩn trương và bí mật. Đi làm khổ sai, các lực lượng đều bám sát mục tiêu,
đối tượng, nắm chắc mọi tình huống. Giờ nghỉ, anh em tập võ thuật, tập chiến
thuật tay không bắt địch, tập vượt rào, vượt tường dưới các hình thức thể dục,
thể thao như kéo co, đánh vật, nhảy cao, nhảy xa, chồng người vượt xà, tập trói
lính, tập ném hỏa mù sao cho trúng mắt đối phương. Các chiến sĩ trong đội xung
kích đều tự trang bị dây trói chắc chắn thay cho giải rút quần. Chiến thuật chủ
đạo là tay không bắt địch, tuyệt đối tránh đổ máu.
Tù nhân sở Bản Chế rèn được trên trăm mũi mác xung kích trang bị cho bộ
phận ở Đầm. Kíp làm đá lấy được gần hai chục kíp mìn đế khi cần sử dụng. Ban tạo
tác của Đảo ủy đã chế tạo được hàng trăm gói “lựu đạn” hỏa mù bằng tro bếp trộn
tiêu và ớt bột; tạo tác được hàng chục thùng sắt tây để đựng nước ngọt, làm
phao; hàng chục hộp sơn, hàng trăm ký nhựa đường cùng các loại búa, rìu, dao, rựa,
cưa, đục. Gần ngàn bộ quần áo tù đã được góp lại để bọc thuyền, may buồm. Tất cả
được chuyển vận ra Đầm qua kíp tù binh làm ở đầu mom Cá Mập. Áo quần có thể mặc
vào trong người. Các thứ khác thì để lẫn trong vật liệu, dụng cụ đi làm hoặc
chia nhỏ, giấu trong thùng cơm canh, đem đến hộp thư chết. Kíp Đầm cử giao liên
luồn rừng đến nhận. Đó là cuộc chuẩn bị vượt ngục quy mô lớn nhất của toàn đảo
trong lịch sử hơn trăm năm của nhà tù này.
Công tác binh địch vận cũng góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị vượt
ngục. Bộ phận binh vận của tù binh gồm tất cả những người làm đại diện kíp, đại
diện khám, đại diện chung. Đảo ủy chỉ đạo công tác binh vận phải tập trung vào
lính Âu - Phi, chiếm 91% lính đồn trú trên đảo. Họ là những người anh em các
dân tộc bị áp bức, lừa gạt, cùng đường phải cầm súng đánh thuê. Các chiến sĩ
binh vận của Đảo ủy đã được học về địa lý châu Phi, về đất nước, con người, sản
vật, phong tục tập quán của nhiều dân tộc Phi châu như Angiêri, Xênêgan,
Côttinoa, Ghinê, Môdămbích, Sariêng. Hằng tuần, các đại diện đều họp kiểm điểm
công tác binh vận, rút kinh nghiệm trong cách giao thiệp và tranh thủ binh lính
địch. Phạm Quý Tuyển (Đảo ủy viên) được phân công lãnh đạo hơn chục anh em đại
diện kíp, đại diện khám làm công tác binh vận.
Đội ngũ binh vận đã gây được thiện cảm với hầu hết những người lính châu
Phi, gieo vào lòng họ nỗi nhớ quê hương và chán ghét cuộc chiến tranh xâm lược
bẩn thỉu, khơi lên mối đồng cảm của các dân tộc cùng chung ách áp bức của thực
dân Pháp, tặng họ những chiếc khăn mùi xoa thêu hình cây dừa và cây chuối, hình
ảnh chung của xứ nhiệt đới. Binh lính da đen thường cung cấp tin tức và âm mưu
của bọn chúa đảo cho anh em. Khi bị huy động vào các cuộc khủng bố, họ thường
“giơ cao đánh khẽ”, có khi còn lén cho anh em cả muối, đường, thuốc bổ. Hoàng
Bách tức Nguyễn Văn Nhã, một trong những dại diện của khối tù binh đã viết bài
thơ Anh lính da màu tặng những người lính “quê hương tận xứ Phi châu xa vời” dã
có nhiều thiện cảm với tù nhân Côn Đảo.
Đối với các giám thị trông coi công việc khổ sai, anh em tù binh cũng giữ
một thái độ đúng mực. Chỉ có đại diện mới được quyền giao dịch, còn những anh
em khác tuyệt đôi không được tiếp xúc. Lời nói, cử chỉ của đại diện phải đàng
hoàng trên tư thế của người kháng chiến, không xúc phạm họ, không hạ thấp mình;
sẵn sàng cho họ bó củi, mớ rau, con cá hoặc đan rổ rá, đóng giúp đồ dùng trong
nhà như bàn ghế, giường, tủ. Họ xin là cho, họ cần là giúp, tuyệt đối không mua
bán đổi chác trên tư cách của người lính Cụ Hồ chiến đấu giải phóng cho dân tộc,
chỉ giúp đỡ nhân dân chứ không cầu lợi.
Điều đó có ảnh hưởng tốt, nhưng cũng đem lại sự hiểu lầm trong gác ngục,
công chức là tù binh tốt hơn tù án; rằng tù binh gần Cụ Hồ được giáo dục có kỷ
luật hơn. Nhiều gác ngục Việt Nam cứ gần tù binh là hỏi chuyện về Cụ Hồ. Anh em
nhân đó mà giải thích cho họ, tù binh hay tù án đều là người kháng chiến, là
người lính Cụ Hồ. Họ cũng ngỏ lời sẵn sàng giúp anh em những việc không vượt
quá khả năng.
Lực lượng làm công tác địch vận ở khối tù án chủ yếu lại là những người
tù áo trắng. Họ làm thư ký, lao công, bồi bếp cho tất cả các công sở, cho từng
gia đình gác ngục, am hiểu hoàn cảnh và tâm tính từng tên. Anh Trần Nam, Đảo ủy
viên được đưa vào làm thư ký Kho Bạc, chỉ đạo công tác ngoại giới vận. Các đảng
viên trong chi bộ áo trắng là những thành viên tích cực của Ban ngoại giới vận
như: Lê Văn Ngô, Trương Qua, Cao Hồng Quý, Huỳnh Phò... Ban ngoại giới đảm nhiệm
nhiều công việc quan trọng như giao thông liên lạc, ngoại vận (vận động giáo dục,
công chức và gia đình họ), tạo tác (tìm kiếm chế tạo các vật dụng) theo yêu cầu
của Đảo ủy và tiếp tế cho các khu.
Các anh Lê Văn Ngô, Trần Nam, Trương Qua đã giác ngộ và tổ chức bà Bùi
Thị Quý, vợ giám thị Cácliê (Carlier) thành một cơ sở giao liên tin cậy của Đảo
ủy. Nhà bà ở cạnh nhà chủ sở Rờsẹc Đúplây (Douplei) lại là nơi liên lạc, hội họp
rất an toàn của chi bộ áo trắng và Ban ngoại vận Đảo ủy. Sau này, tù nhân khu
Hoàng Sâm tiếp tục liên hệ với bà Bùi Thị Quý để cảm hóa giám thị Cácliê bớt
hung ác hơn trước. Ông Trần Văn Thiều, công chức ở Kho Bạc, ông Ba Dương lái ca
nô cùng nhiều gia đình gácdang, thầy chú có cảm tình đã mua giúp sơn, vải cùng
các phương tiện vượt ngục.
Chính sách dân vận đúng đắn của Đảo ủy đã góp phần tích cực vào việc chuẩn
bị cho phương án võ trang giải thoát. Đảo ủy tích cực chỉ đạo việc giác ngộ và
tổ chức các tù nhân người Trung Hoa, Khơme, Lào, Thái và các dân tộc ít người.
Các anh Trương Qua, Quách Ngự phụ trách công tác người Hoa. Các anh Cao Sơn,
Chao Xem, Thạch Vi nhận vận động anh em tù Khơme làm ở sở Rờsẹc. Nhóm tù nhân
người Lào có các anh Bun Thoong, Nai Cà Lươn chịu trách nhiệm vận động. Nhóm tù
nhân người Thái và các dân tộc ít người thì giao cho Ban chấp hành các khu chỉ
đạo và xây dựng khối đoàn kết.
Công tác vận động tù Khơme làm ở sở Rờsẹc có chuyển biến rất khả quan. Số
ác ôn làm tay sai cho nhà tù lùng bắt các cuộc vượt ngục ít hẳn đi. Tốp Rờsẹc ở
Bến Đầm còn chỉ cho tù binh những nơi có nhiều mây và lờ đi không báo cáo trong
khi anh em chặt hàng ngàn cây mây về làm thuyền. Vì thế, cuộc chuẩn bị vượt ngục
quy mô lớn nhất giữa lúc bọn tù gian Liên xã còn đang hoành hành mà không bị lộ.
Cuộc vận động còn đem lại kết quả không ngờ là một phần lớn tù Khơme đồng
tình tổ chức vượt ngục với tù kháng chiến. Cao Sơn, chiến sĩ ítxarác người
Khơme đã cùng Trần Minh và một số tù kháng chiến vượt ngục thành công, trở về
tham gia kháng chiến ở Nam Bộ.
Chao Xem và Thạch Vi đã tổ chức cho 83 tù Khơme, phần lớn làm ở Rờsẹc vượt
ngục cùng 4 tù kháng chiến ở Nhà Đèn là Bùi Văn Hậu, Tạ Văn Quang, Lý Tài và
Trâm. Cuộc này không thành, nhưng tình đoàn kết của những tù nhân Việt Nam và
Khơme được vun đắp bền vững hơn.
Nhóm tù chính trị người Hoa đã giúp Đảo ủy có hiệu quả trong việc cảm
hóa số tù tư pháp người Hoa. Trong hơn sáu chục tù nhân người Hoa, có hơn 2/3
là tù tư pháp, nhưng tất cả anh em đều ủng hộ Liên đoàn, không một ai theo Liên
xã. Tù người Hoa làm những món ăn truyền thông như rađi (củ cải đỏ), vằn thắn
mì... mà gácdang Pháp rất thích. Nhiều anh trong lúc làm bồi, làm bếp đã chế biến
các món ăn độc đáo và thu được khá nhiều tiền góp cho quỹ xã hội của Liên đoàn,
quỹ tạo tác của Đảo ủy. Một phần trong số tiền ấy được chuyển thành sơn, vải và
các phương tiện vượt ngục. Các anh Quách Ngự, Trương Qua, Trần Bảo Trung, Hàn
Giang Nguyên, Hàng Chức Nguyên, Thích Nguyên, Giang Thủy, Ngũ Hương, Lý Tài,
Liêu Hồng, Hà Thành Quang... là những hạt nhân đóng góp tích cực trong công tác
người Hoa và thực hiện nhiều nhiệm vụ khác của Đảo ủy.
Một .phần lớn hoạt động của tù nhân trong năm 1952 đã tập trung cho
phương án võ trang giải thoát. Công tác chuẩn bị khấn trương nhất cho kế hoạch
giải thoát do bộ phận xung kích ở Đầm thực hiện. Kế hoạch đào hầm bí mật, đóng
thuyền vượt ngục được định ra rất sớm nên ngay từ khi dựng lán, kíp tù binh đã
chọn một gò đất cao, không có đá tảng. Lán rộng 6m, dài 30m trong một thung
lũng giữa mũi Cá Mập và vịnh Bến Đầm. Lán được quây kín bằng tranh tre, chỉ có
một cửa bên hông, trông thẳng sang trại của lính Âu-Phi.
Bên trong lán có 2 dãy giường sạp chạy dọc theo 2 bên, rộng hơn 2m. Anh
em chặt mây song về chế ra đan thành từng tấm lớn trải ra thay giát giường. Mỗi
tấm giát vừa vặn một mê thuyền khi vượt đảo. Thang giường cũng được đẽo sẵn
theo hình bơi chèo, xà nhà căn vừa đủ để làm cột buồm. Khung thuyền, thanh
ngang, thanh dọc đều được làm giả khung giường, theo đúng kích cỡ, đục đẽo sẵn
và lắp tạm dưới giường, chờ ngày vào đúng vị trí.
Buổi tối, từ 6 giờ đến 10 giờ, một kíp tiến hành đào hầm dưới gầm giường,
đất được san đều ra nền nhà rồi ngụy trang phía trên bằng những lớp đất cũ,
trên rải SỎI. Hầm đào đến đâu được chống, chèn chắc chắn theo phương pháp chống
lò của thợ mỏ Hòn Gai. Lâu ngày, đất đổ đầy gầm giường, anh em làm sập giường
và đề nghị bọn lính cho sửa vào ngày chủ nhật, nhân đó mà dọn đất ra ngoài và
đưa gỗ vào chèn chống, đóng khung thuyền vào nhà, xuống hầm. Hàng trăm mét khối
đất đá đã được đưa ra ngoài, hàng chục thước khối gỗ chèn chống và đóng khung
thuyền đã được đưa vào nhà rồi xuống hầm bằng cách ấy. Ngày làm khổ sai, tối
thay nhau đào hầm, san đất, ngụy trang, chuyển cây, chèn chống, luyện tập võ
thuật, chiến thuật chồng người vượt xà nhà, tập bơi...
Ăn đói mặc rách, gian nan nhiều nhưng ai cũng phơi phới trong lòng. Hầm
tôi, làm đêm, mò mẫm từng xẻng đất, nhưng ánh sáng của độc lập tự do đã tỏa
sáng tâm hồn họ.
Việc đào hầm đang tiến triển thì bât ngờ đụng tảng đá lớn hơn 2 mét khối,
nặng vài tấn, không có cách nào đưa lên nổi. Chỉ một tảng đá thôi cũng đã làm tắc
đường hầm, phá sản một kế hoạch được chuẩn bị hết sức công phu và hao tổn mồ
hôi công sức. Vào giờ phút tưởng như bế tắc thì những người tù kháng chiến
nguyên là thợ mỏ Hòn Gai đã cứu vãn tình thế. Theo kinh nghiệm xử lý hầm lò, họ
đào sâu đất cát phía vách hầm rồi khoét cho hổng chân, đánh sập đá xuống. Tối
nào các anh trong đội tuyên truyền văn nghệ cũng ca hát đến 22 giờ đêm để làm lạc
hướng chú ý của lính gác. Ngày chủ nhật, họ bứng những cây dừa con về trồng
quanh lán để nghi binh. Tên quản da đen vui vẻ hỏi:
-
Các anh định ở
đây suốt đời sao?
Anh em trả lời:
-
Bao giờ hết
chiến tranh chúng tôi sẽ về!
Khi đó, trong 2 căn hầm bí mật dưới lòng đất, 5 chiếc khung thuyền đã
đóng sẵn, 2 chiếc đã cạp xong mê. Tất cả chỉ còn đợi mùa gió chướng. Chưa có
năm nào mà hàng ngàn con người trong tổ chức ở hàng chục sở tù khổ sai, thuộc
các trại tù binh và tù án lại cùng hồi hộp, khắc khoải, cồn cào, nao nức chờ
mùa gió chướng như lần ấy.
Nỗi lo toan lớn nhất vẫn tập trung nơi kíp xung kích ở Đầm. Dưới căn hầm
tôi đã xếp chật những khung thuyền. Họ khâu từng tấm áo tù thành tấm lớn rồi
quét sơn, hắc ín để bọc thuyền. Tất cả đã từng chịu đựng đói khát, mệt nhọc, ngột
ngạt triền miên, nhưng họ cảm nhận ngay một nguy cơ là công việc chuẩn bị đã
lâu, vải có dấu hiệu ẩm mục; sơn giảm phẩm chất, mây đan mê để lâu cùng tóp lại,
thưa roãng ra. Anh em phải đan một cái thúng, cắt một mảnh vải bọc thử rồi đem
ra Bến Đầm hạ thủy, ngồi thừ, thấy được, nước không thấm, nhưng vẫn lo, mong
gió chướng đến cháy gan cháy ruột.
Năm ấy gió chướng đến muộn. Cuối tháng 11 mới có vài đợt gió thổi, lúc nổi,
lúc lặng. Tàu ra ít. Đảo ủy quyết định sang tháng 12, gió thổi sòng sẽ khởi sự.
Các đội xung kích đạo quân ngầm đều đã sẵn sàng. Tất cả đều nắm chắc mục tiêu,
rèn luyện võ thuật, chiến thuật, chính sách tù hàng binh, kỷ luật chiến trường.
Chiến thuật chủ đạo là tay không bắt địch, 3 người đánh một. Phương châm tác
chiến là bắt sống tất cả, hết sức tránh đổ máu, thực hiện tốt chính sách tù
hàng binh. Thời cơ khơi sự đồng thời cũng là điều kiện bảo đảm thắng lợi gồm
nhiều yếu tố:
-
Lực lượng xung
kích ở Đầm và mủi Cá Mập phải đánh nhanh thắng gọn.
-
Đồng thời đánh
chiếm các mục tiêu chủ yếu như đài vô tuyến điện, trại lính, dinh Giám đốc, tàu
hàng.
Tuy nhiên, các nhân tố thời cơ có thể không đến cùng một lúc nên phương
án võ trang giải thoát đặt ra nhiều tình huống và giải pháp linh hoạt. Nếu đủ
điều kiện bảo đảm cho toàn đảo thì đi toàn đảo, không đủ điều kiện thì đi bộ phận.
Nếu không có tàu ra thì phải trù liệu các phương tiện trên đảo, các vật liệu hiện
có để gấp rút đóng thuyền bè. Sau khi võ trang bạo động sẽ cử một đội cảm tử ở
lại không chế đài vô tuyến phát tín hiệu an toàn theo định kỳ liên lạc để Sài
Gòn không nghi ngờ. Đội cảm tử sẽ trở về sau bằng chiếc ca nô của đảo, khi một
phần lớn tù nhân đã về đất liền. Đảo ủy cũng dự kiến trước những tình huống trắc
trở vì gió không sòng, vì tàu không ra hay vì lực lượng xung kích đánh không gọn
thì sẽ chỉ đi một bộ phận, để bảo vệ an toàn cho những người ở lại.
Một vấn đề đặt ra và day dứt nhất trong lãnh đạo là khi nổ ra võ trang bạo
động, tất nhiên sẽ có tổn thất, hy sinh; vượt ngục tất yếu có thành, có bại. Đảo
ủy đã chỉ đạo công tác chuẩn bị thật chu đáo, giáo dục các chiến sĩ tinh thần
quyết tâm, quả cảm nhưng hết sức thận trọng và kỷ luật. Nếu phải chết vì bàn
tay vấy máu của kẻ thù thì can đảm hy sinh như một người lính trên chiến trường,
nhưng không được phép sơ xuất để đưa mình vào con đường tự sát.
Những yêu cầu khắt khe ấy đã đặt trọng trách lên những người có vai trò
lãnh đạo. Đồng chí Văn Hiến, Bí thư Đảo ủy được bố trí vào kíp làm đường ở đầu
Mom để trực tiếp chỉ đạo. Văn Hiến là người thận trọng, chín chắn, việc gì cũng
tìm hiểu thâu đáo, phân tích có lý, có tình. Phan Du, tổng chỉ huy lực lượng võ
trang toàn đảo được bố trí ở kíp Đầm để trực tiếp chỉ đạo lực lượng xung kích
và quyết định tình thế khi khởi sự. Phan Du là người rất kiên quyết trong hành
động. Bên cạnh Phan Du còn có Hoàng Tiễn, chỉ huy phó lực lượng vũ trang toàn đảo,
đồng thời là đại đội trưởng Đại đội quyết thắng - lực lượng xung kích ở Đầm.
Phạm Quý Tuyển vừa là đại diện, phụ trách địch vận, đồng thời là một cán
bộ quân sự, chỉ huy trưởng đại đội xung kích thứ 2 của tù binh ở đầu mũi Cá Mập.
Bên cạnh đó còn có Lê Mai, Lưu Trí Viễn trong Đảo ủy cùng Lê Văn Ngọ, một đồng
chí cũ dày dạn kinh nghiệm cùng họp thành “Bộ tư lệnh tiền phương” của cuộc võ
trang giải thoát. Anh Tụng, nguyên Chủ tịch huyện An Dương - Hải Phòng; anh Triển,
nguyên Phó chủ tịch huyện Tứ Kỳ - Hải Dương cũng tham gia Ban tham mưu tác chiến.
Lực lượng tù binh còn lại ở Banh III được tổ chức thành đại đội thứ 3 do anh Phạm
Bạt Tụy chỉ huy.
Đợt gió chướng thứ 2 bắt đầu thổi về vào những ngày cuối cùng của tháng
11. Đảo ủy chỉ đạo lực lượng xung kích hoàn tất việc chuẩn bị, dự kiến nếu đợt
gió này kéo dài sẽ khởi sự vào trưa 4-12-1952. Nhưng một sự biến bất ngờ đã xảy
ra. Tên phản động Hoàng Minh (tù binh) tố giác âm mưu vượt đảo. Hắn chỉ điểm
cho gác ngục bắt Phan Cơ, đại diện kíp làm đá khi anh giấu kín mìn trong nón
bàng để giao cho lực lượng xung kích. Phan Cơ bị tra tấn 3 ngày liền, không
khai báo.
Hoàng Bách đại diện kíp làm đường cũng bị chỉ điểm, bị phạt xà lim ba
tháng. Tên quan hai Gácđét (Gardès) đưa thêm lính ra, tập hợp toàn bộ kíp Đầm
điểm danh, khám xét rất kỹ lưỡng khu vực lán trại, từ mái nhà, vách tường đến
giường nằm, nền nhà.
Tình thế rất căng thẳng, Phan Du ra hiệu cho anh em các mũi xung kích
chuẩn bị. Trường hợp bắt đắc dĩ, nếu địch xăm trúng hầm là phát lệnh làm luôn.
May sao, địch không phát hiện được gì, Gácđét và tốp lính hộ tống lầm lũi về trại.
Nguy cơ bị lộ là mối đe dọa cấp bách nhất lúc đó. Nếu địch phát hiện ra
căn hầm thì tai họa sẽ ập xuống toàn đảo. 5 khung thuyền lớn với hàng chục hộp
sơn, hàng trăm ký nhựa với vô số dụng cụ, phương tiện, lương thực, thực phẩm,
vũ khí tự tạo giấu trong căn hầm đó sẽ liên quan đến khắp các bộ phận, đổ bể
hàng loạt cơ sở. Khi ấy không thể vài người đứng ra nhận mà xong được. Đảo ủy
quyết định lùi lại một tuần nữa để theo dõi địch tình và chuẩn bị thật kỹ lưỡng,
chờ đợt gió chướng tiếp theo sẽ đi.
Ngày 12-12-1952, cuộc bạo động đã nổ ra, bắt đầu từ kíp Đầm. Đợt gió chướng
thứ 3 đã thổi về trước đó 2 ngày. 11 giờ trưa, chiếc khăn lệnh tung bay phần phật
trên tay Phan Du cùng tiếng thét “xung phong” vang dội. 28 tổ xung kích của Đại
đội Quyết Thắng ở Đầm đã trói gọn 28 lính da đen, thu hết vũ khí, không phải nổ
phát súng nào. Bằng những thế võ hiểm, các chiến sĩ xung kích đã quật ngã ngay
những tên lính to gấp hai ba lần.
Ở kíp đầu mom Cá Mập, do một vài tổ xung kích không bám sát địch nên đã
xảy ra vật lộn và nổ súng. Ta chết 1, địch chết 2, một tên chạy thoát vào rừng,
chỉ bắt được 2 tên, 2 tên nữa lăn xuống vực. Trận đánh không suôn sẻ như dự kiến.
Trưa ấy gió lặng dần. Không ai tính hết cho những bất ngờ trong khi bạo
động. Ban chỉ huy hội ý cấp tốc và quyết định không đánh về đảo mà chỉ đi theo
phương án giải thoát bộ phận. Cuộc bạo động đã nổ ra rồi, không thể dừng lại được.
Bộ phận làm công tác binh vận giải thích cho số lính da đen bị bắt về chủ
trương võ trang vượt đảo giải phóng tù nhân và chính sách tù binh của ta. Những
người lính này được trả lại đầy đủ tư trang, được ăn uống đầy đủ và chịu trói lại,
để tù nhân vượt đảo. Tên quản cảm động, xin tặng các chiến sĩ ta một chiếc la
bàn và một tấm bản đồ. Lực lượng còn lại dỡ hầm, ráp thuyền, đến 16 giờ đã hoàn
chỉnh 5 chiếc thuyền sườn gỗ, khung máy bọc vải, có đủ buồm chèo. Mỗi thuyền
còn được côn thêm 2 bó nứa hai bên để sóng to khỏi lật. Anh em dùng ô tô chở
người và thuyền ra Bến Đầm để hạ thủy.
Trưa ấy các đội xung kích ở Côn Đảo cứ nóng lòng chờ. Bọn địch ở đảo vẫn
không hay biết gi. Tên lính bị sổng trốn biệt đến đêm mới dám mò về. 17 giờ
không thấy xe chở kíp làm đường về, chúa ngục cho lính lên tìm mới biết đoàn tù
binh đã lên thuyền ra khơi. Sau này anh em cứ tiếc mãi. Nếu trưa ấy mà mũi xung
kích đánh thẳng về thị trấn thì chắc thắng.
Gió lặng dần rồi đổi hướng. Đoàn thuyền chật vật suốt đêm chưa qua được
lớp sóng đất. Hai thuyền bị vỡ cách bờ không xa. Mười mấy người bơi được vào bờ.
Ba thuyền đi được đến mờ sáng thì khung mây ngấm nước rão ra, nước vào lưng
thuyền. Nhiều người tự nguyện nhảy xuống biển hy sinh cho nhẹ thuyền. Trên thuyền
số 1, năm chiến sĩ trong đội quyết tử xung phong hy sinh để bảo vệ lãnh đạo và
những anh em còn lại. Nguyễn Hòa tức Nhạ, ôm phao cá nhân, lặng lẽ nhào xuống
biển giữa đêm đen dầy đặc, bốn đồng dội theo sau anh. Nước vẫn vào, thuyền chìm
dần, mây người nữa tiếp tục nhảy xuống biển, trong đó có cả anh Văn Hiến, Bí
thư Đảo ủy. Một vài người nhờ giữ được phao, hoặc được thuyền khác kéo lên
trong đó có Nguyễn Hòa, còn phần lớn bị sóng cuốn đi vì kiệt sức.
Sáng hôm sau máy bay và'tàu chiến Pháp truy đuổi bắt lại tất cả những
người trên 3 chiếc thuyền còn lại. Sô người trên 2 thuyền chìm gần bờ dạt vào đảo
cùng bị bắt sau đó 12 ngày. Theo báo cáo số 2270-P ngày 5-1-1953 của Giám đốc
nhà tù, có 198 người vượt đảo chuyến ấy, trong đó có 4 tù án (2 lái ô tô và 2
máy lu). Con số bị bắt lại cho đến ngày 5-1-1953 là 117 người. Số còn lại có lẽ
là bị chết đuối cả (81 người).
Bọn Pháp đánh những người tù ngay khi họ vừa được vớt từ dưới biển lên
boong tàu, người nào cũng tả tơi như giẻ rách. 16 người không lết nối khi chúng
hất xuống cầu tàu. Giátty còng chân tất cả vào Khám 6 Banh I. Tên quan hai trưởng
trại trực tiếp cầm chìa khóa, chỉ được mở khi có lệnh của Giám đốc. Nhiều người
đã hấp hối vì hai ngày say sóng, phơi nắng và đòn hiểm. Khát cháy cổ.
Nửa đêm, mấy anh còn khoẻ phải nhổm dậy, cởi quần lót từng người nôi lại
thành dây rồi quăng ra thấm nước đọng thành vũng gần cầu tiêu, vắt cho mỗi người
vài giọt vào miệng. Anh Cơ Còi chân nhỏ, rút được ra khỏi còng, lẻn vào nhà cầu
chắt được ít nước để vệ sinh con lại chia cho mỗi người vài ngụm. Biết bọn địch
chuẩn bị giam số tù binh vượt ngục vào đây, anh em tù án đã múc nước vào đầy khạp,
nhưng chúa đảo Giátty đá ra lệnh đổ hết xuống nền nhà, chỉ còn sót lại một ít.
Ngày hôm sau, được bộ phận tù chính trị ở Nhà Thương thuyết phục, đốc tờ
Bácbiê (Barbier) đã vào thăm và cứu chữa cho số tù binh. Tên quan hai trưởng trại
từ chối và báo cho Giám đốc. Giátty xuống ngay. Hắn gầm lên với viên bác sĩ:
-
Ông điên à! Bọn
này mà xổng ra thỉ chúng nó sẽ cắt cổ cả tôi và ông đấy.
-
Thì lúc ấy ông
cứ việc xả súng vào họ. Ngày mai ông có thể bắn tất cả những người này, nhưng
hôm nay họ là bệnh nhân. Tôi nhân danh thầy thuốc của nền cộng hòa Pháp mà cứu
chữa cho họ.
Bácbiê là thầy thuốc có lương tâm. Ồng dọa sẽ báo cáo cho Cao ủy Pháp ở
Đông Dương việc Giám đốc nhà tù ngược đãi tù binh và không để cho ông làm nhiệm
vụ thầy thuốc. Giátty hất hàm ra hiệu cho tên quan hai mở cửa rồi hầm hầm bỏ
di. Bácbiê rửa các vết thương cho từng người, cho thuốc và can thiệp cho họ được
ăn cơm, uống nước.
Tôi hôm xảy ra cuộc bạo động ở Bến Đầm, địch báo động toàn đảo, khóa chặt
cửa khám, cửa banh và cho lính đặt súng bố phòng khắp các ngả xung quanh thị trấn
Côn Đảo. Đội lính chia nhau bố phòng chặn con đường từ Bến Đầm về Côn Đảo và các
ngả đường vào thị trấn. Bọn chúng cấm cố và bỏ đói trại tù binh hai ngày liền.
Ngày thứ ba mới mở cửa cho một số kíp tù dọn dẹp vệ sinh, nấu ăn và những việc
khổ sai thiết yếu. Mở cửa ra là chúng đánh phủ đầu. Các khám phải chọn những
người có gan chịu đòn ra làm khổ sai để giữ vững tinh thần cho cả khối tù. Bọn
lính Xênêgan bị kích động việc tù binh giết chết 4 tên lính trong cuộc vượt đảo
nên chúng rất hung bạo. Khối tù binh bị đòn luôn, cứ mở cửa ra là chúng đánh.
Tù án cũng bị lục soát, tước hết đồ dùng cá nhân. Các kíp đi làm khố sai
ngoài trại bị kiểm soát gắt gao, chúng không cho các sở làm rẫy, lấy rau cải
thiện nữa. Một vài nơi giấu tài liệu bị lộ. Trần Y, liên lạc viên của Liên đoàn
bị tra tấn dã man ở sở Rờsẹc. Chúng dùng 2 khúc cây rừng cột tréo lại kẹp nát
da thịt 2 ống chân nhưng không cạy răng anh được lời nào. Trần Y lúc đó mới 20
tuổi. Khi vào tù anh còn chưa đủ tuổi thành niên. Sau đợt ấy, Trần Y được Liên
đoàn cấp bằng khen và Đảo ủy chuẩn y kết nạp anh vào Đảng tại Côn Đảo.
Để đối phó với đợt khủng bố này, Đảo ủy quyết định tổ chức một đợt tranh
đấu với 3 hình thức:
-
Thiết lập một
sự im lặng đến lạnh lùng với bọn nhà tù.
-
Thảo văn bản gửi
Giám đốc đòi cải thiện đời sống và đòi chế độ tù binh.
-
Đấu tranh tuyệt
thực đòi thực hiện yêu sách, nếu chúng không giải quyết.
Tù binh sẽ là lực lượng xung kích tranh đấu, tù án phối hợp, hỗ trợ. Trại
tù binh gửi yêu sách và tuyệt thực được 2 bữa thì Giátty đến. Hắn hứa sẽ nghiên
cứu chế độ tù binh và từng bước cải thiện đời sống. Một phần hắn đổ lỗi cho vụ
tù binh bạo động, buộc nhà tù phải áp dụng biện pháp an ninh; mặt khác hắn đổ lỗi
cho chính quyền bù nhìn ở Sài Gòn tiếp tế không kịp thời trong mùa gió chướng.
Tuy vậy, Giátty cũng cho xếp banh đến kho lấy tư trang dùng đã tịch thu trả lại
cho tù nhân; cho các sở tù được thêm người làm rẫy, lấy rau, tăng khẩu phần cá
khô, gạo. Hắn giải quyết riêng cho từng sở tù, như một “ân huệ” của Giám đốc chứ
không theo kiểu nhượng bộ yêu sách đấu tranh.
Cuộc bạo động ở Bến Đầm (12-1952) là một thất bại cay đắng trong chính
sách trị tù của Giátty. Hắn đã kế tục những thủ đoạn khủng bố thâm độc nhất đối
với tù kháng chiến của Laphôt, đã tăng cường vũ khí, đạn dược, phương tiện, bố
phòng, gácdang và binh lính. Riêng đội lính đồn trú, hắn đã xin tăng lên gấp
đôi, từ 50 lên 104 tên (không kế sĩ quan chỉ huy). Vậy mà cuộc bạo động khủng
khiếp đã nổ ra. Chỉ trong vài phút, ngót một nửa đạo quân chiến đấu của Giátty
trở thành tù binh của những người tù kháng chiến. Trận ấy mới chỉ có chưa đầy
1/10 số tù nhân ra tay. Nếu 9/10 số tù nhân còn lại mà đồng loạt phối hợp được
thì chắc chắn Giátty cũng không chạy đâu cho thoát.
Một tài liệu cho biết, thực dân Pháp dự đoán cuộc bạo động ở Bến Đầm có
thể có sự phối hợp của Việt Minh và hải quân Trung Quốc. Bởi vậy, Pháp đã huy động
2 trung đoàn trong lực lượng cơ động chiến lược miền, có không quân và hải quân
Pháp ở Viễn Đông phối thuộc làm nhiệm vụ tuần tra, phòng vệ vùng Duyên Hải và
ngoài khơi Côn Đảo suốt ba tháng. Trong thời gian đó, Việt Minh mở những cuộc
tiến công chiên lược trên khắp chiến trường Đông Dương.
Tuy không thành công trong việc giải thoát, tù nhân phải chịu nhiều tổn
thất, nhưng cuộc võ trang bạo động ở Bến Đầm là một đòn tiến công vào tận sào
huyệt của kẻ thù, làm rung chuyển và rối loạn nền thông trị của chúng. Đó là một
cuộc biểu dương tinh thần chiến đấu và ý chí tự giải phóng của những người tù
kháng chiến. Nhân cách của các chiến sĩ cách mạng và chính sách binh địch vận
đúng đắn của Đảo ủy trong quá trình chuẩn bị và tiến hành võ trang bạo động đó
có ảnh hưởng lớn đến binh lính và gác ngục ở Côn Đảo.
Sau trận ấy, Boócdétsui (Bordessouille) bị lột lon quản và bị tù ba
tháng, nhưng hắn lại rất kính nể và biết ơn những người tù kháng chiến. Hắn đã
thoát chết một lần trong chiến tranh Triều Tiên, nay lại được tù binh Việt Minh
tha chết một lần nữa. Đó là ân huệ hiếm hoi của một đời lính đánh thuê. Hắn
dùng tiền lương mua đường sữa lén gửi cho Phan Du và tuyên truyền trong đơn vị
lính Âu Phi về những tù binh Việt Minh đầy bản lĩnh, mưu trí và nhân đạo. Trước
tòa án binh Pháp ở Sài Gòn xử vụ bạo động ở Bến Đầm, Boócdétsui, Anbéctini,
Xien... với tư cách là nhân chứng đã không tố giác những người chi huy cuộc bạo
động, những người đã cướp súng, bắt trói họ, làm cho phiên tòa không có nhân chứng.
Trước đó, Phan Du đã nhận hết trách nhiệm về mình, song Đảo ủy chỉ đạo họp
kiểm điểm rút kinh nghiệm, thống nhất lời khai. Nhờ đó mà không lộ ra phương án
võ trang giải thoát toàn đảo, không một cơ sơ, đầu mối nào bị đổ bể. Khi về Sài
Gòn, chuẩn bị ra tòa, Liên đoàn tù nhân Khám Lớn - Chí Hòa đã vận động luật SƯ
Nguyễn Hữu Thọ bào chữa cho vụ án.
Nhờ sự chỉ dẫn trước, 117 tù binh đã thống nhất một lời khai, bác bỏ mọi
cơ sở buộc tội của chúng. Tất cả đều tcí cáo chế độ nhà tù tàn bạo, bởi vậy
không người tù nào không nghĩ đến chuyện vượt ngục, giải thoát. Không có tổ chức,
không có chỉ huy, thấy nhà tù sơ hở là họ trốn. Tất cả cùng bắt lính; tất cả
cùng làm thuyền, không ai cướp súng, không ai giết lính, không ai hành hạ binh
lính. Mấy tên lính chết là do bọn lính hoảng quá bắn lộn, chết cả lính, cả
tù...
Những người lính da đen được gọi ra làm nhân chứng đều xác nhận lời khai
của tù binh. Điều quan trọng nhất là họ không tố giác người tổ chức chỉ huy,
người bắt trói họ và cướp vũ khí, người đã vật lộn và dự phần vào cái chết của
mấy tên lính xấu số. Vì thế, phiên tòa trở thành không có nhân chứng, không thể
khép vào tội danh nào được. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã cãi cho họ trắng án. Cuộc
võ trang giải thoát đầy chính nghĩa của những người tù kháng chiến Côn Đảo
giành thêm được một thắng lợi về mặt pháp lý trước dư luận công khai.
Ngay trong thời kỳ thực dân Pháp phong tỏa và kiểm soát gắt gao, một
chuyến vượt ngục mạo hiểm của tù án chính trị lại thành công bất ngờ. Nguyễn
Văn Thuận, tức Tư Nhỏ, tức Trần Văn Sơn, chiến sĩ công an quận 4 Sài Gòn đã
cùng 2 tù chính trị là Viễn (người Quảng Trị) và Bảy (người Trà Vinh) vượt ngục
bằng bè tre. Trong một buổi làm khổ sai, ba người rủ nhau lên núi, men theo
vách đá dựng từ Đá Trắng qua mũi Cá Mập sang phía Bến Đầm. Chờ đến tối, họ chặt
tre lao xuống bãi biển, bơi qua Hòn Tài, chặt thêm tre, côn bè thả theo gió chướng.
Cơm khô, nước ngọt, củ mài đã được Viễn chuẩn bị trước, dồn trong ống tre. Sau
7 ngày đêm nhờ sóng gió, các anh đã dạt vào Cà Mau và tiếp tục tham gia kháng
chiến.
Củng cố tổ chức, rèn luyện lực lượng
Năm 1953, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta bước vào giai đoạn
phản công giành thắng lợi quyết định. Vùng đồng bằng Bắc Bộ mà các tướng Pháp
xem như “cái then cửa của vùng Đông Nam Á” bị uy hiếp nghiêm trọng. Thực dân
Pháp tiếp tục đưa tù binh, tù chính trị ở các nhà lao và trại tù binh ở nhiều tỉnh
đồng bằng Bắc Bộ chuyển vào Nam Bộ rồi thanh lọc, đày ra Côn Đảo.
Đoàn tù án thứ 3 ở Hỏa Lò Hà Nội đến Côn Đảo ngày 13-2-1953, gồm 75 người,
mức án từ 7 năm trở lên, trong đó có một số cán bộ là Huyện ủy viên như Đồ
Hoàng Trừ, Trần Công Hiệu, Nguyễn Văn Thế (Hùng Hậu). Chưa đầy một tháng sau, họ
được tham dự sinh hoạt chính trị đầu tiên do Đảo ủy tổ chức: Lễ tang Xtalin
(5-3-1953). Ngày ấy toàn đảo để tang, không ồn ào. Các khám đều làm lễ truy điệu
chia sẻ nỗi đau buồn với nhân dân Liên Xô anh em. Ít ngày sau, đoàn tù án chính
trị cuối cùng của các tỉnh phía Bắc bị phân tán về các sở tù khổ sai.
Tháng 4 năm 1953, thực dân Pháp đưa 25 tù binh ở Nam Bộ ra Côn Đảo.
Tháng 5 năm 1953, chúng đày tiếp 125 tù binh ở Bắc Bộ và Trung Bộ ra đảo. Ngày
30- 6-1953, chuyến tù binh cuối cùng gồm 25 sĩ quan, đã trải qua hầu hết các trại
tù binh từ Bắc vào Nam bị đày ra đảo. Theo báo cáo của Đảo ủy gửi về Trung
ương, đến tháng 9-1953 toàn đảo có 1.847 tù án, 490 tù binh. Đảng bộ nhà tù có
500 đảng viên, trong đó 170 đảng viên ở khối tù binh, 330 ở khối tù án. Trên
100 đảng viên đã từng giữ các chức vụ từ bí thư chi bộ đến bí thư Đảng ủy; 6
người nguyên là Tỉnh ủy viên.
Các anh Đỗ Hoàng Trừ (Sở Củi-Chuồng Bò), Trần Công Hiệu (Lò Vôi) trong
đoàn tù án chính trị mới ra; Lê Thành Tích (khu Trần Phú), Hoàng Nam tức Phan
Xuân Tiềm (khu Hoàng Sâm) được bổ sung vào Đảo ủy. Các anh Tùng Lam, Trần Nam,
Hoàng Sinh Hồng (Đảo ủy viên khóa 3), lần lượt mãn án về. Ở trại tù binh, các
anh Nguyễn Văn Nghĩa, Lê Đình Thụ cũng được bổ sung thay cho những Đảo ủy viên
đã hy sinh.
Đảo ủy kiểm điểm rút kinh nghiệm cuộc võ trang giải thoát của tù binh,
biểu dương tinh thần chiến đấu và những gương hy sinh dũng cảm, chỉ ra những
nguyên nhân thất bại để chuẩn bị cho một cuộc giải thoát quy mô hơn vào đầu năm
1954. Đảo ủy đã gắn công tác xây dựng Đảng với xây dựng phong trào quần chúng;
gắn công tác xây dựng Đảng với thực tiễn đấu tranh; đề cao dân chủ, công khai
và đề cao tính gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Báo cáo của Đảo ủy đã đánh giá
về công tác xây dựng Đảng như sau: “Sinh hoạt rất đều, lấy phê bình và tự phê
bình, lấy đấu tranh hàng ngày với địch để củng cố Đảng, phát triển đảng viên mới,
thanh thải đảng viên yếu kém, phối hợp sự giáo dục trong Đảng và ngoài nhân dân
làm một, học cùng tài liệu với nhân dân. Đảng làm nòng cốt để hướng dẫn nhân
dân để dưới kiểm soát trên, trên kiểm soát dưới, nhân dân theo dõi cán bộ đảng
viên”1 .
Đồng thời với việc củng cố tổ chức Đảng, Đảo ủy tiến
hành củng cố và xây dựng lực lượng nhân dân. Trong tháng 1 và tháng 2 năm 1953,
Đảo ủy chỉ đạo củng cố lại tổ chức Liên đoàn tù nhân kháng chiến Côn Đảo, từ cấp
toàn đảo, liên khu, cấp khu cho đến từng tổ 3 người. Toàn đảo chia làm 4 liên
khu. Lực lượng tù binh là Liên khu I (Banh III). Lực lượng tù án gồm 3 liên
khu: Liên khu II (Banh I), Liên khu III (Banh II) và Liên khu IV (các sở
ngoài).
1. Báo cáo tình hình địch, ta ở Côn Đảo. Hồ sơ lưu trữ tại Cục lưu trữ
Trung ương Đảng, ký hiệu C.10Đ127-ST08-27. Đây là bản báo cáo tổng kết của Đảo ủy
do đồng chí Vũ Hồng Vũ (Thường vụ Đảo ủy) và Lê Đình Thụ (Bí thư chi bộ Banh
III) truyền đạt cho đồng chí Đoàn Duy Thảnh trước khi được trả tự do để báo cáo
với Trung ương. Văn bản này đồng chí Đoàn Duy Thành đã học thuộc lòng và chép lại
tại Quân khu Tả Ngạn, sau khi được trả tự do để trình lên Trung ương Đảng.
Anh Trần Mạnh (Vũ Quang Đạo) với sự cộng tác của hai anh Chính Vích và Đặng
Xuân Mịch giúp Đảo ủy biên soạn lại 10 tài liệu: Vì nhân dân phục vụ; Chiến lực
chiến thuật; Trường kỳ gian khổ; Phương pháp học tập mới; Lợi ích tổ tâm giao;
Thi đua Đoàn-Công- Kỷ- Tiết... Đảo ủy đã tổ chức một đợt học tập chính trị
trong suốt mùa he 1953.
Trong thời kỳ củng cố tổ chức, trại tù binh đã tổ chức diệt tên phản động
Hoàng Minh. Hoàng Minh tức Nguyễn Hoàng Giác, nguyên là công an trong chính quyền
bù nhìn ở Sơn Tây, vì phe cánh tranh ăn mà phải vào tù. Ở Hỏa Lò, y từng làm
chi điểm cho phòng nhì Pháp, bức hại nhiều người tù kháng chiến. Ra Côn Đảo,
Minh câu kết với bọn Tú (công an bù nhìn Bắc Ninh), Thiết (công an bù nhìn Hà
Nam), Khiêm, Giao (đảng Đại Việt) tiếp tục cuộc đời tay sai trong tù.
Chính tên Minh đã dò la và tố giác phương án võ trang giải thoát để bọn
Pháp mở đợt truy tầm khám xét, suýt nữa lộ việc chuẩn bị bạo động. Hắn tố giác
vụ giấu kíp mìn để đại diện Phan Cơ phải phạt xà lim. Anh Nguyễn Văn Thanh và
Hoàng Minh Chính vừa được cử làm đại diện, hắn lại vu cáo hai anh chuẩn bị vượt
ngục làm cho hai anh đều bị phạt xà lim. Nhà tù chỉ định hắn làm đại diện để
không chế anh em. Trại tù binh đã nhiều lần đề nghị xử tử tên Minh, nhưng Đảo
úy chỉ thị tiếp tục giáo dục một thời gian nữa. Những cán bộ được cử đến giáo dục
đều bị Minh tố giác và bị phạt. Tháng 2 năm 1953, Đảo úy chấp nhận đề nghị của
trại tù binh, lập Tòa án nhân dân xét xử tội trạng Hoàng Minh rồi tuyên án tử
hình.
Các anh Vũ Danh Hiệt, Nguyễn Văn Thanh, Hoàng Minh Chính, Lê Văn Khánh,
Lê Hồng Quảng, Tuyển Vẹo... xung phong thi hành bản án, diệt tên Minh ngay tại
cửa Khám I Banh III. Anh Chính được tổ chức phân công đã nhận một mình anh giết
tên Minh. Anh Thanh không được phân công nhưng cùng xung phong được cùng nhận để
chia sẻ hình phạt với Chính. Về Sài Gòn, hai anh bị tuyên án chung thân và 20
năm khổ sai. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã bào chữa, giảm án xuống mức 4 năm và 2
năm. Sau vụ xử tên Minh, bọn tên Thiết, Tú, Khiêm, Giao hoảng sợ xin chúa ngục
cho ở riêng một khám.
Sau vụ Đầm, Giátty siết chặt kỷ luật nhà tù, tàu tiếp tế ra ít, đời sống
tù nhân rất tồi tệ. Rau xanh, thực phẩm rất thiếu. Tên quan hai Gácđét tuyên bố
với trại tù binh: “Tàu không ra thì cho tụi bay ăn cỏ”. Đảo ủy chú trọng chỉ đạo
công tác xã hội, chàm lo cải thiện bữa ăn, bảo đảm sức khỏe cho tù nhân tranh đấu
lâu dài. Anh Nguyễn Văn Sổ, tổ trưởng tổ Nhà bếp của trại tù binh cùng anh Vũ
Danh Hiệt (Ban xã hội) và các anh Hán, Học ở Nhà bếp tìm mọi cách thay đổi món
ăn hàng ngày cho anh em.
Khẩu phần thực phẩm nhà tù cấp thường xuyên là cá khô, rau lang, đôi khi
có rau muống. Rau được chế biến thành các món luộc - xào - canh - nộm. Cá khô
thì chiên - rim - làm ruốc - giã chả - nấu canh chua. Ai nghĩ ra món gì thì làm
thử, ăn thấy ngon thì làm tiếp. Món canh chua nấu từ cá khô và chả cá khô giã
nhuyễn với khoai lang, đậu xanh chiên lên được nhiều người hoan nghênh.
Sau nhiều lần đấu tranh, nhà tù cho 10 người già yếu được làm vườn, trồng
rau cải thiện, nguồn rau xanh khá lên. Rau muống là thứ quý được dành cho người
ốm yếu. Lá già và cọng rau già được rửa sạch, phơi khô nghiền bột đế ăn phụ
thêm. Tố Nhà bếp và Ban xã hội tận tụy chăm lo cho bữa ăn của anh em như người
mẹ hiền. Bữa nào thấy anh em ăn không hết suất cơm tù là các anh ứa nước mắt. Tổ
Nhà bếp đi từng khám xem anh em ăn, nghe góp ý từng món ăn để cải tiến.
Anh Huân, anh Bích trong tổ y tá tù nhân hàng ngày chăm sóc sức khoẻ những
người đau ốm. Ai ăn cơm, ăn cháo trắng, cháo mặn hay cháo đường đều được phục vụ.
Tổ y tá, Nhà bếp còn làm nhiệm vụ liên lạc, cất giấu tài liệu cho Đảo ủy và
Liên đoàn tù nhân.
Một tổ tạo tác do ông Đàm Văn Tạ tổ chức đan mũ nón cho anh em đội đi làm.
Những chiếc nón bàng 2 lớp để cất giấu tài liệu làm phương tiện liên lạc đã được
sản xuất hàng loạt. Tổ tạo tác thứ 2 của khối tù án do ông Phùng ở Khám 4 Banh
I (Chỉ Tồn) phụ trách đan mũ, nón rổ rá, lồng bàn vỉ đập ruồi để đảm bảo vệ
sinh cho bữa ăn của tù nhân.
Liên đoàn tù nhân phát động một phong trào diệt ruồi. Điều kiện vệ sinh
của nhà tù rất kém nên ruồi nhiều vô kế. Chi tiêu lúc đầu giao cho mỗi người là
100 con mỗi ngày. Anh em đã hăng hái tham gia, thi đua diệt ruồi, nâng chỉ tiêu
lên dần, đến mức 500 con mỗi ngày. Phong trào diệt ruồi lúc đó đã được phản ánh
trên những báo tường của tù nhân Côn Đảo:
Báo cáo đồng chí hôm nay
Tôi đập ruồi suốt cả ngày không chơi
Cộng được có bốn trăm thôi
Dạo này ít bởi nhiều người tham gia.
(Ca dao Côn Đảo - Bản do anh Trần Đông Lưu giữ).
Ở khối tù án, ngoài việc tự chăm lo cải thiện ở từng bộ phận, mỗi khu đều
đóng góp cho công tác xã hội toàn đảo. Khu Hoàng Sâm thường đi dọn tàu, kéo cây
nên kiếm được khá nhiều rau và thực phẩm. Anh Phạm Văn Mai phụ trách công tác
xã hội còn tổ chức được một rẫy riêng, hàng ngày có 4 người trông coi. Các anh
đã bớt phần của mình để tiếp tế cho khu biệt lập rau muống, rau càng cua, đợt đủng
đỉnh, mắm cá cơm. Mỗi khi rửa rau, khu Hoàng Sâm thường kín đáo làm “rơi vãi”
quanh giếng để anh em ở biệt lập ra tắm lấy vào.
Các kíp dọn tàu, chuyến hàng có nhiều cách cải thiện độc đáo. Khi thì
nhét đậu xanh vào tai heo, khi bắt rận rệp thả vào mũi bò, khi lại “lỡ” sảy
chân sảy tay cho heo, bò bị thương tích phải mổ thịt hàng loạt để bọn Tây ăn
không hết, phải cho bếp tù nhân. Nhờ đó, mỗi chuyến tàu ra, toàn đảo lại được
ăn tươi vài bữa.
Kíp dọn hàng ở tàu vào bờ thì chọn những thùng sữa hộp, thịt hộp quăng
xuống biển. Anh em đi tắm lặn xuống lấy về giấu trong các kẽ đá lớn ở cầu Tàu rồi
tìm cách chuyển dần về cho Ban xã hội. Đó là một kiểu tạo tác phổ biến đối với
nguồn thực phẩm dự trữ, vừa phá hoại kinh tế địch, vừa xây dựng kinh tế tập
trung cho tù kháng chiến. Xây dựng kinh tế tập trung là nhiệm vụ trung tâm của
Ban xã hội Liên đoàn nhằm tập thể hóa các nguồn tiếp tế, tạo tác để phục vụ đời
sống hoạt động và tranh đấu của tập thể tù nhân.
Trong khi phá hoại kinh tế địch, tạo tác nguồn hàng cho ta, gácdang, thầy
chú, nhân viên nhà tù đều sẵn sàng “hợp tác” với ta. Họ cũng túng thiếu, đói khát,
hám ăn. Khi áp tải những chuyến dọn hàng và vận chuyển vào kho, họ sẵn lòng
thông đồng với tù nhân đê lấy một vài thùng đồ và cho tù nhân gửi ở nhà họ vài
thùng khác. Trong cuộc chia chác này thì các gácdang Tây cũng tỏ ra biết điều
và giữ đúng giao kèo, bảo quản đầy đủ phần mà tù nhân đã gửi. Nếu lộ ra thì
đương nhiên họ bị sa thải, còn tù nhân thì đâu có ngán còng, xiềng.
Gácdang cũng là những người trung gian trao đổi và cung ứng hàng hóa cho
tù nhân. Nhừng lô hàng “tạo tác” được, nếu không cần thiết, tù nhân có thể đổi
lại cho gác ngục. Rượu và thuốc lá là vật ngang giá thay cho tiền trong các cuộc
trao đối. Có rượu và thuốc lá, tù nhân có thể đổi lại bất cứ thứ gì, từ thực phẩm,
thuốc bệnh, thuốc bổ đến các mặt hàng “quốc cấm” trong nhà lao như mực in, giấy
in, sơn, vải, dao, đinh, búa...
Tù nhân sở Bản Chế thì thường tạo tác các loại vảy đồi mồi, cây dương nước,
gỗ găng, ốc xà cừ. Những nghệ nhân tù có thể chế tạo thành những đồ mỹ nghệ có
giá trị được thủy thủ Pháp rất ưa chuộng. Nhóm tù nhân người Hoa thì tạo tác ra
các thứ cần thiết bằng các món ăn truyền thống mà ngoài bàn tay họ ra, gácdang
Pháp không thể tìm ở đâu trên hòn đảo tù. Một nguồn quan trọng nữa là các bưu
kiện tiếp tế từ đất liền. Ai thấy gia đình mình có điều kiện đều viết thư về xin
những thứ thiết yếu cho nhu cầu chung, theo gợi ý của Liên đoàn. Gia đình, thân
nhân họ cũng sẵn lòng đóng góp và ý thức được như một sự góp phần cho kháng chiến.
Nhiều chị khi chồng đã trả tự do vẫn tiếp tục gửi đồ ra nuôi các bạn tù của chồng
mình còn ở lại.
Mỗi sở tù, mỗi người tù tùy theo điều kiện mà đóng góp cho quỹ xã hội của
Liên đoàn. Ban chấp hành tù nhân khu Sơ Củi sau khi dẹp xong Liên xã đã lập quỹ
xã hội bằng củi. Ngoài định mức củi nộp cho nhà tù, người có sức khoẻ, có kinh
nghiệm mỗi ngày nộp thêm một phần củi cho quỹ xã hội. Ban chấp hành khu dùng quỹ
củi để tương trợ cho những người đau yếu, người mới về Sở Củi, người cả đời
chưa quen cầm dao, búa.
Công tác xã hội của Liên đoàn tù nhân kháng chiến đã góp phần quan trọng
vào việc đoàn kết, tập hợp lực lượng và bồi dưỡng sức chiến đấu cho đội ngũ tù
nhân. Liên đoàn đã giáo dục cho khối tù bằng chính những bài học xương máu
trong cuộc đấu tranh của họ: đoàn kết là sống - chia rẽ là chết. Trong xã hội
tù nhân, nền tảng để tồn tại không hẳn là cơ sở kinh tế mà trước hết là giác ngộ
chính trị, biết cách tổ chức cùng với nếp sống văn hóa và một nền đạo đức hết sức
nhân văn: sống vì tập thể, vì quyền sống con người. Ý thức đó đã được hình
thành bền vững trong quá trình giáo dục, tổ chức và tranh đấu một mất một còn với
kẻ thù.
Đấu tranh đòi cải thiện và giải tỏa chế độ biệt lập
Tình hình sức khoẻ của tù nhân khu biệt lập rất bi
đát. Chế độ biệt lập khắc nghiệt trong vòng 2 năm đã giết hại 9 mạng người, 31
người khác bị ho lao được bác sĩ nhà tù xác nhận1 một số người
đã bị thổ huyết. Nhiều người khác bị thương hàn, kiết lỵ, đen chân, xơ cứng Cơ
bắp. Hầu hết đều bị quáng gà, mờ mắt. Trời vừa tối là họ không còn thấy gì, phải
quờ quạng men tường mỗi khi cần di chuyển. Bác sĩ Đờ Rôdie đã nhiều lần bày tỏ
sự lo ngại về tình trạng sức khoẻ của tù nhân khu biệt lập.
Giátty vẫn giữ một thái độ cứng rắn, nhất là sau khi xảy ra vụ bạo động ở
Đầm. Một biến cố tiếp theo đã để lại nhiều tai họa cho khu biệt lập, khi tên Bổn
không chịu được gian khổ, nhảy ra hàng giặc. Bổn tố giác các hoạt động của tù
nhân, chỉ hầm tài liệu, hắn khai cả con đường liên lạc, tiếp tế giữa khu biệt lập
và Nhà bếp qua cửa sổ phía tường sau. Bọn thống trị đã bố trí phục kích, bắt được
anh Lực trong phiên liên lạc chui qua cửa sổ ra sân sau nhận đồ tiếp tế. Anh Lực
phải vào xà lim, mây ô cửa sổ phía sau các Khám 8-9-10 Banh II đều bị chúng bịt
bằng lưới sắt. Sân chơi và giếng nước cũng bị kiếm soát, không cho các sở ngoài
tiếp tế rau xanh. Địch cấm luôn việc nhận bưu kiện, triệt hết mọi nguồn sống,
buộc người tù phải đầu hàng. Người ốm chúng cũng không cho ăn cháo. Anh em phải
nghiền cơm, trộn nước vào lon, đóng đinh treo lên tường rồi chụm lửa bằng cọng
chổi, giẻ rách để nấu cháo cho bệnh nhân.
Sau khi đã triệt mọi đường tiếp tế, tên Bổn còn bày mưu cho nhà tù khống
chế tù nhân khu biệt lập, làm suy kiệt sức khoẻ bằng cách cho ăn thật đói. Tình
thế ấy đã buộc tù nhân khu biệt lập đi đến một quyết định là phải đấu tranh một
mất một còn với bọn chúa ngục đế cứu lấy mạng sống của mình. Cuộc đấu tranh được
chia làm 2 giai đoạn.
Giai đoạn 1, đại diện tù nhân đã trực diện đưa đơn yêu cầu Giám đốc nới
rộng chế độ biệt lập, cho ăn uống đầy đủ, cho nhận thư từ, sách báo và thuốc
men tiếp tế, người ốm được ra bệnh xá chữa bệnh, bệnh nặng được về Sài Gòn điều
trị, được tăng giờ ra chơi, được trồng rau cải thiện... Đảo ủy chỉ đạo bộ phận ở
Nhà Thương tích cực tác động để tranh thủ sự ủng hộ của bác sĩ. Trong lúc đại
diện đưa đơn đòi hỏi thì Ban chấp hành chuẩn bị đầy đủ tinh thần và lực lượng
cho giai đoạn 2 là tuyệt thực tranh đấu.
Ban chấp hành khu biệt lập phát động tinh thần quyết tử hy sinh tranh đấu
đến thắng lợi, đồng thời cho phép ai ốm yếu không chịu đựng được thì cho xin phép
ra trước. Một người xin ra, được Ban chấp hành khu đồng ý, còn trên 200 tù nhân
quyết tử đấu tranh. Nguyễn Trí Tuệ và Hoàng Phúc tồ chức lực lượng an ninh, chuẩn
bị vũ khí, lập phương án bảo vệ những người già yếu khi địch khủng bố và trấn
áp những phần tử phản bội nhảy ra hàng giặc, phá cuộc đấu tranh. Nguyễn Trí Tuệ
đã đọc lời hiệu triệu và kỷ luật cuộc đấu tranh.
Khu biệt lập đã đi những bước cuối cùng của giai đoạn 1 và chuẩn bị bước
vào giai đoạn 2, tuyệt thực tranh đấu thì nhà tù bắt đầu nhượng bộ. Đầu tiên
chúng chấp nhận cho trồng rau trong khu vực sân chơi, cho lãnh đầy đủ thuốc men
gia đình gửi mà lâu nay chúng vẫn giữ, cho Số bệnh nặng được ra điều trị ở bệnh
xá. Thắng lợi này có sự tác động tích cực của bác sĩ Đờ Rôdie.
Khu biệt lập tổ chức trồng rau. Giờ ra chơi anh em cạy hết gạch đá trong
sân, sàng lấy đất cát vun thành luống. Hạt rau giống do các sở gửi đến và gia
đình gửi ra. Hai kỳ sư nông học Trịnh Văn Hà và Lưu Văn Lê là kỹ thuật viên tổ
chức cho anh em chăm sóc một cách bài bản nên rau rất tốt. Anh My cũng góp thêm
kinh nghiệm làm cho một góc vườn rau tốt hẳn lên.
Giữa năm 1953, chúa ngục bắt đầu giải tỏa khu biệt lập. Chúng chọn ra
khoảng 40 người thuộc đối tượng cầm đầu, đưa vào Khám 5 Banh II giam giữ với chế
độ nới hơn trước. Số còn lại lần lượt cho ra các sở ngoài. Chế độ biệt lập coi
như đã kết thúc sau gần 3 năm đen tối.
Chế độ biệt lập là hình phạt cao nhất trong quy chế nhà tù của thực dân
Pháp. Nếu tính cả khu cấm cố ở Khám 6 Banh I (từ cuối 1948 đến đầu 1951) thì tổng
cộng là 6 năm, thực dân Pháp đã áp dụng chế độ cấm cô - biệt lập ở nhà tù này.
Nhưng sự đày ải, khủng bố chỉ chất chồng thêm tội ác của chúng đối với những
người kháng chiến. Trong đau thương và chết chóc, người tù đoàn kết thương nhau
hơn. Với khẩu hiệu hành động khẩn thiết “Hãy cứu các đồng chí chúng ta trong biệt
lập”, Đảo ủy là Liên đoàn tù nhân huy động đến mức cao nhất sự chăm sóc và cơ sở
vật chất tiếp tế cho khu biệt lập.
Tù nhân khu biệt lập cũng tự cứu mình bằng cách tổ chức khoa học và chặt
chẽ, bằng một tinh thần cộng sản rất cao: vì tập thể, vì mọi người. Khi cần, họ
có thể kết thành một khối, đấu tranh một mất, một còn với địch. Ai đã trải qua
khu biệt lập đều được học tập, rèn luyện và trưởng thành nhiều mặt.
Gần bốn mươi năm sau, một tù nhân đã ghi nhận dấu ấn
về thời gian ở biệt lập đôi với bản thân cũng như các bạn tù: “Khu biệt lập đã
gây cho anh em một ý thức về nếp sống xã hội cao, một lề lối sinh hoạt và lãnh
đạo dân chủ nhân dân, rèn luyện cho cán bộ phong cách quần chúng hóa, đào luyện
cho anh em tinh thần tổ chức kỷ luật nghiêm. Những người tù kháng chiến ở biệt
lập đều được đào tạo một cách toàn diện và sau khi được tự do hầu hết đều trở
thành những cán bộ có năng lực và tốt của cách mạng”2.
Chuyến tù binh ra đảo ngày 30-6-1953 gồm 25 sĩ quan từ cấp đại đội đến
Tư lệnh mặt trận. Đó là nguồn bổ sung lực lượng lãnh đạo cho Đảng bộ nhà tù Côn
Đảo. Đảo ủy đã cử Lê Đình Thụ, Bí thư Banh III và Nguyễn Văn Nghĩa, Đảo ủy viên
ở Banh III liên hệ trao đổi tình hình. Nguyễn Văn Thi (Khu ủy viên Sài Gòn -
Gia Định), Vũ Hồng Vũ (Tỉnh ủy viên Hải Dương), Vũ Hạnh và Lý Thái Học (Đảng ủy
Trung đoàn) giúp Đảo ủy tiến hành công tác xây dựng Đảng và xây dựng phương hướng
đấu tranh mới. Các anh đã thẳng thắn thảo luận với Đảo ủy, đánh giá rõ tình
hình địch ta tại Côn Đảo, xác định vị trí, nhiệm vụ của những người tù kháng
chiến và chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ mới. Nhiều vấn đề tư tưởng như
quan niệm về tù kháng chiến, về sự lãnh đạo của Đảng trong tù, về các hình thức
đấu tranh trong tù mà trước đây Đảng bộ chưa có điều kiện giải quyết triệt để,
nay cũng được tranh luận sáng tỏ.
Tù binh, tù chiến tranh là vấn đề lớn của mỗi cuộc chiến tranh. Buổi đầu
kháng chiến, gậy tầm vông, vũ khí thô sơ, lựu đạn tự chế tạo của một dân tộc
dám xả thân vì độc lập tự do để chống lại đại bác, xe tăng, máy bay, tàu chiến
của quân viễn chinh thiện chiến; trong tương quan lực lượng như vậy, không ít
người đã bị sa vào tay giặc. Cũng không ít các chiến sĩ hoạt động trong vùng địch
như công an, quân báo, tình báo, trinh sát, tự vệ thành, dân quân du kích, cán
bộ cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng bị giặc cầm tù. Họ đã kiên cường chịu đựng nhiều
cực hình tra tấn; từng trải qua nhiều nhà tù đế quốc và bị địch thanh lọc đày
ra Côn Đảo. Phần lớn, họ là những chiến sĩ ưu tú của cuộc kháng chiến ở ngay
trong nhà tù này.
Nhà tù là một mặt trận, tù nhân là những chiến sĩ đối
mặt kẻ thù ngay trong lòng dịch. Nhiệm vụ của những người cộng sản trong tù là
phải tổ chức tù nhân thành một lực lượng kháng chiến ngay giữa sào huyệt kẻ
thù. Phải liên tục công kích địch, phá hoại cơ sở vật chất của địch, tuyên truyền
giác ngộ binh lính địch, làm suy yếu hậu phương địch, gây rối loạn hàng ngũ địch,
tạo điều kiện cho các chiến trường giành thắng lợi.
Về phương pháp đấu tranh, phải sử dụng mọi hình thức, từ đấu tranh dân
sinh dân chủ, đòi quyền sống, đòi giảm nhẹ khổ sai theo khuôn khổ quy chế nhà
tù, cho đến mức đòi thực hiện chế độ tù binh, tù chính trị theo công ước quốc tế.
Phải liên tục đấu tranh, yêu sách từ thấp đến cao để rèn luyện lực lượng tù
nhân kháng chiến và đẩy kẻ địch vào thế bị động đối phó, nhưng mục .tiêu cao nhất
là phải tự giải phóng cho mình, nếu cần sẽ sử dụng đến bạo lực cách mạng. Đó
chính là tư tưởng chiến lược tiến công mà Đảng Đảo ủy Côn Đảo quán triệt bằng
khẩu hiệu: tích cực công kích địch.
Ở Côn Đảo, lực lượng tù kháng chiến, về số lượng và tinh thần chiên đấu
có thế áp đảo bộ máy cai trị tù; về trình độ tổ chức và tác chiến thì không
thua kém địch. Trong những thời gian và hoàn cảnh nhất định thì lực lượng tù
nhân bị chia cắt và khống chế trong vòng xiềng xích, nhưng khi đi làm khổ sai
thì tù nhân có mặt ở khắp nơi, kể cả ở nhà riêng, bàn giấy, kho tàng, trại
lính, căn cứ xung yếu của chúng. Đó là cái thế “con dao kề cổ địch” mà không dễ
gì có được ở các mặt trận khác. Thế và lực đó đặt ra nhiệm vụ cho người chiến
sĩ trong tù là phải biết là sử dụng con dao cho đúng lúc để tiêu diệt kẻ thù, tự
giải phóng mình.
Đảo ủy quyết định tiến hành một cuộc chỉnh huấn chính trị trên toàn đảo
nhằm xây dựng lập trường, quan điểm và ý chí chiến đấu của khối tù kháng chiến
theo đường lối của Đảng, kể cả đảng viên và quần chúng, không trừ một người
nào. Trại tù binh được chọn làm thí điểm, lực lượng xung kích để thực hiện mọi
nhiệm vụ của Đảng bộ.
Một số cán bộ cấp đại đội và tiểu đoàn đã tham gia chỉnh huấn ở đất liền
được trưng tập vào việc biên soạn tài liệu cho cuộc chỉnh huấn. Phục vụ nhân
dân là tài liệu học tập chính, chỉ rõ phẩm chất cơ bản của người chiến sĩ, từ
nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Tài liệu mang tính chất lý luận, củng
cố quan điểm, lập trường cho các chiến sĩ cách mạng, giáo dục cho người chiến
sĩ lòng trung thành với Tổ quốc và tinh thần phục vụ nhân dân vô điều kiện.
Tài liệu thứ 2 mang tính chất thực tiễn là những bệnh trạng chính, tống
kết các căn bệnh phổ biến lúc đó. Mỗi căn bệnh đều nêu rõ hiện tượng, tác hại,,
nguyên nhân và cách sửa chữa. Bên cạnh phần lý luận và tổng kết chung, tài liệu
chỉnh huấn còn liên hệ đến thực tiễn của nhà tù Côn Đảo, tập trung vào một sô vấn
đề lớn như:
-
Nhà tù và người
tù trong chiến tranh là một thực tiễn phổ biến mang tính quy luật.
-
Những âm mưu
thủ đoạn của thực dân Pháp đối với tù kháng chiến.
-
Vị trí của lực
lượng tù nhân trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và trường kỳ.
-
Tính tổ chức
và những nguyên tắc hoạt động của người chiến sĩ cách mạng trong tù...
Ngày 19-8-1953, trại tù binh (Banh III) khai mạc đợt chỉnh huấn, kết hợp
phát động đợt thi đua lần thứ 2, học tập tài liệu Phục vụ nhân dân. Phần lý luận
được học một tháng, sau đó chuyển sang phản tỉnh, từ 20-9-1953 đến 23-10-1953
thì tổng kết.
Trong những ngày chỉnh huấn, tất cả các công tác thông tin, văn nghệ,
thi đua đều phục vụ cho chỉnh huấn. Ban xã hội toàn trại tích cực cải thiện
sinh hoạt để anh em có sức khỏe học tập. Ngày làm khổ sai đi gọn theo từng
phòng để tiện trong việc mạn đàm. Chi ủy phân công người phụ trách hướng dẫn học
tập, theo dõi thi đua. Buổi trưa các tổ mạn đàm 15 phút ở tổ. Buổi tối kiểm điểm
tổ tâm giao (tô 3 người), sau đó tiếp tục học tập ở từng toán cho đến 11 giờ
đêm mới nghỉ. Tối thứ bảy sơ kết tình hình học tập trong tuần và xem văn nghệ.
Trước ngày chuyển sang phản tỉnh, trại tù binh tố chức một ngày “căm
thù”. Hôm ấy không ai nói cười. Tất cả các gương mặt đều đăm chiêu nghĩ về tội
ác của thực dân Pháp. Bầu không khí dường như chết lặng. Khi chuyển sang phản tỉnh
thì anh em phát bệnh rất nhiều. Ban xã hội phải nấu mỗi ngày 8 vạc cháo vì rất
ít người ăn được cơm. Nhiều anh em khóc nức nở trước đồng đội khi nghĩ về những
sai lầm, khuyết điểm của mình.
Tối 23-10-1953, trại tù binh tổng kết đợt chỉnh huấn. Các phòng đều làm
lễ, phát phần thưởng cho các chiến sĩ chỉnh huấn, chiến sĩ học tập, chiến sĩ phản
tỉnh và hướng dẫn viên điển hình. Anh em ca hát và biểu diễn các điệu vũ: Con
chim vàng, Vào Đông Khê, Nông lúc vũ, Quân chiến vũ... Điệu Quân chiến vũ được
cải biên từ những bài tập chiến thuật, võ thuật đế che mắt đích, hợp pháp hóa
việc tập quân sự dưới hình thức văn nghệ trong tù, có động tác “Tiến - Tiến -
Tiến”, cầm súng xông lên chĩa thẳng vào mặt quân thù làm anh em rất thích thú.
Tháng 11 năm 1953, cuộc chỉnh huấn chuyến sang Banh I và Banh II (tù
án). Khi lực lượng tù binh chỉnh huấn thì tù án đã tiến hành thông tin, tuyên
truyền và sắp xếp lại tô chức. Rút kinh nghiệm đợt chỉnh huấn của tù binh, tù
án thực hiện phương pháp học tập theo các bước:
Các khám tù khổ sai học trong một tuần. Buổi tối lên lớp thảo luận. Ngày
đi làm thì đào sâu suy nghĩ và mạn đàm với nhau. Khu biệt lập (Khám 8-9-10,
Banh II) có điều kiện học kỹ hơn (cả ngày), thời gian dài hơn (2 tuần). Những
ai đã từng tham gia đợt chỉnh huấn ấy đều xác nhận rằng, trong đời mình, chưa có
lần nào có được tinh thần phê bình và tự phê bình một cách sâu sắc và chân
thành như lần chỉnh huấn chính trị tại Côn Đảo.
Những anh em làm công tác văn nghệ cũng được tham dự một cuộc chỉnh huấn
văn nghệ. Anh em được học tập các vấn đề về lịch sử văn học, thể loại văn học,
phương pháp sáng tác, quan điểm sáng tác. Các nguyên tắc dân tộc - đại chúng và
khoa học của nền văn học mới được quán triệt sâu sắc. Chuyên đề “lịch sử văn học”
đã giới thiệu khái quát nền văn hóa nước nhà qua các giai đoạn phát triển từ
văn hóa phong kiến đến trào lưu văn học lãng mạn rồi văn học hiện thực cách mạng.
Chuyên đề “thể loại văn học” đi sâu vào thơ ca là loại hình phổ biến nhất trong
quần chúng và trong tù.
Đợt chỉnh huấn văn nghệ đã tạo ra một bước chuyển biến mới trong phong
trào văn nghệ ở Côn Đảo. Da đen đứng dậy (Dehout Le Noir) và Nhân dân miền Nam
kính yêu Bác Hồ Chí Minh là hai bài hát được sáng tác sau đợt chỉnh huấn văn
nghệ, có tác dụng rất lớn trong công tác địch vận và đoàn kết khối tù kháng chiến,
thôi thúc họ bước vào giai đoạn đấu tranh quyết liệt sắp diễn ra. Các bài hát
Không đi lính; Không hiến máu cũng góp phần tích cực hưởng ứng cuộc vận động của
Đảo ủy chống chủ trương của địch bắt tù nhân đi lính cho Bảo Đại và lấy máu tù
nhân tiếp cho thương binh chúng. Hàng trăm bài thơ, hàng chục bản nhạc còn lưu
lại được đến ngày nay là một di sản quý góp vào kho tàng văn học của dân tộc ta
trong giai đoạn 9 năm chống Pháp.
Trong thời điểm ấy, chỉnh huấn chính trị cũng như chỉnh huấn văn nghệ
không tránh khỏi sự ấu trĩ đương thời. Song, thành quả của cuộc chỉnh huấn lúc ấy
là rất lớn, là cơ bản. Là cuộc vận động chính trị - tư tưởng sâu sắc của những
người tù kháng chiến, đợt chỉnh huấn này giúp họ nâng cao giác ngộ giai cấp,
giác ngộ dân tộc, tiến công vào những tư tưởng cá nhân, cơ hội, cầu an, quan
liêu, địa vị, nhằm gột sạch những thói hư tật xấu, để rồi sau đó họ thanh thản,
phấn khởi, hăng say bước vào cuộc chiến đấu một mất một còn với thực dân Pháp
xâm lược.
Sau khi tổng kết đợt chỉnh huấn ở trại tù binh, Đảo ủy chỉ đạo cuộc đấu
tranh đòi thực hiện chế độ tù binh và cải thiện chế độ lao tù, với các yêu
sách:
-
Xóa bỏ chế độ
tù án, không thừa nhận các bản án mà thực dân Pháp đã xử, công nhận tất cả là
tù chiến tranh. Thực hiện chế độ tù binh, tù chiến tranh theo Công ước Giơnevơ
1949.
-
Không được cho
tù ăn gạo mục, ăn thịt bàn chải (thịt lợn không cạo lông).
-
Phải cung cấp
rau tươi, đủ tiêu chuẩn ăn bất kỳ trong hoàn cảnh nào.
-
Không được bắt
làm khổ sai nặng nhọc.
-
Không được cùm
xiềng đánh đập, phạt xà lim.
-
Bỏ quần áo tù,
phát quần áo nhà binh.
-
Được nhận hàng
tiếp tê một cách đầy đủ, gồm cả sách báo, giấy bút, thuốc chữa bệnh...
-
Cung cấp thông
tin, báo chí theo yêu cầu.
-
Người ốm phải
được chữa bệnh, bệnh nặng phải đưa về Sài Gòn chữa, người già yếu quá tuổi, người
mang bệnh thần kinh, bệnh truyền nhiễm, thương tật nặng phải được phóng thích.
-
Người tù tự quản
trong trại, người Pháp chỉ ở ngoài trại, khi cần phải đi làm khổ sai việc gì,
thì đại diện tù nhân tự phân bổ.
Đảo ủy chỉ đạo giới hạn cuộc đấu tranh trong phạm vi Trại tù binh nhằm
khảo sát thực tế kết quả xây dựng lực lượng của ta và thảm dò phản ứng của địch.
Yêu sách đòi xóa bỏ chế độ tù án, chuyến tất cả thành tù chiến tranh (prisonier
de guerre) là nấc thang cao nhất trong việc thăm dò phản ứng của địch.
Trong thời gian tù binh đấu tranh thì tù án tiếp tục chỉnh huấn, củng cố
tổ chức, xây dựng lực lượng, làm tốt công tác binh vận, địch vận, giữ vừng
thông tin liên lạc, hỗ trợ cho cuộc đấu tranh. Hình thức đấu tranh là đưa yêu
sách đòi thực hiện chế độ tù binh theo Công ước quốc tế. Nếu không giải quyết
yêu sách thì đình công, không một ai đi làm. Khối tù binh tổ chức học thuộc nội
dung Công ước Giơnevơ 1949 về chế độ tù binh từ điều 21 đến 25 đế đấu lý với địch.
Ngày 3-11-1953, đại diện tù nhân đưa yêu sách đấu tranh. Các khám đều
tuyên bố đình công không đi làm. Địch đối phó bằng cách không làm thì không cho
ăn. Giám đốc Blăng 1 báo động toàn trại lính, cho bố phòng chặt chẽ tại Banh
III và cho lính vào cướp hết tư trang, lương thực dự trữ của tù nhân, lục tìm vũ
khí. Tù nhân hò la phản đối và kêu gọi binh lính người Phi giữ thái độ trung lập,
không đàn áp tù nhân.
Ngày 8-11-1953, địch chuyển tất cả sĩ quan khám 8. Tổng đại diện Trại tù
binh tên là Nam bị bắt, Nam không chịu được đòn, nhảy ra hàng giặc, chỉ cho chúng
khi hầm bí mật ở bếp banh III, lấy đi 4 thùng tài liệu. Trong tình hình đó, Đảo
ủy chỉ định Hoàng Văn Bảo làm tổng đại diện 2, duy trì cuộc đâu tranh đến thắng
lợi.
Ngày hôm sau, trại tù binh tiếp tục đưa yêu sách như một tối hậu thư. Đại
diện tù nhân tuyên bố, nếu nhà tù không giải quyết, họ sè gửi kiến nghị đến ông
Đuyarăng (Durand) đại diện hội Hồng thập tự quốc tế. Giám đốc nhà tù trả lời bằng
cách đưa 2 trung đội lính Âu - Phi vào đàn áp, bắt trên 80 tù nhân trung kiên
do tên Nam tố giác đưa sang khu biệt lập Banh III mà tù nhân quen gọi là Chuồng
Cọp Pháp, nơi có xà lim xây bằng đá, tường dày, mái cao, trên có dàn song sắt
và hành lang cho lính đi tuần. Đây là lớp tù nhân đầu tiên bị giam ở Chuồng Cọp
này.
Bị biệt giam, ngăn cách và không chế, thông tin
liên lạc bị ách tắc, cuộc đấu tranh coi như kết thúc. Trong khi đó, chúa đảo nhận
được chỉ thị từ Sài Gòn hướng dẫn việc giải quyết yêu sách đấu tranh. Tù binh
được ăn thịt lợn, mỗi tuần 2 lần, được đọc thường xuyên một số tờ báo như Paris
Match, Caravelle, Thần Chung; được nhận đồ tiếp tế; được cấp quần áo nhà binh;
được cung cấp gạo trắng, bắp cải, rau xanh từ Sài Gòn chở ra; được khám bệnh và
chữa bệnh; những người bị bệnh nặng được đưa về Sài Gòn chữa; thương bệnh binh
nặng được trả tự do.
1.
Thiếu tá
Aloise Blanck nhận Giám đốc thay Giátty từ mùa hè 1953.
2.
Nam nguyên là
cán bộ tuyên truyền tỉnh Bắc Giang, lảm Tổng đại diện từ mùa hè 1953. Hoàng Văn
Báo (Bạch) làm Tống đại diện trại tù binh một thời gian ngắn; sau đó là anh
Dương Công Bình, rồi đến anh Phụng (Kim Tân). Anh Vũ Hạnh là đại diện tranh đấu
của Đảo ủy khi cần thiết. Ở khối tù án, anh Trịnh Vàn Hà vẫn là đại diện.
Kiểm điểm lại một tuần lễ đình công tranh đấu, Đảo ủy nhận định tinh thần
và lực lượng tù nhân đã mạnh mẽ hơn trước. Địch phản ứng nhưng có mức độ. Đảo ủy
tiếp tục phát động tinh thần tranh đấu từ thấp đến cao, với các yêu sách nhỏ đến
lớn.
Các sở tù án cũng tích cực đấu tranh chống khổ sai. Hình thức đấu tranh
được vận dụng linh hoạt. Tùy tình hình, chọn hình thức đấu tranh cho phù hợp.
Có khi trực diện yêu sách, có khi đưa đơn, kiến nghị tập thể; địch không giải
quyết thì có thế đình công tuyệt thực. Hình thức phổ biến lần này là lãn công
phá hoại.
Thực hiện chỉ thị của Đảo ủy, tù nhân Sở Lưới đã phá hỏng chiếc xà lan gỗ.
Phương tiện vận chuyển vào Cầu Tàu chỉ còn một chiếc sà lan sắt, trọng tải 40 tấn.
Nhiều thuyền trưởng chở hàng ra đảo đã phàn nàn là việc bốc dỡ quá chậm. Giám đốc
nhà tù phải gửi công vần để xin thêm 2 chiếc sà lan sắt.
Sở Củi và Sở Lò Vôi cũng liên tục đấu tranh đòi hạ mức khổ sai, lãn công
phá hoại làm cho vôi ra lò ít, không đủ cung cấp cho việc xây dựng. Gỗ làm nhà
tù phải chở từ đất liền ra, vì gỗ ở Côn Đảo không đủ quy cách. Sẵn gỗ, kíp thợ
mộc cắt vụn ra đóng đồ cho xếp banh, đội, quản... theo yêu cầu của chúng. Kíp
Chỉ Tồn don hàng thì làm rơi, làm vỡ, quăng cả xi măng, gạch, ngói xuống biển.
Phá hoại cơ sở vật chất, làm suy yếu bộ máy, phương tiện chiến
tranh của địch bao giờ cũng là tư tưởng thường trực của những
người kháng chiến. Năm 1951, kíp tù binh tu sửa Banh III đã đập vỡ ngói, cắt vụn
gỗ làm tổn hao nhiều vật liệu và trì trệ việc tu sửa. Kíp làm đường ở Đầm thì để
nước lũ cuốn trôi chiếc cầu trên đường ra Đầm bằng cách đổ một lớp móng cầu bằng
toàn cát và sỏi.
Đầu năm 1953, trong một báo cáo gửi Thống đốc Nam Kỳ, chúa đảo đã báo động
về tình trạng nhà cửa ở Côn Đảo: “Tất cả đều trong tình trạng hư hỏng (...) Nếu
con số phạm nhân phải giam giữ tại Côn Đáo vượt qua 2.100 thì phải xây dựng lại
Banh 111 và trừ bức tường ngoài còn dùng được, còn thì phải xây dựng mới hoàn
toàn (...). Nếu như Banh III ấy được xây dựng lại thì địa điểm phải dời sang chỗ
khác. Nhà banh này trước kia được xây dựng tại một nơi. không đủ điều kiện vệ
sinh; trong mùa mưa, từ tháng 5 đến tháng 11, sân của nhà banh biến thành một
cái ao rộng và có lẽ đây là một trong những nơi duy nhất mà nước không được
trong sạch, chỉ gọi là dùng tạm được cho tắm rửa!\
Mấy chuyến tù liên tiếp ra trong sáu tháng đầu năm 1953 đã nâng sô tù
Côn Đảo lên quá 2.300. Thực dân Pháp cấp tốc chở vật liệu ra và sử dụng lực lượng
tù binh làm nhân công xây dựng nhà banh số 4, chuẩn bị chỗ để đưa thêm 500 tù
binh ra Côn Đảo.
Đảng ủy trại tù binh thảo luận, có nhiều ý kiến chống việc xây dựng nhà
banh số 4. Tù nhân không bao giờ lại xây nhà tù để giam mình. Song có ý kiến lại
cho rằng nếu tù binh không xây thì địch _sẽ lấy tù án, tù thường phạm, hoặc đưa
thợ ở đất liền ra xây. Chi bằng ta cứ làm và chống bằng hình thức lãn công, phá
hoại. Đảo ủy chấp thuận và chỉ thị cho Chi ủy Banh III và Liên khu tù binh phá hoại
thật nhiều nguyên vật liệu, lãn công, làm chậm đến mức tối đa việc xây dựng
Banh IV. Các sở tù khác cũng nhận được chỉ thị lãn công, phá hoại việc xây lao.
Kíp thợ hồ trộn thật nhiều xi măng vào vữa, trộn nhiều vữa vào buổi chiều
để hết giờ làm là đổ bỏ. Kíp thợ mộc thì cắt vụn những thanh gỗ dài dùng làm vì
kèo, xà nhà để chèn chống. Kíp vận chuyển đập phá vật liệu. Có lần anh em còn
làm kênh mái tôn trước cơn mưa để nước vào làm hỏng hàng chục tấn xi măng tại
kho dã chiến ở công trường xây dựng Banh IV. Các loại đinh 20cm được chuyển cho
bộ phận tạo tác đế rèn dao găm, đục, choòng, búa chờ ngày phá ngục. Anh em còn
xây những đoạn tường rỗng, cột rỗng ở những góc khuất trong khám để tù nhân lớp
sau sử dụng làm hầm bí mật.
Có kíp tù đề ra những chỉ tiêu cụ thể, tối thiểu mỗi ngày mỗi người phải
đập bể 3 viên gạch, 3 viên ngói, đổ bỏ 3 xẻng xi măng. Buổi tối về các tổ tâm
giao đều kiểm điểm công tác thi đua theo chỉ tiêu phá hoại. Ai xây ít thì biểu
dương, ai xây nhiều thì phê phán. Kíp tù binh làm tốt công tác Âu Phi vận nên bọn
lính dễ dãi. vắng xếp banh là chúng mặc cho tù muốn nghỉ, muốn mạn đàm chính trị
hay tập võ thuật cũng được.
Tên chủ thầu xây Banh IV biết tù nhân tổ chức phá hoại. Hắn thương lượng
với đại diện tù nhân, nếu Liên đoàn cho anh em làm cẩn thận, đừng phá hoại thì
y sẽ nói với Giám đốc cải thiện đời sống, cho ăn thêm thịt cá. Giám đốc nhà tù
thì dọa dẫm anh Phan Cơ, đại diện kíp tù binh rằng: “Anh nói lại với Ban chấp
hành các anh là phá ít thôi, lãn công ít thôi, cứ làm như thế này thì tôi mất đầu
mà các anh cũng chẳng được yên đâu”.
Anh Độ, đại diện một kíp bị phạt xà lim 3 tháng vì phá hoại quá nhiều.
Các anh Phạm Văn Dần, Đinh Đăng Đổ ở kíp Hoàng Sâm dọn tàu cũng bị đánh chết đi
sống lại nhiều lần vì phá hoại. Nhưng sự đàn áp, dọa dẫm và thương lượng của
chúng không kết quả. Trong 2 năm 1953-1954, có thời kỳ mỗi tuần có 2 chuyến tàu
chở vật liệu ra đảo, mỗi ngày có hàng trăm lao động khổ sai mà cho đến tháng
8-1954 (khi trao trả), cả khu Banh IV chỉ được mấy bức tường xây nham nhở và những
đống gạch ngói vụn.
Trong thời kỳ này, Liên khu tù binh còn nhiều hình thức đấu tranh nhằm
tiêu hao cơ sở vật chất của địch. Căn cứ vào Công ước quốc tế về vấn đề tù
binh, anh em đấu tranh đòi có báo đọc hằng ngày, dược phát quần áo, giày mũ nhà
binh, đòi được ăn uống đối xử đúng chế độ. Địch phải nhượng bộ, đưa một số báo
tiếng Pháp và những tờ báo phản động ở Sài Gòn cho đọc. Báo chí của địch chỉ có
bộ phận tuyên truyền được đọc, chọn lọc tin tức rồi biên soạn bản tin nội bộ để
phổ biến, còn lại giao cho Ban xã hội cắt nhỏ, chia đều cho các khám dùng vào
việc vệ sinh. Quần áo chúng phát, anh em cất để dành cho những chuyến vượt ngục.
Một số kíp tù khổ sai của tù án có điều kiện vẫn tiếp tục vượt ngục.
Tháng 2 năm 1953, Huỳnh Văn Sang và Trần Nhị liên kết với 3 nhân viên Rờsẹc người Miên là-Danh Căn, Danh Chăn và Trao Diên vượt
ngục thành công. Giữa mùa hè 1953 gió chướng đã lặng hẳn, nhà tù đưa hơn 60 tù
nhân ở Khám 4 và Khám 5 Banh I sang Bảy Cạnh kéo gỗ. Bốn anh Thanh, Hơn, Nguyễn
Đức Triêm, Phan Văn Giàu được giao nhiệm vụ đóng thuyền, dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của các anh Lê Thành Tích (Đảo ủy viên), Trần Văn Đĩnh, Đỗ Văn Đích (chi ủy
viên), trong kíp kéo cây. Buổi tối gácdang Obênăng em1 và lính lên
ngọn đèn pha trên đỉnh núi ngủ. Chỉ có 4 nhân viên Rờsẹc người Khơme ngủ với tù
nhân ở lán dưới chân núi. Khi mới đóng được một khung thuyền thì có dấu hiệu lộ.
A Muội, một thiếu nữ người Hoa ở Chợ Lớn theo tốp công nhân người Hoa ra sửa chừa
pha đã thông báo cho tù nhân biết rằng cô nghe được tin nhà tù cử Tư Mách cầm đầu
một tốp Rờsẹc 3 tên, cùng 3 con chó săn sang Bảy Cạnh phối hợp với 4 Rờsẹc ở Bảy
Cạnh truy lùng. Tư Mách là tên ác ôn rất thạo nghề truy lùng tù trốn.
Chi ủy kíp kéo gỗ quyết định vận động nhóm nhân viên Rờsẹc ở Bảy Cạnh
cùng tham gia vượt ngục. Anh Hơn với sự trợ giúp của Trần Văn Đĩnh, Phan Văn Đại
đã vận động được 4 nhân viên Rờsẹc người Khơme tham gia vượt ngục. Họ cùng nhau
chuyển khung thuyền đến một vị trí hiếm trở và kín đáo.
Phan Văn Đại cùng một số anh em tố chức 4 đêm văn nghệ liên tục trên bãi
biển để che mắt Tư Mách và tốp Rờsẹc mới qua. A Muội cũng hết lòng giúp đờ tù
nhân từ trang phục cho những đêm văn nghệ đến vật liệu, thực phẩm cho cuộc vượt
ngục và cả việc lôi kéo Tư Mách vào tiệc nhậu suốt ngày, đánh bạc, hút xách suốt
đêm, làm tiêu tan cuộc truy lùng của hắn. Anh Trần Văn Đĩnh nguyên là chiến sĩ
công an Hà Nội đã tổ chức lực lượng an ninh, không chế một số tù nhân tinh thần
yếu, đề phòng nhảy ra hàng giặc. Một loạt biện pháp ráo riết được áp dụng đồng
bộ đã ngăn chặn được nguy cơ bị lộ.
Một đêm cuối thu 1953, 4 nhân viên Rờsẹc cùng 40 tù nhân kíp kéo gỗ ở Bảy
Cạnh đã xuống thuyền giương buồm vượt ngục. Thuyền ra khơi được 10 cây số thì
nước vào nhiều, đành phải dạt vào Hòn Cau để tu sửa lại. Vừa cập bâi Hòn Cau
thì sóng xô thuyền vào đá ngầm vỡ tan. Hơn bổn chục người đã sống tại Hòn Cau bằng
đợt đủng đỉnh, chuối, dừa, thịt vích trong khi máy bay, tàu chiến dịch săn đuổi
trên biển. Hai tuần sau họ lại tiếp tục hạ thủy một chiếc bè mới đóng. Gió chướng
chưa nổi lên nên sáng ra họ vẫn lênh đênh cách Hòn Bảy Cạnh không xa. Địch phát
hiện được và đưa tàu ra bắt lại.
Trên Hòn Cau còn lại Võ Nguyên, Nguyễn Đức Triêm và Phan Văn Giàu. Ba
người này đề xuất phương án nên chia thành nhiều tốp nhỏ, tự tổ chức phương tiện
vượt lẻ nhưng không được chấp nhận nên ba người xin phép tập thể được ở lại tìm
cách đi sau. Đêm đến, 3 người ôm khúc tre khô, dìu nhau bơi trở lại hòn Bảy Cạnh
đế tránh cuộc truy lùng. Họ gặp được bác Tám Già, một người tù thường phạm vừa
đến làm khổ sai ở Bảy Cạnh và cùng bác Tám kết bè vượt ngục lần nữa. Vải may buồm
sẽ xin A Muội. Nhưng tốp truy lùng của nhà tù đả phát hiện được dấu vết đốn
cây, kết bè. Bác Tám Già chỉ lối cho 3 người tù trẻ trốn đi rồi bác ở lại nhận
hết, chịu đòn và chịu phạt. Nhà tù tiếp tục truy lùng và phát loa gọi hàng.
Đêm ấy “ba con rái biển” lại kèm nhau bơi về Côn Đảo, sau khi đẩy chiếc
bè trôi ra biển để đánh lừa địch. Họ trốn trong hang đá trên Núi Chúa và liên hệ
được với tù nhân kíp đập đá (khu Trần Phú). Kíp đập đá đã nhường cơm, sẻ áo
nuôi tốp vượt ngục 3 tháng liền để chuẩn bị cuộc vượt ngục lần thứ 3.
Hàng ngày, Nguyên và Giàu may vải bọc thuyền trong hang sâu, Triêm xuống
chân núi phụ in ấn tài liệu cho Đảo ủy và nhận đồ tiếp tế của kíp đập đá. Sơn vải
một phần do kíp đập đá tích lũy được, phần do Trương Qua, Trân Bảo Trung, Hàn
Giang Nguyên (Phồn) và nhóm tù người Hoa ủng hộ. Võ Bằng, Bí thư phân chi bộ
khu Trần Phú trực tiếp liên hệ, tiếp tế và giao nhiệm vụ cho tốp vượt ngục. Đỗ
Hoàng Trừ, phó bí thư Đảo ủy làm khổ sai ở Sở Củi cũng đã gặp gỡ, chỉ đạo và
giúp đỡ vật chất, phương tiện cho tốp vượt ngục. Đảo ủy đã giới thiệu Trần Văn
Tường, một người tù thường phạm thạo nghề thuyền bè, sông nước cùng đi với họ.
Tường trốn lên hang núi ở một tuần rồi cùng Nguyên - Triêm - Giàu ôm vải
bọc thuyền đã may sẵn và quét sơn qua mũi Lò Vôi vào đêm Nôen 24-12-1953. Ngoài
tấm vải bọc chiếc thuyền đủ 4 người đi mà họ ôm theo, tốp vượt ngục còn để lại
3 tấm lớn hơn mà họ may tặng lại anh em, một cho kíp đập đá, một cho nhóm người
Hoa, một cho Đảo ủy.
Bốn người đã chặt mây, ghép khung thuyền tại mũi Lò Vôi và hạ thủy vào
đêm 31-12-1953, lúc bọn Pháp đang say sưa đón giao thừa.
Chiếc thuyền con lướt
qua vịnh Côn Đảo, qua mũi Cá Mập rồi căng buồm nhằm thẳng hướng tây. Chuyên vượt
ngục ấy lạc về tận đất Xiêm. Võ Nguyên, Nguyễn Đức Triêm, Phan Văn Giàu và Trần
Văn Tường lại bị nhà cầm quyền Xiêm trả họ cho chính quyền bù nhìn Nam Kỳ. Sau
đó, họ được chuyển sang trại Hanh Thông Tây rồi được trao trả vào cuối năm
1954.
Đại hội Đảng bộ Côn Đảo lần thứ IV
Sau đợt chỉnh huấn, Đảo ủy nhà tù đã xét kỷ luật một số đảng viên có nhiều
sai phạm, dù là sai phạm ở ngoài đời, khi bị bắt hay sa sút ý chí khi ở tù. Một
số cán bộ cấp tỉnh, cấp khu có sai phạm nghiêm trọng cũng bị kỷ luật khai trừ.
Án kỷ luật được xem xét một cách dân chủ nhưng nghiêm khắc. Nhiều đồng chí từng
là đảng viên, chi ủy viên, phân chi ủy trong Đảng bộ cũng tự kiểm thảo, thành
khẩn với những khuyết điểm của mình và xin nhận mức kỷ luật thích đáng, từ cảnh
cáo cho đến khai trừ.
Đại hội Đảng bộ nhà tù Côn Đảo tiến hành vào cuối năm 1953. Nguyễn Văn
Thi và Vũ Hồng Vũ góp nhiều ý kiến và soạn thảo tài liệu giúp Đảo ủy chuẩn bị Đại
hội. Phần lớn việc đánh giá tình hình, xây dựng chủ trương hoạt động, soạn thảo
báo cáo, in ấn tài liệu đều thực hiện ở Banh III. Nguyễn Văn Nghĩa và Lê Đình
Thụ hằng ngày qua mạng lưới thông tin mà báo cáo tình hình và trao đổi với các
Đảo ủy viên ở khối tù án.
Sau khi nhận được báo cáo dự thảo, các chi bộ tổ chức thảo luận, góp ý
và cử đại biểu tham dự Đại hội Đảng bộ. Các đại biểu khai bệnh để được gặp nhau
tại Nhà Thương Côn Đảo vào buổi sáng một ngày cuối năm 1953. Đại biếu phải thuộc
làu đề án nghị quyết và các ý kiến đóng góp của chi bộ mình. Gặp nhau chỉ trao
đổi ngắn gọn điều gì nhất trí, điều gì không nhất trí, bầu người nào, không bầu
người nào. Các nhóm thảo luận nhanh chóng và biểu quyết miệng ngay tại chỗ.
Nhóm trưởng ráp lại với nhau một lần nữa rồi báo cáo kết quả về cho Ban chỉ đạo
Đại hội.
Đại hội nhất trí với những đánh giá của Đảo ủy về tình hình địch ta ở
Côn Đảo, về bước chuyển trong tư tưởng, tổ chức và hoạt động của tù kháng chiến
sau đợt chỉnh huấn. Đại hội nhận định cuộc kháng chiến đang bước vào giai đoạn
phản công giành thắng lợi quyết định. Để chuyến kịp với tình hình và đủ khả
năng ứng phó với những tình huống phức tạp, Đảo ủy phải lãnh đạo một cách toàn
diện, không chỉ trong phạm vi nhà tù mà trên toàn địa bàn Côn Đảo. Đảo ủy phải
thực hiện đầy đủ sự lãnh đạo đối với cả tù nhân các dân tộc Việt - Miên - Lào -
Thái - Trung Hoa, cả số làm Rờsẹc và số theo Liên xã cũng như tất cả thầy chú
người Việt, lính Phi, lính Pháp, gácdang. Khi có đủ điều kiện sẽ thành lập Ủy
ban kháng chiến hành chính để thay mặt Chính phủ lãnh đạo cuộc kháng chiến trên
toàn địa bàn Côn Đảo.
Đại hội lần thứ 4 của Đảng bộ Côn Đảo còn xác định rõ nhà tù là một mặt
trận trong cuộc kháng chiến, tù nhân là một lực lượng của kháng chiến. Trách
nhiệm của cán bộ, đảng viên trong cuộc chiến tranh giải phóng này là dù bất kỳ ở
đâu, trong hòan cảnh nào, đảng viên cũng phải tổ chức lại, lãnh đạo quần chúng
đấu tranh với kẻ thù. Đại hội đã căn bản giải tỏa được “đám mây mù” về tư tưởng
trong một số cán bộ, đảng viên lúc đó cho rằng “ở tù là có tội”, “bị Đảng bỏ
rơi, không chỉ đạo mặt trận tù nhân”.
Đại hội quyết định đẩy mạnh các mặt hoạt động của tù nhân Côn Đảo, nhất
là công tác thông tin liên lạc, công tác Âu - Phi vận, việc tranh đấu hàng
ngày. Phải chuyển hẳn những cuộc đấu tranh theo kiểu “phản kháng thụ động” sang
thế chủ động tiến công. Tích cực công kích địch, làm cho chúng đối phó không kịp,
rối loạn hàng ngũ, phân tán lực lượng suy yếu dần mòn. Đại hội cũng nhận định Mỹ
đã nhảy vào Đông Dương, Pháp đẩy mạnh xây dựng lực lượng ngụy quân, lực lượng
cơ động chiến lược và chuyển hướng chiến lược, củng cố vùng đồng bằng Nam Bộ.
Vì thế, kháng chiến có thể còn nhiều tình huống phức tạp, Đảng bộ phải chuẩn bị
tích cực để đón thời cơ, tự giải phóng mình, giải phóng Côn Đảo.
Đại hội bầu Nguyễn Văn Thi làm Bí thư Đảo ủy; Đỗ hòang Trừ là Phó bí
thư, kiêm Chủ tịch Liên đoàn tù nhân kháng chiến; Vũ Hồng Vũ, Thường vụ Đảo ủy,
phụ trách công tác chính trị, tư tưởng và tranh đấu, dự kiến sẽ làm Chủ tịch Ủy
ban kháng chiến hành chánh Côn Đảo khi có điều kiện. Ban chấp hành Đảo ủy còn
có: Nguyễn Văn Nghĩa phụ trách Đảng vụ; Lê Khắc Thành phụ trách chi bộ tù án ở
Banh II; Trần Công
Hiệu, phụ trách chi bộ tù án ở Banh I; Hoàng Nam tức Phan Xuân Tiềm phụ
trách chi bộ tù áo trắng và các sở ngoài; Lê Đình Thụ, đặc trách công tác liên
lạc giữa Đảo ủy với Thành ủy Sài Gòn - Gia Định và Trung ương Cục.
Sau nhiều đợt đấu tranh và vận động, anh Duy tức Đoàn Duy Thành bị áp-xe
phổi nặng, anh Trần Mạnh tức Vũ Quang Đạo bị thương hỏng một mắt khi lao động
khổ sai được đưa về Sài Gòn chữa bệnh cùng một số người bệnh khác. Hai anh được
giao nhiệm vụ tìm mọi cách báo cáo tình hình ở Côn Đảo với Đặc khu ủy Sài Gòn -
Chợ Lớn - Gia Định và Trung ương cục. Bản báo cáo do Đảo ủy soạn thảo, hai anh
được học thuộc, nhập tâm dưới sự hưởng dẫn trực tiếp của các anh Nguyễn Văn
Thi, Bí thư Đảo ủy; Vũ Hồng Vũ; Thường vụ Đảo ủy và Lê Đình Thụ.
Tháng 10 năm 1953, Đoàn Duy Thành được trả tự do ở Sài Gòn. Trần Mạnh
thì vượt ngục ở Nhà thương mắt. Cả hai đều lần lượt đến nhà bà Nguyễn Thị Năm ở
Xóm Chiếu (quận 4, Sài Gòn) là cơ sở giao liên của Thành ủy theo mật hiệu mà
anh Lê Đình Thụ giao cho. Từ đó, các anh gặp được Đặc khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn
- Gia Định, Trung ương cục và Trung ương. Ngoài việc báo cáo tình hình, các anh
còn có nhiệm vụ xin ý kiến và sự chi viện của Trung ương cho kế hoạch giải
thoát toàn đảo lần thứ 2 và tìm mọi cách thông tin ra đảo.
Năm kiến nghị của Đảo ủy với Trung ương đều tập trung cho kế hoạch giải
thoát:
-
Gửi cho xin những
chính sách mới để học tập và để kịp thời phối hợp với đất liền để giải thoát (sợ
lỡ thời cơ địch sẽ đem đi nơi khác xa hơn).
-
Xin chỉ thị về
kế hoạch xây dựng cơ sở và kế hoạch giải thoát.
-
Giúp đỡ kế hoạch
giải thoát (...)
-
Cho xin một
máy vô tuyến điện nhỏ gửi ra.
-
Tháng 1, 2 sẽ
tổ chức một cuộc giải thoát, đề nghị với Trung ương - phân cục miền Nam đón ở
khu Bạc Liêu... 1
Ban tham mưu quân sự do anh Vũ Hạnh phụ trách giúp Đảo ủy phác thảo kế
hoạch giải thoát và tổ chức đạo quân ngầm làm lực lượng xung kích tác chiến.
Trước mắt, Đội quân ngầm có nhiệm vụ bảo vệ lãnh đạo; không chế những tên phản
động chưa cải tạo được; tự chế tạo vũ khí, luyện tập chiến thuật, võ thuật; vẽ
bản đồ và xây dựng phương án tác chiến. Khi thời cơ cho phép, Đội quân ngầm sẽ
là lực lượng xung kích đánh chiếm các vị trí quan trọng trên đảo, phối hợp với
lực lượng tù kháng chiến ở các cơ sở giải thoát toàn bộ tù nhân. Hầu hết các
cán bộ quân sự cấp trung đội, đại đội và tiểu đoàn đều được xung vào Đội quân
ngầm. Tổ tham mưu trinh sát có các anh Văn Bằng (tổ trưởng), Ngô Đình Lại, Nguyễn
Ngọc cầm, Trần Dược; tổ địch vận có các anh Độ, Nghĩa, Thành, v.v... toàn đảo
thực hiện nếp sống quân sự hóa, gắn sinh hoạt, học tập, lao động khổ sai của từng
toán (10 người, theo mâm ăn) với tiểu đội chiến đấu khi xung trận. Các tổ trưởng
đảng đều trực tiếp làm toán trưởng trong sinh hoạt và làm tiểu đội trường khi
tranh đấu. Riêng lực lượng tù án lúc đó đã tổ chức được 80 toán (tiểu đội chiến
đấu). Kíp hòang Sâm đã tổ chức được một trung đội gồm 32 cán bộ, chiến sĩ phụ
trách phương án đánh chiếm tàu hàng. Trại tù binh được tổ chức thành một tiểu
đoàn.
Từ kinh nghiệm cuộc bạo động 12-12-1952, lần này Đảo ủy chỉ đạo phải
trang bị ngay vũ khí. Lực lượng xung kích phải được huấn luyện chu đáo, đánh
nhanh, chắc thắng, không để sổng địch; phải tổ chức riêng một lực lượng và phương
án cướp trạm vô tuyến điện ở Cầu Tàu và đài vô tuyến điện ở Bảy Cạnh.
Những tháng cuối năm 1953, phương án võ trang cướp đảo vượt ngục được
ráo riết chuẩn bị. Tổ sản xuất vũ khí rèn được hàng trăm dao găm từ đinh
buloong. Tổ binh vận lấy được cả súng và lựu đạn. Tổ trinh sát lợi dụng lúc đi
làm khổ sai hoặc đi lễ nhà thờ mà quan sát, vẽ bản đồ Côn Đảo, sơ đồ từng khu vực
bố phòng. Lực lượng xung kích tập võ thuật, chiến thuật.
Công tác thông tin, tuyên truyền văn nghệ ở các khám tù đều hướng vào mục
tiêu tự giải phóng. Mục tiêu cao nhất của đợt chỉnh huấn (cuối năm 1953 đầu
1954) cũng nhằm nâng cao giác ngộ giai cấp, giác ngộ dân tộc, đồng thời củng cố
quyết tâm tự giải phóng mình và giải phóng Côn Đảo khi có thời cơ.
Trong thời kỳ này, Tổ binh vận còn mở được một lớp tập huấn luyện chiến
tranh nhân dân cho binh lính người Phi. Từ môi đồng cảm giữa hai dân tộc cùng
chung kế áp bức là thực dân Pháp cộng với lòng cảm phục những người tù Côn Đảo,
binh lính người Phi đã thích thú tìm hiểu về cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân Việt Nam; về Chủ tịch Hồ Chí Minh, về Đại tướng Võ Nguyên Giáp; tìm hiểu
về kinh nghiệm giành chính quyền, kinh nghiệm kháng chiến bảo vệ nền độc lập
dân tộc.
Bài học về chiến tranh nhân dân được những người
lính Phi đặc biệt quan tâm. Có tốp lính dẫn tù binh đi làm đã thay phiên nhau,
người gác, người ngồi vây quanh nghe tù nhân giảng bài. Khi những “người thầy”
này bị phạt trong biệt lập thì chính họ vừa canh gác tiếp tế, liên lạc, vừa
nghe giảng qua khe cửa sắt. Sau này, khi thực dân Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ,
nhiều binh lính gốc Phi đã trở về tham gia cuộc đấu tranh võ trang giành độc lập
của nhân dân Angiêri. Cách mạng thành công, trở thành những người lãnh đạo Nhà
nước và quân đội Angiêri, họ viết thư sang Việt Nam cám ơn những người tù kháng
chiến thời ấy đã truyền cho họ hiểu biết về sức mạnh đoàn kết của một dân tộc
và kinh nghiệm về chiến tranh nhân dân để giải phóng dân tộc mình khỏi ách nô lệ.
1 Báo cáo tình hình địch, ta ở Côn Đảo. Hồ sơ lưu trữ tại Cục lưu trữ
Trung ương Đảng, ký hiệu C.10Đ127-ST08-27.
Ban ngoại vận ở khối tù án trong nhiều năm đã tổ chức được những cơ sở
tin cậy trong số gác ngục, công chức và gia đình họ. Vợ chồng y tá Lộc đã mua
giúp rađiô và đặt tại nhà mình cho anh em tù kháng chiến nghe tin tức. Cô Kim
Châu, con giám thị 14 Cư thường mở rađiô cho nhóm tù nhân ở Nhà Thương nghe.
Các anh Lý, Huỳnh Phò cũng tổ chức nghe tin tức qua rađiô ở nhà ông Trần Văn
Thiều ở kho bạc và ở nhà gácdang Sami gốc Ấn Độ. Anh Minh Nam (tức Lê Xuân
Cương) ở Nhà Thương là một trong những đầu mối tổng hợp tin tức cho Đảo ủy. Anh
Ngô Xiêm tổ chức in tin nhanh tại Khám Chỉ Tồn Banh I. Hai em Đào Ngọc Minh và
Đào Quang Cường (sau này là nhà báo Mai Lê Cường), con bà Bùi Thị Quý cũng tham
gia các việc liên lạc, canh gác, đưa tin cho Liên đoàn tù nhân. Minh còn là tổ
trưởng, cùng với Pônlét (Paullette) con giám thị Đoàn Doãn Phê (quốc tịch Pháp)
tổ phó, phụ trách gần chục em thiếu nhi để giúp đỡ các chú tù kháng chiến. Đào
Ngọc Minh và Đào Quang Cường sau này được Đảo ủy bố trí cho về Sài Gòn rồi đưa
ra Hà Nội đào tạo thành những cán bộ khoa học kỹ thuật về phục vụ đất nước.
Tin tức chiến sự nghe được qua rađiô, báo chí và do
binh lính, gác ngục có cảm tình cung cấp vẫn được báo cáo về Đảo ủy hàng ngày.
Được tin tình hình chiến sự đang chuyển biến mau lẹ trên các chiến trường, ở
Đông Dương, Đảo ủy gấp rút chỉ đạo xây dựng lực lượng để đón thời cơ. Hàng loạt
cuộc đấu tranh bằng hình thức yêu sách, kiến nghị, phản đối tập thể đã liên tiếp
nổ ra, với nội dung cụ thể:
-
Tăng số người
khám bệnh trong ngày (để tích trữ thuốc men).
-
Tăng khẩu phần
ăn (để tích trữ lương thực).
-
Đòi chở nước ở
Bản Chế về để ăn uống cho đảm bảo vệ sinh (qua đó liên hệ với tổ sản xuất vũ
khí).
-
Tăng thêm người
làm vườn, trồng rau cải thiện (Kíp làm vườn là một tổ xung kích của Đội quân ngầm).
-
Đòi cấp quần ảo
tốt (để dành bọc thuyền, làm buồm khi cần).
-
Đòi cho tù đi
đánh cá, bắt vích thay cho khô mục, cho tù cùng với lính lên rừng bắn trâu để bổ
sung khẩu phần thịt.
-
Đòi cho những
người có đạo được đi lễ nhà thờ (những buổi sáng chủ nhật đi lễ nhà thờ là cơ hội
để các chiến sĩ trong Đội quân ngầm quan sát các mục tiêu trong thị trấn để lập
kế hoạch huấn luyện và tác chiến).
Đảo ủy còn chỉ đạo một đợt đấu tranh chống bắt lính, chống lấy máu của
tù nhân.
Thực hiện kế hoạch xây dựng 20 vạn ngụy binh, bọn Pháp đã tính đến chuyện
bắt lính trong tù. Sau khi cho cố vấn về công tác bình định đi thăm một loạt trại
tù binh ở Nam Bộ, thiếu tá tình báo Phácxy (Farcy, Chánh văn phòng của thiếu tướng
Tư lệnh lục quân Pháp tại miền Nam Việt Nam) đã gửi văn thư 0557/ca/Mil ngày
29-12-1953 cho thiếu tá Thômát (Thomas, đặc trách công tác bên cạnh Thủ hiến
Nam Việt Nam) để lưu ý việc đánh giá tù kháng chiến như sau: “(...) Trong số họ,
có rất nhiều người có tư cách; vì họ đã biết phải dấn thân cho một lý tưởng mà
họ tin là cao cả; những Việt Minh này một khi đã được cải tạo theo lý tưởng quốc
gia, họ rất có thể trở thành những người rất hữu ích cho dân tộc Việt Nam
Văn thư còn hướng dẫn các kiểu lung lạc, bịp bợm để người tù chịu làm tay
sai, cầm súng đánh thuê cho chúng. Nhiều tên nhân viên phòng nhì Pháp đã được
phái đến các trại tù, cùng với đại diện của chính quyền bù nhìn tiến hành bắt
lính. Chúng chọn và gọi từng người lên văn phòng đặt vấn đề, ai đồng ý, chúng sẽ
trả tự do ngay và sung vào lính. Nếu là sĩ quan, chúng hứa sẽ giữ nguyên quân
hàm, chức vụ trong quân đội ngụy. Nhưng tất cả họ đều tẩy chay việc đi lính và
hiến máu cho Pháp; thực hiện đúng khẩu hiệu của Đảo ủy đề ra là không một người
đi lính, không một giọt máu cho giặc Pháp.
Trong lúc chiến dịch Điện Biên Phủ đang gần ngày thắng lợi, Đảo ủy chỉ đạo
tổ chức kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5-1954 trên toàn đảo. Tổng đại diện tù
binh đã báo cho Giám đốc nhà tù biết để giữ thế hợp pháp.
Ở giữa Banh III, tù nhân dựng một quả cầu lớn, đường kính 3 mét, khung bằng
tre, bồi giấy xi măng. Quả cầu có hình đôi chim bồ câu ngậm dảijụa đào trên nền
bốn biển năm châu và khẩu hiệu “HÒA BÌNH THẾ GIỚI MUÔN NĂM” bằng tiếng Việt và
tiếng Pháp. Đêm văn nghệ của tù binh Liên khu I có nhiều bài hát vừa sáng tác
trong tù như Không đi lính, Không hiến máu, của nhạc sĩ Đẩu. Điệu múa Tam tam
chế do Ban văn nghệ của Đội quân ngầm dàn dựng và biểu diễn rất đẹp mắt, thể hiện
tình đoàn kết chiến đấu của người chiến sĩ quân đội nhân dân. Thực ra đó là những
động tác cơ bản trong chiến thuật bộ binh do Ban tham mưu quân sự đã soạn cho
anh em luyện tập với cây súng gồ.
Chiều 7-5-1954, qua rađiô, Đảo ủy được tin quân ta toàn thắng ở Điện
Biên Phủ. Tối ấy các khám đều liên hoan mừng chiến thắng. Đảo ủy tiến hành lập
danh sách toàn thế tù nhân, phân loại cán bộ, đảng viên, chuẩn bị đấu tranh đòi
trao trả. Phòng tuyên huấn được Đảo ủy giao nhiệm vụ biên soạn văn bản tố cáo
chê độ thực dân Pháp ở Nhà tù Côn Đảo trước dư luận trong nước và quốc tế. Hàng
trăm tù nhân ở các khu đã cung cấp tội ác của thực dân Pháp trong hơn 8 năm thống
trị ở Côn Đảo. Phòng tuyên huấn biên soạn lại thành 2 tập: Tám năm tội ác của
thực dân Pháp ở Côn Đảo và Bản án xâm lược Pháp.
Đó là tiếng nói trực tiếp của các nhân chứng đã bị hành hạ đọa đày với
những chứng tích cụ thể về tội ác của bọn Pháp xâm lược. Tài liệu được chép
thành nhiều bản trên các khổ giấy nhỏ phân phát cho các đoàn tù, gửi cho các
phái đoàn quốc tế và sử dụng làm văn bản đấu tranh với bọn chúa ngục Côn Đảo.
Ngày 12-5-1954, ta trao trả cho Pháp 858 thương binh ngay tại Mặt trận
Điện Biên Phủ. Đáp lại, phía Pháp cũng trao trả cho ta 267 thương bệnh binh tại
cầu Giỏ (Bắc Giang) vào ngày 16-6-1954. Nhân cuộc trao trả ấy, đại diện 2 bên đã
mở đầu cuộc tiếp xúc chuẩn bị cho hội nghị quân sự 2 bên giữa Bộ Tổng tư lệnh
Quân đội nhân dân Việt Nam và Bộ Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương. Sau một
số cuộc gặp gỡ, hai bên đã thỏa thuận mở hội nghị chính thức tại Trung Giã vào
đầu tháng 7 năm 1954, song song với Hội nghị Giơnevơ.
Ở Côn Đảo, tất cả các lực lượng binh vận, địch vận, ngoại vận đều phát
huy mọi nỗ lực giúp Đảo ủy nắm chắc diễn biến tình hình. Cuốn nhật ký nhỏ khổ
6x9, dày 50 trang của anh Trần Đông (thư ký cho Bí thư Đảo ủy từ tháng 2-1954)
cho biết, tin tức đến văn phòng Đảo ủy hầu như từng ngày. Tin Liên Xô, Trung
Quôc, Ấn Độ cho đến tiêng súng ở các mặt trận, đặc biệt là thỏa thuận tại Hội
nghị Trung Giã và Hội nghị Giơnevơ được anh em theo dõi và ghi chép tỉ mỉ, hoặc
lược thuật nội dung cơ bản. Sau đây là tin về Hội nghị Trung Giã, trích trong
Nhật kỷ Trần Đông (nguyên bản):
"Ngày 4-7-1954, Hội nghị Trung Giã 2 bên gặp nhau thảo luận chương
trình:
-
Giải quyết đề
nghị do Genève đưa ra.
-
Hoạch định
phương pháp ngừng chiến, đóng quân.
-
(thiếu 2 chữ)
đưa ý kiến lên Genève.
Ngày 7-7-1954, Hội nghị Trung Giã 2 bên thỏa thuận:
-
Ngừng bắn toàn
ĐB (Đông Dương - BT).
-
Trao đổi tù
binh trao đổi thương bệnh binh 14-7 - cải thiện chế độ tù binh.
-
Ngày (mờ mấy
chữ) Nhật lệnh của chính phủ tự do tín ngưỡng.
Chính sách đối với đồng bào công giáo. Mệnh lệnh gửi quân đội
và nhân dân Việt Nam:
Ngừng bắn toàn lãnh thổ Việt Nam. Bắc Bộ 7 giờ 27-7, Trung bộ 1- 8, Nam
bộ 11-8.
- 3 giờ chiều 27-7, Hội nghị Trung Giã giải tán, nhường lại cho hội đồng
kiểm soát (..-)”1.
Tin tức được theo dõi từng giờ nên Đảo ủy có đầy đủ cơ sở để nhận định
tình hình để có cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh sắp tới. Đảo ủy nhận định rằng
Hội nghị Giơnevơ có triển vọng giải quyết vấn đề Việt Nam bằng con đường hòa
bình, những người bị địch bắt trong chiến tranh sẽ được trao trả cho Chính phủ
kháng chiến. Điều đó là đương nhiên đối với tù binh, song lại phức tạp đối với
tù án. Bọn Pháp có thể tráo trở, xem tù án là những người phạm pháp (tội hình sự)
mà trao trả cho Chính phủ Bảo Đại. Mặt khác, có khả năng đế quốc Mỹ sẽ nhảy vào
Việt Nam phá hoại Hiệp định, củng cố chính phủ bù nhìn, làm cho tình hình phức
tạp. Vì vậy, cần phải có một cuộc đấu tranh rộng lớn để chống những âm mưu-lật
lọng của thực dân Pháp và bù nhìn tay sai.
Mục tiêu chính của cuộc đấu tranh này là đòi hủy bỏ các bản án, nhìn nhận
là tù chiến tranh, trao trả cho Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cơ sở pháp
lý là khi Pháp đã nhìn nhận chủ quyền độc lập của dán tộc ta thì việc tòa án
Pháp xét xử công dân Việt Nam trớ nên bất hợp pháp, dù là án tư pháp. Trong khi
chờ đợi trao trả, Pháp phải thực hiện chế độ tù chiến tranh, đối xử nhân đạo
như thỏa thuận của Hội nghị Trung Giã.
Đảo ủy nhận định yêu sách này vượt qua quyền nạn của bọn cầm quyền Côn Đảo
cho nên phải gạt bọn này ra khỏi mũi nhọn của cuộc đấu tranh. Nhưng mặt khác,
phải làm chi chúng rối loạn hoang mang, buộc chúng phải thúc ép bọn đầu sỏ
trong đất liền chóng giải quyết. Muốn vậy, phải dùng ưu thế tuyệt đối của ta là
tinh thần cứng rắn, bền bỉ đế đánh vào nhược điểm của địch là vấn đề nhân công.
Ta phải thống nhất lực lượng, cương quyết đình công tranh đấu. Một cuộc đấu
tranh như vậy chắc chắc sẽ phải lâu dài và gay go, cần phải chuẩn bị tốt cả vật
chất, tinh thần và lực lượng.
Đảo ủy huy động lực lượng tranh đấu lần này gồm toàn thế tù nhân trên
Côn Đảo, không phân biệt tù binh hay tù án, trong tù án cũng không phân biệt tù
kháng chiến hay tù tư pháp. Đảo ủy sắp xếp lại bộ máy ở các nơi, thực hiện nhất
nguyên chế trong lãnh đạo. Tổng số tham gia là 2.252 người, trong đó có 593 tù
binh và 1.659 tù án.
Toàn bộ yêu sách chủ yếu là cho tù án nên trại tù binh chỉ là lực lượng
phối hợp. Điểm trung tâm của cuộc đấu tranh toàn đảo lần này thuộc khối tù án.
Trong ba liên khu của tù án thì Đảo ủy chỉ đạo điểm là Liên khu II và III (tức
Banh I và Banh II), vì đó là nơi tập trung tù nhân cả về số lượng và chất lượng,
đã được rèn luyện, thử thách nhiều lần về trình độ tổ chức, năng lực cán bộ và
tinh thần dấu tranh. Liên khu IV (các sở ngoài) là diện phối hợp. Lực lượng đấu
tranh được chia làm 2 bộ phận:
-
Bộ phận đình
công gồm tù nhân ở tất cả các sở huyết mạch của nhà tù như Sở Củi, Sở Lưới, Bản
Chế, Chỉ Tồn, Lò Vôi, Sở Rẫy...
-
Bộ phận không
đình công, chỉ đưa yêu sách, kiến nghị gồm các kíp tù làm ở Nhà bếp, Nhà
Thương, công nhân tư gia, thư ký các văn phòng và một số ít tù nhân ở các sở. Bộ
phận này đảm nhiệm các công tác hỏa thực, giao thông liên lạc, ngoại vận, địch
vận.
1.
Nguyên bản do
ông Trần Đông, Ban liên lạc tù chính trị Côn Đảo tỉnh Hải Dương lưu giữ.
Bố trí như vậy cũng là để tránh bớt căng thẳng với bọn cầm quyền ở Côn Đảo.
Trong 5 ngày cuối tháng 7- 1954, các chi bộ thuộc khối tù án đã kết nạp thêm 9
đảng viên, tăng cường lực lượng lãnh đạo cho cuộc đấu tranh quyết liệt sắp tới.
Đảo ủy chỉ định các anh Trịnh Văn Hà, Lê Văn Thống (tổng đại diện và phó
tổng đại diện tù án) làm chủ tịch và phó chủ tịch úy ban tranh đấu. Các anh
Nguyễn Trí Tuệ, hòang Phúc là trưởng và phó ban an ninh. Hiệu lệnh đấu tranh, sẽ
mở đầu bằng bài hát Lên Đàng. Hiệu lệnh hiệp đồng chống khủng bô là bài Chiên
sĩ ca. Nếu địch khủng bố ác liệt, sẽ hiệp đồng ở mức cao hơn, khi có hiệu lệnh
bằng hát bài Tiến quân ca. toàn bộ tinh thần cơ bản của cuộc đấu tranh đã được
thể hiện trong bài thơ Hồ Chí Minh của Phạm Tiệp, được Nguyễn Sáng phổ nhạc
ngay trong đợt tranh đấu:
ĐI THEO HỒ CHÍ MINH
Là công dân của nước Việt Nam
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
Nước chiến thắng đế quốc Pháp
Là công dân của nước chiến thắng
Có cha già Hồ Chí Minh
Có anh cả Trường Chinh
Có Đảng lao động Việt Nam
Tất cả một lòng - Tất cả một lòng
Dũng cảm đấu tranh - Dũng cảm đấu tranh
Quyết tử tất thắng
Đòi Pháp phải trả hết - Đòi Pháp phải trả hết
Chúng ta về với Chính phủ Hồ Chí Minh.
Đêm 20-7-1954, Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông
Dương đã được ký kết tại Giơnevơ. Bộ phận ngoại vận chép được nội dung Hiệp định
qua bản tin đọc chậm. Thường vụ Đảo ủy họp bất thường để gấp rút chuẩn bị tiến
hành tranh đấu. Đảo ủy quyết định dành hẳn 10 ngày để chuẩn bị thật chu đáo, tập
trung vào các việc sau:
Tổ chức:
Tinh thần:
-
Vận động giải
thích cho anh em hiết sự ích lợi và cần thiết của cuộc tranh đấu.
-
Đả thông mọi
người những tư tưởng lệch lạc để khỏi đi sai phương châm Trường kỳ đình công.
-
Giáo dục cho
anh em có ý thức và tinh thần chịu đựng gian khổ, khủng bố và đàn áp.
-
Đào sâu căm
thù địch để anh em dứt khoát lập trường, xây dựng tinh thần chiến đấu.
Vật chất:
-
Dự trữ vật chất,
đề phòng địch bỏ đói, bỏ khát, cho ăn ít.
-
Bồi dưỡng sức
khỏe để chịu đựng.
-
Chuẩn bị vật dụng
chống đàn áp (đánh đập, bom cay, v.v...)2.
Ngày 25-7-1954, Ủy ban kháng chiến hành chính Côn Đảo công khai danh
nghĩa, ra lời hiệu triệu, niêm yết tại nhiều nơi, tuyên bố Ủy ban kháng chiến
hành chánh Côn Đảo đã được thành lập, thay mặt cho Chính phủ lãnh đạo nhân dân
toàn đảo tiến hành cuộc kháng chiến cho đến thắng lợi cuối cùng, đem lại độc lập,
tự do hòan toàn cho dân tộc.
Bản hiệu triệu kêu gọi những công chức, giám thị người Việt lầm đường lạc
lối hãy quay lại với nhân dân, kẻ nào ngoan cố chống lại sẽ bị trừng trị. Hiệu
triệu kêu gọi binh lính, gác ngục người Pháp, người Phi hãy ủng hộ cuộc đấu
tranh chính nghĩa của nhân dân Côn Đảo chống thực dân Pháp. Hiệu triệu cổ vũ
toàn thể tù nhân sát cánh chiến đấu dưới mệnh lệnh của Ủy ban cho đến thắng lợi.
Vũ Hồng Vũ, Thường vụ Đảo ủy là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Côn Đảo
đã ký tên vào Bản hiệu triệu, với bí danh Trần Quốc Minh.
Theo chủ trương của Đảo ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính Côn Đảo trực
tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh với địch, đòi thực hiện Hiệp định Giơnevơ về vấn đề
trao trả tù binh, tù chiến tranh cùng các điều khoản cam kết tại Trung Giã. Đồng
thời, Ủy ban trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi xóa bỏ chế độ tù án ở Banh I
và Banh II, chuyển tất cả thành tù chiến tranh, cùng trao trả với tù binh.
Trường hợp thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cấu kết với nhau, tráo trở không
thi hành Hiệp định thì sẽ thực hiện phương án giải thoát, khi cần sẽ dùng đến bạo
lực cách mạng, phối hợp với đất liền tổ chức cho anh em lần lượt trở về, trước
khi Mỹ nhảy vào Việt Nam. Đảo ủy cử người trinh sát vùng cỏ Ông, lập căn cứ,
đào hầm bí mật tích trữ vũ khí, lương thực và thuốc men. Các anh Vũ Hồng Vũ, Lê
Đình Thụ, Nguyễn Ngọc Cầm đã chuẩn bị kế hoạch, khi có thời cơ sẽ trốn ra hẳn
ngoài căn cứ đế chỉ đạo.
Đánh hơi thấy không khí chuẩn bị khác thường của tù nhân, địch sục sạo
và khám xét gắt gao. Các cuộc tụ tập từ 3 người trở lên đều bị chúng giải tán,
thấy dấu hiệu nghi ngờ là bắt lên Sở Cò tra tấn, khai thác. Giám đốc Côn Đảo ủy
nhiệm đặc biệt cho gácdang Cácliê và thầy chú Huệ được khám xét bất thường bất
cứ người tù nào đi lại trên đường.
1.
Ủy ban kháng
chiến hành chính.
2.
Báo cáo của Đảo
ủy gửỉ Trung ương Đảng tháng 10-1954, bản viết tay do ông Lê Khắc Thành lưu giữ,
ông Doãn Chiêm (Minh Kinh) Ban liên lạc tù chinh trị Côn Đảo thành phố Hà Nội
sao lại.
Trong thời gian soát xét, địch phát hiện được tập
thơ Lửa Sống do một nhóm Thiếu nhi cứu quốc1 chuyền tay
nhau xem. Đó là tập thơ chọn lọc của tù nhân, do Hội văn nghệ tù nhân Côn Đảo ấn
hành. Rô lăng, con gái gácdang Đờlacóoc (Delacor), bí danh là Xuân Lan, bị bắt
lên Sở Cò cùng tập thơ. Rôlăng khai Pônlét, Pônlét khai Đào Ngọc Minh, Minh khai
lượm được ở giếng nước.
Hậu quả là 7 người tù làm bồi bếp quanh khu vực giếng nước bị bắt: Huynh
Phò (C.12170), Phạm Văn Hỷ (C.12187), Han Giang Nguyên (C.12720), Ngô Minh Sơn,
hòang Đình Hồ, Lê Văn Rô và Ré. Các anh bị tra tấn, trấn nước, quay điện nhiều
lần nhưng không ai khai báo gì về việc tổ chức, tuyên truyền cho nhóm Thiếu nhi
cứu quốc cũng như các chủ trương của Liên đoàn.
Địch tiếp tục lục soát bắt được chỉ thị, thông tri của Liên đoàn và của Ủy
ban kháng chiến hành chánh Côn Đảo ở khu thợ hồ và một số khu khác. Chúng cũng
biết được phần nào chủ trương và sự chuẩn bị của ta, nhưng không vì thế mà ta dừng
cuộc đấu tranh lại.
Ngày 30-7-1954, trung tướng Gilô (Gilót), thanh tra các trại tù binh, ra
nắm tình hình tại Côn Đảo. Theo sự chỉ đạo của Ủy ban kháng chiến hành chánh
Côn Đảo, anh Vũ Hạnh đã đưa đơn tranh đấu, tố cáo sự hà khắc của chúa ngục ở Trại
tù binh; đồng thời yêu cầu Bộ tổng tư lệnh Pháp can thiệp, trao trả toàn bộ tù
nhân Côn Đảo về cho Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; thực hiện đúng điều
21 Hiệp định Giơnevơ và những cam kết ở Hội nghị Trung Giã về việc cải thiện chế
độ tù binh, tù chiến tranh. Gilô nhận đơn và khiển trách tên quan ba bác sĩ ở đảo
cùng tên quan hai Gácđét, trưởng trại tù binh.
Tối 30-7-1954, toàn đảo tổ chức lễ phát động tranh đấu, đọc mệnh lệnh của
Ủy ban kháng chiến hành chánh Côn Đảo. Sáng 31-7-1954, các khám tù nhất loạt
đưa đơn và không ra điểm danh đi làm. Anh Trịnh Văn Hà, Tổng đại diện của tù án
đã gửi hai đơn cho Bộ tư lệnh Pháp và Ủy hội quốc tế, yêu cầu xóa bỏ án tiết;
nhìn nhận là tù chiến tranh; thực hiện đúng quy chế tù chiến tranh. Kèm theo đó
là bức thư gửi Giám đốc Côn Đảo trình bày rõ nội dung và hình thức tranh đấu của
tù nhân.
Giám đốc Côn Đảo nhận đơn. Y rất ngạc nhiên vì cho đến lúc ấy, y chưa được
thông báo gì về nội dung Hội nghị Trung Giã và Hiệp định Giơnevơ. Tuy vậy,
Blăng cũng trả lời tù nhân ngày trong buổi sáng ấy:
-
Vấn đề chính
trị phạm còn chờ cấp trên nghiên cứu giải quyết.
-
Thường phạm
thì không có gì thay đổi.
-
Tù nhân phải
tiếp tục làm việc bình thường. Hôm nay (thứ 7, ngày 31-7-1954) đã lỡ, thứ hai
phải đi làm.
Ngày 2-8-1954, không một ai đi làm. Giám đốc nhà tù ra lệnh phạt tất cả
theo chế độ xà lim, nghĩa là chỉ cấp 500gr gạo mỗi người, mỗi ngày, ăn cơm nhạt,
uống nước lã và cấm cố, không được ra chơi tắm rửa.
Ở Sở Rẫy Chuồng Bò, chúng nhốt tới 118 người trong một khám. Tuyên bố của
Blăng về số phận tù tư pháp (thường phạm) không có gì thay đổi làm cho tù tư
pháp hoang mang. Trước sự dọa dẫm, cưỡng phạt của Blăng, 46 tù tư pháp ở các Sở
Lò Vôi, Sở Rẫy An Hải đã nhảy ra đi làm. Địch bóp nghẹt đời sống, kiểm soát gắt
gao để chặn đứng mọi thông tin. Ngày 4-8-1954, Giám đốc Côn Đảo chỉ thị cho Sở
Kho Bạc lập danh sách tù nhân, phân loại tù chính trị và tù tư pháp.
Giữa lúc tù tư pháp hoang mang cao độ thì Thường vụ Đảo ủy ra chỉ thị khẳng
định quyết tâm đến cùng đế hủy bỏ hết án tiết, buộc địch công nhận tất cả là tù
chiến tranh, nêu thêm khẩu hiệu trao trả toàn bộ tù nhân Côn Đảo về cho Chính
phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Để biểu lộ thái độ chiến thắng, hiên ngang, Tổng đại diện tù binh và
Tông đại diện tù án đã gửi nhiều thư cảnh cáo Giám đốc về những hình phạt vô lý
đối với tù nhân. Đồng thời gửi đơn, thư cho Ủy ban quân sự hỗn hợp, Ủy hội quốc
tế và Bộ Tổng tư lệnh Pháp tố cáo những hành vi dã man của bọn cầm quyền Côn Đảo,
đòi thực hiện đúng quy chế tù binh, tù chiến tranh và đòi trao trả hết cho
Chính phủ Hồ Chí Minh.
Ngày 14-8-1954, tại Ủy ban liên hợp 2 bên, đại diện Bộ Tổng tư lệnh Quân
đội nhân dân Việt Nam và đại diện Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp ở
Đông Dương đã ký kết quy ước phóng thích và trao trả tù binh, tù chiến tranh, nội
dung chính gồm các điểm:
-
Hai bên thông
bảo cho nhau ngay số lượng tổng quát tù binh và thường dân mà mình giam giữ.
-
Người bị bắt ở
chiến trường nào thì trao trả ở chiến trường đó.
-
Cam kết trao
cho nhau danh sách toàn bộ tù binh và thường dân mỗi bên giam giữ, chậm nhất là
vào ngày 20-8-1954.
-
Sau khi trao đổi
danh sách, sẽ bắt đầu tiến hành trao trả.
Ngay hóm đó, Pháp thông báo cho ta biết, họ giam giữ 7.350 tù binh;
18.350 tù chính trị và tình nghi, 37.900 dân thườngl. Con số này còn quá ít so
với thực tế, trong đó lại chưa nói tới số tù chính trị mà chúng giam ở Côn Đảo
và Chí Hòa.
Cũng trong ngày 14-8-1954, Pháp cho máy bay thả dù xuống Côn Đảo 12 hòm
lương thực, thực phẩm và một hòm văn kiện liên quan đến việc lập danh sách trao
trả. Cho đến lúc ấy, Giám đốc Côn Đảo mới được biết nội dung của danh từ “câu
lưu dân sự” ghi trong mục b điều 21 của Hiệp định là “tất cả những người đã tham
gia bất cứ dưới hình thức nào vào cuộc đấu tranh võ trang và chính trị giữa đôi
bên, và vì thế mà đã bị bên này hay bên kia bắt và giam giữ trong khi chiến
tranh”. Giám đốc Côn Đảo phàn nàn rằng văn bản Hội nghị không bàn gì đến tù tư
pháp mà đại diện tù nhân lại căn cứ vào Hội nghị đề đòi trao trả toàn bộ tù
nhân (kể cả tù tư pháp).
Ngày 16-8-1954, Giám đốc trả lại sinh hoạt bình thường cho tù nhân sau 2
tuần phạt vô lý. Giám đốc cũng cho Sở Kho Bạc lập danh sách những người từng bị
câu lưu tại các trại P.G và PIM; những người bị xử tại các tòa án Pháp, những
người mà án tiết có dính dáng ít nhiều đến hoạt động của kháng chiến. Trong khi
lập danh sách, Giám đốc Côn Đảo vẫn không hiểu ra thế nào là “câu lưu chính trị”
(Internés politiques). Theo hắn, chỉ có phạm nhân, tội phạm chính trị
(Condamnés politiques). Sau nhiều lần điện về Sài Gòn hỏi, danh sách mới được
hòan thành.
Thời ăn cướp và kết án bậy của thực dân Pháp ở Việt Nam đã vĩnh viễn qua
đi. Nhân 'dân Việt Nam đã nói lời cuối cùng với chủ nghĩa thực dân Pháp bằng
chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu bốn biến, bằng Hiệp định Giơnevơ chấm
dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Giờ đây, những người tù Côn Đảo
cũng nói lời cuối cùng với chúng bằng cuộc đấu tranh quy mô nhất trên toàn đảo
để hủy bỏ những bản án phi pháp của chúng.
Ngày 20-8-1954, thực dân Pháp đưa 512 tù binh quê ở Bắc Bộ và Trung Bộ
xuống tàu về trao trả tại đất liền. Đảo ủy và Ủy ban kháng chiến hành chánh Côn
Đảo đã giao cho đoàn tù binh 3 nhiệm vụ:
1.
Trình bày về
cuộc tranh đấu của tù nhân Côn Đảo với chính phủ, với Ủy hội trung lập quốc tế
để yêu cầu Bộ Tổng tư lệnh Pháp gấp rút giải quyết.
2.
Tố cáo những
hành vi dã man của thống trị Côn Đảo để chặn đứng sự tàn bạo của chúng.
3.
Vận động ủng hộ
cuộc đấu tranh tại Côn Đảo.
Trước khi rời đảo, đại diện đoàn tù đã đến viếng mộ Lê Hồng Phong, Võ Thị
Sáu, Nguyễn An Ninh và các liệt sĩ ở Nghĩa trang Hàng Dương. Đoàn tù binh mang
theo toàn bộ danh sách của tù án và những người còn ở lại, chép thành nhiều bản
làm cơ sở đòi chúng phải trao trả hết. Hai tài liệu Bản án xâm lược Pháp và Tám
năm tội ác của Pháp tại Côn Đảo cũng được in bột thành nhiều bản đem về tố
cáo2. Bí thư Đảo ủy Nguyễn Văn Thi về chuyến ấy đã đem theo khóa mật mã để
thông tin ra đảo qua buổi phát thanh đọc chậm của Đài tiếng nói Việt Nam và Đài
phát thanh Nam Bộ.
512 tù binh trên đường về được phiên chế thành một tiểu đoàn chiến đấu.
Tổ tham mưu quân sự vạch ngay một phương án cướp tàu bằng chiến thuật tay không
bắt địch của đội quân ngầm, trong trường hợp địch có âm mưu thủ tiêu tù nhân.
Tàu đến địa phận miền Trung vào ngày 22-8-1954. Một tù nhân cao hứng treo ngay
là cờ đỏ sao vàng phía lái tàu. Tàu tuần viễn Vulcain số 656 của Pháp phát hiện
ra cờ Việt Minh treo trên tầu Taurus nên chúng đã dọa bắn đại bác nếu không dừng
lại. Tên thuyền trưởng tàu Taurus đã dừng tàu, hạ cờ, giam tất cả tù nhân xuống
hầm tàu rồi mới tiếp tục hải trình.
Ngay dưới hầm tàu, theo sự chỉ đạo của anh Hồng Vũ,
Thường vụ Đảo ủy, anh Vũ Hạnh đã thảo ngay một lá đơn gửi Ủy ban quốc tế và Ủy
ban liên hợp Pháp - Việt tố cáo sự đày ải đoàn tù trên đường về; yêu cầu Ủy ban
can thiệp thả ngay 81 tù binh còn bị giam ở Banh III và 1.659 tù án ở Banh II.
Đơn viết bằng tiếng Việt, kèm một bản sao bằng tiếng Pháp và một bản sao tiếng
Anh. Lá đơn cùng với nhiều tài liệu tố cáo khác đã được trao cho đại diện Ủy
ban liên hợp quân sự 2 bên và Ủy ban quốc tế ngay khu làm thủ tục trao trả tại
Sầm Sơn (Thanh Hóa). Đoàn tù đã cởi hết quần áo nhà tù Pháp, ném trả cho chúng
rồi giương cao biểu ngữ, ảnh Bác, cờ đỏ sao vàng bước lên đất liền trong sự
chào đón của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
1.
Lê Minh Nghĩa
- Ghi lại một số điểm về những ngày tham gia cuộc đấu tranh đòi thi hành Hiệp định
Giơnevơ 1954 về Việt Nam. Tài liệu lưu trữ của Viện Lịch sử Đảng.
2.
Hai bản tài liệu
này còn được lưu giữ ở Ban quản lý khu di tích lịch sử Côn Đào.
Ở Côn Đảo, sau khi tù binh xuống tàu, trong sở tù án có người lo ngại,
cho rằng lực lượng đấu tranh yếu đi, nhà tù dễ dàng đàn áp. Tù tư pháp thì tuyệt
vọng vì không có khả năng được giải quyết. Ngày 21-8-1954, tàu Edinond Papin chở
hàng tiếp tế đến Côn Đảo. Giám đốc đưa 70 lính và gần hai chục gácdang vào Banh
II bắt tù nhân đi dọn tàu. Tù nhân Sở Lưới kiên quyết không đi. Địch bắn 18 quả
lựu đạn cay, phun nước rồi xông vào đánh đập dã man. Đánh nát hết roi mây,
chúng khiêng cả thùng rượu chát (đựng nước uống) quật lên đầu khối tù đang câu
tay chịu đòn. Tất cả 68 tù nhân Sở Lưới đều bị thương tích, 30 người bị thương
nặng, 3 người bị nguy kịch đến tính mạng.
Cũng trong cuộc đàn áp ấy, Khám 4 cũng bị bắn 4 trái lựu đạn cay. Khu biệt
lập bị đàn áp nặng vì có Tổng đại diện tù án ở đó, địch xem là Khu đầu não chỉ
đạo đấu tranh. Các khu ở Chỉ Tồn như hòang Sâm, Bắc Sơn, Lê Duẩn cũng bị đàn áp
nặng để cưỡng bức nhân công. Anh Trịnh Văn Hà đã thảo 2 văn bản số 08-NC gửi ủy
hội quốc tế và số 09-NC gửi Ủy ban liên hợp Pháp - Việt tố cáo cuộc đàn áp dã
man trên 7. Viên quan ba bác sĩ ở đảo cũng xác nhận là có 40 người bị thương nặng
phải đưa ra nhà thương sau trận đàn áp.
Ngay trong đợt đấu tranh, Ủy ban kháng chiến hành chánh Côn Đảo đã cấp
giấy khen cho hàng chục người có thành tích xuất sắc. Giấy khen cấp cho ông Đặng
Văn Chuyết, khu Bắc Sơn, do Chủ tịch UBKCHC Côn Đảo Trần Quôc Minh ký ngày
10-8-1954 đã xác nhận thành tích “tận tụy công tác, xung phong gương mẫu, tinh
thần vững vàng trong suốt cuộc đấu tranh”. Nhiều anh em làm công tác liên lạc
văn thư, trật tự, xã hội và Ban chấp hành tù nhân ở các khu cũng được khen thưởng.
Anh Trần Đình Việt tự Cao Văn Tám, toán trưởng liên lạc được Đảo ủy chuẩn y kết
nạp Đảng ngày 19-8-1954 và tuyên bố chính thức ngay hôm đó.
Ngày 23-8-1954, lấy cớ hết củi, bọn chúa ngục không cho ăn cơm mà phát
cho mỗi tù nhân 50gr gạo sông. Tình hình rất căng, tù nhân kiên quyết đình công
đến cùng để đòi giải quyết yêu sách. Riêng việc làm củi và dọn tàu, Đảo ủy đồng
ý là nếu nhà tù muốn làm thì phải điều đình với Tổng đại diện của tù nhân.
Blăng không thừa nhận và không điều đình với tổng đại diện. Tình hình này kéo
dài sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của toàn bộ Côn Đảo, kể cả gác ngục,
binh lính, công chức và tù nhân. Từ ngày 28-8-1954 chúng bỏ đói toàn đảo.
Tình hình khá căng thẳng cho cả hai phía, sau cùng, hai bên đều đi đến
nhượng bộ, thỏa thuận chỉ định 5 tù nhân làm thư ký ở Văn phòng Giám thị trương
và kho Bạc làm trung gian cho cuộc thương lượng giữa Giám đốc và tù nhân. Kết
quả là phía tù nhân đồng ý cho Sở Củi đi làm củi. Người khỏe đi làm, người yếu
nghỉ, làm tùy sức. Khu hoàng Sâm (dọn tàu) cũng được phép đi làm tàu khi có tàu
ra, dọn hết hàng lại tiếp tục đình công. Phía nhà tù cam kết cho ăn uống và ra
sân chơi trở lại; cho người ra ngoài trại lấy rau cải thiện, cho mua hàng, trả
lại thư từ, bưu kiện mà chúng còn giữ.
Ngày 30-8-1954, thực dân Pháp đưa 81 tù binh quê ở Nam Bộ về Sài Gòn
trao trả. Còn tù án thì chúng chưa công nhận là tù chiến tranh, chưa nói đến việc
trao trả. Đảo ủy đã quyết định đưa cuộc đấu tranh đến mức cao hơn là tuyệt thực.
Trong một cuộc đấu tranh dài ngày, sức khỏe và tinh thần anh em đã mệt mỏi nên
Đảo ủy chỉ đạo các khám thay phiên nhau, lần lượt tuyệt thực để đủ sức kéo dài
thời gian tranh đấu.
Ngày 4-9-1954, ta đã hòan tất việc trao trả tù binh cho Pháp ở Việt Trì
và Nam Bộ, rút ngắn thời gian trao trả ở Nam Bộ trước hạn định 7 ngày. Ta đã
trao cho Pháp tổng số hơn 12.000 tù binh và tù chiến tranh, trong đó có 9.247
lính Âu Phi, một tướng, 55 tá, 530 cấp úy. Trong khi đó, Pháp chưa trả hết tù
chính trị của ta ở Chí Hòa, chưa trả người tù chính trị nào ở Côn Đảo.
Cuộc đấu tranh tổng đình công kết hợp với tuyệt thực ở Côn Đảo kéo dài
cho đến chiều ngày 9-9-1954. Khi ấy chúa Đảo Blăng mới tuyên bố là quan thầy hắn
đã chấp nhận yêu sách của tù nhân, công nhận là tù chiến tranh và trao trả cho
Chính phủ Hồ Chí Minh.
Đại diện Bộ Tổng tư lệnh các lực lượng Liên hiệp Pháp đã trao cho đại diện
Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam bản danh sách 1.092 tù chính trị ở
Côn Đảo sắp trao trả. Cuộc tống đình công kết hợp với bãi thực ở Côn Đảo đã kết
thúc thắng lợi, sau 40 ngày tranh đấu.
Đây là cuộc đấu tranh dài ngày nhất, quy mô nhất và tổ chức chặt chẽ nhất
của toàn thể tù nhân Côn Đảo. Để có được phút giây thắng lợi này, những người
tù kháng chiến phải trải qua 9 năm trường kỳ tranh đấu, bất chấp các hình phạt
tàn khốc, kể cả cái chết. Trong không khí thắng lợi, tù kháng chiến đã trồng cột
cờ trong sân Banh II, buổi sáng ra tập hợp, chào cờ và mở phòng thông tin triển
lãm của tù nhân Côn Đảo. Lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc ngạo nghễ tung bay trên
hòn đảo chưa hết ngục tù và chưa hết quân xâm lược.
Quan tư Blăng lại cho lính đến áp đảo, bắt hạ cờ và bắt anh Trịnh Văn
Hà, Tổng đại diện. Tù nhân Banh II kiên quyết không hạ cờ và đấu tranh bằng
hình thức ngồi ngoài sân, không chịu vào khám cho đến khi chúng trả Tổng đại diện
mới kết thúc.
Tổng kết cuộc tranh đấu, từ ngày 12 đến 25-9- 1954,
Đảo ủy đã chuẩn y đơn xin vào Đảng của 16 người có thành tích xuất sắc trong cuộc
đấu tranh 40 ngày.
1.
Hồ sơ lưu trữ
tại Ban Quản lý Khu di tích lịch sử Côn Đảo.
Những người tù chính trị có tên trong danh sách trao trả được tập trung
về Banh I. Trước đó, họ được phát quần áo nhà binh, được cử đại biểu đi viếng mộ
liệt sĩ tại Hàng Dương. Chiều 26-9-1954, hơn 1.000 tù chính trị đã xuống tàu về
đất liền, 11 tù nhân người Khơme và 4 tù chính trị người Lào được đưa về Sài
Gòn, còn lại tất cả được đưa về Sầm Sơn, Thanh Hóa. Ban lãnh đạo đoàn tù án
trên đường về trao trả có các anh Đỗ hòang Trừ (quyền Bí thư Đảo ủy), Trần Công
Hiệu, Lê Khắc Thành, Trần Khắc Du (Nguyễn Ngọc Cảnh). Anh Trịnh Văn Hà - Tổng đại
diện, Lê Văn Thống - Phó tổng đại diện, Nguyễn Trí Tuệ - Trưởng ban an ninh trật
tự, hòang Phúc - Phó ban.
Biết tin tàu Sơn Tây chở tù nhân về Sầm, Sơn trao trả, sau đó sẽ ra Hải
Phòng chở dân di cư vào Nam, Ban chấp hành Liên đoàn tù nhân đã tổ chức viết
hàng trăm truyền đơn tố cáo chế độ thực dân Pháp, kêu gọi đồng bào đừng để
chúng lừa bịp, hãy tin tưởng ở Chính phủ Hồ Chí Minh, tích cực đấu tranh cho thống
nhất nước nhà. Truyền đơn được để vào chỗ dễ thấy ở ghế và sàn tàu. Một số thủy
thủ tàu Sơn Tây cũng nhận giữ và chuyển giao cho đồng bào di cư.
Sáng ngày 1-10-1954, tàu vào cửa sông Chu (Thanh Hóa), Ban chỉ huy của
tù nhân đã chuẩn bị sẵn cờ, ảnh Bác Hồ, khẩu hiệu cách mạng. Theo kế hoạch, khi
sà lan cặp bờ, hạ bửng thì đoàn tù sẽ lột hết quần áo tù, trương cờ, khẩu hiệu
và ảnh Bác Hồ đi lên.
Tàu vào gần bờ thì đã thấy hai bên bờ sông, từng đoàn thuyền, rừng người,
rừng cờ và biểu ngữ của nhân dân Thanh Hóa đón chờ những người con ưu tú của Tổ
quốc. Trong phút xúc động bột phát, một số tù nhân đã tung cờ, khẩu hiệu và ảnh
Bác Hồ ngay trên sà lan khi chưa cập bến. Như một phản ứng dây chuyền, chỉ vài
phút sau trên boong tàu cũng rợp cờ, khẩu hiệu và ảnh Bác Hồ.
Tên trung úy thuyền trưởng yêu cầu Tổng đại diện tù nhân phải cho hạ tất
cả cờ đỏ sao vàng xuống, nếu không hắn sẽ cho tàu quay ra biển, không trao trả
nữa. Tình thế rất căng thẳng. Anh em đã trót trương cờ lên sớm, bây giờ hạ xuống
sẽ mất uy thế. Nhiều người đề nghị, đây là đất của ta, có đồng bào của ta, phải
đấu tranh, buộc chúng phải quay tàu vào trao trả. Thấy tù nhân không hạ cờ, tên
tuyền trưởng cho tàu dừng lại và từ từ lùi ra. Các anh Đỗ hòang Trừ, Trần Công
Hiệu, Trần Khắc Du hội ý chớp nhoáng rồi ra lệnh cho anh em, ai biết bơi thì nhảy
xuống biển, bơi vào bờ. Thế là nhiều tù nhân đã nhảy ào ào xuống biển, tiếng hò
la phản đối náo động cả boong tàu. Thuyền trưởng phải cho tàu dừng lại và quay
mũi vào bờ. Trong khi đó, thuyền của nhân dân Thanh Hóa đã lao ra vớt những người
dưới biển. Có người đã ngất ngay trên thuyền. Các anh Tính, Phụng, Cá đã chìm hẳn
trên dòng sông Chu.
Tàu vừa cặp bờ, đoàn tù chính trị cởi bỏ tất cả quần áo mà chúng mới
phát, quăng xuống biển trước khi bước chân lên đất mẹ. Mỗi người chỉ còn chiếc
quần cộc, ở trần, hô vang các khẩu hiệu:
-
Đả đảo Nhà tù
Côn Đảo dã man!
Các anh trong Đảo ủy đem theo cả con dấu và danh sách các đảng viên, có
nhận xét chi tiết trong thời kỳ sinh hoạt tại đảo và giấy giới thiệu để giới
thiệu từng người về giao cho Trung ương và các Đảng bộ địa phương. Song những
cuộc chỉnh đốn tổ chức và cải cách ruộng đất sau đó đã làm gián đoạn ý đồ của Đảo
ủy. Một số đánh giá sai lầm của Trung ương đối với những người tù kháng chiến
đã làm cho Đảo ủy Côn Đảo không thực hiện được đầy đủ trách nhiệm đối với cán bộ,
đảng viên của mình.
Theo Báo cáo của Ban lãnh đạo đoàn tù trao trả đợt tháng 10- 1954, ở Côn
Đảo, bọn Pháp còn giữ lại 639 tù nhân, trong đó có 169 là tù chính trị. Các anh
Vũ Ngọc toàn, Nguyễn Văn Mẹo, Lưu Hùng, Nguyễn Khang, Trương Qua, Trần Bảo
Trung... được chỉ định vào cấp ủy mới để lãnh đạo số tù nhân còn lại. Đảo ủy đã
nộp cho Trung ương danh sách 169 tù chính trị còn bị giam giữ tại Côn Đảo.
Trên cơ sở đó, phái đoàn ta đã đưa vấn đề tù chính trị ra Ủy ban quốc tế
để đấu tranh. Ta yêu cầu úy ban quốc tế cử một tổ ra điều tra tại Côn Đảo với sự
có mặt của sĩ quan liên lạc hai bên. Anh Đỗ hòang Trừ, nguyên là quyền Bí thư Đảo
ủy, được trao trả chuyến 1- 10- 1954, được cử làm sĩ quan liên lạc với quân hàm
đại úy ra điều tra tại Côn Đảo.
T ừ ngày 8 đến ngày 10-11 -1954, T ổ điều tra quốc tế đã làm việc tại
Côn Đảo, trực tiếp gặp gỡ điều tra hơn 600 tù nhân còn lại và tìm được 130 tù
chính trị đang bị giam giữ trái phép.
Sau đợt đấu tranh ấy, thực dân Pháp đã phải trao trả cho ta hai chuyến nữa
tại sân bay Gia Ậâm vào tháng 12-1954 (75 người); và tháng 3-1955 là (55 người).
Ở Côn Đảo vẫn còn lại vài chục tù kháng chiến, do Nguyễn Văn Mẹo là Bí thư chi ủy
kiêm Chủ tịch Liên đoàn tù nhân kháng chiến. Các anh đã củng cố tổ chức và tích
cực giúp đỡ anh chị em tù chính trị thời Mỹ - ngụy, trong buổi đầu chống tố cộng,
chống ly khai. Nhiều năm sau các anh mới mãn hạn, dược trả tự do về vùng tạm
chiếm ở Sài Gòn, dưới chế độ Mỹ - Diệm.
1. Sau sự kiện Bến Đầm
12-12-1952, con số tù binh ở Côn Đảo có biến động lớn. Kể cả số chết trên biển
và số bị bắt lại rồi đưa về đất liền là gần 200 người. Năm 1953, có mấy chuyến
tù binh bị đày ra đảo, nâng tổng sô lên 593 người vào lúc trao trả (8-1954).
1.
Bản án xâm lược Pháp. Phòng Tuyên huấn Đảo ủy biên
soạn tại Côn Đảo tháng 7-1954. Bản lưu tại Viện Lịch sử Đảng, Ký hiệu C-1G- 31,
tr l9.
2.
Phạm Quang Hồng - Tham luận trong cuộc Hội thảo tại
Thành phố Hồ Chí Minh, 3-1991. Hồ sơ lưu trữ tại Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu.
1. Hai anh em Ôbênăng đều làm gác ngục ở Côn Đảo.
1. Con của các giám thị người Việt được Liên đoàn tù nhân
kháng chiến Côn Đảo giác ngộ và tổ chức.
Bộ máy cai trị tù nhân thời Mỹ - ngụy
Tháng 3-1955, thiếu tá A.Blanck bàn giao chức Giám đốc quần đảo và đề
lao Côn Đảo cho Bạch Văn Bốn, thiếu tá quân đội Sài Gòn, chấm dứt gần một thế kỉ
cai trị của thực dân Pháp. Nửa năm sau, Bạch Văn Bốn trở về Phân khu Đông, tham
gia đàn áp các phe phái đối lập và phong trào cách mạng, chức Giám đốc nhà tù về
tay Trần Văn Thiều, một viên chức hành chính. Trần Văn Thiều chỉ là giải pháp tạm
thời. Theo xu hướng quân sự hóa bộ máy hành chính, ngày 6-5- 1956, ngụy quyền
Sài Gòn đưa Đại úy bảo an Hồ Chí Thiền ra nhận chức Giám đốc quần đảo và đề lao
Côn Đảo, kiêm chỉ huy trưởng liên đội bảo an.
Tháng 10-1956, ngụy quyền Sài Gòn phân chia lại lãnh thổ Nam Việt Nam,
nâng cấp Hải đảo Côn Sơn thành tỉnh Côn Sơn (Sắc lệnh 147-NV ngày 24-10-1956).
Thiếu tá Bạch Văn Bốn được cử làm Tỉnh trưởng đầu tiên của “tỉnh tù”. Tỉnh
không có quận, huyện, phường, xã, không có các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội,
chỉ có tù nhân và bộ máy trị tù. Tỉnh trưởng kiêm Chỉ huy trưởng Tiểu khu quân
sự. Quản đốc Trung tâm Huấn chính do đại úy bảo an Bùi Văn Năm đảm trách. Từ
tháng 9 năm 1958, Tỉnh trưởng kiêm chức Quản đốc Trung tâm Huấn chính.
Tháng 4 năm 1965 ngụy quyền Sài Gòn ra sắc lệnh 75-NV, bãi bỏ tỉnh Côn
Sơn, thiết lập trên quần đảo này một cơ sở hành chính trực thuộc Trung ương, đứng
đầu là một sĩ quan quân đội ngụy với chức danh Đặc phái viên hành chánh kiêm Quản
đốc trung tâm cải huấn Côn Sơn, chức danh này tồn tại đến ngày cáo chung của ngụy
quyền Sài Gòn. Từ tháng 3-1955 đến tháng 4-1975, có 14 đời chúa đảo.
Tòa hành chánh tỉnh gồm: Văn phòng Tỉnh trưởng, Phòng Nội an, Phòng Hành
chánh tổng quát, Phòng Bút toán. Nhiệm vụ của tòa Hành chánh là thảo các văn bản
hành chánh, dự trù ngân sách, kế toán, kiểm soát lương bổng, vật liệu, văn
phòng phẩm, hộ tịch, an ninh, quốc phòng trên quần đảo.
Tỉnh có các ty, sở và cơ sở trực thuộc như sau: Ty Ngân khô, Ty Thanh
niên, Ty Tiểu học, Trường Trung học, Ty Thông tin, Ty Y tế, Ty Khí tượng, Ty Thủy
vận, Ty Kiến thiết, Hạt Nông nghiệp, Nhà máy điện, Hợp tác xã tiêu thụ, Đài Vô
tuyến điện, Phòng Viễn thông, Phi trường Cỏ Ống, Ty Công an, Tiểu khu Côn Sơn.
Thời Pháp, Côn Đảo chỉ có một tên cò (Commissaire de police) làm nhiệm vụ
Cảnh sát tư pháp. Tháng 8-1958, Nha Cảnh sát và Công an Nam phần biệt phái 18
nhân viên công an ra giúp việc tại Trung tâm Huấn chính Côn Sơn. Tố chức Công
an Côn Sơn lúc đầu gọi là Chi Công an, tháng 6-1960 nâng cấp thành Ty Công an,
năm 1971 đổi lại thành Bộ chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Côn Sơn, Trưởng ty được gọi
là Chỉ huy trưởng.
Dưới Chỉ huy trưởng có trưởng các phòng: Phòng cảnh sát đặc biệt, Phòng
quản trị, Phòng tư pháp, Phòng kỳ thuật, Phòng an ninh cảnh lực, Phòng tâm lý
chiến, Cuộc cảnh sát Bến Đầm, Cuộc cảnh sát Cỏ Ống. Nhân viên công an có 16 tên
vào tháng 8-1958 đã tăng lên 70 tên vào năm 1971. Khi cần tăng cường lực lượng
đàn áp, ngụy quyền Sài Gòn điều động Cảnh sát dã chiến thuộc biệt đoàn 222 từ
Sài Gòn ra.
Việc phòng thủ Côn Đảo sau khi thực dân Pháp rút đi do Bảo an đoàn của
ngụy quyền Sài Gòn đảm nhiệm, lúc đầu có một liên đội. Tháng 8-1957, quân số
tăng lên một đại đội, 144 tên, có 4 sĩ quan. Năm 1960 lực lượng phòng thủ Côn
Sơn có 2 đại đội, quân số 223 tên. Từ năm 1961, quân số trực thuộc Tiểu khu Côn
Sơn lên đến một tiểu đoàn gồm Bộ chỉ huy tiểu đoàn 8 tên, một đại đội chỉ huy
60 tên và 3 đại đội chiến đấu, quân số mỗi đại đội là 164 tên. Khi cần tăng cường
lực lượng phòng thủ hoặc làm áp lực với tù nhân, ngụy quyền Sài Gòn điều động lực
lượng lính dù từ Sài Gòn.
Ngoài lực lượng của Tiểu khu Côn Sơn còn có một bộ phận gần 30 tên ở Đài
kiểm báo (Đài 303) trực thuộc Bộ tư lệnh Hải quân ngụy đóng trên núi An Hải, 40
tên Mỹ và chư hầu hoạt động ở Đài LORAN Cỏ Ống trực thuộc Hải quản Mỹ, Đài
LORAN làm nhiệm vụ liên lạc với căn cứ quân sự của Mỹ ở khu vực Thái Bình
Dương. Đài Kiểm báo kiểm soát toàn bộ hoạt động của tàu thuyền từ ngoài khơi
vào Vùng 3, Vùng 4 Duyên Hải. Ngụy quyền chia Côn Đảo thành 3 khu vực phòng thủ:
-
Chi khu A
phòng thủ toàn bộ thị xã.
-
Chi khu B
phòng thủ từ Cỏ Ống đến Bảy Cạnh.
-
Chi khu c
phòng thủ từ Bến Đầm đến ông Đụng.
Mỗi chi khu có một đại đội. Riêng chi khu A có thêm Bộ chỉ huy tiểu đoàn
và đại đội chỉ huy. Tiểu khu Côn Sơn trực thuộc Bộ tư lệnh quân khu 5 (đóng tại
cần Thơ). Năm 1961, phong trào đấu tranh vũ trang phát triển mạnh, địch ráo riết
phòng thủ Côn Đảo nhằm ngăn chặn cuộc tập kích từ hai hướng: hướng của Quân giải
phóng miền Nam xuất phát từ cửa Đại Ngãi bằng ghe bầu và hướng của Hải quân Việt
Nam từ Bắc vào, ngụy trang bằng ghe ngư phủ. Địch nhận xét: "Đối với Việt
Cộng, Côn Sơn chưa phải là một mục tiêu quân sự, vì thế Việt Cộng không chiếm
Côn Sơn làm căn cứ chiến lược hoặc dùng làm bàn đạp tấn công nội địa. Tuy nhiên,
vẫn có nhiều lý do thúc đẩy Việt Cộng đột kích Côn Sơn như: gây tiếng vang trên
chính trường thế giới, gieo hoang mang trong đầu óc dân chúng miền Nam, trấn an
tinh thần của cán bộ nằm vùng và giải thoát cho 5.000 can phạm".
Vì lẽ đó, Tiểu khu Côn Sơn được chuyển thành chế độ Biệt khu trực thuộc
Bộ Tổng tham mưu ngụy, Bộ tư lệnh Hải quân ngụy đảm nhiệm tuần tiểu bảo vệ,
liên đoàn dù được huy động ứng cứu Côn Đảo khi có sự biến. Ngày 15-11 -1961, đại
đội 3 thuộc tiểu đoàn 3, liên đoàn dù đã tiến hành tập trận nhảy dù tiếp ứng toạ
độ XQ. 708.615 gần thị xã Côn Sơn.
Sau khi tiếp quản từ tay thực dân Pháp, ngụy quyền Sài Gòn đặt tất cả
các đề lao và nhân viên giám thị trực thuộc Bộ Tư pháp (Sắc lệnh 111-NV ngày
21-8- 1956). Sau 2 vụ bạo dộng của tù nhân ở Chí hòa và Tân Hiệp (1956) phải sử
dụng lực lượng an ninh quân đội đàn áp, chính quyền Diệm đã giao cho quân đội
tiếp nhận các nhà lao cùng toàn bộ nhân viên. Tháng 11- 1958 ngụy quyền Sài Gòn
đặt tất cả các nhà lao cùng toàn bộ nhân viên giám thị trở lại thuộc quyền quản
trị của Bộ Nội vụ (Sắc lệnh 535-TP). Các nhà lao lúc đó được mang tên khá mị
dân là Trung tâm huấn chính Ban đầu, Trung tâm huấn chính Côn Sơn được tổ chức
theo hai cấp:
-
Ban Quản đốc
Trung tâm Huấn chính là bộ máy cai trị của ngụy quyền gồm Quản đốc, Ban hướng dẫn
học tập và tác động tinh thần, Ban Giám thị và Ban khai thác.
-
Ban chấp hành
đoàn là tổ chức tự quản của tù nhân, gồm những người tù cam chịu làm tay sai
cho địch. Dưới Ban chấp hành đoàn còn có Ban chấp hành toán ở mỗi phòng. Mỗi
toán lại được chia thành nhiều nhóm, môi nhóm chia thành nhiều tổ dể quản lí đến
từng người tù.
Năm 1960, ngụy quyền thành lập Trung tâm cải huấn Côn Sơn trực thuộc Nha
tổng quản đốc các Trung tâm cải huấn với 2 trung tâm: Trung tâm cải huấn I giam
tù câu lưu (không án) và Trung tâm cải huấn II giam tù án. Trung tâm cải huấn I
do tên Phạm Sau, Trưởng đoàn cán bộ cải huấn của Nha Tổng Quản đốc các Trung
tâm cải huấn biệt phái làm Trưởng trung tâm. Trưởng các trại là hạ sĩ quan quân
đội và nhân viên công an biệt phái. Có thời gian, mỗi trại tù câu lưu chúng bố
trí cả 3 tên làm đồng trưởng trại (quân đội, công an và cải huấn) để trực tiếp
phụ trách các mặt: quản trị tù nhân, duy trì an ninh và cải tạo tư tưởng. Năm
1961, Phạm Sau bị cách chức. Trưởng trung tâm cải huấn I do một sĩ quan quân đội
đảm trách.
Trung tâm cải huấn II do Nguyễn Văn Thà làm Giám thị trưởng, dưới quyền
có 62 giám thị cải huấn (số liệu ngày 16-7-1963), trong đó có những tên khét tiếng
ác ôn như Lê Văn Khương - Phó giám thị, Lê Văn Tốt - Trường ban an ninh trung
tâm cải huấn II, Đỗ Văn Phục - Phó ban an ninh trung tâm cải huấn II...
Thực dân Pháp rút đi, để lại 3 trại giam chính: Lao I, Lao II, Lao III
và nhiều lao phụ. Riêng Lao III có một lao chính, một lao phụ (Annexe du Bagne
III), và 2 dãy biệt lập (Chuồng Cọp Pháp). Lao III chính được sửa chửa và sử dụng
vào tháng 7-1959 mang tên Lao IV. Năm 1960, ngụy quyền đặt lại tên các lao: Lao
I là Trại Cộng hòa, Lao II là Trại Nhân Vị, Lao III và Lao IV là Trại Bác Ái và
chi nhánh Trại Bác Ái. Sau khi Ngô Đình Diệm đổ, các trại lại mang tên theo số
hiệu: Trại I, Trại II, Trại III, Trại IV.
Trại V được xây dựng từ năm 1962, cùng một kiểu cấu trúc như như 4 trại
trước. Trại VI, Trại VII và Trại VIII được Mỹ chi tiền, thiết kế và thầu xây cất.
Ba trại này được xây dựng vào năm 1968, hòan thành cơ bản vào năm 1970-1971. Trại
IX và Trại X đã được đố móng, đúc cột, xây vài bức tường rồi bỏ dở sau Hiệp định
Paris 1973.
Ngoài các trại giam chính được xây dựng kiên cố, Côn Đảo còn có nhiều trại
giam phụ, xây dựng tại các sở tù, nơi bóc lột lao động khổ sai của tù nhân. Trại
giam phụ được xây dựng tương đối kiên cố ở các sở tù có công việc chuyên môn cố
định như Sở Lưới, Công Xưởng, Nhà Đèn, Lò Than, Lò Vôi, Chuồng Bò. Một số cơ sở
khác có
trại dựng bằng gỗ lá như Sở ruộng Quang Trung, Sở rẫy An Hải,
Sở Muối, Cỏ Ống, Bến Đầm.
Nhằm triệt để tận dụng lao động khổ
sai của tù nhân, ngụy quyền Côn Đảo củng cố và mở rộng quy mô tất cả các sở tù,
kể cả các sở mà thực dân Pháp đã bỏ hoang hóa từ lâu. Chúng còn mở thêm nhiều sở
mới như Sở Chăn nuôi, Sở rẫy Đông Phong, Sơ rẫy Thiên Thu...
Trước năm 1957, Côn Đảo chỉ có một loại tù án tư pháp (hình sự) do thực
dân Pháp bàn giao lại, tính đến ngày 26-12-1956, con số tù tư pháp còn lại là
674 người. Tháng 1-1957, ngụy quyền Sài Gòn chỉ thị cho các địa phương thanh lọc
số tù chính trị ngoan cố nhất đưa ra an trí tại Côn Đảo. Phần lớn tù chính trị
trong thời kì I này là tù không có án tiết, dược gọi là tù chính trị câu 1 lưu
(câu thúc, giam giữ, lưu giữ). Tháng 12-1959, số tù câu lưu tăng lên mức cao nhất
là 4.061 rồi giảm dần từ 1 năm 1960 do chuyển về đất liền và trả tự do, đến
tháng 7- 1963 chỉ còn lại 519 người.
Trong khi đó thì tù án ngày càng tăng lên, nhất là án chính trị cộng sản.
Cuối năm 1960, số lượng tù án là 2.415 người. Tháng 7-1963, số tù án hiện hữu tại
Trung tâm Cải huấn II là 3355 người. Con số tù nhân thời chống Mỹ lên cao nhất
(trong khoảng 1969-1972) xấp xỉ 10.000 người. Vào tháng 7-1972, Côn Đảo có
9.667 tù nhân, trong đó, tù án: 4237 (4 nữ); câu lưu: 2.924 (313 nữ); nghi can:
1226. Số nghi can (1.226) phần đông là thường dân ở Quảng Trị-Thừa Thiên vừa bị
dịch bắt trong các cuộc hành quân mùa hè năm 1972. Ngoài ra có 53 trẻ em từ 1 đến
9 tháng tuổi bị bắt theo mẹ.
Năm 1973, con số tù nhân Côn Đảo có biến động lớn, do việc trao trả tù
nhân theo Hiệp định Paris. Trong số 5.081 nhân viên dân sự toàn miền Nam được
trao trả, có 4.075 người ở nhà tù Côn Đảo. Sau đợt trao trả, số tù nhân Côn Đảo
tiếp tục tăng lên do tiếp nhận từ các nhà lao trong đất liền. Trước ngày hòan
toàn giải phóng (30-4-1975), Côn Đảo có 7.448 tù nhân, trong đó 4.234 là tù
chính trị (có 494 phụ nữ) và 3.214 là tù thường phạm, quân phạm các loại.
Tù nhân, trước hết được phân loại theo án tiết, thành tù có án và tù
không án (câu lưu). Tù có án còn được phân theo loại án (án tù giam, án khổ sai
hữu hạn, khổ sai chung thân, tử hình) và phân theo màu sắc chính trị (Chính trị
cộng sản, Chính trị quốc gia, Thường án, Quân phạm thường án, Quân phạm chính
trị). Những đặc điểm phân loại được cụ thể hóa bằng màu sắc, kí hiệu, số hiệu
ghi trên thẻ bài của mỗi tù nhân để chúng dễ kiểm soát. Có 5 loại thẻ bài tương
ứng với 5 loại án tù:
-
Xanh vàng là
quân phạm thường án.
-
Xanh đỏ là
quân phạm chính trị.
-
Vàng đỏ là
chính trị quốc gia.
-
Đỏ ròng là
chính trị cộng sản.
Có thời địch đã làm thẻ bài cho tù chính trị câu lưu, mang ký hiệu H.c.
Tuy nhiên, tù chính trị câu lưu đấu tranh chống mang thẻ bài rất quyết liệt.
Sự phân biệt giữa tù án và tù câu lưu chỉ là tương đôi. Tù câu lưu theo
luật, bị câu lưu tối đa là 2 năm, song chúng có thể gia tăng nhiều lần đến vô
thời hạn chẳng khác gì một án chung thân, đày ải và đánh đập đến chết như một
án tử hình hoặc bị truy tố ra tòa vì bất cứ tội gì mà chúng muôn gán ghép. Tù
án cũng có thể bị câu lưu ngay khi mãn án.
Vấn đề khí tiết của người tù dưới thời Mỹ ngụy bao giờ cũng hệ trọng hơn
án tiết. Người mang án tử hình vẫn có thể giảm xuống chung thân, dưới mức chung
thân và trả tự do trước mỗi biến động chính trị. Ngược lại đã có nhiều người bị
câu lưu cho đến chết, hàng ngàn người bị câu lưu suốt đời nếu không có ngày giải
phóng mùa xuân năm 1975 vì họ chống ly khai, chống chào cờ, chống nội quy nhà
tù, giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng.
Trong hồ sơ, báo cáo của nhà tù, mỗi thời kì đều có những cách khác nhau
để phân loại tù nhân, song phân loại theo “hạnh kiểm” là cơ bản nhất (chống đối
hay chấp hành nội quy).
Tiếp tục thủ đoạn và các cơ sở lao động khổ sai do thực dân Pháp để lại,
ngụy quyền Côn Đảo ra sức bóc lột tù nhân, phục vụ bộ máy trị tù, lấy tù nuôi
tù, xây dựng trại giam, làm đường sá, sân bay và các công trình quân sự. Qua
các bản phúc trình của Quản đốc nhà tù, có thể thấy được âm mưu của địch bắt tù
nhân ngày phải lao động cật lực, tối phải học tố cộng để không còn thời gian và
sức lực để tổ chức và đấu tranh.
Tuy nhiên, chế độ khổ sai ở bất cứ nơi nào cũng dễ chịu hơn là cấm cố.
Âm mưu sâu xa của địch trong việc bóc lột khổ sai thời Mỹ - ngụy nhằm phân hóa
tù nhân. Những tên quản đốc lọc lõi như Nguyễn Văn Vệ, Cao Minh Tiếp, trong lúc
đàn áp và đày ải những người chống đối ở các trại cấm cố đến vô hạn độ thì
chúng lại nới rộng chế độ khổ sai (cho hưởng hoa lợi 40%, có lúc đến 60% rồi 100%)
để lôi kéo tù nhân từ bỏ mục tiêu đấu tranh chính trị.
Theo bài bản của Mỹ, Trung tâm Cải huấn Côn Sơn tổ chức hướng nghiệp một
số ngành nghề, song thực chất chỉ là thủ đoạn lừa mị, bóc lột và phân hóa tù
nhân. Số người được chọn hướng nghiệp phải có “hạnh kiểm tốt” hoặc là những đối
tượng chúng đang tập trung chiêu dụ theo mục tiêu của chế độ cải huấn.
Thực chất của chế độ cải huấn là tiến hành tố cộng trong tù. Có thể nói
đây là thủ đoạn nguy hiểm nhất, đồng thời cũng là mục đích cao nhất của Mỹ - ngụy
đối với tù nhân Côn Đảo. Từ năm 1957 đến năm 1963, đối với tù chính trị câu
lưu, bọn chúa ngục Côn Đảo tiến hành đồng thời hai bước:
-
Cưỡng bức ly
khai cộng sản, từng bước thanh lọc số tù chính trị ngoan cố để có những biện
pháp đàn áp ngày càng khốc liệt hơn.
-
Tổ chức học tố
cộng triền miên, nhằm cải tạo tư tưởng, triệt hạ khí tiết, biến những người tù
chính trị thành kẻ phản bội, làm tay sai cho chúng.
Từ năm 1960, tù án chính trị cũng buộc phải học tố cộng buổi tối, sau
ngày lao động khổ sai. Từ khi chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm sụp đổ, ngụy
quyền Sài Gòn mới bỏ học tố cộng trong tù, chuyển sang hình thức tâm lý chiến
tinh vi.
Chào cờ vừa là nội quy bắt buộc của nhà tù, vừa là một biện pháp trong
thủ đoạn tố cộng. Khi chào cờ, chúng buộc tù nhân phải hô hai khẩu hiệu phản động:
"ủng hộ Ngô Tổng thống", "Đả đảo Hồ Chí Minh", sau khi Ngô
Đình Diệm đổ thì đổi là "ủng hộ Việt Nam Cộng hòa", "Đả đảo cộng
sản xâm lược" nhằm hạ nhục và bôi dấu vết phản động lên phẩm chất những
người tù chính trị. Bằng thủ đoạn này, ngụy quyền hi vọng sẽ triệt hạ sinh mạng
chính trị của người tù, để khi trả tự do, họ không thể trở lại đội ngũ chiến đấu
được nữa.
Những người tù chính trị từng chống li khai, chống chào cờ mà không chịu
được gian khổ, ác liệt, phải chịu điều kiện, bị chúng hạ nhục bằng cách bắt kí
giấy li khai, bôi nhọ cộng sản, hoặc bắt tập hợp biểu tình, hô những khẩu hiệu
phản động.
Những người tham gia các tổ chức trong tù bị bể bạc, không chịu được
đòn, đã khai báo bị chúng truy bức đến cùng, buộc phải khai lại hồ sơ, khai báo
từ đầu toàn bộ tổ chức trong tù, tổ chức bên ngoài, buộc phải phản tỉnh bằng
cách vạch ra những phương án giúp chúng đánh phá hữu hiệu các tổ chức cách mạng.
Từ năm 1968, dược sự chỉ đạo trực tiếp của cố vấn Mỹ, ngụy quyền Côn Đảo
tiến hành các thủ đoạn tâm lí chiến, điển hình là “Chương trình tâm lý chiến
thí điểm Côn Sơn” (1968-1972). Đây cũng là thời kỳ chúng sử dụng những tên sĩ
quan tình báo học ở Mĩ, Đài Loan về làm chúa đảo.
Đối với những tù nhân chống ly khai, lúc đầu, ngụy quyền dùng thủ đoạn
phổ biến là xiết bóp đời sống (nhốt chật, cấm cố, đóng cửa cây, bớt cơm, cúp nước
tắm, bớt nước uống, bệnh đau không thuốc chữa trị) nhằm đẩy người tù đến chỗ
suy kiệt dinh dưỡng, mòn mỏi tinh thần, chịu đựng không nổi, phải chịu ly khai.
Từ năm 1959 trở đi, chúng còn cho công an, trật tự tra tấn, khủng bố bằng
những ngón đòn tàn bạo, truy bức trường kì cả thế xác lẫn tinh thần, về chế độ
ăn uống, đặc biệt là tù chính trị ở các lao cấm cố, có thế dẫn ra đây một đoạn
trong Luận án Tiến sĩ y khoa của bác sĩ Nguyễn Minh Triết mang tên Nhận xét về
bệnh lý tại một nhà lao:
“Thức ăn chính (của tù nhân) gồm:
- Gạo: xấu, lẫn nhiều tấm, thóc, sạn.
-
Khô: thường là
khô củ, mục đắng, gọi là khô kyninh.
-
Mắm sặc: tương
đối được ưa chuộng.
-
Cá hộp: nội
hóa, có khi bị hư, 5 người một hộp trong mỗi bữa ăn, nhưng không phải là 5 món
mà chỉ là gạo với một trong 5 thứ ấy.
-
Cá tươi: hiếm,
gần đây có một tàu đánh cá, lâu lâu cung cấp cho tù nhân một số cá Xà, cá Mập,
gây nhiều bệnh biến chứng, đặc biệt là bệnh suyễn, nhưng tàu lại hay bị nằm ụ.
-
Thịt: thật là
hiếm, kể từ tháng 7-1968 đến tháng 11-1971 (40 tháng) được ăn thịt có 6 lần.
-
Rau: ít ỏi,
chính là rau muống bón bằng phân người tươi, ở các lao cấm cố, trước đây không
được ăn rau, và chuyện bứt cỏ (cỏ thỏ, sam đất, mần trầu) hay lá cây (lá bàng,
lá phượng) để ăn là chuyện bình thường.
-
Cầu tiêu:
trong góc khám, lúc nhúc dòỉ. Trại nữ trước đây ở biệt lập I và II, đi cầu vào
thùng cây, đầy lại đổ ra các hố lộ thiên, ruồi nhặng khủng khiếp. Muỗi rất nhiều”.
Ngoài việc đánh đập, tra tấn, hành hạ tại trại giam, tại nơi làm khố sai
hay ở Ban chuyên môn với những ngón đòn hiểm độc gấp nhiều lần thời Pháp, Mỹ ngụy
còn tổ chức những chiến dịch lớn, đưa lực lượng chống cộng sừng sỏ và cảnh sát
dã chiến ở Sài Gòn ra, sử dụng lựu đạn cay và các phương tiện chống bạo động để
đàn áp tù nhân khi cần thiết.
Việc phân loại tù nhân, áp dụng các chế độ giam giữ, chế độ kỷ luật, cưỡng
bức khổ sai, đàn áp và khủng bố nhằm mục đích đày đọa, làm kiệt quệ về thể xác,
mòn mỏi về tinh thần triệt hạ khí tiết cách mạng, biến người tù chính trị thành
kẻ phản bội, trở thành tay sai cho chúng. Không làm được như vậy, chúng đánh đập,
đày ải đến tàn phế, để khi mãn hạn tù, họ sẽ thành kẻ tật nguyền, không còn khả
năng hoạt động.
Kế thừa kinh nghiệm của thực dân Pháp, ngụy quyền Sài Gòn đã đưa thủ đoạn
“dùng tù trị tù” lên một trình độ mới, tinh vi và thâm hiểm vượt xa quan thầy.
Thủ đoạn phổ biến của chúng là dùng tù thường phạm, tù giáo phái, tù quân phạm
lưu manh làm trật tự, an ninh để đàn áp tù chính trị. Địch đặc biệt chú ý đến
những phần tử đầu hàng, phản bội. Bọn này hầu như đã mất hết nhân tính, chúng lấy
việc đánh giết tù nhân làm trò tiêu khiển và để tiến thân.
Bọn trật tự được tổ chức thành “Hệ thống nổi”. Bên cạnh đó có mạng lưới
an ninh được tố chức thành “Hệ thống chìm”, theo mô hình từ Trung tâm đến trại,
phòng, toán, tố. Ngoài hai loại trật tự an ninh nói trên, địch còn tổ chức những
toán trật tự bãi để kiểm soát tù vượt ngục, trật tự lưu động để kiểm soát các
toán tù làm khổ sai, trật tự an ninh tăng phái, tăng cường không chế tù nhân ở
những “điểm nóng”.
Năm 1960, Ban an ninh được đổi thành Ban điều tra, trực thuộc từng trung
tâm, ít lâu sau đổi lại là Ban an ninh. Tháng 9-1963, Lê Văn Khương được đề bạt
chức Phó giám thị phụ trách an ninh Trung tâm cải huấn II, Khương đổi thành Ban
an ninh nội trại. Thiếu tá Nguyễn Văn Sáu là Tỉnh trưởng kiêm Quản đốc trung
tâm cải huấn. Sáu vốn là sĩ quan Cao Đài theo Diệm, biết “trở cờ” đúng lúc nên
sau đảo chính (1-11-1963) vẫn không mất chức. Sáu có thái độ hòa hoãn với tù
nhân, chấp nhận việc tù chính trị câu lưu chống chào cờ, học chống tố cộng. Lê
Văn Khương vào phe đối lập, tố cáo thiếu tá Sáu về tận Sài Gòn.
Nguyễn Văn Sáu đổ (6-1964), Tăng Tư lên thay. Nhờ thành tích đàn áp tù
nhân và góp phần hạ bệ Nguyễn Văn Sáu, Lê Văn Khương được tin dùng. Theo đề nghị
của Khương, Tăng Tư thống nhất tổ chức trật tự trung tâm cải huấn I và trung
tâm cải huấn II thành Phòng chuyên môn, do thiếu úy Nguyễn Văn Diệp, nguyên là
Trưởng ban an ninh Trung tâm cải huấn I làm Trưởng phòng. Lê Văn Khương là đệ
nhất Phó phòng đặc trách Hệ thống chìm (mật báo). Giám thị Nguyễn Văn Đàng là đệ
nhị Phó phòng, đặc trách Hệ thống nổi (trật tự). Giám thị Phạm Văn Long làm Trưởng
Ban Hoạt vụ, đặc trách về điều tra khai thác.
Do mâu thuẫn với thiếu úy Diệp, đầu năm 1965, Lê Văn Khương xin đổi về
Phòng nội an (tòa hành chánh). Giữa năm 1965, Diệp đề cử thiếu úy Nguyễn Văn
Dũng thay thế, trước khi đổi về đất liền. Phòng chuyên môn lúc ấy quyền hành
trùm cả Trung tâm cải huấn, lấn át Phó quản đốc, Phó tỉnh trường phụ trách Nội
an.
Cùng thời gian đó, Tăng Tư mất chức, Nguyễn Thế Tỵ giữ quyền Tỉnh trưởng.
Đại úy Trần Hữu khỏe giải tán Phòng chuyên môn, lập lại Ban chuyên môn và Ban
an ninh. Lê Văn Khương được cử làm Trưởng ban chuyên môn. Phụ tá cho Khương có
giám thị Phạm Văn Long đặc trách về SƯU tra, Trần Minh Tâm, đặc trách về thư
tín. Ban chuyên môn đảm nhiệm hệ thống chìm, lo việc khai thác, SƯU tra, nắm vững
nhân số, xây dựng tình báo, mật báo trong nội bộ tù nhân, kiểm duyệt thư tín,
thu thập tin tức. Ban an ninh do giám thị Nguyễn Văn Tốt làm Trưởng ban cùng
hai phụ tá là Lục Văn Keo và Nguyễn Văn Tý. Ban an ninh có nhiệm vụ canh gác tất
cả các chòi bãi, ruộng rẫy, cửa rừng, đề phòng tù vượt ngục.
Cuối năm 1965, thiếu tá Nguyễn Văn Vệ ra làm chúa đảo. Vệ đặc biệt tin
dùng Khương, giao cho Khương trọn quyền sắp xếp bộ máy an ninh trật tự. Lê Văn
Khương sinh năm 1929 tại Long Xuyên, có biệt tài về tổ chức, có năng lực chỉ
huy, giỏi nghề tình báo, hám danh, chống cộng triệt để. Bộ máy mật vụ do Khương
tuyển chọn và huấn luyện thật sự là những con thú dữ say máu, cắn xé đồng loại
không biết ghê rợn, gây nhiều tội ác đẫm máu với tù nhân Côn Đảo.
Bộ máy an ninh trật tự là công cụ chủ yếu để quản trị và đàn áp tù nhân.
Đây cũng là dấu ấn đậm nét nhất trong thủ đoạn dùng tù trị tù của Mỹ - ngụy.
Khác hẳn thời Pháp, người tù chính trị thời Mỹ ngụy không bao giờ được
yên phận tù. Bóc lột khổ sai, cấm cố, đày ải, khủng bố với mức độ tàn bạo vượt
xa thực dân Pháp, nhưng việc hành xác và giết hại người tù vẫn chưa phải mục
đích cuối cùng của chúng. Tất cả các thủ đoạn tinh vi, thâm độc và tàn bạo nhất
của Mỹ - ngụy đều nhằm tiêu diệt sinh mạng chính trị người tù, vô hiệu hóa cán
bộ cộng sản.
Phương châm của Mỹ - ngụy là “muốn giữ tù yên thì không bao giờ để cho
tù được yên”. Đã cưỡng bức được họ ly khai cộng sản thì phải tiếp tục bắt học tố
cộng, chào cờ “quốc gia” hô khẩu hiệu phản động, ký kiến nghị ủng hộ Ngô Đình
Diệm, đả đảo Hồ Chí Minh, nhằm gột rửa tư tưởng cộng sản, biến người cách mạng
thành kẻ phản bội lý tưởng của mình, phản bội tổ chức và lãnh tụ mình, làm tha
hóa phẩm chất, nhân cách đến mức có được trả tự do cũng không thể dung nạp vào
đội ngũ chiến đấu được nữa.
Cuộc đấu tranh anh dũng của các chiến
sĩ cách mạng trong nhà tù thời Mỹ - ngụy trước khi có Hiệp định Paris
(27-1-1973) đã diễn ra vô cùng quyết liệt và có sự phân biệt rõ nét của 2 thời
kỳ: chống tố cộng, diệt cộng rất cực đoan theo kiểu Ngô Đình Diệm và chống các
thủ đoạn tâm lý chiến, chiêu hồi thời kỳ sau Ngô Đình Diệm với sự gia tăng của
cố vấn Mỹ, viện trợ Mỹ phương thức quản trị tù nhân và phương tiện đàn áp kiểu
Mỹ.
Sau cuộc bạo động của tù nhân ở Chí Hòa (4-1956) và nhất là cuộc nổi dậy
tự giải thoát của 462 tù chính trị tại Trung tâm Huấn chính Biên Hòa
(2-12-1956), Ngô Đình Diệm quyết định chuyến tất cả chính trị phạm nguy hiểm ra
Côn Đảo và chỉ thị thành lập Ủy ban Liên bộ Nội vụ - Tư pháp - Quốc phòng để thực
hiện việc thanh lọc và di chuyển. Ủy ban Liên bộ đã khảo sát và phúc trình hiện
trạng như sau:
-
“Lao I: hiện
trạng còn tốt, chắc chắn và sạch sẽ, hiện là nơi giam giữ các tội nhân. Lao này
có 10 khám, có thể chứa 1.500 tội nhân.
-
Lao II: mới tu
bổ xong, hiện còn bỏ trống. Lao này kiên cố, sạch sẽ như Lao I và có 13 khám,
có thể chứa 1.950 tội nhân.
-
Lao III: gồm một
lao chính và một lao phụ. Lao chính hư hỏng nhiều, nếu sửa chữa có thể chứa lối
1500 tội nhân... lao phụ trước là nơi giam giữ tù binh, chỉ hư hỏng bề ngoài,
có thể sử dụng để chứa tới 1.000 tội nhân.
-
Ngoài ra, tại
các sở tù, còn có 4 lao nhỏ có thể chứa 320 tội nhân. Tổng số tội nhân hiện
giam giữ tại Côn Đảo là 674 người".
Ngày 11-1-1957, chuyến lưu đày Côn Đảo đầu tiên chở 360 tù chính trị thuộc
các tỉnh miền Đông từ nhà lao Biên Hòa rời cảng Sài Gòn, trong đó có 36 phụ nữ.
Tính đến ngày 3-12-1957 ngụy quyền đày ra Côn Đảo 10 chuyến, tổng cộng 3.080 tù
nhân. Lớp tù nhân đầu tiên thời Mĩ - ngụy bị đày ra Côn Đảo tháng 1-1957 là tù
chính trị không án, bị câu lưu (giam giữ, chỉ định nơi cư trú). Họ là những người
mà ngụy quyền cho là “nguy hiểm nhất” được thanh lọc từ tất cả các nhà lao, đày
ra Côn Đảo để tiếp tục các thủ đoạn “tố cộng” trong tù với mức độ ác liệt hơn.
Theo phúc trình không số ngày 5-9-1958 của Nguyễn Văn Hòa, công an biệt
phái tại Trung tâm huấn chinh Côn Sơn, tính đến ngày 24-3-1957, ngụy quyền đã
lưu đày ra đảo 4 chuyến, tổng số 1.264 tù chính trị câu lưu. Cuối tháng 3-1957,
ngụy quyền Côn Đảo bắt đầu thực hiện “tố cộng” đối với tù chính trị câu lưu bằng
thủ đoạn cưỡng bức li khai Đảng cộng sản, chúng thành lập Trại quốc gia (Trại
II), vận động số tù chính trị ly khai Việt cộng, trở về với “quốc gia”. Đợt đầu
tiên, chỉ có 269 người chịu ly khai, về Trại quốc gia, còn 995 người kiên quyết
chống, ở lại Trại I, mang tên Trại cộng sản.
Kể từ khi đó, tù chính trị câu lưu bị phân thành hai tuyến: tuyến thứ nhất
là những người trực diện chống ly khai ở Trại I mà địch gọi là “Trại cộng sản”,
tuyến thứ hai gồm những người chịu điều kiện ly khai ở Trại II mà địch gọi là
“Trại quốc gia”.
Trong các văn bản của nhà tù, ngụy quyền Côn Đảo gọi Lao I là Trại I, Trại
cộng sản. Công văn số 204/TTHC/CS/2M ngày 15-4-1958 của Quản đốc nhà tù ghi rõ:
“Trại I là nơi an trí bọn Việt cộng ngoan cố, chống học tập cải tạo tư tưởng,
không nhìn nhận chủ nghĩa quốc gia, biểu hiện dưới các hình thức: không dự lễ
chào cờ, suy tôn Ngô Đình Diệm, không hô khẩu hiệu huấn chính: “Ủng hộ Ngô Tổng
thống, đả đảo Hồ Chí Minh”.
Chống ly khai cộng sản là hình thức đấu tranh cao nhất, là không thừa nhận
chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, là đấu tranh cho mục tiêu hòa bình thống nhất nước
nhà, là bảo vệ đường lối giải phóng dân tộc của Đảng, bảo vệ lý tưởng cộng sản,
bảo vệ uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đấu tranh chống ly khai là ngọn cờ, là
linh hồn trong phong trào đấu tranh của tù chính trị Côn Đảo trong thời kỳ này.
Những người tù chống ly khai đã trải qua nhiều cực hình đày đọa: cấm cố,
nhốt chật, đóng cửa cây (cửa gỗ), bớt cơm, bớt nước uống, cúp nước tắm, không
cho thuốc khi đau ốm.
Tù nhân Trại I bị giết bằng đủ các kiểu: tra tấn cho đến chết, đày ải
trường kỳ sinh bệnh chết, bị bệnh cho trái thuốc để giết luôn. Y tá của nhà tù
được đào tạo thành những tên mật vụ chống cộng. Nhiều trường hợp bệnh kiết lỵ
chúng cho quinine, thương hàn chúng cho sulfamiđe, tù nhân uống vào đau quặn ruột
rồi chết.
Ngày 1-8-1957, anh Kinh Chi quê Tây Ninh, người tù chính trị đầu tiên thời
chống Mỹ đã chết tại Trại I. Ngày hôm sau, anh Hoàng Văn Khải chết vì kiệt sức.
Ngày 5-8-1957, anh Bùi Văn Khá chết vì bệnh thương hàn. Cả 3 anh đều không được
nhà tù cho một viên thuốc nào. Theo phúc trình không số của Nguyễn Văn Hòa,
công an biệt phái làm đồng Trưởng trại I, từ tháng 8-1957 đến tháng 8-1958, đã
có 118 tù chính trị Trại I chết.
Tên thiếu úy Võ Văn Nguyệt - Phó quản đốc còn nghĩ ra lối giết tù bằng
cách cho ăn gạo trắng nhằm hủy hoại nhanh những cơ thể đã suy dinh dưỡng nặng.
Kiết lị, nha chu (sưng chân răng) và đen chân là những căn bệnh phổ biến nhất.
Có người bị rụng sạch cả hai hàm răng như Hồ Phi Long ở Kon Tum, có người bị
đen dần từ chân lên bụng rồi chết.
Kẻ thù lợi dụng cả những phút hấp hối của tù nhân để cưỡng ép họ ly
khai. Tên Bảy Nhiên, mật vụ của Ty y tế mỗi lần chích thuốc đều hỏi: “Chịu ly
khai không?”. Ai lắc đầu là nó rút kim ra, xịt thuốc xuống đất. Các anh Lê Văn
Khá (ở Trà Vinh), Nguyễn Hà, Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Trọng (ở Bình Định), Huỳnh
Nghinh (ở Quảng Ngãi) bị kiết lỵ nặng, đều bị Bảy Nhiên dụ dỗ và cưỡng bức ly
khai. Cả năm anh đều thà chết chứ không chịu ly khai đế nhận liều thuốc cứu mạng
nhục nhã ấy. Chê độ trị bệnh kết hợp với truy bức tư tưởng đã biến bệnh xá Trại
I thành nhà xác. Trong vòng một tháng kế từ khi thành lập (6-8-1957), đã có 23
tù nhân chết tại bệnh xá.
Có một sô đông những người chống ly khai chưa phải là đảng viên cộng sản,
thậm chí, có người chưa giác ngộ cộng sản, có người thuộc các đảng phái, tôn
giáo đối lập bị' chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp. Theo báo cáo cùa đồng chí Trần
Tấn Lộc, Trưởng ban liên lạc tù chính trị tỉnh Đồng Nai, trong số 1.478 người ở
Trại I (thời điểm thống kê) có 23% là đảng viên, 73% là quần chúng cách mạng và
4% là tề, hương chức cũ và các đảng phái khác, không liên quan gì đến cộng sản.
Ông Nguyễn Văn Mua, 62 tuổi, nông dân ở Thủ Đức, bị bắt vì bị vu oan là
hoạt động cộng sản đã chống li khai từ đầu. Ồng thường nằm lặng lẽ ở một góc
khám, trầm ngâm nhìn lên mái nhà, không trò chuyện, thổ lộ gì với ai. Khi bệnh
nặng, vào phút lâm chung, ông ngồi dậy, dựa lưng vào tường, vuốt lại nếp áo, hô
to: “Hồ Chí Minh muôn năm” rồi từ từ nằm xuống, nhắm mắt xuôi tay, không trăn
trối thêm điều gì nữa.
Anh Nguyễn Hiền, đảng viên Đảng Đại Việt cũng chống ly khai từ ngày đặt
chân lên đảo. Nguyễn Hiền đã chịu chung cảnh lon nước, lưng cơm, nằm nghiêng
không lọt. Những người tù cộng sản dành cho anh một chỗ nằm thoáng mát và khẩu
phần ưu tiên về cơm ăn, nước uống, thuốc chữa bệnh. Anh xúc động tâm sự: “Tôi
không phải là. đảng viên cộng sản, quan điểm lập trường khác các anh. Tôi có ly
khai cũng không tội lỗi gì, nhưng ngặt một nỗi là ly khai thì chúng bắt hô đả đảo
Bác, đó là điều tôi không thể nào làm được. Bác Hồ là người tiêu biểu nhất cho
dân tộc Việt Nam cả về đạo đức tác phong và lòng yêu nước. Bởi vậy tôi ở lại
đây chiến đấu cùng các anh, nếu cần sẽ chết cùng các anh”.
Chống ly khai cộng sản, chống chế độ Ngô Đình Diệm là lập trường hết sức
kiên quyết của anh. Trong con mắt của anh, Bác Hồ là một lãnh tụ vẹn toàn, tài
ba siêu việt, còn Ngô Đình Diệm chỉ là một kẻ sát nhân tàn bạo. Anh hi sinh cuối
năm 1957 trong vòng tay những người cộng sản. Phút hấp hối, anh nói: ‘Bây giờ
tôi đã hiểu cộng sản. Cộng sản là các anh”. Nói xong anh hô: “Hồ Chí Minh muôn
năm” rồi nhắm mắt, xuôi tay.
Tập hồ sơ “Tù nhân Côn Đảo với Bác Hồ” lưu tại Phòng lịch sử Đảng tỉnh
Bà Rịa-Vũng Tàu cho biết, ở Trại I có trên một ngàn quần chúng cách mạng tham
gia phong trào chống ly khai Đảng cộng sản. Nhiều người đã chiến đấu rất kiên
cường và hy sinh anh dũng. Ông Huỳnh Văn Mau tự Lẹ, một tín đồ đạo Hòa Hảo ở
Long Xuyên bị đánh chết trong một trận khủng bố. Anh Dư' Sanh, một tín đồ đạo
Cao Đài ở Tây Ninh bị đánh đập đến lột tròng mắt. Sau lần ấy anh bỏ ăn chay và
cùng tập thể kiên quyết chiến đấu đến cùng.
Mỗi lần địch khủng bố, thay vì niệm thần chú, anh hô khẩu hiệu “Hồ Chí
Minh muôn năm”. Đối với anh cũng như hàng trăm đồng bào các tôn giáo tham gia
cuộc đấu tranh chống ly khai thì tên tuổi Hồ Chí Minh cũng thiêng liêng như một
tín ngưỡng trẽn đời. Khát vọng giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh là biểu tượng đã trở thành lẽ sống mà anh tin đến trọn đời, trọn đạo.
Trại I khi ấy có đủ mặt cán bộ từ cấp Xứ ủy, Khu ủy, Tỉnh ủy, Huyện ủy
cho đến quần chúng cách mạng ở tất cả' các tỉnh, từ Quảng Trị đến Cà Mau, Rạch
Giá. Hình thức tổ chức buổi đầu chưa phải là chi bộ mà là những Ban lãnh đạo bí
mật trong từng phòng, trên cơ sở tín nhiệm và liên hiệp giữa các địa phương: từng
tỉnh, liên tỉnh, các miền (miền Trung, miền Đông Nam bộ, miền Tây Nam Bộ và Sài
Gòn - Gia Định), để tập hợp ý kiến, thống nhất chủ trương.
Chưa có Nghị quyết của tổ chức Đảng về chủ trương và hình thức đấu tranh
trong tù, những người tù chính trị chống ly khai truyền miệng nhau học Kinh nhật
tụng của người chiến sĩ, xem đó là tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức của người
chiến sĩ cách mạng trong tù. Kinh nhật tụng gồm 12 phần, 196 câu theo thể song
thất lục bát, do Khương Hữu Dụng biên soạn với sự cộng tác của Nguyễn Đình và
Nguyễn Đình Thư, xuất bản tại Liên khu V tháng 5-1946, trên cơ sở tập Tuyên
truyền Việt Minh (Tủ sách huấn luyện, Việt Bắc, 1944), được những người tù
chính trị Côn Đảo xem như một "cẩm nang để ứng xử trong mọi tình huống,
như một vũ khí sắc bén để đấu tranh một mất một còn với kẻ thù, để trui rèn phẩm
chất cách mạng, giáo dục tình đồng chí và nhân cách con người".
Đầu năm 1958, bọn cải huấn mở đợt trắc nghiệm tư tưởng tù chính trị Trại
I bằng cách đánh dấu chữ “o”, chữ Chúng phát cho mỗi người một mảnh giấy và bảo:
“Ai theo quốc gia thì đánh chữ “+”, ai theo cộng sản thì đánh chữ “o”. Trong
lúc chưa có sự chỉ đạo tập trung, thống nhất, anh Hồ Bồi (ở Phù Mỹ, Bình Định)
đã nêu ý kiến: “Cái gì địch muốn thì ta không làm, cái gì địch không muốn thì
ta làm”. Ý kiến của Hồ Bồi trở thành phương châm hành động của mỗi người tù
chính trị, khi phải đối phó với thủ đoạn mới của địch, nhất là trong trường hợp
bị phân tán hoặc thiếu sự chỉ đạo tập trung, thống nhất. Hầu hết anh em chọn chữ
“o” làm thất bại một lần nữa âm mưu phân hóa của địch .
Số phụ nữ chống ly khai, địch giam tại hầm đá Trại I. Bọn gác ngục sử dụng
nhiều thủ đoạn để khuất phục các chị. Xà lim đôi rộng hơn 4 mét vuông, thời
Pháp chỉ nhốt 2 người, nay nhốt 18 chị, 7 ngày mới cho đổ thùng cầu một lần,
ngày chỉ một lon nước uống, không nước tắm. Nóng bức và bệnh tật làm sức khoẻ
các chị suy sụp. Các chị phải cắt tóc ngắn, ở trần truồng và thay phiên quạt
cho nhau, chịu đựng qua mùa hè trong xà lim chật chội, ngột ngạt và oi bức. Nhiều
chị có kinh nguyệt phải ngồi trên tấm nilon hoặc trên thùng cầu rồi dùng nước
tiểu của mình thay cho nước làm vệ sinh.
Ngụy quyền không từ một thủ đoạn nào đối với những người phụ nữ chống ly
khai. Chị Đỗ Hữu Bích gửi đứa con còn đang bú cho chị Sửu ở Trại II nuôi giúp để
tham gia chống ly khai, bảo vệ khí tiết. Địch bắt chị Sửu trả đứa bé vào hầm đá
Trại I với mẹ. Cuối cùng, theo lời khuyên của tập thể, chị Bích đành gạt nước mắt,
chịu ly khai để cứu cháu bé khỏi chết trong hầm đá.
Biết chị Nguyễn Thị Tú trong Ban đại
diện phụ nữ chống li khai thuộc thành phần trí thức, chúng tìm mọi cách mua chuộc,
mời chị ra nói chuyện rồi bố trí cho chị ở riêng một xà lim, có chiếu, mền, gối,
nhưng chị đã từ chối, trở về nơi cấm cố với tập thể. Không khuất phục được các
chị và bị dư luận tố cáo, ngụy quyền Sài Gòn buộc phải đưa tất cả nữ tù chính
trị về đất liền vào tháng 4-1958.
Thực hiện quốc sách “tố cộng” ngụy quyền Côn Đảo tìm mọi cách cưỡng bức
Trại I học tố cộng. Ngày 16-7- 1958 chúng gắn loa cho tên Nguyễn Kim Sáu, Bí
thư Đảng “Cần lao Nhân vị” Trưởng ty thông tin kiêm Trưởng ban dẫn đạo chính trị
tỉnh Côn Sơn đọc bản “Tuyên cáo 8 điểm toàn dân đòi hỏi chính quyền miền Bắc”.
Bản tài liệu có nội dung xuyên tạc miền Bắc, nói xấu Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Bị tù nhân tẩy chay, chúng gắn loa vào cửa mỗi phòng, tiếp tục cuộc phát
thanh theo kiểu cưỡng bức nhằm: “Nếu không tác động có lợi cho chính sách chủ
trương của chính phủ (ngụy) thì cũng làm mệt mỏi vì những giờ phát thanh này để
không có thì giờ nghĩ đến cuộc chống đối. Hy vọng lôi kéo lần hồi một số không
phải là cộng sản mà chỉ bị ảnh hưởng xu hướng theo cộng sản”.
Cuộc phát thanh được Quản đốc Nguyễn Văn Giỏi biến thành một chiến dịch
tác động tinh thần, thành một hình thức tra tấn, đày ải tù nhân. Tiếng loa dội
vào khám làm tù nhân nhức óc, mất ăn, mất ngủ, mệt mỏi rã rời, nhưng không đạt
kết quả. Ngày 24-7-1958, địch kết thúc “chiến dịch loa” và tiếp tục tác động
tinh thần bằng phân hóa “kháng chiến và cộng sản”.
Từ cuối tháng 7-1957, ngụy quyền tiến công những người chống ly khai bằng
chiến dịch phân hóa kháng chiến và cộng sản. Chúng đề cao những người kháng chiến
là yêu nước, kiên quyết đấu tranh cho độc lập tự do, nhưng cộng sản đã “cướp
công kháng chiến”, lái kháng chiến theo “chủ nghĩa tam vô, độc tài, đảng trị”,
Bây giờ ai nhận là theo kháng chiến sẽ được “quốc gia” Ưu đãi, trọng dụng, ai
nhận theo cộng sản sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Một bộ phận nhỏ tù chính trị chống
ly khai Trại I đã nhận theo kháng chiến, còn đại bộ phận đã kiên quyết chống thủ
đoạn phân hóa của địch.
Theo báo cáo tháng 8-1958 của Quản đốc nhà tù, trong số 1.190 người ở Trại
I, có 320 người nhận là kháng chiến (25,9%), 657 người nhận là cộng sản hoặc
theo cộng sản, theo Hồ Chí Minh. Địch đưa những người nhận là “kháng chiến” vào
hai phòng 1 và 2, gọi là Khám - kháng chiến, các phòng còn lại của Trại I là
Khám cộng sản. Khám cộng sản chịu chế độ cấm cố, bị đóng cửa cây, bớt cơm, bớt
nước, ốm đau không thuốc.
Khám kháng chiến được đưa ra sân chơi, tắm giặt thoải mái, tuần vài lần
đi tắm biển, chơi chùa. Khám cộng sản ăn tương chua, khô đắng, mắm thối, còn
Khám kháng chiến thì hàng tuần có rau tươi thịt cá.
Thấm thìa nỗi đau và âm mưu chia rẽ của kẻ thù. Khám kháng chiến đã đấu
tranh đòi trả về ở chung với các Khám cộng sản.
Thất bại hoàn toàn, Tỉnh trưởng Bạch Văn Bốn kết luận: “kháng chiến” với
“cộng sản” cũng là một mà thôi.
Tổng kết thất bại của chiến dịch, Nguyễn Kim Sáu, Trưởng ban dẫn đạo
chính trị đã rút ra một nhận xét: “Họ chỉ có một lập trường tuyệt đối tin tưởng
Hồ Chí Minh”.
Đầu năm 1959, ngụy quyền Sài Gòn dưa trung úy Nguyễn Đắc Dận, một tên ác
ôn từ nhà lao Phú Lợi ra làm Trưởng ban an ninh trung tâm cải huân Côn Sơn.
Nguyễn Đắc Dận vừa tốt nghiệp hạng ưu khóa “Nhân vị”, khóa học chuyên huấn luyện
các mánh khóe tố cộng, diệt cộng của chính quyền Ngô Đình Diệm. Dận tổng kết tất
cả những điều đã học được trong một câu: “Cứ tẩn tợn giết tợn là ly khai hết”.
Nguyễn Đắc Dận có lối truy bức đến cùng, khuất phục bằng được. Hắn có thể
ngồi rỉ rả thâu đêm để khêu gợi bản năng sống từng người, có thể vờ vịt xót xa
trước mỗi cảnh ngộ éo le, oan trái, nhưng rồi bất thần, hắn chộp lấy giây phút
lo âu, mệt mỏi, núng thế của từng người mà tấn công, tăng đòn, khuất phục.
Dận chế tạo ra một loại chày vồ bằng gỗ cứng, đường kính một tấc, dài 2
tấc, nặng một ki-lô-gam, có tay cầm. Hắn bắt người tù úp mặt hoặc lưng vào tường,
rồi dang ttay, quật chày vồ thẳng cánh vào lưng, vào ngực. Người nào khỏe
lắm chỉ chịu được 5-7 chày là hộc máu, ngất xỉu. Dận là hiện thân của chính
sách “bàn tay nhung - bàn tay sắt” của chế độ Ngô Đình Diệm mà bàn tay nào cũng
dẫm máu.
Chiến dịch “chày vồ” kéo dài trong một tháng, Dận cưỡng bức được gần ba
chục người. Ân hận và hổ thẹn vì sự yếu hèn của mình, ông Nguyệt, quê Bến Tre
đã xé quần áo, bện thành dây treo cổ tự vẫn trong cầu tiêu. Anh em Trại II cứu
được, đưa ông ra bệnh xá. Khi được hỏi vì sao tự vẫn, ông đã trả lời: “Tôi bị
đánh đập dã man, sức già không chịu được, phải qua đây, chứ thật lòng không li
khai, không bao giờ phản lại Cụ Hồ. Tôi nghĩ ở Lao II cũng chết vi đòn bông khổ
sai, cho nên tôi chết luôn cho khỏi nhục”.
Phó tỉnh trưởng Nguyễn Văn Giỏi nghe nói vậy đã xé bản cam kết ly khai của
ông và ra lệnh ngưng “chiến dịch chày vồ”, trả tất cả số vừa bị cưỡng bức ly
khai về Trại I.
Tết âm lịch (1959), địch cho phép mở cửa 3 ngày, cho tù chính trị Trại I
được ra chơi ngoài sân, theo khuôn viên từng phòng. Tù chính trị Trại I đã tổ
chức mặc niệm các đồng chí hy sinh, bồi dưỡng ý chí kiên cường tranh đấu, tổ chức
múa lân, ca kịch vui chơi, xé rào thăm nhau và trao đổi tình hình, thống nhất
nhận định và xây dựng kế hoạch phối hợp tranh đấu.
Ngày mồng hai tết, bức thư trao đổi kế hoạch đấu tranh 6 tháng đầu năm
'từ phòng 8 chuyền qua phòng 4 (đối diện) bị địch phát hiện. Chúng bắt anh Sơn,
đại diện phòng 8 đi khai thác. Sáng mồng ba tết, phòng 8 phát động đấu tranh
đòi thả đại diện, bằng hình thức hô la tập thể được toàn thể tù chính trị Trại
I hưởng ứng. Nhiều phòng nêu thêm các khẩu hiệu đòi cải thiện đời sống tù nhân,
mở rộng dân sinh dân chủ, tranh thủ binh sĩ địch. Tiếng hô la đồng thanh của
hơn một ngàn tù chính trị vang động cả thị trấn Côn Đảo làm cho bọn thống trị
hoang mang, hoảng loạn. Nhiều tên trật tự, giám thị bỏ chạy.
Tỉnh trưởng Bạch Văn Bốn xuống trấn an, hứa hẹn giải quyết, đồng ý cho đại
diện phòng 8 nói chuyện với anh em trên loa trong buổi tối hôm ấy. Cuộc đấu
tranh bằng hình thức hô la lắng dịu. Địch tăng cường tra tấn và truy bức khiến
anh Sơn không chịu nổi, buộc phải khai Trần Văn Sáu (Sáu Cao) bí thư chi bộ
phòng 8 và Sơn lên loa nói chuyện, chấp nhận ly khai, qua Trại II. Sự yếu hèn của
Sơn đã làm phá sản hoàn toàn cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt của hàng ngàn
con người, vì khẩu hiệu cuộc đấu tranh là đòi thả Sơn.
Hôm sau, địch đưa lực lượng đến phòng 8 bắt Sáu Cao. Cả phòng 8 đã chịu
một trận khủng bố ác liệt, hàng chục người thịt rơi, máu đổ nhưng không ai chỉ
mặt Sáu Cao. Cuối cùng, địch phải đưa Sơn qua chỉ mặt Sáu Cao đế bắt. Sáu Cao
nguyên là Tỉnh ủy viên của tỉnh Vĩnh Long. Anh đã chịu nhiều trận đòn chết đi sống
lại nhưng không khai báo một lời nào. Tỉnh dậy giữa 2 trận đòn thù, anh vẫn khảng
khái tuyên bố: “Đảng dạy tao làm cách mạng chứ không dạy tao khai với tụi bây”.
Thái độ kiên cường của Sáu Cao khiến đám công an
khai thác anh cũng phải kính phục.
Trại I nằm giữa trung tâm thị trấn Côn Đảo, trước mặt là Văn phòng Giám
thị trưởng, bên phải là trại lính, bên trái là Trại II, sau lưng là cư xá giám
thị. Cuộc đấu tranh của tù nhân Trại I trực tiếp ảnh hưởng đến binh lính và
công chức trên đảo. Khác với bọn công an, cải huấn thường được tuyển chọn từ những
tên chống cộng hoặc phản bội, đầu hàng, những người lính Bảo an vốn xuất thân từ
nông dân lại có cảm tình với tù chính trị. Phần lớn gia đình họ có quan hệ với
cách mạng, từng được chia ruộng đất trong kháng chiến. Nhiều người lính bất
bình với sự tàn bạo của chế độ “quốc gia” và bày tỏ tình cảm với tù chính trị.
Lính bảo an thường lén cho anh chị em Trại I từng nhúm muối, nắm rau,
viên thuốc. Một bác lính già người Khơme tên là Chim cứ đến phiên gác lại xách
nước cho chị em chống ly khai ở hầm đá tắm và giặt quần áo cho chị em. Những
người vợ lính bán quà bánh, tạp hóa theo từng tốp tù đi làm khổ sai thường giúp
anh em nhắn tin về đất liền và “bán vốn” cho anh em. Nhờ đó mà Đài Tiếng nói Việt
Nam và Phái đoàn quân sự của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa có tài liệu
xác đáng để đấu tranh với địch trước dư luận và trước Ủy hội quốc tế, Ủy ban
liên hợp quân sự hai bên.
Những người vợ lính cũng học theo cách của tù chính trị Trại I mà đấu
tranh. Họ ghét cay ghét đắng trò tố cộng, chào cờ, chào sĩ quan mà mỗi lần chào
lại phải hô khẩu hiệu ủng hộ Diệm, đả đảo Cụ Hồ. Mỗi lần đi theo bán hàng cho
tù nhân Trại I, gặp lúc chào cờ, thấy tù chính trị ngồi xuống là các chị cũng
ngồi theo. Tết 1959, Trại I đấu tranh bằng hình thức hô la tập thể phản đối khủng
bố, đòi trả đại diện về khám và đòi cải thiện đời sống tù nhân. Tiếng hô đồng
thanh cả trên một ngàn người làm chấn động cả thị trấn Côn Đảo, làm xôn xao dư
luận trong binh lính và công chức. ít lâu sau, một người lính bị phạt giam
trong xà lim Trại I. Cả tốp vợ lính cùng kéo vào thăm nuôi và đồng thanh hô
theo vợ anh:
-
Yêu cầu thiếu
tá tỉnh trưởng thả chồng tôi,
Chị em hô la đến gần một tiếng đồng hồ. Tỉnh trưởng Bạch Văn Bốn phải
cho thả người lính và răn đe dám vợ lính, cấm “không được theo đuôi cộng sản Trại
I”.
Trại I là cái gai trước mắt kẻ thù. Ngô Đình Diệm đã ra luật 10/59 đặt cộng
sản ra ngoài vòng pháp luật, vậy mà ngay trước mũi bộ máy bạo lực của chúng vẫn
sừng sững một “Trại cộng sản” không thừa nhận chế độ “quốc gia” không ly khai cộng
sản. Nhiều phái đoàn của Bộ Nội vụ ngụy và đích thân Bộ trưởng Lâm Lễ Trinh đã
ra Côn Đảo nghiên cứu biện pháp đối phó với Trại I. Ngày 15-7-1959, địch chuyển
1.445 tù chính trị Trại I về Trại III và Trại IV và Chuồng Cọp nhằm chia cắt,
cô lập triệt để, khủng bố quyết liệt hơn trước, tiến tới xóa sổ “Trại công sản”.
Mặc dù bị phân tán ở 3 nơi, địch vẫn gọi là Trại I, có chung Trưởng trại,
chung bộ máy cải huấn và phòng vệ, với ý nghĩa đây là Trại cộng sản, là nơi
giam giữ những phần tử ngoan cố theo Hồ Chí Minh. Các khám Trại III mang số hiệu
từ một đến 8, các khám đánh số từ 9 đến 16 là thuộc Trại IV. Chuồng Cọp là khu
kỷ luật chung nằm giữa 2 lao.
Tháng đầu xuống lao mới đã có 11 tù nhân chết vì các bệnh kiết lỵ, thổ tả,
thương hàn. Nhiều tù nhân bức xúc, đề nghị thống nhất lực lượng, đấu tranh bằng
hình thức cao nhất là tuyệt thực. Ngày 21-7- 1959, khám 12 Trại IV tuyên bố tuyệt
thực với các yêu sách đòi cải thiện đời sống tù nhân. Do chưa chuẩn bị đầy đủ
tinh thần nên lực lượng bị phân hóa khi địch đàn áp, chỉ còn 4 anh: Ân, Bảo,
Bào, Lành kiên quyết không ăn để bảo vệ yêu sách. Địch đưa các anh xuống chuồng
cọp, giam mỗi người một chuồng.
Theo báo cáo của Chi công an Côn Sơn, vào hồi 12 giờ ngày 18-8- 1959,
chúng bắt được 2 tù nhân làm hoả thực là Trần Dũng (tự Tấn), 30 tuổi và Nguyễn
Anh (tự Kiêm) 29 tuổi mang 4 bức thư bọc trong nilon nội dung như sau:
-
Bốn anh tuyệt
thực gần chết.
-
Ngày qua nó bắt
ở Lao 4 sáu người bỏ kỷ luật.
-
Phạt uống nước
lạnh toàn Lao 4.
-
Đã có phòng 14
và phòng 9 trả lại cơm không ăn.
Đây chính là 4 trong nhiều bức thư liên lạc giữa Ban lãnh đạo Trại II với
các đồng chí có trách nhiệm trong lực lượng chống ly khai đang bị cấm cố tại Trại
III và Trại IV để phối hợp đấu tranh. Ba đợt tuyệt thực liên tiếp của 4 anh Ân,
Bảo, Bào, Lành trong vòng một tháng đã thôi thúc tập thể tù chính trị sớm thống
nhất ý chí và hành động. Ngày 24-8-1959, 100 tù chính trị khám 14 mở đầu cuộc
tuyệt thực. Chiều ấy khám 12 và khám 16 hưởng ứng, ngày hôm sau toàn thể tù
nhân Trại IV tuyệt thực. Ngày 24-8-1959, tại Trại III, khám 6 tuyệt thực.
Ngày hôm sau, các khám 2, 3, 4, 5, 7 và 8 cũng đồng loạt tuyên bố tuyệt
thực. Bọn trật tự, công an xông vào từng khám, đánh đến dập nát nhiều bó mây tầm
vông rồi kéo từng người ra sân đánh tiếp. Ai chịu ăn chúng nhốt riêng, ai không
chịu ăn chúng lôi xuống Chuồng Cọp. Khi tất cả các khám đã đồng loạt tuyệt thực
thì bọn địch thay đổi thái độ. Ngày 28-8-1959, Tỉnh trưởng Bạch Văn Bốn xuống
Trại III chấp nhận các yêu sách, trừ vấn đề trả tự do. Kỳ sư Lê Văn Thả, đại diện
khám 2 được cử đi các khám thông báo sự nhượng bộ của nhà tù.
Địch trả những người bị giam ở Chuồng Cọp về các khám. Riêng 4 anh An, Bảo,
Bào, Lành chúng cho là cầm đầu nên vẫn biệt lập tại Chuồng Cọp. Các anh tiếp tục
tuyệt thực cho đến ngày 2-9-1959 mới kết thúc đợt tranh đấu, tổng cộng 34 ngày.
Các anh là lớp người mở đầu những trang sử tranh bất khuất của tù chính trị tại
Chuồng Cọp Côn Đảo trong thời kì này.
Sự nhượng bộ của Bạch Văn Bốn chỉ là một thủ đoạn trì hoãn để chuẩn bị
cho đợt khủng bố quy mô hơn. Dãy Chuồng Cọp II bị hư hại nhiều được khẩn trương
tu sửa lại. Giữa tháng 10-1959, địch đàn áp từng khám để thanh lọc cốt cán.
Trên 300 tù nhân đã bị đưa xuống Chuồng Cọp bằng hèo, gậy, thoi, đá và vôi bột.
Cuối tháng 10-1959, Tỉnh trưởng Bạch Văn Bốn đã đưa cả 120 gian Chuồng Cọp ở 2
khu vào sử dụng, một kỉ lục mà bọn chúa ngục thời Pháp chưa bao giờ đạt tới.
Sáng sớm, chuồng cọp mở cửa, tù nhân ra đổ cầu đã bị đánh, bữa trưa ra lấy
cơm lại đánh, chiều lấy cơm đánh nữa. Buổi tối địch gọi từng người ra đánh, hoặc
bất chợt mở cửa một chuồng nào đó xông vào đánh. Bọn công an, trật tự xoi mói
theo dõi từng cử chỉ của tù nhân. Thấy ai nhìn lên chúng lôi ra đánh. Người đứng
hoặc ngồi, buồn hoặc vui đều bị đánh. Bất chợt chúng hỏi ngày, hỏi thứ. Ai nói
trúng là bị đánh về tội “ở tù tính ngày để làm lễ, đấu tranh”, trả lời sai cũng
bị đánh về tội “ở tù ngồi không mà ngày tháng cũng không nhớ”. Chuồng cọp Côn Đảo
chính là nơi phơi bày những tội ác man rợ, thú vật, chà đạp nhân quyền con người
của ngụy quyền Sài Gòn nhân danh tự do dân chủ dưới sự bảo trợ của đế quốc Mỹ.
Phẫn nộ trước hành động khủng bố tàn
bạo của kẻ thù, nhiều tù nhân đã trực diện phản đối bằng nhiều hình thức, kể cả
việc vũ trang chống lại. Có lần, anh Trần Văn Huy (Trần Nga) ở Nha Trang đã
đánh trả quyết liệt làm bọn trật tự phải dạt ra. Anh chụp được tên Lê Văn Yên,
một trật tự gian ác, ấn đầu nó xuống rãnh nước. Bọn trật tự xúm lại đánh anh ngất
lịm. Sau này tù nhân Côn Đảo còn nhiều lần đánh trả bọn khủng bố và trừng trị
những tên gian ác.
Từ giữa năm 1959, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhiều lần
tố cáo chế độ lao tù Côn Đảo của Mỹ- Diệm trước dư luận trong và ngoài nước.
Phái đoàn liên lạc của ta gửi đến Ủy ban Quốc tế 2 công văn số 319/CT/VII/B
ngày 2-7-1959 và số 493/CT/VII/B ngày 30-9-1959 tố cáo Mỹ Diệm khủng bố 3.402
người kháng chiến cũ tại Côn Đảo.
Bản cáo trạng tình hình Trại tập trung Côn Đảo tháng 12-1959 của Ban Thống
nhất Trung ương đã đề cập tình trạng giam giữ tồi tệ ở Lao I, mỗi tù nhân chỉ
được một diện tích 0,36 mét vuông để ở và 1,44 mét khối để thở. Cáo trạng còn
cho biết, từ năm 1957 đến giữa năm 1959, Mỹ Diệm đã giết hại 360 tù chính trị
Lao I. Cáo trạng kêu gọi đồng bào từ Bắc chí Nam, ở trong nước cũng như ngoài
nước đoàn kết đấu tranh, đòi: “Thả hết những người yêu nước bị giam cầm ở Côn Đảo
và các nhà ngục khác ở miền Nam, chấm dứt chính sách khủng bố, trả thù những
người yêu nước, những người khảng chiến cũ...”.
Đài Tiếng nói Việt Nam và nhiều tổ chức, đoàn thể chính trị tại Hà Nội
đã lên tiếng tố cáo tội ác của Mỹ - Diệm, ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh anh
dũng của tù chính trị Côn Đảo.
Địch không chùn tay. Chúng đối phó lại bằng cách chuẩn bị một chiến dịch
đánh phá quy mô nhằm xóa số Trại I - Trại cộng sản. Ngô Đình Diệm và Ngô Đình
Nhu đã nhiều lần chỉ thị cho Bộ Nội vụ ngụy nghiên cứu, giải quyết tình trạng
các can cứu chính trị cộng sản tại Côn Đảo. Ngô Đình Cẩn, tên lãnh chúa Trung
phần đã cử Dương Văn Hiếu, trùm mật vụ miền Trung vào giúp Diệm - Nhu thanh
toán Trại I.
Dương Văn Hiếu là tên phản bội nguy hiểm, nhờ thành tích đánh phá các tổ
chức cộng sản mà leo lên chức Trưởng ty công an ngụy tỉnh Thừa Thiên, Trưởng
đoàn công tác đặc biệt miền Trung tại Sài Gòn, Phụ tá Khối Cảnh sát đặc biệt.
Hiếu ra Côn Đảo nghiên cứu tình hình rồi vận dụng kinh nghiệm “chuyến hướng” ở
Trại Vân Đồn, Trại Lê Văn Duyệt (Sài Gòn), Trại Toà Khâm (Huế), trình Nội các
ngụy một chiến dịch quy mô nhằm: “Giải quyết tình trạng phản ứng, chống đối
Chính phủ VNCH của các phạm nhân chính trị ở Côn Sơn, cải huấn tất cả số phạm
nhân ngoan cố, đưa vào kỉ luật để học tập, khai thác tổ chức lãnh đạo V.C ở trại
giam để cô lập và loại trừ”.
Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu phê chuẩn kế hoạch của Hiếu và quyết định
thành lập Ban chỉ huy Trung ương chiến dịch gồm:
-
Thiếu tướng
Mai Hữu Xuân, Tổng giám đốc an ninh quân đội ngụy là chỉ huy trưởng.
-
Đại tá Nguyễn
Văn Y, Tổng quản đốc các trung tâm cải huấn là chỉ huy phó.
-
Dương Văn Hiếu,
Trưởng đoàn công tác đặc biệt Trung Việt tại Sài Gòn là chỉ huy phó.
Theo phiếu trình số 135/ĐCT/ĐB/TV/M ngày 23-4- 1960 của Dương Văn Hiếu,
Ban chỉ huy Trung ương tổ chức 5 tiểu ban: Y tế, Tuyên huấn, Điều tra khai
thác, Liên lạc, An ninh quân sự, tất cả hành quân từ Sài Gòn trên chiếc Hải vận
hạm 400, tập kết tại Côn Đảo vào ngày 31-3-1960. Ngay buổi tôi hôm ấy, Tiểu ban
điều tra khai thác đã tập trung thẩm vấn 88 can cứu Trại I vừa ly khai để tìm
hiểu cơ cấu tổ chức và lãnh đạo của tù chính trị, 36 cốt cán của Trại I bị phát
giác trong cuộc thẩm vấn bị cách ly tại Chuồng Cọp.
Sáng 1-4-1960, địch dồn toàn bộ tù chính trị “Trại Cộng sản” đang bị
giam giữ ở Trại III, Trại IV và Chuồng Cọp ra 4 địa điểm tập trung ngoài trời:
-
Địa điểm I ở
Lò Vôi: 316 can cứu.
-
Địa điểm II ở
Chợ Côn Sơn: 285 can cứu.
-
Địa điểm III ở
An Hải: 257 can cứu.
-
Địa điểm IV ở
Hàng Dương: 285 can cứu.
Các điểm tập trung đều có hàng rào kẽm gai có lính bảo an, công an, mật
vụ và trật tự an ninh uy hiếp. 12 tên cán bộ cải huấn, hầu hết là số đầu hàng
phản bội đã từng được Dương Văn Hiếu đào tạo chia làm 4 tốp, thuyết trình “chuyển
hướng”. Từ dinh Tỉnh trưởng, Ban chỉ huy chiến dịch theo dõi diễn biến tại các
địa điểm và chỉ đạo qua máy bộ đàm.
Nhận thấy trình độ của bọn cán bộ cải huấn còn non yếu, chưa ứng phó được
sự chất vấn của tù chính trị, 2 tên đầu sỏ Nguyễn Văn Y và Dương Văn Hiếu đã trực
tiếp xuống các địa điểm, luân phiên thuyết trình vào ngày 2-4-1960. Vừa tác động
tinh thần, chúng vừa dùng vũ lực uy hiếp. Ai tỏ thái độ chống đối là chúng bắt
giữ, khai thác rồi cách ly tại Chuồng Cọp.
Ngày thứ 3 của chiến dịch, chúng dồn số tù nhân còn lại ở ba địa điểm về
Hí Viện. Nắm được diễn biến tư tưởng của những tù nhân vừa ly khai, địch đánh
trúng vào tâm lý muốn chuyển hướng đấu tranh lúc đó. Nguyễn Văn Y, Tổng quản đốc
các trung tâm cải huấn đã dùng từ “chuyển hướng”, “qua Trại II” thay cho khái
niệm “ly khai” có vẻ nặng nề về chính trị. Hắn nói: “Theo chủ nghĩa nào là quyền
tự do của các anh. Tôi chỉ yêu cầu các anh qua Trại II để chúng tôi có thể đề
nghị lên Chính phủ thả các anh về. Như vậy tôi thực hiện được chính sách nhân đạo
mà các anh cũng không sứt mẻ gì về lý tưởng, lại được sum họp gia đình”.
Sau hơn ba năm đấu tranh, trực diện chống li khai, chống tố cộng, tù
chính trị Trại I đã chịu nhiều hi sinh, tổn thất. Bảo vệ khí tiết là lập trường
nguyên tắc, song về hình thức đấu tranh, nhiều người đã đưa ra quan điểm chuyển
hướng đấu tranh, lùi một bước để bảo vệ cán bộ. Nếu cứ tiếp tục trực diện chống
ly khai thì kẻ thù có thế tiêu diệt hết lực lượng trung kiên của Đảng. Trước
nguy cơ tan vỡ không tránh khỏi, những đồng chí có trách nhiệm ở Trại I đã
nhanh chóng thảo luận, nhận định tình hình và truyền miệng những ý kiến chỉ đạo
sau:
1.
Địch có thể
dùng hộ máy khủng bố khổng lồ, dùng bạo lực để đánh bức số tù nhân Lao I qua
Lao II, nhưng chúng sẽ phải trả giá đắt, phơi trần bản chất chế độ phát xít bạo
tàn và vĩnh viễn không thể chinh phục được trái tim và khối óc của những tù
nhân chính trị mà chúng đã cưỡng ép bằng lưỡi lê, họng súng.
2.
Địch có thể tiếp
tục đánh giết cao hơn, nhưng dù phải hy sinh đến người cuối cùng thì truyền thống
bất khuất của Lao I cộng sản sẽ sống mãi với non sông, đất nước. Những anh em
còn lại hãy quyết tâm quyết tử chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, giữ vững ngọn cờ
Đảng giữa lao tù Côn Đảo.
5. Những người sức chịu đựng có hạn, buộc phải qua Lao II phải đoàn kết
thành Mặt trận tù nhân, tiếp tục cuộc đấu tranh chống mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ
thù, vươn lên khôi phục khí tiết, giành lại vị trí Lao I vinh quang".
16 giờ ngày 3-4-1960, Mai Hữu Xuân ra lệnh kết thúc chiến dịch. Vài trăm
người còn lại bị đưa ra sân banh, chia nhỏ ra từng tốp 10 người. Bọn cải huấn,
thông tin, chiêu hồi, công an, trật tự bu lại, vừa dụ dỗ dọa dẫm vừa lôi kéo cưỡng
bức. Từng người tù đều bị kiểm soát, giám sát, không được bàn bạc gì với nhau.
Mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm về mình trước Đảng, tự chọn lấy một trong hai
con đường: hoặc là quyết tử chống ly khai để nhận lấy cái chết trong sự đày ải
nghiệt ngã, hoặc là chuyển hướng đấu tranh, chịu ly khai để sống trở về tiếp tục
hoạt động.
Đến 19 giờ ngày 3-4-1960 còn lại 59
người kiên quyết nhất bị áp giải về Chuồng Cọp. Đoàn người lặng lẽ đi vào cửa tử
thần. Họ tự nguyện chấp nhận cái chết để bảo toàn khí tiết, chết cho lí tưởng cộng
sản, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Ngay sau chiến dịch, ngụy quyền cải tổ lại bộ máy nhà tù, tăng cường bóc
lột khổ sai và cưỡng bức học tố cộng đối với tù chính trị đã ly khai, đồng thời
tiếp tục mở chiến dịch Bác Ái nhằm thanh toán dứt điểm số can cứu chống ly khai
còn lại. Bác Ái là một trong những chiêu bài của chủ nghĩa “Cần lao”, “Nhân vị”
mà Diệm -Nhu đem ra lừa mị. Bác Ái là tên mới mà chúng đặt cho Trại III và Trại
IV trong đó có hai dãy chuồng cọp đang giam giữ những chiến sĩ chống ly khai
kiên cường nhất, song thực chất Chiến dịch Bác Ái là chiến dịch đẫm máu.
Mở đầu chiến dịch Bác Ái, mỗi ngày, bọn công an, trật tự khủng bố tù
nhân ở chuồng cọp 3 lần vào buổi sáng, buổi trưa và buổi chiều. Ngoài ba trận
đánh theo thường lệ, người tù chuồng cọp còn bị đánh bất kỳ lúc nào, không nhất
thiết phải có lí do gì. Mỗi buổi chiều uống rượu say, chúng lôi tù ra đánh. Bị
cấp trên khiển trách, chúng trút uất ức lên đầu người tù. Không có chuyện gì,
chúng đánh tù để tiêu khiển. Bọn công an trật tự, cải huấn được chúng tuyển chọn
từ những tên đầu hàng, phản bội, có tinh thần chống cộng và được kích thích bản
năng thú tính để cắn xé đồng loại. Thấy người tù nào còn sức chịu đựng, chúng
đánh cho kiệt quệ. người nào ốm yếu, chúng tăng đòn cho mau chết. Không khuất
phục được thì chúng đánh cho tàn tật, mãn tù về cũng không bốc nổi hột cơm mà
ăn. Bọn gác ngục đã nhiều lần công khai tuyên bố ý đồ của quan thầy chúng như vậy.
Trong gần 3 tháng đầu của chiến dịch Bác Ái, nhiều chiến sĩ trung kiên
đã chết thê thảm ở chuồng cọp. Người đầu tiên là Nguyễn Văn Mai tức Nguyễn Thiện,
tiếp đó là Lương Bằng (tự Trần Cửu) quê Bình Thuận. Anh Trần Văn Vị, bị đánh đến
hấp hối, bọn trật tự khiêng anh ra bệnh xá chữa trị. Anh kiên quyết không đi và
nói: “Tao thà chết ở chuồng cọp, ở vị trí chống li khai này chứ không đầu hàng
tụi hay”. Vài giờ sau, anh tắt thở. Sinh viên y khoa Trần Hữu Đại bị đánh đến dập
nát phổi, ho ra máu và sau đó đã hi sinh tại nhà thương Chợ Quán (Sài Gòn).
Anh Nguyễn Thanh Tâm bị đánh đập đến phát điên. Vài ngày trước khi chết,
anh thường kêu tên mẹ, tên cha, tên vợ, kêu nhiều đến nỗi số anh em ở chuồng cọp
lúc ấy thuộc hết tên tuổi, cha, mẹ, vợ anh. Tiếng kêu gào của anh cồn cào, đau
đớn, nghe xé ruột xé gan giữa đêm âm u trong chuồng cọp lạnh vắng: “Ba má ơi!
con thương ba má lắm nhưng bè lũ Mỹ - Diệm chúng giết con rồi”.
Thấy mặt bọn gác ngục là anh hô: “Đả đảo Ngô Đình Diệm”. Gặp người tù
chính trị nào anh cũng tuyên bố: “Tao chưa phải là đảng viên nhưng tao chiến đấu
cho chủ nghĩa cộng sản. Đứa nào ly khai tao bắn. Đứa nào động đến Hồ Chí Minh
tao bắn”. Anh bắn súng miệng: “Pằng, pằng, ^pằng... pằng, pằng, pằng...” cho đến
lúc giọng anh nhỏ dần và lịm hẳn. Anh ngã xuống khi mới ngoài hai mươi, độ tuổi
đầy sức sống yêu đời.
Theo báo cáo đặc biệt ngày 28-6-1960 của Trưởng ty công an Côn Sơn, từ
25-5 đến 25-6-1960 “có 4 người đã chết tại chuồng cọp. Nhân số của Trung tâm cải
huấn I lúc đó là 2.884. Riêng Trại Bác Ái có 2.591 trong đó có 40 người bị phạt
kỷ luật và 53 người chưa ly khai”.
Dám chết cho lý tưởng cao đẹp đã khó, nhưng sống, chiến đấu bảo vệ lý tưởng
trong xiềng xích, nanh vuốt, cạm bẫy của kẻ thù cũng khó khăn không kém phần.
53 chiến sĩ còn lại đã xác định lập trường dứt khoát không ly khai cộng sản,
không đả đảo lãnh tụ của mình. Họ đã sẵn sàng hy sinh để vẹn toàn khí tiết, để
bảo vệ lý tưởng cộng sản, song kẻ thù lại không cho họ chết một cách dễ dàng.
Chúng buộc họ phải chết dần chết mòn, chết lay chết lắt, chết từng làn da thớ
thịt, chết trong đau đớn dày vò triền miên, chết đi sống lại nhiều lần.
Không phải ai cũng có được sức chịu đựng phi thường như vậy, nhất là khi
một mình trong chuồng cọp, không có đồng đội bên mình, không có tấc vũ khí
trong tay, không có chút thông tin về ta và địch, không có một lời chỉ dẫn hoặc
cổ vũ nào của tổ chức và đồng đội.
Khi thử thách vượt quá giới hạn chịu đựng của thể xác và tinh thần, đội
ngũ trung kiên chống ly khai vơi dần, có người chết đau đớn, thê thảm, có người
không chịu đựng được phải rời đội ngũ. Mỗi người một cảnh ngộ. Anh Phan Kiệm (tự
Năm Thành) nguyên là Phó Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Gia Định trong một lần trao
đổi tình hình với anh Nguyễn Đức Thuận thì bị địch phát hiện. Chúng bắt anh đi
điều tra và sau đó anh chịu chuyển hướng, ly khai.
Anh Hoàng Dư Khương, nguyên Phó Bí thư Xứ ủy bị đánh đến tàn phế, nằm liệt
rồi chịu ra bệnh xá điều trị. Ngụy quyền Côn Đảo đã hạ thấp yêu cầu xuống mức tối
thiểu để phân hóa đội ngũ trung kiên nhất. Chúng không bắt ký giấy ly khai, học
tố cộng, hô khẩu hiệu, ký kiến nghị ủng hộ Diệm như trước. Bọn cải huấn chỉ yêu
cầu “ra bệnh xá” trị bệnh, ai gật đầu hoặc im lặng thì chúng khiêng đi liền và
xem như đã thanh toán được một “phần tử ngoan cố” tại chuồng cọp. Gần hai chục
người đã rời khỏi đội ngũ vì thủ đoạn này.
Đi bệnh xá lúc ấy đồng nghĩa với việc chịu ly khai. Việc ra đi của các
anh Phan Kiệm, Hoàng Dư Khương và một số chiến sĩ trung kiên là một tổn thất lớn,
gây tác động tâm lý đối với số chống ly khai còn lại ở chuồng cọp và số đã ly
khai ở các trại đang vươn lên phục hồi khí tiết.
Cuộc đảo chính của Nguyễn Chánh Thi (11-11- 1960) đã báo hiệu sự khủng
hoảng trầm trọng của chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Dẹp xong cuộc đảo chính, Diệm
- Nhu lại tiếp tục đàn áp các phe phái đối lập và những người kháng chiến. Để tỏ
rõ lòng trung thành với chế độ Diệm, Tỉnh trưởng Lê Văn Thể đã tổ chức một đợt
khủng bố đẫm máu nhằm thanh toán bằng được 18 người chống li khai còn lại.
Đại úy Tăng Tư thay trung úy Nguyễn Văn Út làm Phó Tỉnh trưởng theo Nghị
định 129-NV ngày 26-12- 1960. Vừa lên chức, Tăng Tư tổ chức ngay đợt khủng bố với
mức độ tàn bạo vượt xa những lần trước. Tăng Tư cho bọn trật tự khiêng lu lên
nóc chuồng cọp, đổ đầy nước vào. Đêm đến, bọn này bắt từng người ngồi yên một
chỗ rồi xối nước lên đầu. Hơn một tháng dầm mình trong nước lạnh, đêm đông gió
rét, da dẻ ai cũng nhợt nhạt, lở loét, bầm tím, sưng phù.
Công an rình rập theo dõi phản ứng, bọn cải huấn thăm dò diễn biến tư tưởng,
bọn trật tự đánh đập ban ngày, ban đêm xối nước. Mỗi ngày ở chuồng cọp, người
tù phải lãnh đủ 24/24 giờ, căng óc ra mà đối phó. Hầu như lúc nào cũng có cặp mắt
rình mò, soi mói. Bất thần chúng hiện ra, thấy một tiếng thở dài là bám riết
tác động, có cử chỉ núng thế là lôi ra đánh ngay, phản ứng yếu ớt là chúng tăng
đòn, lấn tới.
Trong cảnh ngộ đó, người tù phải cân nhắc mỗi ý nghĩ, hành vi, cử chỉ,
khi nào ăn, khi nào không ăn, nói điều gì, không nói điều gì, lúc chịu đựng,
lúc phản đối, sao cho không mắc cạm bẫy của kẻ thù, cố sống thêm từng giờ, từng
phút mà đấu tranh, đẩy lùi tội ác, giành lại sự sống. Mỗi người tù chông ly
khai còn lại đều ý thức được rằng, sự tồn tại của họ không chỉ có ý nghĩa cho riêng
mình mà là hiện thân của chính nghĩa trước bạo tàn, của cái thiện trước cái ác.
Cuộc đấu tranh chống ly khai là nơi đối đầu cao nhất giữa những người cộng
sản trung kiên và những tên đao phủ của một chế độ cực đoan đã đưa tố cộng, diệt
cộng lên hàng “quốc sách”.
Kẻ địch thường đẩy người tù đến bên miệng hố tử thần, để họ phải day dứt,
trăn trở, chết dần mòn từng giờ từng phút. Thế rồi chúng lại cho ăn uống bình
thường để bản năng sinh tồn trỗi dậy, khát khao sự sống. Chập chờn giữa haijhái
cực, giữa sự sống và cái chết, tư tưởng con người bị căng thẳng cao độ. Hầu như
mỗi người tù chuồng cọp đều đã trải qua hàng chục, hàng trăm lần trăn trở, dao
động, tìm đủ mọi thứ lý luận để biện hộ cho sự sống và cái chết, cho việc ly
khai hay không ly khai.
Ngày 11-3-1961, Tỉnh trưởng Lê Văn Thể đã ký Sự vụ lệnh số 042/CS/VP/SVL
nhằm thanh toán 18 can cứu chống li khai ở chuồng cọp. Sau hai tuần dùng đủ các
thủ đoạn đường mật dụ dỗ không kết quả, bọn cải huấn bắt từng người viết bản
xác nhận lập trường, cam kết chịu trách nhiệm về việc không ly khai cộng sản để
chuyển giao cho công an, trật tự thanh toán bằng bạo lực.
Anh Nguyễn Văn Vinh tức Vạn quê ở Bình Định bị đánh đập và truy bức tư
tưởng đến phát bệnh tâm thần. Có lúc anh ngẩn ngơ như người mất hồn, có lúc lại
thương vợ nhớ con, gào khóc thảm thiết. Lúc tỉnh ra anh lại trăn trở, tâm tư
cùng anh em. Bị giằng xé giữa hai thái cực, ly khai thì có tội với Đảng với Bác
mà chống ly khai thì chết không thấy mặt vợ con. Anh đã chọn cái chết khi không
đủ sức chịu đựng, chết để trọn lòng trung với Đảng, để khẳng định niềm tin tất
thắng vào con đường đấu tranh, chết để chặn bàn tay tội ác của kẻ thù. Một tối,
anh dùng đũa mài nhọn cứa cổ lấy máu viết lên khẩu hiệu “Hồ Chủ tịch muôn năm”.
Sau đó anh hô to ba lần khẩu hiệu đó rồi cắt cuống họng để kết thúc, nhưng
không thành.
Bọn trật tự xông vào chuồng cọp, đưa anh đi cấp cứu rồi tách riêng, tác
động mạnh. Chúng đã thành thạo việc lợi dụng từng khe rạn nứt trong tư tưởng,
tình cảm của mỗi người để đánh phá. Anh Vinh chấp nhận ly khai ngày 13-3-1961,
sau 3 ngày của chiến dịch “can vận”. Kể từ đó, anh cấm khẩu luôn, không nói
năng, không làm gì có
hại cho Đảng, cho tập thể. Trường hợp của anh Vinh là một
bi kịch thật xót xa.
Mười bảy chiến sĩ kiên cường còn trụ lại đã viết bản xác định lập trường.
Anh Phan Trọng Bình viết ngắn nhất. Bản xác định lập trường của anh vẻn vẹn có
6 từ: Tôi không thể ly khai được và ký tên: Vũ Văn Mậu (tên trong tù của anh).
Anh Nguyễn Đức Thuận viết dài nhất, kín hai mặt tờ giấy ô vuông khổ lớn.
Mỗi người một tâm tư, một đối sách với kẻ thù. Ai cũng khẳng định lập trường
không ly khai Đảng, Bác. Từng nét chữ, từng gương mặt, từng cuộc đời đều gợi
lên vẻ đẹp của những tấm lòng trung hiếu. Anh Nguyễn Minh (tự Sơn), sinh năm
1928 tại phường Đức Thắng ở thị xã Phan Thiết khẳng định đường lối kháng chiến
chống Pháp và đường lối đấu tranh thông nhất nước nhà của Đảng Lao động Việt
Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn, vi vậy anh dứt khoát không ly
khai, dẫu có chết cũng vui lòng.
Anh Phạm Thành Trung (tự Đua) quê làng Mỹ Thuận, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ
Tho đã xác nhận lập trường như sau: “Tôi không thể ly khai Bác và Đảng cộng sản
được. Tôi không biết quốc gia là gì. Vì vậy mà không ly khai”.
Anh Lê Văn Một (tự Phan Thành Trung) sinh năm 1928 tại Sóc Trăng viết:
“Tôi không thể đả đảo Hồ Chí Minh được...”
Cùng nhóm với Lê Văn Một còn có Hoàng Chất và Phạm Quốc Sắc. Tờ xác nhận
lập trường của Phạm Quốc Sắc nội dung như sau: “Tôi tên Phạm Quốc Sắc, xin xác
nhận là không li khai Đảng cộng sản vì tư tưởng tin tưởng vào đường lối của cộng
sản...”.
Tên cán bộ cải huấn Ngô Tứ Trung chịu trách nhiệm “can vận” ba anh đã bất
lực phản ánh qua tờ trình ngày 27-3-1961: "... trong thời gian công tác,
các can y được tôi săn sóc chu đáo, giải quyết thoả mãn các nhu cầu, giải thích
cặn kẽ, ân cần khuyên nhủ, nhưng đến kêt luận là các can y vẫn một mực tôn thờ
chủ nghĩa cộng sản đến cùng cũng như không thể đả đảo Hồ Chí Minh được. Trân trọng
phúc trình thiếu tá để có thái độ trừng trị thích ứng đối với các can y đã tỏ
thái độ ngoan cố”.
17 chiến sĩ chống ly khai còn lại đều phải trả giá bằng máu và mạng sống
cho lập trường chống ly khai. Trận khủng bố đêm 27-3- 1961 đẫm máu. Ông già Cao
Văn Ngọc (Bà Rịa), các anh Phạm Thành Trung (Mỹ Tho), Ngô Đến (Khánh Hòa),
Hoàng Chất (Hà Nội), Nguyễn Công Tộc (Bạc Liêu) hy sinh ngay trong đêm ấy. Anh
Nguyễn Văn Mười (tự Hoàng Sơn) hấp hối, sáng hôm sau thì tắt thở. Anh Nguyễn
Văn Định ngấm đòn đến 16 ngày sau mới chết.
Nguyễn Văn Mười sinh năm 1917 tại Cai Lậy (Mĩ Tho), xuất thân là dân giang
hồ, theo kháng chiến, đánh giặc rất gan, làm Tiểu đoàn trưởng Bộ đội Hoàng Thọ.
Anh xóa dần đi dấu vết giang hồ và xăm lên ngực hàng chữ “Suốt đời trung thành
với Hồ Chủ Tịch”. Bọn gác ngục điên cuồng đánh đập anh không biết bao nhiêu trận.
Chúng tuyên bố là sẽ đánh cho đến khi anh “từ bỏ lãnh tụ” mới thôi. Hoàng Sơn bộc
trực, thẳng thừng nói: “Chúng mày có lột da, xẻo thịt, róc xương thì tao củng
không từ bỏ lãnh tụ, tao cũng không ngừng chiến đấu”.
Trong trận đòn thù đêm 27-3-1961, anh luôn miệng hô khẩu hiệu “Hồ Chủ Tịch
muôn năm” cho đến khi tắt thở. Lòng tôn kính vị “Cha già dân tộc” đã nâng anh từ
một kẻ giang hồ thành chiến sĩ cách mạng và anh đã đi trọn lẽ sống của mình.
Ông già Cao Văn Ngọc sinh năm 1897 tại làng An Ngãi, quận Long Điền (tỉnh
Bà Rịa, nay là tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), xuất thân là hương quản, tham gia kháng
chiến làm thư ký nông hội xã, khi bị bắt chỉ là cơ sở của chi bộ xã, nhưng ông
là một trong số những người kiên cường nhất trong cuộc đấu tranh chống ly khai
Đảng cộng sản, chống hô khẩu hiệu đả đảo Hồ Chí Minh.
Bọn cải huấn đã nhiều lần khiêu khích, vì sao ông không là đảng viên mà
chống ly khai Đảng cộng sản, ông duyên nợ gì với Hồ Chí Minh mà lại phải chống
hô khẩu hiệu? Ông đã hóm hỉnh trả lời: “Cụ Hồ giải phóng cho dân tộc khỏi ách
nô lệ, tôi mang cái nợ đó, tôi phải trả suốt đời”.
Khi chỉ còn vài chục người chống ly khai trong chuồng cọp, không ít người
đã dao động, suy tính chuyện sống hay chết thì ông động viên anh em: “Mấy chú
là đảng viên, mấy chú được chiến đấu cho lí tưởng cộng sản, được chết cho lí tưởng
cộng sản thì còn vinh dự nào hằng”.
Ông già Cao Văn Ngọc và sau đó là
Lưu Chí Hiếu đã được tù chính trị xếp vào hàng những ngôi sao sáng nhất, những
con người mà tâm hồn, tư tưởng và phẩm chất sáng trong như viên ngọc quý.
Cam kết quyết tử chống ly khai
Hơn một tháng sau trận đòn thù, mười người còn lại vẫn chưa gượng dậy được.
Kẻ thù tiếp tục đày ải và đánh đập để truy bức, nhanh chóng xóa sổ những “phần
tử ngoan cố” cuối cùng.
Anh Trần Trung Tín đã tuyệt thực đến chết để phản đối đợt khủng bố man rợ
này. Anh tuyệt thực được 20 ngày thì Tỉnh trưởng Tăng Tư ra lệnh cúp nước. Anh
trút hơi thở cuối cùng vào ngày 13- 8-1961. Lúc hấp hối, bọn cải huấn đem thư của
vợ anh ra đọc, lấy hình vợ con vừa gửi đến cho xem, anh nhắm mắt, lặng im, quyết
tử để giữ vẹn tấm lòng trung với Đảng với Bác Hồ, để lên án, ngăn chặn tội ác kẻ
thù.
Cái chết của Trần Trung Tín đã chấm dứt đợt khủng bố ghê rợn của địch.
Chúng mở cửa chuồng cọp, cho 9 người còn lại ra sân chơi, tắm giặt, ăn uống
bình thường.
Kẻ địch đã ngỏ cửa, hạ thấp điều kiện đến tận cùng hòng thanh toán những
can cứu chống ly khai ngoan cố nhất bằng các thủ đoạn lừa lọc. Ai khai bệnh là
chúng đưa đi bệnh xá ngay, cho chữa trị dài ngày, không động đến chuyện ly khai,
không bắt kí kiến nghị, hô khẩu hiệu như trước. Bọn cải huấn không đề cập đến
hai từ “ly khai” nữa mà xúm vào vận động những người còn lại ra bệnh xá trị bệnh
để chúng “đóng cửa chuồng cọp, dùng vào việc khác”.
Ngày 8-8-1961, anh Nguyễn Đình Đông xin ra bệnh xá điều trị.
Ngày 21-8-1961, anh Nguyễn Văn Điển cũng chấp nhận ra bệnh xá.
Việc ra đi của Nguyễn Đình Đông và Nguyễn Văn Điển khiến những người còn
lại phải lượng sức chiến đấu của mình, của đồng đội. Trong đợt địch ngưng khủng
bố, bảy người còn lại đã thảo luận về hai nguy cơ đặt ra lúc ấy là cái chết và
sự ly khai. Nếu người cuối cùng trong họ không chết tại Chuồng Cọp mà ly khai
thì có nghĩa là cuộc đấu tranh trong chống ly khai cộng sản trong gần sáu năm
qua hoàn toàn thất bại. Bảy người còn lại là những “hạt gạo cội” trên sàng, là
ngọn cờ cho hàng ngàn người tù chính trị đang vươn lên phục hồi khí tiết.
Theo báo cáo của đồng chí Nguyễn Đức Thuận tại Trung ương Cục khi được
trả tự do (5-1964), Nguyễn Đức Thuận, người có cương vị lãnh đạo cao nhất trước
khi bị bắt đã trao đổi với Phan Trọng Bình rồi đưa ra chủ trương “Nhượng bộ một
phần trăm để cứu mạng sống”.
Lưu Chí Hiếu là người phản đối đầu tiên. Anh lết đến gặp Nguyễn Đức Thuận
và Phan Trọng Bình tại sân tắm nắng trước cửa chuồng cọp nói:
-
Các anh bàn gì
thì bàn, nhưng đừng bàn chuyện ly khai Đảng, đừng quyết định cho tôi ly khai,
tôi không đi đâu.
Anh còn nói với mọi người rằng:
-
Đảng dạy chúng
ta chiến đấu chứ không dạy chúng ta đầu hàng, dẫu chúng ta có hy sinh đến người
cuối cùng thì thời gian và lịch sử sẽ báo cáo lại với Đảng, với Bác. Không thể
ly khai được. Ly khai là làm sai tiếng nói lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng
ta. Ly khai là cướp không xương máu của những người đã hi sinh.
Sau Lưu Chí Hiếu, các anh Nguyễn Minh, Lê Văn Một, Phạm Quốc sắc cũng
phát biểu ý kiến, bày tỏ lập trường quyết tử chống ly khai. Anh Huỳnh Văn Khi
đã cấm khẩu từ tháng trước, lúc đó cũng phều phào nói với Nguyễn Đức Thuận:
“Các anh sao tôi vậy”.
Cuộc thảo luận trong những ngày ngắn ngủi giữa hai đợt khủng bố trở
thành một đợt sinh hoạt chính trị vô cùng quan trọng, góp phần củng cố lập trường
quan điểm cho bảy chiến sĩ kiên cường. Họ không nhượng bộ một phần trăm nào nữa
mà cam kết cùng nhau Quyết tử chống ly khai với tinh thần tự lực chiến đấu, còn
một người cũng chiến đấu, trong bất kì hoàn cảnh nào đều phải chống ly khai, chống
tố cộng, chống chào cờ, bảo vệ bằng được khí tiết của người cách mạng, bảo vệ
lý tưởng cộng sản, bảo vệ uy tín của Đảng, của Bác Hồ kính yêu.
Lưu Chí Hiếu đã thể hiện nối bật bản lĩnh của người cộng sản trong lần
quyết định vận mệnh cuộc đấu tranh ly khai vào lúc hiểm nghèo.
Cam kết Quyết tử chống ly khai giống như một nghị quyết quan trọng nhất
mà sau sáu năm với biết bao tổn thất hy sinh, những người tù chính trị đã có được.
Cam kết Quyết tử chống ly khai là lời tâm huyết của bảy con người đã sức
cùng lực kiệt, đã chết đi sống lại hàng trăm lần trong đọa đày cùng cực. Họ
đang chết dần, chết mòn từng phần, từng phần trên cơ thể để rồi hội tụ tất cả
tinh hoa, khí phách anh hùng của chính mình và của đồng đội mình đã ngã xuống,
tận hiến cho cuộc đấu tranh bảo vệ lý tưởng cộng sản quyết liệt nhất trong lao
tù.
Bảy thân hình tiều tụy xiết chặt tay nhau trước dãy chuồng cọp. Họ ôm
hôn, vĩnh biệt nhau. Từ giờ phút ấy, không ai còn thuộc về mình nữa. Họ đã tự
nguyện đi vào cõi vĩnh hằng để gieo mầm cho lý tưởng cộng sản chiến thắng ngay
trong ngục tù đế quốc.
Trong số bảy người, tình trạng sức khoẻ của anh Huỳnh Văn Khi là bi đát
nhất. Huỳnh Văn Khi tự Nguyễn Văn Chỉ, sinh năm 1917 tại xã An Phước, quận Long
Thành, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc tỉnh Đồng Nai). Trận đòn thù đêm 27-3-1961, anh
bị gãy 11 xương sườn, 2 xương quai sanh, mang thêm chứng kiết lỵ mãn tính. Hơn
ba tháng ròng anh chỉ ngồi bó gối cạnh thùng cầu tiêu. Khi tấm thân tàn phế
không còn lết được trên hai cánh tay gầy guộc nữa, địch khiêng Huỳnh Văn Khi ra
bệnh xá (5-9-1961), đưa anh và những người bệnh nan y về đất liền rồi trả cho vợ
anh một nắm da bọc xương chỉ còn thoi thóp thở. Đội ngũ chống ly khai còn lại 6
người.
Mùa đông năm 1961, địch xối nước nhiều hơn. Có đêm, chúng còn múc cả
phân, nước tiểu, nước dơ, dầu nhớt xối xuống người các anh. Những trận đòn
không kỳ hạn cùng cơm gạo trắng với mắm thối làm suy sụp nghiêm trọng cơ thể
sáu ngọn cờ chống ly khai còn lại. Mạng sống của sáu người mong manh, lay lắt.
Thấy Lưu Chí Hiếu ói ra máu mỗi ngày vài lần, địch tăng cường khủng bố hòng buộc
anh hoặc là chết, hoặc ly khai.
Lưu Chí Hiếu đã chọn con đường quyết tử chống ly khai. Anh tuyên bố với
bọn ác ôn chuồng cọp rằng, nếu còn tiếp tục hành hạ, truy bức tư tưởng tồi tệ
kiểu này thì anh sẽ đập đầu chết ngay tại chuồng cọp. Bọn ác ôn điên cuồng tấn
công. Đêm 24-12-1961, chúng xối xuống đầu anh 44 thùng nước. Anh hy sinh ngay
trong đêm Chúa giáng sinh.
Lưu Chí Hiếu sinh năm 1913 ở làng Hương Cát, nay là thôn Hương Cát, xã
Trực Thành, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Hà. Cha mẹ mất sớm, anh được người chú ruột
nuôi dưỡng, cho học nghề thợ giày rồi lưu lạc từ Hải Phòng lên Hà Nội, sau đó
vào Sài Gòn, tham gia phong trào Thanh niên Tiền phong (1945), rồi Ban công tác
4 (1946), Tiểu đoàn quyết tử Sài Gòn (1951), bị 'bắt ngày 6-7-1955, đày ra Côn
Đảo (1957). Lưu Chí Hiếu là người chống ly khai cuối cùng hy sinh tại chuồng cọp.
Cái chết oanh liệt của Lưu Chí Hiếu đã chặn đứng đợt khủng bô của kẻ
thù. Cuộc đời chiến đấu của Lưu Chí Hiếu, của ông già Cao Văn Ngọc và những đồng
chí đã ngã xuống trong chuồng cọp Côn Đảo là những bản anh hùng ca bất diệt.
“Vũ lực không thể thắng được trái tim những người cộng sản”. Đại úy Bùi
Văn Tám, phụ tá Tỉnh trưởng Côn Đảo đã một chân quỳ, một chân co trước cửa chuồng
cọp mà nói với năm anh: Nguyễn Đức Thuận, Phan Trọng Bình, Phạm Quốc sắc, Nguyễn
Minh, Lê Văn Một vào buổi sáng 11-1-1962 như vậy, khi chúng đã hoàn toàn bất lực,
không thể khuất phục được các anh.
Toàn thể tù chính trị đã tôn vinh các anh là Năm
Anh - Năm ngồi sao sáng. Nhiều người tôn vinh các anh là Năm vị anh hùng
dân tộc.
Tròn 5 năm kể từ chuyên lưu đày tù chính trị đầu tiên ra Côn Đảo
(11-1-1957), kẻ thù đã thực hiện tất cả những thủ đoạn thâm độc nhất, tàn bạo
nhất nhưng không khuất phục được trái tim và khối óc của những người cộng sản
kiên cường. Năm trăm người đã ngã xuống nhưng năm người còn lại cuối cùng vẫn
giương cao ngọn cờ quyết tử chống ly khai. Họ tồn tại như một chiến lũy của chủ
nghĩa cộng sản giữa sào huyệt kẻ thù, giữa bốn bề nanh vuốt khủng bố của một chế
độ chống cộng cực đoan và tàn bạo nhất.
Năm Anh còn phải chịu đựng nhiều trận đàn áp từ chuồng cọp, về Phú Lợi
và trở lại Côn Đảo, song kẻ thù đã chịu thua, không còn truy bức tư tưởng, cưỡng
ép li khai đối với năm Anh. Sau khi Ngô Đình Diệm đổ, năm Anh được trả tự do.
Kinh nghiệm chiến đấu và chiến thắng của năm Anh được toàn thể tù chính trị Côn
Đảo học tập và noi theo, vươn lên trong cuộc đấu tranh bảo vệ khí tiết.
Trại II - “Trại quốc gia” và
những quan điểm đấu tranh
Trại I - Trại cộng sản, Trại chống ly khai là ngọn cờ, là đỉnh cao phong
trào đấu tranh bảo vệ khí tiết của tù chính trị Côn Đảo. Bên cạnh đó, tù chính
trị Trại II cùng tham gia cuộc đấu tranh bảo vệ khí tiết với những mức độ và
hình thức khác nhau.
Nhân số Trại II tính đến tháng 12-1957 có 1.642 người, trong đó có 59 nữ,
gồm đủ các thành phần: các giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài, Bình Xuyên; thường dân bị
tình nghi là cộng sản; nhân viên chính quyền Diệm do mâu thuẫn nhau mà phải ở
tù và một bộ phận là tù chính trị. Ngụy quyền gọi Trại II là “Trại quốc gia”,
nơi giam giữ những người đã ly khai cộng sản, quy thuận “chánh nghĩa quốc gia”,
chịu học tố cộng.
Một số tài liệu trước đây, trong đó có tác phẩm Bất Khuất của Nguyễn Đức
Thuận đã đánh giá không đúng về tù chính trị Trại II, cho rằng những người đã
ly khai là đầu hàng, phản bội. Thật ra, không kể số tù giáo phái, chỉ có một số
ít tù chính trị thuộc loại khuất phục, đầu hàng, còn đại bộ phận là do sức chịu
đựng yếu và có những quan điểm khác nhau về mức độ và phương pháp đấu tranh.
Một quan điểm cho rằng đấu tranh trực diện như Trại I là quá tả, khi đã
thất thế sa cơ, nằm trong tay giặc thì không thể chống lại bộ máy bạo lực khổng
lồ. Chống là chết, mà chết hết thì còn ai tranh đấu. Nay cứ tạm chịu điều kiện
của địch, sau được thả về sẽ hoạt động trở lại. Số người theo quan điểm này
không nhiều, và sau đó, họ đã nhận thức được cuộc sống của người chiến sĩ cách
mạng bao giờ cũng gắn liền với phẩm chất chính trị. Nếu dễ dàng chấp nhận điều
kiện của kẻ thù thì họ sẽ bôi đen, bị đẩy tới con đường phản bội hoặc bị vô hiệu
hóa.
Một quan điểm khác cho rằng cán bộ đảng viên phải bám sát quần chúng mà
lãnh đạo. Trình độ giác ngộ và ý chí đấu tranh của quần chúng có hạn nên không
thể nêu khẩu hiệu đấu tranh ở mức độ cao. Đảng viên phải hòa mình trong phong
trào mà dẫn dắt quần chúng từng bước từ thấp lên cao. Song thực tiễn tranh đấu
của Trại I cũng đã chỉ ra câu trả lời đúng đắn. Ngọn cờ chống ly khai của những
chiến sĩ tiên phong Trại I là ngọn cờ, là ánh sao chỉ đường cho Trại II và toàn
thể tù chính trị noi theo.
Quan điểm thứ ba, là khi chưa cần thiết, chưa bộc lộ lực lượng. Người cộng
sản ở đâu cũng phải tổ chức và tranh đấu, với tất cả các hình thức từ thấp đến
cao. Những người theo quan điểm này là nòng cốt trong các cuộc đấu tranh của tù
nhân Trại II lúc ấy.
Trình độ giác ngộ và tinh thần chiến đấu của mỗi người đều có sự khác biệt,
bởi thế, trước những thủ đoạn khủng bố ác liệt của kẻ thù, sự phân hóa về quan
điểm đấu tranh trong lực lượng tù chính trị là không tránh khỏi, thậm chí không
loại trừ tư tưởng cầu an ẩn chứa trong những quan điểm ấy. Tuy nhiên, mặt trận
tranh đấu trong tù không loại trừ hình thức, mức độ đấu tranh nào, không loại
trừ việc tập hợp lực lượng rộng rãi, kể cả những người cầu an, cả những người
chỉ đủ sức tham gia những hình thức đấu tranh ở mức độ thấp.
Ngày 7-7-1957, kỷ niệm 3 năm chấp chánh của chính quyền bù nhìn, địch bắt
tù nhân Trại II ký kiến nghị ủng hộ Ngô Đình Diệm, bôi nhọ Chính phủ Hồ Chí Minh.
Theo Báo cáo ngày 29-7-1957 của Quản đốc Bùi Văn Năm, có 422 trong tổng số
1.375 tù nhân chống kiến nghị. Đây là cuộc đấu tranh chính trị đầu tiên của tù
chính trị Trại II. Đợt chống kiến nghị phản động khẳng định rằng một bộ phận tù
chính trị ở Trại II đả xác lập cuộc đấu tranh bảo vệ khí tiết với hình thức, mức
độ, và trình độ nhận thức của họ lúc đó.
Tháng 5-1958, ngụy quyền tổ chức học tập bản “Tuyên cáo 6 điểm” ngày
26-4-1958 của Ngô Đình Diệm. Sau gần 2 tháng học tập, ngày 6-6-1958, địch bắt
tù chính trị Trại II ký kiến nghị ủng hộ tuyên cáo của Ngô Đình Diệm để trắc
nghiệm tư tưởng. Ngày đầu chúng thu được 705 chữ ký, còn 908 người không ký. Địch
tăng cường khủng bô, rún ép, vớt vát thêm được 232 người chịu kí. Phúc trình
không số của công an biệt phái Nguyễn Văn Hòa ngày 6-6-1958 đã xếp những người
này vào diện kém tinh thần ký kiến nghị. Tất cả bị biệt giam, cấm cố trong các
phòng 1, 2, 3. Một thời gian sau, 352 người không chịu nổi cảnh cấm cố phải xin
ra, còn 324 người, kiên quyết chống bản kiến nghị phản động.
Cũng trong bản phúc trình nói trên, địch phát hiện số can cứu không kí
kiến nghị ngày 7-7-1957 và ngày 6- 6-1958 “Hầu hết là người miền Trung, họ có tổ
chức kết cấu từ tỉnh để tranh đấu mọi hình thức khi cần thiết”.
Địch phát hiện khá chính xác. Chuyến lưu đày tù chính trị miền Trung
ngày 17-5-1957 ra Côn Đảo địch đưa thẳng về Trại II giam vào 5 phòng, trong một
tuần lễ, chúng chưa đặt điều kiện gì. Đoàn gồm 409 tù chính trị (12 nữ) thuộc
các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng, Quảng Ngãi.
Theo Bản tổng kết của Ban liên lạc tù chính trị Côn Đảo tỉnh Thừa Thiên
- Huế, thực hiện tháng 4- 1989, do Nguyễn Xuân Tốn chấp bút thì ngay khi lên
tàu, đại diện của 4 tỉnh đã liên hệ với nhau, hình thành bộ phận trách nhiệm, tập
hợp và chỉ đạo lực lượng tù chính trị theo từng tỉnh.
Cũng theo bản tổng kết này, những người có trách nhiệm trong đoàn tù bốn
tỉnh mới ra đã liên hệ được với Huỳnh Văn Tửng trong số ra trước đó, nắm được
thủ đoạn phân hóa, cưỡng bức ly khai của địch, biết rõ lực lượng kiên cường chống
ly khai đang bị biệt giam tại Trại I - Trại cộng sản, còn Trại II là Trại “quốc
gia” đang giam giữ số chịu ly khai cộng sản. Nội bộ đoàn tù 4 tỉnh có 3 loại ý
kiến:
-
Có khoảng 60
anh em quan niệm rằng nếu địch không đặt điều kiện cũng không ở lại Trại II (trại
ly khai) mà phải đấu tranh, đòi hỏi địch đưa qua Trại 1 (Trại cộng sản kiên cường).
-
Một số khác
nêu ý kiến vì mới ra đảo, sức khỏe yếu, có thể tạm thời chịu điều kiện, để bồi
dưỡng sức khỏe, củng cố đội ngũ rồi hãy đấu tranh.
-
Ý kiến thứ 3,
được đông đảo những người có vai trò lãnh đạo tán thành là người tù không đòi hỏi
ở trại nào. Nếu địch để ở Trại II mà không bắt ký giấy ly khai thì cứ ở. Nếu địch
đặt điều kiện xúc phạm khí tiết thì tuyên bố chống. Ý kiến này đã trở thành chủ
trương chỉ đạo trên 400 tù chính trị ra ngày 17-5-1957.
Hơn một tuần sau, đại úy Quản đốc nhà tù Bùi Văn Năm ra lệnh cho đại diện
5 phòng mới ra lập danh sách ly khai tập thể, đại diện ký vào để báo cáo lên
Ban Quản đốc.
Sau đợt chống ký kiến nghị ngày 7-7-1957, đại diện các tỉnh đã bí mật họp
tại khám 2 cử ra Đảng ủy lâm thời do Trần Quang Hiệu (Phú Yên) là Bí thư cùng
các Đảng ủy viên: Lê Quang Ngọc (Quảng Ngãi), Nguyễn Quýnh, tức Tôn (Thừa
Thiên), Hoàng Văn Tửng, Phan Văn
Ký (Nam Bộ).
Việc một bộ phận tù chính trị không chịu đựng được mức đày ải, truy bức
trường kỳ và tàn bạo ở Côn Đảo, phải chấp nhận điều kiện của địch là không
tránh khỏi. Song sự kiện một số người có cương vị cao trước khi bị bắt, tự tập
hợp thành bộ phận trách nhiệm (có lúc lấy danh nghĩa Đảng), chủ trương ở lại Trại
II - Trại “quốc gia” đã có ảnh hưởng lớn đến tinh thần chiến đấu của tập thể
đoàn tù chính trị miền Trung.
Ký giấy ly khai tập thể, chịu điều kiện của địch ngay từ khi đặt chân
lên đảo là chưa đánh giá đúng phẩm chất cách mạng và tinh thần chiến đấu của đội
ngũ tù chính trị. Điều đó dẫn tới sự phản ánh sai lạc tương quan lực lượng
chung, làm giảm sức chiến đấu và phẩm chất khí tiết của tù chính trị, nhất là
khi đã biết rõ âm mưu phân hoá, thủ đoạn tố cộng của địch, biết địch đã thanh lọc
tù chính trị thành Trại cộng sản (Trại I, chỏng ly khai) và Trại quốc gia (Trại
II, chịu ly khai) mà vẫn dùng lý luận ngụy biện cho hành động hạ thấp khí tiết
của mình.
Tuy nhiên, về phương diện khác, nhiều thành viên trong Ban lãnh đạo đoàn
tù chính trị miền Trung đã tham gia Đảng ủy lâm thời, trở thành hạt nhân đoàn kết,
lãnh đạo cuộc đấu tranh của tù chính trị Trại II từ thấp lên cao, hình thành mặt
trận tù nhân, phôi hợp với Trại I, và hỗ trợ được nhiều cho cuộc đấu tranh của
Trại I. Hai đợt chống kiến nghị ngày 7-7-1957 và ngày 6-6-1958 đã khởi đầu cuộc
đấu tranh vươn lên bảo vệ khí tiết của tù chính trị Trại II.
Trong lúc Trại I giương cao ngọn cờ chống li khai thì Trại II liên tục đấu
tranh chống học tập tố cộng bằng nhiều hình thức. Năm 1958, Ban tố cộng Trại II
thuyết trình tài liệu “Cộng sản với cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam”, nội
dung xuyên tạc lịch sử, rằng cuộc kháng chiến chống Pháp lúc đầu có tính chất
quốc gia, sau cộng sản khủng bố các đảng phái, cướp công kháng chiến, lái kháng
chiến theo con đường cộng sản, thực hiện chủ nghĩa tam vô: không gia đình,
không tài sản, không tôn giáo...
Tài liệu này đã gây một luồng phản ứng mạnh mẽ khắp Trại II. Nhiều tù
nhân Trại II đã dũng cảm đứng lên vạch mặt “quốc gia” giả hiệu của ngụy quyền
tay sai, bảo vệ chân lý lịch sử, bảo vệ uy tín của Đảng và Bác Hồ, bảo vệ chính
nghĩa của sự nghiệp cách mạng. Mỗi buổi học tố cộng, bọn công-an, cải huấn, trật
tự thường theo dõi và cảnh cáo “phần tử ngoan cố” tra khảo, phạt xà lim, tạo cớ
đánh đập. Biện pháp “cứng rắn” thì nhà tù không thiếu, nhưng chúng luôn luôn bất
lực là không thể đem “chủ nghĩa quốc gia” để cải tạo tư tưởng cho tù nhân và
không thể nào bôi nhọ được uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Mùa hè 1959, Ban cải huấn tổ chức trình diễn vở kịch “Giấc mơ kinh khủng”
do Nguyễn Phương, một tù tay sai trong Ban văn nghệ soạn. Vở kịch nói về một nữ
sinh từ bỏ đô thành tham gia kháng chiến, sau bị bạc đãi. Kết cục là những lý
tưởng cao đẹp của cô đã biến thành “giấc mơ kinh khủng”. Hàng trăm tù chính trị
câu lưu ở các phòng 1-2-12 và ,một số phòng khác đã phản đối, không xem. Ngày
hôm sau, địch bắt tất cả số tù nhân không xem kịch ra lội nước, vét bùn, đắp đập
Hồ Sen, không cho đội nón, không cho uống nước một ngày ròng dưới nắng hè đổ lửa
và roi vọt. Ai say nắng, khát nước, ngơi tay là chúng đánh đập tàn tệ. Máu tù
nhân loang đỏ bờ đập. Từ đấy, đập Hồ Sen mang tên đập “Giấc mơ kinh khủng”.
Ngày 26-10-1959, “quốc khánh” Việt Nam cộng hòa, ngụy quyền Côn Đảo bắt
tù chính trị Trại II ký kiến nghị ủng hộ Ngô Đình Diệm. Lực lượng chống ký kiến
nghị vượt quá con số 800, song cũng giống như 2 lần trước, sau khi địch đàn áp,
chỉ còn gần 400 trụ lại được. Đó là những người đã được sàng lọc qua hơn một
năm tranh đấu. Một số người được Ban lãnh đạo Trại II giao nhiệm vụ liên lạc, địch
vận, trật tự đã phải cắn răng nuốt hận ký vào bản kiến nghị phản động, chịu trá
hàng để hoạt động nội tuyến phục vụ cuộc đấu tranh lâu dài.
Những người chông kí kiến nghị bị cấm cố tại khám một và khám 13, sau đó
cưỡng bức lao động khổ sai với mức rất nặng. Bốn tháng sau, đến Tết nguyên đán
Canh Tý (1960), địch mới giải toả đợt khủng bố này, ba tù chính trị Trại II đã
chết vì tra tấn, đày ải. Trong thời gian này, Ban lãnh đạo Trại II đã liên hệ với
tù án chính trị ở Trại III, dự kiến hình thành Đảo ủy, gồm:
-
Một ủy viên ở
Trại I (tượng trưng bằng ý kiến của tập thể Trại I).
-
Hai ủy viên ở
Trại II: Nguyễn Hài (tức Hân ở Huế), Tôn Diêm (Quảng Ngãi).
-
Hai ủy viên ở
Trại III: Lê Minh Nê, Nguyễn Thế Vịnh.
Trên thực tế, lực lượng ưu tú nhất của tù chính trị Trại I, trung tâm của
cuộc đấu tranh bảo vệ khí tiết không tham gia Đảo ủy. Vì thế, những cố gắng của
Ban lãnh đạo tù chính trị Trại II và Trại III để hình thành Đảo ủy mang tính chất
mặt trận tù nhân, liên hiệp tranh đấu hơn là một Bộ tham mưu chiến đấu. Tổ chức
Đảo ủy này chưa tiêu biểu cho bộ phận ưu tú nhất của tù chính trị đang đấu
tranh một mất một còn để bảo vệ khí tiết cách mạng, chống ly khai Đảng, chống mọi
thủ đoạn tố cộng, diệt cộng của kẻ thù.
Các thủ đoạn “tố cộng - diệt cộng” trong tù của Mỹ ngụy đã làm phân hóa
và chia cắt rất sâu giữa các trại tù, giữa tù chính trị có án và không án, giữa
tù cấm cố và tù khổ sai, giữa những người chống trực diện, chống toàn diện và
những người chống có mức độ, chống từng lúc, từng phần. Chính vì vậy mà các tổ
chức từng xưng danh là “Đảo ủy” trong giai đoạn này đều không tương xứng với
danh xưng, bởi lẽ những đại biểu ưu tú nhất đã bị cấm cố nghiêm ngặt, không có
điều kiện tổ chức và chỉ đạo. Ngược lại, người tù chính trị ở khu vực khổ sai
có điều kiện liên lạc, tổ chức và hoạt động lại không đủ phẩm chất, năng lực và
bản lĩnh trong vai trò “Đảo ủy”.
Đầu năm 1959, địch phát hiện ra bức thư của Ban lãnh đạo Trại II gửi Trại
I qua anh Dũng ở kíp hoả thực (Nhà bếp), chúng bắt Nguyễn Hài, Nguyễn Quýnh,
Phan Hoè, sau bắt thêm Cao Viết Bảo (cơ sở binh vận), tra tấn dã man nhưng
không khai thác được tổ chức. Sau 20 ngày, Cao Viết Bảo anh dũng hy sinh, địch
ngưng tra tấn, chuyến ba người còn lại sang chế độ cấm cố trường kỳ.
Ngày 19-10-1959, Trưởng ty công an Phú Yên đã lập hồ sơ gửi Tỉnh trưởng
Phú Yên, đồng gửi Tổng giám đốc cảnh sát công an (Sài Gòn), phúc trình vụ “Đảo ủy
Côn Đảo” qua cung xuất của Nguyễn Cước, cán bộ của tỉnh Phú Yên, giữ mối liên hệ
với một tù chính trị tên là Mạng. Ty công an cỏn Sơn đã tổ chức điều tra, phối
kiểm nguồn tin theo lệnh của Tổng giám đốc cảnh sát công an (Sài Gòn). Các anh
Trần Quang Hiệu, Lê Quang Ngọc, Nguyễn Đình Thành, Thái Thọ Dương, Nguyễn Văn
Biểu, Bùi Dục, Nguyễn Chiến và hàng chục người có liên quan bị bắt đi khai
thác, cấm cố tại xà lim Trại II. Hồ sơ phúc trình thẩm vấn ngày 23-11-1959 của
Ban An ninh cho biết 7 người có danh sách trên nằm trong Đảng ủy Trại II.
Bản phúc trình còn phát hiện 74 đội viên Đội cảm tử được chuẩn bị cho cuộc
võ trang cướp đảo. Để đôi phó và răn phạt số chống đối ở Trại II, đồng thời
ngăn ngừa một cuộc võ trang bạo động có thể xảy ra, bọn chúa ngục thanh lọc 285
người trong số đã 3 lần chống kí kiến nghị về Trại III, áp dụng chế độ cấm cố
nghiêm ngặt. Những người bị khai báo, lộ mặt bị biệt giam tại chuồng cọp.
Sau 3 năm nỗ lực vươn lên, bộ phận
tích cực nhất của tù chính trị Trại II đã đứng chung với Trại I trong một trận
tuyến bảo vệ khí tiết, chịu chung một cảnh ngộ đày ải khắc nghiệt nhất. Họ đã
cùng chịu chung chiến dịch khủng bố tháng 4-1960 do Mai Hữu Xuân cầm đầu. Sau
trận ấy, 285 tù chính trị cốt cán thuộc Trại II cũ cùng với 799 người từ Trại I
vừa bị rớt đã sát cánh vươn lên đấu tranh kiến tạo lập trường khí tiết.
Trung tâm Cải huấn I và chủ
trương kiến tạo lập trường khí tiết
Kết thúc chiến dịch chuyển hướng (4-4-1960) địch xóa sổ cả Trại I “Trại
cộng sản” và Trại II “Trại quốc gia”, thiết lập Trung tâm cải huấn I giam giữ
tù câu lưu gồm các trại: Nhân Vị (Trại II cũ), Bác Ái (Trại III và Trại IV cũ)
và Cỏ Ong. Có lúc, do nhu cầu của công việc khổ sai, địch mở thêm chi nhánh với
các trại ở Bến Đầm, Sở ruộng Quang Trung.
Trại I cũ mang tên Trại cộng hòa, thuộc Trung tâm cải huấn II, giam tù
án. Bản nguyệt trình số 235/NA/TTCH/M ngày 25-5-1960 của Tỉnh trưởng Lê Văn Thế
cho biết: “Tổng số can cứu thuộc Trung tâm cải huấn I là 2.898, chết trong
tháng 7 người, hiện diện đến 25-5-1960 là 2.891, tất cả là đàn ông, được phản
chia thành hai loại: Loại A (đã ly khai): 2788; Loại B (chưa ly khai và bị kỷ
luật): 103”.
Báo cáo đặc biệt của Ty công an Côn Sơn đề ngày 28-6-1960 cho biết: “Số
can cứu thuộc Trung tâm Cải huấn I tính đến ngày 25-6-1960 là 2884, chết trong
tháng 4, số chưa ly khai là 53, số bị kỉ luật là 40, còn lại được phân bổ như
sau: Trại Nhân Vị: 1.414; Trại Bác Ải 959; Trại cỏ Ong: 425”.
Địch nhận định rằng trong chiến dịch vừa qua, chúng mới làm được việc là
dùng bạo lực cưỡng bức những người tù chính trị ly khai chứ chưa chinh phục được
trái tim, khối óc họ. Bản Phúc trình số 135/ ĐCT/ĐB/TV/M ngày 23-4-1960 của
Dương Văn Hiếu, Trưởng đoàn công tác đặc biệt miền Trung, đã nhận định rằng việc
chuyển hướng tư tưởng trên một ngàn tù nhân trong chiến dịch vừa qua “chỉ mới
là thắng lợi trong giai đoạn đầu, vì chính trong phạm nhân li khai củng còn nhiều
thành phần và động cơ tư tưởng phức tạp”.
Bản phúc trình đã dẫn có đoạn nhấn mạnh: “Côn Đảo là một trung tâm có địa
thế biệt lập với đất liền, có hoàn cảnh dễ cô lập và trừng phạt củng như có điều
kiện thuận tiện để cải huấn những phạm nhân Việt cộng nguy hiểm, cho nên phải
biến Côn Sơn thành một trường huấn luyện quốc gia, cải tạo phạm nhân trở thành
lực lượng chống cộng chứ không để cho chúng có thể lợi dụng để rèn luyện thêm ý
thức cộng sản, càng tập trung đông đảo càng thành ra mối nguy cơ thường trực cho
chế độ ta được”.
Trong thời điểm này, tâm trạng của tù chính trị câu lưu diễn biến rất phức
tạp, phần lớn đã mệt mỏi về tinh thần, suy kiệt về thể xác. Không ít người mặc
cảm, bi quan về sai lầm của mình, về thất bại tạm thời của cuộc chiến đấu. Một
bộ phận tù chính trị hoài nghi về mục tiêu đấu tranh, về khả năng giành thắng lợi.
Sự tan vỡ của Trại I - Trại cộng sản là một bài học đau xót. Hàng trăm người đã
kiên cường tranh đấu và hi sinh anh dũng, nhưng rốt cuộc cả ngàn người vẫn thất
bại, chịu điều kiện của kẻ thù. Vài chục người trực diện chống li khai cuối
cùng trong chuồng cọp có thể bị địch giết hết nay mai. Liệu có tiếp tục đem
thân xác và ý chí của người tù ra đấu chọi với đòn roi, súng đạn và sự bạo tàn
không giới hạn mà có thể giành được thắng lợi?
Song chính vào lúc thấm thìa thất bại chua xót, thấm thìa nỗi cay đắng ê
chề khi bị khuất phục, những người có trách nhiệm đã nung nấu ý chí vươn lên
khôi phục lại vị trí đấu tranh bảo vệ khí tiết. Các anh Lương Chi (Lương Thạnh),
Đặng Ngọc Cảnh, Nguyễn Hào (Nguyễn Thành), Nguyễn Ngọc Cao (Trần Văn Cao), Nguyễn
Văn Nghĩa, Phan Xuân Nhị (tự Bình), cùng hàng chục anh ở Trại I vừa bị đánh rã
còn điều trị ở bệnh xá đã tập họp nhau lại, bàn phương án đấu tranh vươn lên,
khôi phục lại vị trí Trại I.
Một số người có trình độ lý luận như Hoàng Dư Khương, Trần Xuân Lê, Phan
Kiệm (Năm Thành), Nguyễn Văn Hai (tự Quảng) cũng đã đóng góp ý kiến đế tổng kết
kinh nghiệm đấu tranh của Trại I, xây dựng phương án đấu tranh vươn lên theo chủ
trương kiến tạo lập trường khí tiết. Buổi đầu, chủ trương kiến tạo lập trường
khí tiết được xác định là:
-
Củng cố đội ngủ,
phá hệ thống mật vụ của địch
-
Chống các kiến
nghị tố cộng.
Sau nhiều cuộc thảo luận trong từng nhóm, từ bộ phận có trách nhiệm đến
từng người tù trung kiên ở tất cả các trại, lực lượng tù chính trị ở Trại I vừa
tan rã và lực lượng tù chính trị trung kiên ở Trại II cũ đã đoàn kết thành một
khối, sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh vươn lên kiến tạo lập trường khí
tiết.
Một bản Quy ước chung được đúc kết từ các cuộc thảo luận thống nhất
trong bộ phận trách nhiệm, rồi phổ biến (truyền miệng) đến từng người tù mang nội
dung cơ bản như sau: “Kiên quyết đấu tranh chống học tố cộng, chống khổ sai, chống
siết bóp đời sống, tiến tới xóa bo nội qui phản động, bảo vệ quyền lợi chính trị
và dân sinh dân chủ của người tù, đồng thời sớm phục hồi vị trí chính trị, chuyển
thế đấu tranh mạnh lên, buộc địch bị động đối phó để chia đòn, bảo vệ số anh em
trực diện chống li khai trong chuồng cọp”.
Phương châm cơ bản của cuộc đấu tranh là:
-
Kết hợp đấu
tranh chính trị với dân sinh dân chủ, kiên trì, đấu tranh giành thắng lợi từ thấp
đến cao, kết hợp các hình thức đấu tranh hợp pháp, bán hợp pháp và bất hợp
pháp.
-
Củng cô hệ thống
tổ chức của tù nhân từ trên xuống dưới, từ trong trại đến các bộ phận ngoài trại,
tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng khối đoàn kết tù nhân.
-
Phát động một
phong trào sâu rộng trong đảng viên và quần chúng trung kiên, quyết tâm vươn
lên chống học tố cộng, chống chào cờ ngụy, chống ký kiến nghị phản động. Trong
bất kì tình huống nào, dù địch đưa đi đâu, dùng thủ đoạn gì, mỗi cá nhân mỗi bộ
phận đều phải nắm vững phương châm hành động, tự lực chiến đấu.
-
Đẩy mạnh công
tác binh vận, mỗi người tù chính trị đều phải làm binh vận, tranh thủ, phân hóa
cao độ kể thù, cô lập triệt để bọn ác ôn.
Cuối năm 1960, Quy ước chung và Phương châm cơ bản đã được bộ phận trách
nhiệm phổ biến từng nhóm tù, kíp tù. Ban lãnh đạo chung của tù câu lưu được
hình thành ở Trại Nhân Vị (Trại II) gồm: Nguyễn Văn Nghĩa (Biên Hoà), Nguyễn
Hào (tức Nguyễn Thành ở Quảng Nam), Lê Tam tức Ngọc (Thừa Thiên), Lê Cân (Quảng
Ngãi).
Trong các cuộc đấu tranh chống khổ sai hà khắc, tù nhân thường giữ thế hợp
pháp, vận dụng những yếu tố pháp lý để tố cáo sự hà khắc của nhà tù và kiên trì
đấu tranh. Song trên lĩnh vực đấu tranh chính trị, chống tố cộng, chống nội quy
thì tù chính trị phải đứng ở thế bán hợp pháp và bất hợp pháp, nghĩa là bằng
hành động hoặc trực diện không thừa nhận nội quy, quy định của nhà tù.
Bất cứ một thắng lợi nào đạt được ở nhà ngục này, tù nhân cũng phải đổi
bằng máu của chính họ. Ngày làm khổ sai cật lực, tối học tố cộng đến khuya,
theo phương châm bán hợp pháp, tù chính trị chống học tố cộng bằng cách ngồi ngả
nghiêng, ngủ gà ngủ gật, nghe lơ đễnh, phát biểu xuyên tạc tài liệu, viện cớ
làm khổ sai quá mức không học được.
Có một kiểu chống khá phổ biến ở các phòng là không nghe, không phát biểu
ý kiến. Bọn cải huấn ra chỉ tiêu, khoán cho mỗi phòng mỗi đêm phải phát biểu từ
15 đến 20 ý kiến mới được nghỉ. Có đêm, chúng phạt bằng cách không cho đi tiêu
đi tiểu, viện cớ mất trật tự. Anh Trần Nhơn người Bình Định đau bụng đi cầu, bị
bọn trật tự ngăn lại làm anh té cả ra quần, chúng mới chịu thua.
Tổng kết đợt học tố cộng, bọn cải huấn tập trung tù nhân trước sân trại,
bày trò phát thưởng. Sau bài diễn văn khai mạc của Đoàn cán bộ cải huấn, thiếu
tá Tỉnh trưởng Lê Văn Thể được mời lên trao lá cờ vàng cho đại diện phòng 8 có
thành tích xuất sắc trong học tập. Bọn cải huấn vỗ tay lẹt dẹt.
Tiếp đó anh Đặng Chí Hiền, đại diện phòng 1, phòng học kém nhất được mời
lên nhận lá cờ đen từ tay vợ thiếu tá Thể, chủ tịch “phụ nữ liên đới” Côn Sơn
trao tặng. Tiếng vỗ tay vang dội cả sân lao rồi chuyển thành nhịp vỗ 3 tiếng một,
đón người đại diện của phòng học tố cộng kém nhất. Bọn chúa ngục phải thừa nhận
rằng, tràng vỗ tay hoan nghênh lá cờ đen chính là cái tát vào chính sách cải huấn
của chúng.
Biết tù chính trị đấu tranh có tố chức, địch bắt trên 40 người mà chúng
nghi là cầm đầu đưa về chuồng cọp biệt giam, tra tấn suốt ngày, xối nước suô't
đêm. Cảnh đày ải cùng cực nhưng không ai còn trăn trở giữa cái sống và cái chết
như trước nữa. Trái lại, những ngày tháng trở về chuồng cọp lần này là niềm an ủi,
là sự chuộc lại lỗi lầm. Nhiều anh em bền bỉ chịu đựng và quyết tâm chiến đấu
vươn lên. Trong đợt khủng bố bằng cách xối nước và cho ăn gạo trắng cuối năm
1960, anh Lê Thành Thân chịu đựng đến mức kỷ lục 34 ngày đêm liền. Anh đã tuyệt
thực liên tục 29 ngày cho đến khi dịch phải ngưng xối nước. Anh Lê Quyết Chiến
(Phú Yên) bị xối nước lạnh đến cấm khẩu không nói được. Các anh Trần Nga, Võ
Đình Hiếu (Khánh Hoà), Đỗ Hằng (Gia Lai), Lê Quang Ngọc (Quảng Ngãi)... cũng bị
xối nước ngót một tháng, đến khi gần chết địch mới ngừng lại.
Năm 1961, ngụy quyền Côn Đảo xin kinh phí 200.000 đồng trùng tu ngôi mộ
chí sĩ Nguyễn An Ninh, lợi dụng tên tuổi ông để sơn phết cho chủ nghĩa “quốc
gia” giả hiệu. Tù nchính trị câu lưu đã đấu tranh quyết liệt chống đào mồ cuốc
mả tù nhân để mở con đường vào ngôi mộ của ông. Tỉnh trương Lê Văn Thể đến tận
Nghĩa trang Hàng Dương trực tiếp chỉ huy cuộc khủng bố. Trên 50 tù chính trị vừa
đấu lý với địch vừa gồng mình chịu đòn. Từ sáng đến trưa, bọn gác ngục đánh nát
lưng tù, dập từng bó roi mây, máu người tù sống thấm đẫm xương cốt người tù quá
cố. Cả kíp tù, lớp vào bệnh xá, lớp vào biệt giam, Chuồng Cọp.
Ngày hôm sau, kíp tù thứ 2 cũng chịu đòn và không ai nỡ đào bới xương cốt
đồng đội mình. Con số chống đào mồ cuốc mả, chống nội quy, chống tố cộng, chống
chào cờ bị đưa vào chuồng cọp cuối năm 1961 đã lên tới 70 người.
Trong lúc lực lượng tù chính trị câu lưu đang củng cố đội ngũ, đẩy mạnh
đấu tranh chống địch thì Nguyễn Văn Hai (tự Quảng) phản bội. Hai Quảng là con một
điền chủ ở Bạc Liêu, học đến tú tài, từng làm Bí thư nhiều tỉnh ở miền Tây Nam
bộ, trước khi bị bắt là Thành ủy viên Sài Gòn - Gia Định. Quảng ra đầu thú
tháng 10-1960, khai báo trên 30 cốt cán trong bộ phận trách nhiệm của tù chính
trị câu lưu với toàn bộ hệ thống tổ chức từ Ban lãnh đạo trại đến các phòng
giam, các chi nhánh Bến Đầm, Cỏ ỏng, khai báo toàn bộ chủ trương, phương châm,
biện pháp đấu tranh vươn lên kiến tạo lập trường khí tiết của tù chính trị.
Vụ phản bội của Hai Quảng làm đổ máu hàng chục tù nhân cốt cán, làm cho
các cuộc đấu tranh của tù chính trị đều bị địch khủng bố ngay từ khi mới nổ ra.
Tù chính trị đối phó bằng cách phản cung, cô lập và bác bỏ hoàn toàn lời khai của
Hai Quảng làm cho địch không tin hắn. Tiểu ban điều tra cho đối chất cũng không
ai nhận. Hai Quảng nổi khùng xông vào đấm đá, cắn xé, bóp huyệt anh Trần Xuân
Lê.
Hai Quảng còn hiến kế cho địch Kế hoạch tranh thủ gồm 5 bước nhằm đánh gục
hoàn toàn những người mang tư tưởng lừng chừng, xây dựng hạt nhân điển hình tố
cộng và trừng phạt, ngăn chặn ảnh hưởng của số ngoan cố vẫn giữ lập trường cộng
sản. Dấn sâu vào con đường tội lỗi, Hai Quảng làm bản phản tỉnh lần thứ nhất
vào ngày 10-4-1961, phản tỉnh lần thứ 2 ngày 12- 4-1961 và lần thứ 3 ngày 15-
4-1962, khai báo và vẽ sơ đồ 62 cơ sở tại Sài Gòn mà các đồng chí Nguyễn Văn
Linh, Trần Bạch Đằng, Huỳnh Tấn Phát, và nhiều cán bộ Thành ủy thường qua lại,
khai báo lộ trình giao liên của Xứ ủy từ Sài Gòn đi Nam Vang.
Mấy năm sau, Hai Quảng được trả tự do với điều kiện nhận làm mật báo
viên cho Tổng nha cảnh sát và công an ngụy, rồi bị bỏ rơi vì không được việc.
Nhục nhã vì thân phận của một tên phản bội, hắn tự sát sau ngày miền Nam được
hoàn toàn giải phóng.
Ngoài Hai Quảng, còn có vài tên phản bội, tình nguyện làm tay sai cho địch,
trở thành trật tự ác ôn như Dương Thành Tâm, Lý Ngọc Phẩm, Võ Tâm Tư... Một số
khác chừng vài chục người tham gia vào Ban chấp hành trại, Ban trật tự an ninh,
Ban tố cộng, Ban văn nghệ với thái độ và mức độ chống cộng khác nhau.
Nhúm người này bị chìm trong phong trào đấu tranh của hàng ngàn tù chính
trị, kể cả những người đã từng sai lầm, vấp ngã. Chính nỗi đau đớn, dày vò cả về
thể xác và tinh thần khi bị thất bại, sai lầm đã giúp họ sức mạnh để giành lại
vị trí chính trị trên mặt trận đấu tranh trong tù.
Công tác địch vận đã góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của tù chính
trị. Các anh Phan Phước, Nguyễn Văn Hưởng, Nguyễn Tấn Thanh (tự Trạch), anh Yến
được cài vào Ban trật tự từ nhiều năm trước đã giữ thế hợp pháp để hoạt động.
Ban lãnh đạo tù chính trị cử anh Lê Văn Thả chỉ đạo bộ phận y tế chăm lo
sức khoẻ cho anh em. Lê Văn Thả là kĩ sư điện tử, tốt nghiệp ở Pháp về, có
nghiên cứu về y, dược. Kíp y tá có Phan Thanh Nhàn, Trần Tiên, Phạm Đồng, Lê
An, Lê Bá, Lê Siêng, Huỳnh Văn Long (tự Hộ), Lê Trắc (tự Dậu), Nguyễn Văn
Chung, Phan Chấp, Bùi Văn Tám, Nguyễn Ba (tự Long), Huỳnh Công Táng, Huỳnh Công
Hải, Lê Thành Ân, Trần Thanh Chí phục vụ tại bệnh xá và một số người khác phục
vụ tại các trạm xá trung tâm. Có người từng là y tá, cứu thương trong kháng chiến,
có người mới học nghề y khi vào tù.
Phan Thanh Nhàn là y tá cứu thương trong bộ đội Hoà Hảo nhưng tích lũy
được nhiều kinh nghiệm và chịu khó nghiên cứu sách y học. Công chức, gác ngục gọi
anh là “bác sĩ tù” khi anh xử lý thành công một ca đẻ khó, có nguy cơ dẫn đến tử
vong cả hai mẹ con sản phụ. Nhờ ân tình từ ca bệnh ấy, thượng sĩ Nguyễn Viết Hội,
trưởng trại Bác Ái đã tạo điều kiện cho Phan Thanh Nhàn và tổ y tế vào điều trị,
cấp thuốc cho các chiến sĩ chống ly khai ở chuồng cọp.
Được trưởng trại Nhân Vị Nguyễn Văn Liêu và Trưởng Ty y tế Lê Vân Trang
đồng ý, tổ bào chế thuốc đã mượn các dụng cụ y tế huy động các loại nguyên liệu
kiếm được trên đảo như cóc, khỉ, dê, huyết bò, huyết heo để bào chế thành
filatov viên, hépathémo và nhiều loại thuốc bổ khác. Sau khi thử nghiệm thành
công, tố bào chế đã cấp thuôc, cấp filatov dạng viên cho 400 tù chính trị. Trong
quá trình điều trị chứng suy nhược cơ thế cho vợ Thượng sĩ Liêu, tổ điều chế đã
cung cấp hàng ngàn liều thuốc bổ cho tù chính trị.
Phan Thanh Nhàn còn nâng cao uy tín cho lực lượng y tế tù chính trị
thông qua ca chữa bệnh đặc biệt cho Huỳnh Đại, một tù chính trị người Hoa. Huỳnh
Đại là chủ sòng bạc Đại Kim Chung, nhà hàng Đại La Thiên, chủ khu Đại Thế Giới
cùng nhiều cơ sở ăn chơi nổi tiếng trong giới tài phiệt ở Chợ Lớn. Đại bị tù
trong đợt chính quyền Diệm tảo thanh Bình Xuyên vì tội cung cấp tài chính cho Bảy
Viễn. Trải qua nhiều nhà lao, tất ca các chúa ngục đều nể Đại. Đại mắc một chứng
bệnh nan y về đường ruột mà các bác sĩ của ngụy quyền đều không chẩn đoán được.
Bằng tất cả kinh nghiệm thực tiễn và dày công học hỏi, Phan Thanh Nhàn
phát hiện ra một viên sạn lớn đã tích tụ lâu năm trong ruột bệnh nhân và xử lý
thành công, đẩy viên sạn trôi dần về phía hậu môn, gắp ra. Sau lần ấy, Huỳnh Đại
tạ ơn cứu mạng, viết thư về nhà nhờ mua hàng trăm lọ Pénixinine và nhiều loại
thuốc bổ tặng tủ thuốc của tù chính trị. Đại từ bỏ cả đặc quyền mà phó tỉnh trưởng
Tăng Tư cho ở lại tư dinh, xin được vào trại ở chung với tù chính trị.
Phan Phước tức Phan Đình Phước sinh năm 1926 tại ấp Dạ, núi Tròn, xã Tịnh
Minh, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, con ông Phan Tuy và bà Bạch Thị Tôn. Nhờ
có bản lý lịch suôn sẻ, là giáo viên chỉ tham gia liên lạc cho Việt cộng nên đã
được bộ phận trách nhiệm cấy vào hàng ngũ trật tự từ những ngày ra đảo, chui
sâu vào trật tự chuồng cọp. Anh giữ đầu mối liên lạc, tiếp tế rất quan trọng,
góp phần đắc lực trong việc nuôi dưỡng, bảo vệ tính mạng các chiến sĩ chống ly
khai ở chuồng cọp.
Phan Phước là con thoi phối hợp chủ trương và hành động giữa lực lượng
chống ly khai và lực lượng vươn lên kiến tạo lập trường khí tiết ở các trại. Do
công tác yêu cầu tuyệt đối bí mật, anh phải chịu tiếng là phần tử ly khai, phản
bội, làm tay sai cho địch. Đến ngày được trả tự do, trở về với đội ngũ, tiếng xấu
còn mang theo cho đến khi anh ngã xuống trên chiến trường miền Trung. Phan Phước
chỉ là một trong nhiều trường hợp thầm lặng hy sinh, chịu đựng những nỗi cay
nghiệt trên mặt trận nhà tù thầm lặng ấy.
Ở Côn Đảo còn có 50 tù nhân người Hoa mang quốc tịch Trung Quốc bị câu
lưu vì tội chống chủ trương cưỡng bức nhập quốc tịch Việt Nam cộng hoà dưới chế
độ Diệm. Ngoại trừ một vài trường hợp tham gia bộ máy trật tự, đàn áp tù nhân
như Huỳnh Bắc, Lý Sanh, còn đại bộ phận đã tham gia mặt trận đấu tranh của tù
chính trị. Họ có quan hệ tốt, giúp việc cho nhiều công chức, kể cả Phó Tỉnh trưởng
Tăng Tư. Nhờ đó, số tù chính trị Hoa kiều đã thu thập được nhiều tin tức quý từ
báo, đài và từ miệng các công chức, gác ngục.
Năm 1961, Mỹ - ngụy đánh giá công tác cải huấn đã đạt được nhiều kết quả
trong các nhà tù, kể cả Côn Sơn là nơi giam giữ các phần tử cứng đầu nhất. Những
can cứu xét tội trạng không có gì nguy hiểm được đề nghị trả tự do. Hành động
chống đối của họ được giải thích là do bị giam giữ lâu ngày nên sinh ra bất
mãn. Hai đợt trả tự do số lượng lớn diễn ra vào tháng 7 và tháng 10-1961,75 can
cứu chống ký kiến nghị “tri ân Ngô Tổng thống” trước khi được trả tự do đã bị
giữ lại Côn Đảo.
Ngày 30-8-1962, địch chuyển 500 can cứu về đất liền, trong đó có 153 can
cứu mãn hạn sẽ phóng thích vào dịp Quốc khánh ngụy (26- 10) và 347 can cứu sắp
mãn hạn, đưa về an trí tại Trung tâm Cải huấn Phú Lợi. Lực lượng tù chính trị
Côn Đảo về Phú Lợi đã tạo ra một phong trào chống nội quy nhà tù sôi nổi, lôi
kéo nhiều tù nhân ở Phú Lợi tham gia. Bị chuyển về Tân Hiệp (Biên Hòa), lực lượng
tù chính trị đã trở thành hạt nhân đoàn kết và tranh đấu ở nhà lao này.
Một bộ phận tù chính trị ở Côn Đảo về bị đưa đi làm ấp chiến lược ở Năm
Căn (Cà Mau) đã tổ chức vượt ngục về kháng chiến. Một bộ phận khác được coi là
“phần tử nguy hiểm” bị địch chuyển qua các nhà lao Tàng Thơ (Huế), Thanh Tân Ồ Ồ
(Quảng Trị). Đi đến đâu, lực lượng tù chính trị Côn Đảo cũng tuyên bố chống
chào cờ, chống nội quy, cổ vũ tinh thần tranh đấu của tù nhân các nhà lao ở đất
liền. Sau cùng, ngụy quyền Sài Gòn đã gia hạn an trí, đày họ trở lại Côn Đảo
(5-2-1964).
Vươn lên khôi phục khí tiết, lập lại Trại I
Từ tháng 8-1962, lực lượng tù chính trị câu lưu còn ở lại Côn Đảo đã
phát triển cuộc đấu tranh kiến tạo lập trường khí tiết lên một giai đoạn mới.
Đó là giai đoạn vươn lên quyết liệt, giành lại vị trí bảo vệ khí tiết, chống
toàn bộ nội quy nhà tù.
Chủ trương dùng bạo lực cách mạng, võ trang khởi nghĩa của Đảng ta và
tin tức về phong trào cách mạng miền Nam từ khi có Nghị quyết 15 đến Côn Đảo
làm cho tù chính trị rất phấn khởi. Bộ phận trách nhiệm của tù chính trị câu
lưu chỉ đạo đẩy mạnh đấu tranh chống khố sai quá sức đi đôi với nâng cao nhận
thức tư tưởng, sẵn sàng vươn lên chống toàn diện khi có điều kiện và chỉ đạo một
đợt học chính trị trong toàn lực lượng, quán triệt sâu sắc các tài liệu: Đường
lối cách mạng miền Nam, Chỉ thị bảo vệ khí tiết, Bôn quan niệm về nhà tù của
Lênin, Sáu tiêu chuẩn đảng viên, Tám kinh nghiệm chiến đấu của Năm Anh.
Tám kinh nghiệm do các anh Nguyễn Đức Thuận, Phan Trọng Bình cùng tập thể
chiến đấu trong chuồng cọp tổng kết, phổ biến truyền miệng, trở thành bài học
“nằm lòng” vô cùng quý giá cho lực lượng tù chính trị đang đấu tranh vươn lên.
Nội dung cơ bản của Tám kinh nghiệm là: “Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ đấu tranh bảo
vệ khí tiết; Thống nhất tư tưởng, ý chí và hành động;
Đoàn kết chiến đấu; Biết tranh thủ, thuyết phục kẻ thù; Tránh bộc lộ lực
lượng, hạn chế tổn thất; và kinh nghiệm quan trọng nhất là Quyết tâm - Quyết tử
- Tự lực - Trường kỳ”.
Không quán triệt sâu sắc khẩu hiệu này thì không bao giờ chiến thắng
trên mặt trận bảo vệ khí tiết trong tù. Mỗi một từ, một ý trong Tám kinh nghiệm
đều được từng nhóm tù nhân thảo luận thật kĩ, trân trọng và quán triệt như là học
tập các nghị quyết của Đảng. Đợt học tập chính trị lần này mang tính chất dân
chủ với tinh thần tự phê bình sâu sắc.
Mặc dầu chưa thành chủ trương, tù chính trị câu lưu đã chống chào cờ dưới
nhiều hình thức: khai bệnh, giả đau bụng, ngồi trong nhà cầu không ra chào, đòi
đi làm khổ sai sớm trước giờ chào cờ, hoặc ra chào cờ không hô, không hát. Năm
1962 có kiểu chống chào cờ tập thể của những người bị thần kinh.
Do bị tra tấn và truy bức tư tưởng nhiều năm, có hàng chục chính trị
mang bệnh thần kinh nặng. Đến buổi chào cờ, khi trật tự hô “nghiêm” là những
người này lên cơn động kinh té sấp, té ngửa, chân tay co giật, sùi bọt mép, mắt
trợn ngược làm hàng trăm người khác phải xúm lại cấp cứu. Buổi chào cờ nào cũng
rối loạn. Trưởng trại Nguyễn Văn Liêu quả quyết rằng số tù nhân này vờ động
kinh để chống chào cờ, phá nội quy và đem nhốt tất cả vào xà lim, hàng ngày cho
công an, trật tự tra khảo. Ba tháng liền theo dõi, trắc nghiệm tâm lý, cuối
cùng chúng phải công nhận rằng họ bị động kinh thật.
Chính sách “tố cộng” đã làm cho nhiều người đau đớn, bị dày vò đến ngơ
ngẩn, mất hồn. Anh Trần Đình Hoa bị điên cứ đi lang thang các phòng. Gặp bọn
công an, cải huấn là anh thét lên: “A, Ngô Đình Diệm đây rồi, mày giết vợ tao,
mày ăn thịt con tao. Bây giờ tao giết mày”. Thế là anh lao vào chúng để cào cấu
và lần nào cũng bị chúng đánh chết ngất.
Sau này, trong Luận án Tiến sĩ y khoa, bảo vệ thành công năm 1972, bác
sĩ Nguyễn Minh Triết đã gọi những căn bệnh thần kinh trong tù, bị kích động mạnh
theo các phản ứng dây chuyền là bệnh Nộ Kinh. Các nhà y học có thể giải thích
được hiện tượng suy nhược thần kinh, dẫn đến bệnh tâm thần do bị khủng bố, truy
bức, hoặc do dấu tranh tư tưởng quá căng thẳng. Song có một điều mà bọn cai ngục
không thể chấp nhận được là hầu hết những người mắc bệnh tâm thần ở Côn Đảo đều
chống chào cờ ngụy, chống học tố cộng, đả đảo Ngô Đình Diệm, hoan hô Hồ Chí
Minh. Trong lúc thần kinh rối loạn thì ý thức chính trị của họ lại rất tỉnh.
Theo bản báo cáo số 429/BQĐ/HC/01 ngày 12-10- 1962 của Ban quản đốc
Trung tâm cải huấn, Côn Đảo khi ấy chỉ còn 499 tù chính trị câu lưu. Biên bản
bàn giao ngày 16-7-1963 giữa cựu tỉnh trưởng Lê Văn Thể và tân tỉnh trưởng Nguyễn
Văn Sáu cho biết, tổng số tù chính trị câu lưu khi đó là 519 người, bị giam ở
Trung tâm cải huấn I, Thượng sĩ Nguyễn Văn Nghĩa làm trưởng Trung tâm, trung sĩ
Ngô Thạnh Trị là trưởng an ninh trung tâm. Địch phân tán tù chính trị câu lưu,
một bộ phận ở Trại IV (làm Nhà bếp và nội trợ), khoảng 60 người, còn đại bộ phận
giam ở Trại III, bắt đập đá xây Trại V, cưỡng bức cả chủ nhật, gọi là ngày “cộng
đồng”.
Lực lượng tù chính trị câu lưu củng cố tổ chức, bước vào một thời kỳ đấu
tranh mới, vươn lên khôi phục toàn bộ khí tiết. Anh Lương Chi quê Quảng Ngãi,
nguyên là cán bộ tỉnh Plâycu, được tập thể tín nhiệm trong cương vị lãnh đạo
chung. Anh Đỗ Hằng (Plâyku) được cử cùng Trần Thám (Bình Định) và một vài người
có trách nhiệm soạn thảo tài liệu Vươn lên khôi phục toàn bộ khí tiết, gọi tắt
là Vươn lên.
Tài liệu được tổng hợp từ các cuộc thảo luận tập thể đã đúc kết khẩu hiệu
đấu tranh lúc này là Toàn bộ khí tiết, nghĩa là không chỉ chống chào cờ ngụy,
chống khẩu hiệu phản động nữa mà chống mọi thủ đoạn cưỡng bức tư tưởng, xúc phạm
nhân cách tù chính trị. Tài liệu được những người có trách nhiệm truyền đạt, tố
chức học tập và thảo luận theo từng nhóm, đến toàn thể tù chính trị câu lưu.
Vấn đề tổ chức chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh dạo được đặt ra một cách bức
thiết. Anh Lương Chi đã nhiều lần tha thiết đề nghị với số cán bộ có trách nhiệm
ở các phòng về việc cần phải thành lập tổ chức Đảng làm hạt nhân lãnh đạo cuộc
đấu tranh.
Ngày 1-5-1963, trước hiên phòng 4, Trại IV, một bộ phận tù chính trị đã
thành lập chi bộ mang tên Lê Hồng Phong, gồm: Lương Chi - Bí thư, Đặng Ngọc Cảnh
- Phó Bí thư phụ trách tổ chức; Đỗ Hằng - ủy viên phụ trách tuyên huấn; Hoàng
Phùng - ủy viên, đại diện đấu tranh. Chi bộ không kết nạp đảng viên mà chỉ tập
hợp một số người theo nhu cầu lãnh đạo, giống như vai trò một cấp ủy. Các ủy
viên khác có Trần Thám, Nguyễn Quýnh, Nguyễn Hài, tháng 10-1963 tập hợp thêm
Nguyễn Thiện, Lê Quang Ba, Nguyễn Chấn, Bùi Dục. Tháng 12-1963 tập hợp Nguyễn
Thành Tây. Chi bộ đề ra 3 nhiệm vụ trước mắt:
-
Củng cố nòng cốt
ở các phòng giam, các kíp tù.
-
Tiếp tục đấu
tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ.
-
Chuẩn bị thực
lực khi có điều kiện sẽ chống chào cờ.
Các cuộc đấu tranh trong thời kỳ “Vươn lên khôi phục toàn bộ khí tiết” đã
diễn ra hết sức quyết liệt. Bọn chúa ngục đã phản kích bằng mọi cách: phạt cấm
cố, còng xiềng, xà lim, chuồng cọp, bỏ đói, xối nước lạnh, đưa về Ban an ninh
tra tấn, khai thác tổ chức, phạt đòn từ 50 đến 100 roi...
Nhiều thanh niên đã gan góc, xung phong đi đầu trong các cuộc dấu tranh
chống học cải huấn, chống chào sĩ quan, chống lao công ngày chủ nhật cộng đồng
và vươn lên chống chào cờ như Hồ Bồi, Nguyễn Xuân Ái, anh Tánh (ở Bình Định),
Lê Quang Ba (ở Quảng Ngãi), Nguyễn Văn Mười tức Thương (Bình Thuận), Huỳnh Hà
(Quảng Nam), Nguyễn Văn Sáu, Trần Văn Cam (Mỹ Tho), Trần Văn Tuân (Bến Tre).
Các anh đã kiên cường chịu hàng chục hình phạt, hàng trăm trận đòn đến nát
lưng, thịt rơi, máu đổ để duy trì phong trào, củng cố đội ngũ, vươn lên bảo vệ
vị trí chính trị của người chiến sĩ cách mạng.
Sáng 2-11-1963, được tin giới quân sự ở Sài Gòn làm đảo chính, chi bộ Lê
Hồng Phong đã phát động cuộc đấu tranh chống hô khẩu hiệu phản động. Trại IV
lúc đó có 450 tù chính trị. Phòng Nhà bếp có khoảng 60 người được chi bộ quyết
định ở lại lo việc ăn uống và thông tin liên lạc. Số còn lại được huy động vào
cuộc đấu tranh.
Giờ chào cờ sáng 3-11-1963, địch bỏ khẩu hiệu “ủng hộ Ngô Đình Diệm”
thay vào đó là “ủng hộ quân lực Việt Nam cộng hoà”. Trên 400 tù chính trị câu
lưu đã không hô, không hát. Các anh Lê Quang Ba, Phạm Minh Sáu, Nguyễn Văn Tâm
đứng ra tuyên bố không ủng hộ bất cứ tổ chức nào của chế độ Sài Gòn. Ba anh bị
đưa vào chuồng cọp.
Những ngày tiếp theo, địch đưa thêm 22 người nữa vào biệt giam. Trừ
phòng Nhà bếp, các phòng còn lại đều bị cấm cố, bớt cơm, bớt nước uống, không
cho tắm giặt. Gần một tháng bị cấm cố, các phòng trao đổi và quyết định đấu
tranh bằng hình thức tuyệt thực. Các anh Đỗ Hằng, Tô Thành, Lê Quang Ngọc đã đặt
ra mật mã (MORSE) để liên lạc. Bản mật mã được chia làm 25 ô (mỗi chiều 5 ô). Mỗi
chữ cái trong ô ký hiệu bằng 2 chữ số theo hàng ngang, hàng dọc (a: 1-1; b: 1-
2; c: 1- 3...y: 5-5) các phòng cùng dãy nhận mật mã bằng cách gõ vào tường theo
những nhịp ngắn dài của từng chữ cái, do mã khóa hàng ngang, hàng dọc quy định.
Hai dãy phòng giam đối diện nhận mật mã bằng tín hiệu quạt lên quạt xuống.
Sáng 22-12-1963, các phòng của Trại IV (trừ Nhà bếp) tuyên bố tuyệt thực
đòi giải quyết các yêu sách:
2.
Tự do tư tưởng,
bỏ hô khẩu hiệu, bỏ chào cờ.
3.
Trả tự do cho
tù chính trị câu lưu, trong lúc chờ đợi phải đưa tất cả về đất liền.
4.
Cơm ăn đủ no,
có đủ thức ăn, có rau tươi, thịt cá.
5.
Đau ốm có thuốc
chữa bệnh, được đi bệnh xá.
6.
Được bầu Đại
diện phòng, Tổng Đại diện trại.
Cuộc tuyệt thực nổ ra đúng vào đỉnh cao của cuộc khủng hoảng chính trị tại
Sài Gòn làm cho ngụy quyền , Côn Đảo rất hoang mang. Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Sáu
chọn giải pháp nhượng bộ tù chính trị để rảnh tay đối phó nội bộ. Sáng
25-12-1963, Nguyễn Văn Sáu chấp nhận phần lớn yêu sách, bỏ khẩu hiệu huấn chính
lúc chào cờ, cho tù nhân được tự do tư tưởng, cải thiện đời sống, cho bầu Đại
diện và Tổng Đại diện, riêng việc trả tự do và đưa về đất liền phải chờ ý kiến
của Sài Gòn. 1 Cuộc đấu tranh hoàn toàn thắng lợi, đạt được các yêu cầu mà chi
bộ đã đề ra.
Ngày 27-12-1963, lần đầu tiên trong lịch sử Nhà tù Côn Đảo, cuộc bầu cử
dân chủ, công khai của tù chính trị đã diễn ra tại sân Trại IV, trước sự chứng
kiến của Ban Quản đốc. Anh Nguyễn Văn Thọ quê Bến Tre được bầu làm Tổng Đại diện.
Anh Thọ chuyển bệnh chết đột ngột (14-1-1964), toàn thể tù chính trị Trại IV đã
tổ chức lễ truy điệu trọng thế rồi đưa anh về nơi an nghỉ. Hồ Sĩ Phan (ở Quảng
Trị) được tập thể tín nhiệm giữ cương vị Tổng đại diện.
Sau khi lật đổ Diệm, Hội đồng quân nhân cách mạng đã ra sắc lệnh phóng
thích tất cả những người bị tù vì chống chính quyền Ngô Đình Diệm từ 7-7-1954 đến
31-10-1963, trừ tù chính trị cộng sản. Anh Hà Minh Trí, dưới danh nghĩa lực lượng
võ trang giáo phái Cao Đài, được Trung tướng Mai Hữu Xuân, Tổng Giám đốc Cảnh
sát Quốc gia của Nội các mới đề nghị phóng thích ngay vì “thành tích ám sát hụt
Ngô Đình Diệm”. Nhân dịp này, tù chính trị bị giam giữ lâu ngày trong các nhà
tù cũng đấu tranh đòi tự do.
Tháng 1 năm 1964, bốn chiến sĩ trực diện chống ly khai: Nguyễn Đức Thuận,
Phan Trọng Bình, Phạm Quốc Sắc, Lê Văn Một được đưa về đất liền để phóng thích.
Anh Nguyễn Minh được chuyển về đất liền và được tự do trước đó. Năm Anh đã toàn
thắng trở về, nhưng gương chiến đấu và chiến thắng của các anh còn toả sáng trong
cuộc đấu tranh vươn lên bảo vệ khí tiết của tù chính trị Côn Đảo. Thay chỗ năm
Anh tại Chuồng Cọp là đội ngũ tù chính trị chống chào cờ ngày càng đông đảo.
Ngày 20-1-1964, ngụy quyền phản kích, chúng đưa lực lượng đàn áp đến bắt
tù chính trị câu lưu phải chào cờ ngụy. Tất cả đều nhất loạt phản đối. Địch cho
bọn trật tự xông vào đánh đập, đưa 25 người vào biệt giam chuồng cọp, 38 người
bị cấm cố tại phòng 8 và 100 người đưa về cấm cố tại Hầm Đá Trại II và Trại
III.
Ngay trong lúc địch đàn áp và thanh lọc, Chi bộ Lê Hồng Phong hội ý cấp
tốc, nhận định đây là âm mưu phân tán mỏng, cách ly lãnh đạo, hạn chế đấu
tranh, chia cắt lực lượng để dễ bề đàn áp, tước đoạt thành quả đấu tranh. Chi ủy
phân công Trần Thám, Lê Quang Ba, Nguyễn Quýnh xen vào lực lượng địch phân tán
để lãnh đạo anh em. Chủ trương của chi bộ là dù địch phân tán đi đâu, thực hiện
những thủ đoạn khủng bố nào cũng phải kiên định mục tiêu khôi phục toàn bộ khí
tiết.
Tại hầm đá và chuồng cọp, địch nhốt chật gấp ba lần ngày thường, còng
chân, đánh đập, cưỡng bức chào cờ. Lực lượng tù chính trị câu lưu bị giam ở đây
đã tuyệt thực để phản đối khủng bố, đòi tự do tư tưởng, không chào cờ ngụy,
không hô các khẩu hiệu huấn chính. Sau 5 ngày tuyệt thực, địch nhượng bộ, trả lại
đồ dùng cá nhân, cho ra tắm giặt, sinh hoạt bình thường, hứa sau tết âm lịch sẽ
trả về trại cũ.
Sau 73 ngày đấu tranh quyết liệt, ngày 4-4-1964, địch phải trả toàn bộ
tù chính trị câu lưu bị phân tán ở Chuồng Cọp, Hầm Đá Trại II, Trại III về Trại
IV và đổi tên Trại IV thành Trại I, với ý nghĩa là Trại cộng sản trước đây, Trại
cứng đầu, không thế khuất phục được, chỉ có thể “xây thêm nhà lao để giam giữ họ
suốt đời”.
Khi thực dân Pháp bàn giao cho ngụy quyên Sài Gòn, Nhà tù Côn Đảo chỉ
còn lại tù án mà đa số là tù thường án. Theo báo Tiếng Chuông xuất bản tại Sài
Gòn ngày 19-3-1956, J‘Côn Đảo có 600 tù nhân với 120 gia đình công chức (500
nhân khẩu), không có thường dân, không có chợ búa. Việc tiếp tế do tàu Cửu Long
và tàu Đồng Nai đảm nhiệm. Sở rẫy An Hái có đến 50 tù nhân làm việc mỗi ngày, sản
xuất rau tươi cho đảo. Sở Lưới hàng ngày đánh cá chia cho công chức, Sở Chăn
nuôi có vài ngàn con bồ câu, mỗi tuần bán cho công chức hai lần, giá 5 đồng một
con".
Tháng giêng năm 1956, chính quyên Sài Gòn đã cử một phái đoàn cao cấp
ngành Tư pháp do Biện lý Lưu Đình Diệp dẫn đầu ra Côn Đảo nghiên cứu. Cùng đi
có vị giáo sĩ người Mỹ và hai giám mục: Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi.
Dưới thời Quản đốc Hồ Chí Thiên, nhân số tại đê lao đã tăng lên 674 vào
ngày 14-12-1956, có 70 giám thị trông coi. Hai năm 1957- 1958, số lượng tù án
tăng không đáng kể. Từ khi Ngô Đình Diệm ra Luật 10/59 (tháng 5- 1959), số tù
án bị đưa ra Côn Đảo ngày càng đông. Theo Báo cáo số 467/NA/TTHC/CS/ M ngày
25-11-1959 cỏa Tỉnh trưởng Côn Sơn, “tính đến ngày 25-10-1959, Trại Cải huấn có
1.456 tù án, phân loại như sau: thường phạm: 600; thường phạm thuộc toà án quân
sự: 16; quân phạm thường án: 198; quân phạm chính trị: 147; chính trị phạm:
484; tử hình: 10; giam cứu (Toà Biện lý Sài Gòn gửi): 1; trong thảng, trại cải
huấn chết 2. Nhân số hiện hữu tính đến 25-11-1959 là 1.454 người".
Những năm sau, số lượng tù án tăng dần, kể cả án tử hình, phần nhiêu là
tù chính trị. Dưới đây là số liệu tù án trong các báo cáo của nhà tù:
Ngày
![]() |
![]() |
tháng
15-
8-1962 3.348 1.794 165 127
16-
9-1963 3.469 1.908 205 166
Trong khi tập trung lực lượng truy bức tư tưởng,
triệt hạ khí tiết tù chính trị câu lưu thì ngụy quyền chỉ áp dụng chế độ khổ
sai đối với tù án. Từ năm 1960, sau khi giải
quyết một số lớn tù chính trị chống li
khai ở Trại I, địch thành lập Trung tâm cải huấn 2 giam
tù án và
bắt tù
án cũng phải học tố cộng vào buổi tối, với mức độ chiếu lệ
so với tù chính trị câu lưu. Hoạt động và tranh đấu của tù án chính trị dưới thời
Ngô Đình Diệm còn ở mức độ thấp, với các yêu sách giảm nhẹ khổ sai, cải thiện đời
sống, chưa chống các thủ đoạn chính trị của địch.
Lực lượng tù án kế thừa kiểu tổ chức của tù nhân kháng chiến
(1946-1954). Sau 3 đợt trao trả tù binh, tù chính trị, đến tháng 3-1955, Côn Đảo
còn lại 59 người kháng chiến không được trao trả, cùng với hơn 600 tù án tư
pháp (thường phạm). Anh Nguyễn Vãn Mẹo được cử làm Bí thư Liên chi ủy, kiêm Chủ
tịch Liên đoàn tù nhân kháng chiến, phụ trách số chưa được trao trả.
Lớp tù án chính trị bị chính quyền Ngô Đình Diệm đày ra sau này đã được
kết tập vào Liên chi Đảng bộ tù án do Lê Minh Nê làm bí thư. Mục đích của tổ chức
Liên chi Đảng bộ tù án là:
1.
Tập hợp tất cả
các đảng viên để sinh hoạt giữ vững tư thế, tác phong đạo đức của người cách mạng,
hun đúc tinh thần chiến đấu bất khuất.
2.
Nêu cao tinh
thần đoàn kết, tương thân, tương trợ nhau trong hoàn cảnh lao lý.
3.
Đấu tranh với
nhà cầm quyền đòi dân sinh dân chủ, cảm hóa các phần tử đối lập.
4.
Lợi dụng thời
cơ thuận tiện của tình hình bên ngoài sẽ đứng lên cướp chính quyền, tự giải
phóng.
Tháng 5-1961, Liên chi Đảng bộ tù án củng cố lại, gồm 7 chi bộ. Hồ Văn
Nai làm Bí thư Liên chi, Trần Văn Tấn làm Phó bí thư, Nguyễn Văn Vương là ủy
viên thường vụ, tổng số đảng viên kết được kết tập trên 50 người. Liên chi tổ
chức ra Liên đoàn tù nhân giải phóng, do Trần Văn Tỵ (tự Xuân) là Trưởng ban chấp
hanh, với 14 ủy viên. Tháng 4-1961, Trần Văn Tỵ mãn án, giao lại cho Nguyễn Trường
Can (tức Thái Hoàng Ân) làm Liên đoàn trưởng. Nhiệm vụ
![]() |
động của tù nhân. Bản báo cáo số 30/CS/TTCH H
ngày 15-8-1962 của Giám thị trưởng Trung tâm cải huấn II cho biết, trong số
3348 phạm nhân thành án, có 460 phạm nhân được tuyển vào Ban an ninh, trong đó
trật tự nội trại là 223, trật tự biệt phái là 205, tình báo là 32.
Báo cáo còn đánh giá về hoạt động tình báo, mật báo như sau: “Trung tâm
đã lựa chọn số can phạm giác ngộ hạnh kiểm tốt, xây dựng thành một hệ thống mật
báo viên chìm để giúp ích cho việc ngăn chặn và hủy diệt ngay các âm mưu vừa chớm
nở của số phạm nhân ngoan cố”.
Vụ việc mà bản báo cáo nói trên đề cập đến chính là do Ban tình báo phát
hiện ra tổ chức Liên chi Đảng bộ tù án và Liên đoàn tù nhân giải phóng (tháng
5- 1962). Nội vụ kéo dài cho đến cuối năm 1962 mới kết thúc. Theo công văn số
101/AN/M ngày 26-12-1962 của Ban an ninh Trung tâm cải huấn II, trong vòng 6
tháng, chúng đã bắt đi điều tra khai thác 140 tù nhân thuộc hai tổ chức nói
trên, tất cả đều bị đưa vào biệt giam, 4 người đã chết trong quá trình điều
tra, 339 người khác đã bị khống chế và vô hiệu hóa.
Đây là vụ tổn thất lớn, gây
hiệu quả nghiêm trọng. Các thành viên trong tổ chức khi mãn hạn cấm cố đã
nghiêm khắc tự kiểm điểm, rút kinh nghiệm về tổn thất đau xót này1.
Trong lúc Liên chi Đảng bộ tù án tan vỡ thì nhóm tù chính trị ở Chí Hòa
ra đã chắp nôi được đường dây liên lạc với Trung ương Cục, thông qua Tỉnh ủy
Tây Ninh. Đường dây này do Trương Minh (tức Hai Khuynh), cán bộ binh vận Trung
ương Cục phụ trách. Trương Minh trước khi bị bắt là cán bộ binh vận của Trung
ương Cục, quê ở Tây Ninh. Trương Minh và Nguyễn Xuân Kí đã tham gia Đảng ủy Nhà
lao Chí Hòa. Ra Côn Đảo, hai anh bàn nhau chắp nối đường dây liên lạc với Trung
ương Cục và xây dựng lại tổ chức các trại tù án.
Đầu năm 1963, Ban lãnh đạo lâm thời trại tù án được tố chức gồm 5 người:
Nguyễn Xuân Kí, phụ trách chung; Nguyễn Văn Ngư (tức Hai E), phụ trách Trại I;
Võ Văn Thuật, phụ trách Trại II; Trương Minh và anh Hiển phụ trách các sở
ngoài. Ban lãnh đạo lâm thời tập hợp một số cốt cán ở các trại, tổ chức mạng lưới
thu thập tin tức, binh vận, liên lạc với đất liền, xây dựng phương án đấu
tranh, bước đầu đòi các quyền dân sinh dân chủ.
Ngay khi ra Côn Đảo, Hai Khuynh được anh em bố trí cho ra Sở Chăn Nuôi,
dạy học cho con giám thị Nguyễn Văn Thượng (Năm Thượng, Nầm Xị), Năm Thượng đã
từng được đồng chí Dương Văn Thưa, Tỉnh ủy viên Tây Ninh, Bí thư Huyện ủy Gò Dầu,
phụ trách giao liên của tỉnh Tây Ninh tổ chức khi Thượng còn ở Nhà lao Tây
Ninh. Khi Thượng bị điều ra Côn Đảo, Dương Văn Thưa đã bàn giao đầu mối này cho
Hai Khuynh.
Cuối năm 1963, những bức thư liên lạc đầu tiên của tù chính trị đã về đến
cán cứ của Tỉnh ủy Tây Ninh. Cùng trong thời gian này, Ban an ninh Trung ương Cục
đã liên lạc được với giám thị Năm Thượng, chủ Sở Chăn Nuôi của nhà tù Côn Đảo,
quê Tây Ninh. Giám thị Năm có quan hệ tốt với tù chính trị và đã nhận chuyển
tin tức, báo cáo của tù chính trị về đất liền.
Những tù chính trị phục vụ tại Ty tiểu học và dạy học tư gia đã giác ngộ
được Nguyễn Văn Đồng, trưởng ty tiểu học và nữ giáo viên Trịnh Thị Thu Hưng làm
liên lạc viên giữa Côn Đảo và đất liền. Hai học sinh Nguyễn Thị Thu Hồng và
Nguyễn Thị Thu Tâm (con giám thị Nguyễn Văn Trương) cũng được giác ngộ và trở
thành những giao liên tin cẩn.
Thư từ, báo cáo được viết bằng mực hóa học, ngụy trang trong sách, báo
hoặc giấu kín đáo trong các bưu phẩm. Trương Minh đã gửi mua các loại sách Văn
- Sử, từ điển tiếng Anh, tiếng Hoa và cần mẫn soạn bộ từ điển Hán - Việt
(13.000 mục từ) gửi về đất liền. Nhiều báo cáo đã được viết bằng mật mã và gửi
qua những bản thảo này.
Nhóm tù chính trị người Hoa chiếm được thiện cảm của Tăng Tư, khi ấy là
Phó Tỉnh trưởng phụ trách nội an, tạo được nhiều cơ sơ nắm tin tức trong hàng
ngũ địch. Trần Hồng, Lý Chấn Á, Hai Phan được đưa vào làm bồi bếp cho Tăng Tư.
Trang Dân Kiệt, Đinh Khắc Phong, Ô Bài Huy, Lý Khải Cường và một số tù nhân biết
kĩ thuật sửa chữa điện được bố trí phục vụ tại Đài LORAN Cỏ Ong, thu thập tin tức
qua rađiô rồi chép lại, chuyển về cho Ban lãnh đạo. Tin tức về những trận thắng
Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài, Phước Long... được chép lại khá chính xác, đem lại
nguồn cổ vũ lớn lao cho tù chính trị lúc đó. Anh Quang (tức Han làm bồi cho Tỉnh
trưởng, thường xuyên cung cấp thực phẩm tươi cho Cỏ Ong là người trực tiếp chuyển
các bản tin tức về Côn Đảo.
Trần Hồng từng là bạn học với Tăng Tư, sinh viên trường Cao đẳng mỹ thuật.
Bằng nét vẽ tài hoa, anh tranh thủ được cả Phó tỉnh trưởng Tăng Tư, Tỉnh trưởng
Lê Văn Thế và sau đó là Nguyễn Văn Sáu cùng cố vấn Mỹ, nhờ đó, anh thu thập được
nhiều tin tức, giúp được nhiều tu chính trị. Bằng mối quan hệ thân tình với
Tăng Tư, có lần, Trần Hồng còn thuyết phục được Tăng Tư ngăn chặn đợt khủng bố
khốc liệt của trung sĩ Ngô Thạnh Trị, trưởng an ninh chuồng cọp trong vụ đàn áp
năm Anh ở chuồng cọp.
Ban lãnh đạo lâm thời các trại tù án (có lúc danh xưng là Đảo ủy) được tổ
chức theo kiểu Đảo ủy. Ớ mỗi trại tù án có tổ chức chi bộ tinh gọn từ 3 đến 5
người, liên hệ đơn tuyến, mỗi người chỉ biết một người trực tiếp quan hệ với
mình. Chi bộ tìm cách đưa những người cốt cán vào nắm các tổ chức công khai ở từng
phòng như Ban đại diện, Ban vệ sinh, Ban trật tự, Ban thư kí.
Tổ chức Đảo ủy các trại tù án được hình thành từ đầu năm 1963 tồn tại
trong nhiều năm sau đó. Tổ chức này có vai trò tích cực, ổn định tình hình tổ
chức, tư tưởng của tù án chính trị, đặt nền móng, cho phong trào đấu tranh dân
sinh dân chủ và đặc biệt là xây dựng được một mạng lưới thông tin, duy trì đường
dây liên lạc với Trung ương Cục.
Do sự xáo trộn, biến động trong tù, thành phần Đảo ủy có nhiều thay đổi.
Khi phong trào đấu tranh chính trị của tù án bột phát, sôi động hẳn lên với cao
trào chống chào cờ mạnh mẽ từ 1965 đến 1967 và đỉnh cao là cuộc Đồng khởi 1970
thì tổ chức mang tên “Đảo ủy” không còn theo kịp phong trào. Khi đó, tổ chức
này tồn tại như một bộ phận bên ngoài, chịu làm khổ sai, không chống chào cờ,
làm nhiệm vụ thông tin liên lạc, nắm giữ đường dây Côn Đảo.
Phong trào đấu tranh của tù án trong giai đoạn này còn ở mức độ thấp với
những yêu sách đòi cải thiện đời sông, giảm nhẹ mức khổ sai, chống học tố cộng
theo kiểu không phát biểu ý kiến, chống chào cờ bằng cách tìm lý do né tránh.
Sau ngày Ngô Đình Diệm bị lật đổ, tinh thần đấu tranh của tù án chính trị có bước
chuyển mạnh hơn.
Cuối năm 1963, anh Nguyễn Văn Mười ở Công xưởng trong lúc hàn con tàu
mang tên Phi Yến bị điện giật chết, tù chính trị Công xưởng đấu tranh đòi áo
quan, làm lễ truy điệu. Anh em lấy hoa rừng kết tràng hoa, đề khẩu hiệu “Thiên
thu duy hận”, hàng trăm người đưa đám. Sau lần ấy, ba người bị phạt giam chuồng
cọp.
Phân hóa kẻ thù, tạo cơ hội vượt ngục
Lực lượng tù án chính trị tận dụng mọi cơ hội làm công tác binh vận.
Trương Minh cùng một số cán bộ Ban binh vận Trung ương Cục bị bắt đã góp nhiều
ý kiến cho Ban lãnh đạo lâm thời về công tác binh vận trong tù. Những người được
đưa ra làm bồi bếp, thư ký, công nhân tư gia, dạy học tư gia, đã góp phần phân
hóa hàng ngũ địch.
Cuối năm 1963, lực lượng binh vận đã triệt để khai thác mâu thuẫn giữa Tỉnh
trưởng Nguyễn Văn Sáu và Đại úy phụ tá Quản đốc Trần Hữu Khoẻ. Theo số liệu của
nhiều tù chính trị làm ở Văn phòng Quản đốc và Vãn phòng Giám thị trưởng cung cấp,
Sáu đã làm đơn tố cáo Khoẻ, trong thời gian từ tháng 7-1963 đến tháng 5- 1964
đã ăn chặn của tù nhân 63.875 kg gạo, 83 con heo, cùng nhiều khoản tổng cộng
5.600.000 đồng.
Tổng nha Cải huấn và Bộ Nội vụ ngụy đã cử nhiều đoàn ra thanh tra. Khoẻ
dựa vào một số tù nhân khác tố cáo Sáu câu kết với nhà thầu Tạ Thị Hiền, ăn chặn
cá khô, đường thẻ từ khi còn là Quản đốc Trung tâm Cải huấn Thủ Đức, tống tiền
gia đình can phạm Huỳnh Đại, tư sản người Hoa ở Chợ Lớn. Khoẻ tập hợp tài liệu
rồi thuê người ở Sài Gòn viết báo. Báo Cải Tạo, xuất bản tại Sài Gòn trong
tháng 1 và tháng 2-1965 đã đăng một loạt bài dưới tít “Khẩu phật, tâm xà của
thiếu tá Nguyễn Văn Sáu”.
Mâu thuẫn sâu sắc giữa những tên cầm đầu trong bộ máy thống trị ở Côn Đảo
giai đoạn này đã tạo cơ hội cho các cuộc đấu tranh bảo vệ khí tiết của tù chính
trị giành được thắng lợi.
Thời Mỹ - ngụy, các cuộc vượt ngục của tù nhân thưa hẳn so với tất cả
các thời kỳ trước đó, nhưng các cuộc vượt ngục lại diễn ra với nhiều tình huống
ly kỳ và không ít cuộc thành công bất ngờ. Bản nguyệt trình từ ngày 25-10-1959
đến 25-11-1959 của Tỉnh trưởng Côn Sơn mang số 467/NA/TTHC/CS/M cho biết, vào
lúc 21 giờ 30 phút ngày 25-11-1959 xảy ra vụ bạo động, 15 phạm nhân Trại công
xưởng đoạt ghe và đả thương một giám thị đang phiên canh gác. Lệnh truy tầm đã
được ban bố.
Vụ này do đại tá Thế chủ mưu. Trước đó, theo nguồn tin mật báo viên do một
phạm nhân vừa ở Côn Đảo chuyển về Chí Hòa tiết lộ, thiếu tá Nguyễn Văn Vệ,
đương kim Quản đốc khám Chí Hòa đã lập phiếu báo tin số 70/QĐ/M ngày 8-5-1958 gửi
Tổng Giám đốc Nha chính trị Bộ Nội vụ ngụy báo tin về âm mưu vượt ngục này.
Phiếu báo tin cho biết, một nhóm phạm nhân tại Đề lao Côn Sơn đang tổ chức
vượt ngục bằng cách bạo động, trong đó có đại tá Thế, đại tá Phước, Canh, Cai,
Chín F.M, đại diện hoả thực tên Tiến. Tổng Giám đốc Cảnh sát và Công an ngụy đã
gửi công điện ra Côn Đảo, yêu cầu dùng biện pháp nghiêm ngặt ngân ngừa và phúc
trình rõ. Ngày 16-5-1958, đại úy Nguyễn Văn Giỏi, Quản đốc TTCH Côn Sơn gửi cồng
văn số 241/TTCH- CS/2M báo cáo đã tổ chức canh phòng chặt chẽ, cấm cố các phạm
nhân có tên kể trên.
Không cam chịu thất bại, đại tá Thế tiếp tục nuôi mộng vượt ngục. Thân
phụ Thế là thầy dạy học của Tỉnh trưởng Bạch Văn Bốn nên Thế thoát khỏi cấm cố,
về làm đại diện kíp tù nhân ở Công Xưởng. Đại tá Thế chọn sẵn 8 tên đàn em
trung thành, khởi sự vào đêm 25- 11-1959, giải thoát cho đồng bọn ở Sở Lưới,
Công Xưởng và cướp ghe vượt ngục. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, chiếc ghe
nhỏ đã dạt vào một làng đánh cá ở Thái Lan, trên ghe chỉ còn 3 thường phạm nằm
thoi thóp. Đại tá Thế đã chết vì đói, khát và kiệt sức giữa biển.
Để tăng cường các biện pháp an ninh, chống vượt ngục, ngụy quyền Côn Đảo
đã cho đặt một trung liên tại đồn canh cầu Tàu, đóng thêm một đồn canh tại Bến
Đầm (9 lính bảo an) và một đồn ở bãi ông Đụng (7 lính), rút binh sĩ thuộc các
đơn vị thành lập một trung đội biệt kích, huấn luyện chiến thuật, hàng ngày tập
leo núi, phối hợp với trật tự thường án canh chòi bãi lùng sục dấu vết của tù
nhân. Chúng trang bị máy truyền tin cho trưởng đồn Hải Đăng Bảy Cạnh, liên lạc
thường xuyên với bảo an và công an để phát hiện tàu lạ cùng những dấu hiệu nghi
ngờ.
Mặc dầu đã áp dụng tối đa các biện pháp phòng ngừa, các cuộc vượt ngục vẫn
xảy ra. Kíp đốn củi của tù chính trị câu lưu gồm 6 người đã vượt ngục bằng thuyền
khung mây bọc vải vào chiều mồng bảy tháng giêng năm Canh Tý (1960). Cuộc vượt
ngục do Võ Ngàn Trân, một ngư dân ở Hàm Tân (Bình Thuận) và Võ Hoàng Sơn tự Nỉ
(Lái Thiêu) tổ chức, với sự tham gia của Trương Văn Bi, Nguyễn Ngọc Ân, Nguyễn
Hữu Thoại và Nguyễn Lềnh. 13 giờ mồng bảy tết Canh Tý, từ vị trí đốn củi trên
Núi Chúa, họ khiêng chiếc thuyền dài 6m, rộng 1,2 mét xuống bãi phía tây đảo, hạ
thủy lúc xế chiều, ráng sức chèo ra khơi.
Sau 9 ngày vật lộn với sóng gió, chiếc thuyền con mong manh lạc vào một
hoang đảo thuộc hải phận Campuchia. Sáu tù nhân bị giải giao về trại giam
Sêrêpôc. Hơn 2 năm sau, họ tham gia cuộc vượt ngục của tù chính trị Campuchia
vào đêm 11-11-1963. Hơn một trăm tù chính trị đã thoát khỏi trại giam, cắt rừng
về đến Hớn Quản và được Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tiếp nhận.
Tháng 11-1961, tại công trường làm sân bay Cỏ Ống, sáu tù chính trị đã
dùng thùng phuy kết bè vượt ngục nhưng không thành. Công văn số 316/CS/NA/M
ngày 21-11-1961 của Trung tâm cải huấn Côn Sơn cho biết rõ 6 can phạm dó là:
-
Hồ Văn Xuân (tự
Vĩ): Chủ mưu.
-
Tông Tấn
Thương (tự Cọp): Chủ mưu.
-
Phan Xuân Nhị
(tự Bình): Tòng phạm.
-
Nguyễn Văn
Thân (tự Thọ): Tòng phạm.
-
Trần Tấn Lộc
(tự Thi): Tòng phạm.
Sáu người nói trên “đều là các phần tử ngoan cổ, không chịu học tập, cải
tạo. Cuộc vượt đảo của các can phạm nói trên không ngoài mục đích: về tới đất
liền sẽ tiếp tay với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam của Việt cộng để chống
lại chính phủ quốc gia”.
Ở Côn Đảo có loại tù thuộc các phe phái chống đối chính quyền Diệm, được
gọi là quân phạm đặc biệt. Từ năm 1957 đến năm 1960 phần lớn quân phạm đặc biệt
là số cầm đầu các nhóm vũ trang giáo phái Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo và các
“chính khách sa lông” liên minh với các nhóm này. Từ năm 1960, có thêm nhóm sĩ
quan quân đội và “chính khách salon” can dự những cuộc âm mưu đảo chính. Theo
báo cáo của Trưởng ty cảnh sát quốc gia Côn Sơn, tính đến ngày 14-11-1963, có
161 can phạm thuộc các tôn giáo, đảng phái như sau:
-
Mặt trận thông
nhất toàn lực quốc gia: 48 tên.
-
Sĩ quan quốc
gia theo Bình Xuyên: 1 tên.
Phòng 3 Trại I (sau đổi thành Trại II) trong nhiều năm là nơi tập trung
những xung đột của nhóm quân phạm đặc biệt. Đấy là nơi giam giữ những tên cầm đầu,
có “máu mặt”, trong đó có 10 tên mang án tử hình: Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường,
Nguyễn Hữu Thuần, Trịnh Khánh Vàng, trung tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương,
thiếu tá Cao Đài Nguyễn Văn Hiểu...
Bọn này háo danh, tự xưng là tù chính trị “quốc gia”, thay vì gọi là
quân phạm.
Hồ Hữu Tường là chủ bút báo Phương Đông, Chủ tịch Hội đồng báo chí, cố vấn
tối cao của Bộ tổng tham mưu Mặt trận thông nhất toàn lực quốc gia (Bình
Xuyên). Bị xử tử, Tường khuyên bọn đàn em đừng xin ân xá, nhưng ra Côn Đảo, Tường
lại bí mật viết thư cho Ngô Đình Diệm xin ân xá, nói rằng hắn bị Trần Văn Ân lừa
gạt, đẩy qua Bình Xuyên chứ không bao giờ có ý chống lại vị “Tổng thông anh
minh”. Tường còn viết thư cho Ngô Đình Nhu, xin cưới con gái Nhu là Ngô Đình Lệ
Thủy cho con trai minh.
Chuyện vỡ lở, Trần Văn Ân chửi Hồ Hữu Tường là “thằng điên”. Tuy vậy, Ân
và Tường lại câu kết với nhau trong nhiều chuyện khác. Bảy Viễn gửi cho hai triệu
đồng, Ân và Tường chia nhau ăn hết, không cho tụi đàn em đồng nào. Thiếu tá
Bình Xuyên Nguyễn Văn Phước đã đánh Hồ Hữu Tường gãy răng vì chuyện đó. Trung
tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương chửi Hồ Hữu Tường: “Mày hết bán thân cho Nhật,
cho Tây, bây giờ lại rắp tâm bán thân cho Mỹ. Nếu may mắn mà tao được về đời,
tao sẽ viết báo vạch mặt nạ quốc tế xã hội chủ nghĩa của mày”.
Bọn đàn em của chúng cũng xung đột với nhau luôn vì miếng ăn trong tù.
Tranh nhau một con chim sẻ lọt vào trong khám, thiếu tá Bình Xuyên Nguyễn Văn
Hiểu đã đánh lộn với Trịnh Khánh Vàng, Chủ tịch Mặt trận quốc gia cứu quốc. Phó
tỉnh trưởng Tăng Tư lúc đó đã kể trong một hồi ức khi ở trong trại cải tạo của
ta sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng rằng: “Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường, Trịnh
Khánh Vàng, Nguyễn Văn Thành, Jean Pastis Đồng... có thể gọi là những trí thức
của miền Nam mà khi ở tù tranh nhau từng miếng thịt, chửi bới nhau, thưa kiện đến
Tỉnh trưởng xét xử”.
Nhóm “chính khách salon” và sĩ quan quân đội ngụy tham gia vụ đảo chính
11-11-1960 bị đày ra Côn Đảo giữa năm 1962 có phần “dễ thở” hơn. Phan Khắc Sửu
xin ra nuôi vịt ở Hồ Sen. Phan Quang Đán xin ra làm phụ tá ở bệnh xá Côn Đảo.
Lúc ra toà, Đán khóc hu hu. Bị đày ra Côn Đảo, Đán viết thư nhờ Phó Tỉnh trưởng
Tăng Tư chuyển cho Ngô Đình Diệm, lời lẽ thông thiết xin ân xá, hứa từ giã hoạt
động chính trị, trở về làm bác sĩ, không tham gia phe phái nào hết. Nói vậy
nhưng lúc Ngô Đình Diệm đổ, được ân xá về, Đán nhảy ngay vào Quốc vụ Khanh, leo
lên đến Phó Thủ tướng cùa Nội các Trần Thiện Khiêm.
Phan Trọng Chinh, Thiếu tá quân đội ngụy, tham gia Ban cải huấn, thực hiện
chính sách tố cộng trong tù. Trước đó, Jean Pastis Đồng (Nguyễn Văn Đồng), một
“học giả” quốc tịch Tây đã tham gia Ban tố cộng của nhà tù từ năm 1957. Cũng
như Jean Pastis Đồng, Phan Trọng Chinh không thuộc loại “tố cộng” có bài bản,
chống cộng có lý tưởng và cũng hoàn toàn không vì phụng sự chủ nghĩa “quốc
gia”.
Bọn họ chỉ muốn có được những ngày yên thân trong tù, chờ cơ hội và thời
thế trở về với những mưu toan danh vọng. Có lần, vào “cải huấn” năm Anh chống
ly khai kiên cường ở Chuồng Cọp, Phan Trọng Chinh đã ngả mũ kính chào. Hắn nói
rằng thật sự kính cẩn nghiêng mình trước Năm vị anh hùng dân tộc, mặc dù hắn
không cùng lý tưởng. Nếu được làm thủ tướng, hắn sẽ xây nhà lầu cho năm Anh ở.
Không ai tin lời hắn. Khi trở về làm tư lệnh sư đoàn 25, Phan Trọng
Chinh đã đổi biết bao xác lính của hắn và tính mạng dân thường để được thăng
hàm trung tướng.
Jean Pastis Đồng có được ít chữ nghĩa, tham gia soạn thảo tài liệu tố cộng.
Trong tài liệu, Đồng có ý đề cao chủ nghĩa “quốc gia” nhưng thực bụng không phục.
Có một loại “quốc gia” kiểu Ngô Đình Diệm đã đàn áp bỏ tù hắn và đồng bọn. Có
loại “quốc gia” kiểu Bình Xuyên - Cao Đài - Hòa Hảo liên minh mà hắn đi theo đã
tan rã hẳn. Vào tù, chúng nhụt hết ý chí, mỗi tên mưu toan một chuyện và xâu xé
nhau từng miếng ăn trong tù.
Trong một đoạn hồi ký, Jean Pastis Đồng đã hé ra nỗi thất vọng về những
kẻ mang màu sắc “quốc gia” giả hiệu ấy: “Một đặc tính của khá đông người quốc
gia trí thức là thâm nhiễm tận xương tận tủy cả nhân chủ nghĩa. Tuy đi cùng một
xuồng, dính chung một vụ, bị nhốt chung một khám, mỗi người là một cái thế giới
riêng”.
Sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, cả bọn được ân xá, 'nhường chỗ cho hàng
loạt tướng tá thân cận, tay chân trung thành của Ngô Đình Diệm vừa bị bắt,
trong đó có đại tá Nguyễn Văn Y - Tổng giám đốc cảnh sát và công an kiêm Đặc ủy
trưởng Phủ đặc ủy Trung ương tình báo; Trần Kim Tuyến - Giám đốc Sở nghiên cứu
chính trị xã hội; Trần Văn Tư - Giám đốc cảnh sát đô thành; Dương Văn Hiếu -
trùm mật vụ miền Trung; Nguyễn Tư Thái (Thái Đen) mật vụ, phụ tá của Hiếu; Nguyễn
Văn Thái (Thái Trắng) mật vụ, phụ tá của Trần Kim Tuyến; Nguyễn Văn Đông - Tỉnh
trưởng Quảng Trị; Ngô Trọng Hiếu - Bộ trưởng Bộ Công dân vụ...
Những ngày ở tù, bọn này chỉ viết đơn kêu oan, xin ân xá, và đổ tội cho
nhau. Cuối cùng, tất cả đều đổ tội cho ba tên đầu sỏ Ngô Đình Diệm, Ngô Đình
Nhu và Ngô Đình Cẩn. Khi được trả tự do, hầu hết bị thất sủng và tiêu tan ý chí
chống cộng, vài tên được tái tuyển với mức độ tin tưởng hạn chế, trong đó có
Nguyễn Tư Thái làm nhân viên Ban U (phản tình báo) thuộc Phủ đặc ủy Trung ương
tình báo. Thái được cử ra Côn Đảo với một kế hoạch hậu chiến, mà đôi tượng là
tù chính trị những năm sau này.
Tù chính trị “quốc gia”, quân phạm
chính tri, quân phạm thường án, và thường phạm bao giờ cũng là đối tượng được sử
dụng vào mục đích “dùng tù trị tù”, để khống chế tù chính trị. Một số tên đã mất
hết nhấn tính, trở thành tay sai đắc lực cho bọn thống trị. Cũng có tên nhận ra
thân phận, và cảm phục nhân cách của tù chính trị cộng sản mà nương nhẹ tay với
người cùng cảnh ngộ.
Đặc trưng cơ bản của thời kỳ 1955-1963 là cuộc đấu tranh của tù chính trị
chống ly khai Đảng cộng sản và chống các thủ đoạn tố cộng rất cực đoan của
chính quyền Ngô Đình Diệm. Lực lượng tham gia cuộc đấu tranh này là gần 4000 tù
chính trị câu lưu. Họ là những cán bộ kháng chiến, được bố trí ở lại trong các
cương vị chủ chốt từ cấp Xứ ủy, Khu ủy, Tỉnh ủy, Huyện ủy đến cơ sở, tại các tỉnh
phía Nam vĩ tuyến 17, được xếp vào loại phần tử “nguy hiểm nhất”, “ngoan cố nhất”,
được thanh lọc từ các nhà tù miền Nam, đày ra Côn Đảo.
Thời Ngô Đình Diệm, ngoài các khoản viện trợ nuôi dưỡng bộ máy cai trị,
cố vấn Mỹ chưa can thiệp vào công việc quản trị tù nhân. Tập đoàn độc tài Ngô
Đình Diệm đã tiến hành kiểu chống cộng rất cực đoan, sâu độc và tàn bạo. Chúng
đánh vào tận gốc tư tưởng chính trị của người tù, bằng cách cưỡng bức họ ly
khai Đảng cộng sản; đánh vào tận cùng nhân cách, biến người tù thành kẻ phản bội;
đánh vào tận đáy sâu tâm hồn bằng cách bắt từng người phải hô khẩu hiệu “đả đảo
Hồ Chí Minh”, xúc phạm lòng ngưỡng mộ thiêng liêng nhất của một dân tộc. Chính
vì thế mà cuộc đấu tranh chống ly khai Đảng cộng sản, chống các thủ đoạn tố cộng,
diệt cộng đã diễn ra rất quyết liệt dưới nhiều hình thức, lôi cuốn đông đảo cán
bộ đảng viên và quần chúng tù nhân tham gia.
Thân thể ai cũng bằng xương bằng thịt, đòn roi đánh vào đều đau. Tư tưởng
con người không phải là sắt đá, không thể không trăn trở trước sự sống và cái
chết, trước bạo lực khủng bố, truy bức, trước cạm bẫy, nanh vuốt kẻ thù. Sự tan
vỡ của Trại I - Trại cộng sản trong chiến dịch chuyển hướng (4-1960) là một tổn
thất lớn cho lực lượng chống ly khai.
Vào thời điểm mà áp lực khủng bô vượt quá sức chịu đựng của số đông
trong tập thể chiến đấu thì những chiến sĩ kiên cường nhất đã tự nguyện nhận lấy
sứ mệnh lịch sử. 59 người thà chết không ly khai, đã tiếp tục cuộc chiến đấu tại
chuồng cọp Côn Đảo, cho đến khi còn lại Năm Anh toàn thắng. Hàng chục người
trong đó đã hi sinh vô cùng anh dũng, tỏa sáng Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt
Nam.
Noi gương các anh, những người từng vấp ngã đã nhận ra sự yếu hèn, cầu
an của mình, sát cánh vươn lên kiến tạo lập trường khí tiết. Nhiều người bền bỉ
tranh đấu, chịu phạt, chịu đòn để “chia lửa” với những ngọn cờ chống ly khai ở
chuồng cọp.
Kế từ cuối năm 1960 trở đi, mặt trận đấu tranh trong tù đã thật sự hình
thành. Đứng trên tuyến đầu của cuộc chiến đấu chống ly khai, không khuất phục
trước bạo tàn là phẩm chất cao quý của những người cộng sản kiên cường, song
duy trì được cuộc chiến đâu cho đến khi còn năm Anh toàn thắng là vai trò đoàn
kết chiến đấu của mặt trận tù nhân, đặc biệt là cách tổ chức khéo léo của tập
thể, sự nuôi dưỡng, bảo vệ của một số người được cài vào hàng ngũ trật tự trước
đó.
Từ giữa năm 1961, chính quyền Ngô Đình Diệm đã xét nhiều đợt trả tự do
cho tù chính trị câu lưu. Khâm phục cuộc đấu tranh anh dũng của tù chính trị
câu lưu, lực lượng tù án chính trị đã vươn lên chống chào cờ ngụy.
Từ khi tù chính trị câu lưu đã xác lập vững chắc vị
trí chính trị bảo vệ khí tiết sau cuộc đảo chính tháng 11 năm 1963 ở Sài Gòn
thì phong trào chống chào cờ của tù án chính trị từng bước nổi lên như một nội
dung cơ bản của cuộc đấu tranh chính trị trong nhà tù Côn Đảo thời kỳ sau Ngô
Đình Diệm.
1. Các thành viên trong
tổ chức “Đảo ủy” và Liên đoàn tù nhân đã tự kiểm điểm và thống nhất với nhau 2
điểm: một là giải thế hai tổ chức này; hai là tất cả những thành viên trong hai
tổ chức này, từ nay về sau tuyệt đối không được tham gia các tổ chức của tù
chính trị với tư cách là người lãnh đạo, chỉ được tham gia với tư cách một chiến
đấu viên.
Mỹ - ngụy điều chỉnh chế độ cải huấn, mở rộng nhà tù
Cùng với sự gia tăng qui mô của cuộc chiến tranh, nhà tù Côn Đảo cũng được
mở rộng từ 4 trại giam thành 3 trại. Nhân số nhà tù trung bình 4.000 tăng dần
lên 8.000, có thời điểm đã vượt qua con số 10.000. Tỷ lệ tù án và nữ tù bị đày
ra đảo tăng nhiều lần so với thời gian trước.
Ngụy quyền Sài Gòn đưa những tên sĩ quan đã được huấn luyện các chương
trình: quản trị nhà tù, tình báo chiến lược, tâm lý cải huấn ở Mỹ, Anh, Đài
Loan về làm chúa đảo. Bọn cố vấn Mỹ có mặt thường xuyên và can thiệp ngày càng
cao vào việc quản trị nhà tù.
Hai năm 1964-1965, các phe phái ngụy quân, ngụy quyền ra sức tranh giành
quyền lực. Thiếu tá Tăng Tư thay Nguyễn Văn Sáu làm Tỉnh trưởng (3-6-1964) được
tròn một năm rồi mất chức. Thiếu tá Nguyễn Thế Tỵ Phó Tỉnh trưởng Nội an tạm
quyền 3 tháng, sau đó trung tá Nguyễn Phát Đạt (tự Phan Thuận Cảnh) ra nhận chức
vào 1- 9-1965. Ba tháng sau, thiếu tá Nguyễn Văn Vệ, một tên khét tiếng trong
,nghề cai ngục được điều ra Côn Đảo (22-11-1965). Nguyễn Văn Vệ bắt đầu một thời
kỳ cai trị đẫm máu tại Côn Đảo, với sự can thiệp ngày càng sâu của cố vấn Mỹ và
sự gia tăng của viện trợ Mỹ.
Nguyễn Văn Vệ sinh ngày 12-7-1922 tại Sài Gòn, làm thư ký thông ngôn cho
Sở công an Nam Việt từ năm 1942, leo lên chức Trưởng ty công an Châu Đốc
(1952), rồi Trưởng ty công an Bạc Liêu. Từ năm 1954, Nguyễn Văn Vệ đứng hẳn về
phái thân Mỹ, theo Mai Hữu Xuân, nguyên Tổng giám đốc công an gia nhập ngành an
ninh quân đội. Bắt đầu từ đó Vệ trở thành một tên tay sai trung thành của chế độ
Mỹ - ngụy. Nguyễn Văn Vệ được bổ nhiệm làm tiểu đoàn phó tiểu đoàn 530 an ninh
quân đội.
Tháng 4 năm 1956, tù quân phạm ở khám Chí Hòa bạo loạn, đòi toà án quân
sự tha bổng tội trạng của chúng. Tiểu đoàn 530 của Vệ được điều đến đàn áp. Sau
cuộc dẹp loạn, Nguyễn Văn Vệ được tuyên dương công trạng, đặc cách thăng cấp đại
úy trừ bị (1-6-1956) và nhận chức Quản đốc Khám đường Chí Hòa, chuyển hẳn sang
ngạch quản ngục. Tháng 3 năm 1965, Vệ được cấp học bổng của chương trình
Côlômbô, tu nghiệp ở Anh quốc về quản trị khám đường. Mãn khoá, Vệ về nước và
được điều ra Côn Đảo tháng 11 năm 1965.
Trong ký ức của hàng ngàn tù nhân, Nguyễn Văn Vệ là “con hùm xám” là
“siêu đẳng” trong nghề trị tù. Vệ từng ngự trị 9 năm, 2 nhiệm kỳ tại Côn Đảo.
Nguyễn Văn Lâm, người tù thường phạm mang 3 bản án về các tội trộm cướp, tàng
trữ vũ khí, giết người, phá rối trị an, sau nhiều năm ở tù đã nhận xét: “Là một
chuyên gia về quản trị và đàn áp tù, Vệ đi tới đâu là nơi đó phải được bình định.
Phong trào đấu tranh của tù chính trị có lúc trồi lên, trụt xuống, chính mắt
tôi đã mục kích những lần Vệ chỉ huy đàn áp, trước hết bế môn tỏa cảng rồi lựu
dạn cay, phi tiễn bắn vào, sau khi nằm la liệt, hàng trăm tù (trật tự) ác ôn,
dùng dùi cui ma trắc đánh đập man rợ. Một màng lưới tổ chức tình báo thật là
tinh vi, biết đặt người làm và nằm trong hàng ngủ đấu tranh của anh em (tù)
chính trị, biết trước được mọi kế hoạch, những dự định của anh em bị phá hỏng,
tài liệu báo chỉ, đài, phương tiện truyền thanh bị tịch thu. Những lần đó tù
chính trị hết sức khốn khổ. Đầu não đấu tranh bị tan rã (bị) trấn áp, khủng bố,
đánh đập dã man dưới bàn tay sắt của Nguyễn Vãn Vệ. Phải nói rằng Vệ là siêu đẳng.
Có những người cộng tác cho Vệ mà chính tôi củng không ngờ được, những người mà
đôi lần tiếp xúc, tôi đã quý mến họ và anh em (tù) chính trị đã tin tưởng họ”.
Lời cáo giác mộc mạc của người tù thường phạm mang án cướp của giết người
về Nguyễn Văn Vệ là hoàn toàn chính xác. Vệ thiết lập chế độ kỷ luật nghiệt ngã
nhất ở chuồng cọp Côn Đảo với những cây còng Mỹ siết chặt vào cố chân người tù,
làm cho hàng trăm người teo cơ, bại liệt và vĩnh viễn không thể đứng lên bằng
đôi chân được nữa. Sào nhọn bịt đồng, vôi bột, gậy gộc và đạo quân trật tự an
ninh do Vệ tổ chức đã gây nên những tội ác man rợ mà vụ “chuồng cọp Côn Đảo”
tai tiếng năm 1970 đã làm chấn động lương tri loài người.
Sự tàn bạo và thâm hiểm của Nguyễn Văn Vệ điển hình cho một lớp tay sai
được Mỹ đào tạo, huấn luyện. Bọn cô vấn Mỹ đặt hy vọng vào Nguyễn Văn Vệ, thường
xuyên vào dinh bàn bạc với Vệ, phê chuẩn các chương trình mở rộng nhà tù,
chương trình cải huấn và tâm lý chiến mà Vệ đề xuất.
Phái đoàn cố vấn dân sự Hoa Kì sau nhiều đợt khảo sát đã đề nghị chính
phủ Mỹ sử dụng ngân sách của MACCORD (chương trình viện trợ quân sự và kinh tế
của Mỹ ở Việt Nam) để xây dựng hệ thống trại giam kiểu mẫu tại Côn Đảo. Các
chuyên gia về xây cất nhà tù của Mỹ đã ra Côn Đảo nghiên cứu, thiết kế một hệ
thống nhà tù quy mô gồm Trại VI, Trại VII, Trại VIII, Trại IX, Trại X trên một
diện tích gần 100 hécta phía đông bắc thị trấn Côn Đảo. Hãng RMK-BRJ, một trong
ba hãng thầu xây dựng lớn nhất nước Mỹ đã trúng thầu và gấp rút xây dựng hệ thống
trại giam này.
Cố vấn Mỹ giám sát chặt chẽ các hoạt động của nhà tù. Trong giai đoạn
này, ở Côn Đảo thường xuyên có mặt 5 cố vấn dân sự và 7 cố vấn quân sự. Đoàn cố
vấn dân sự do tên John cầm đầu, sau đó là tên Simond và tên Huff. Chúng núp dưới
danh nghĩa là phối trí viên của AID (cơ quan viện trợ phát triển kinh tế) nhưng
thực chất cả năm tên đều là nhân viên CIA đã nhiều năm hoạt động ở Triều Tiên,
Đài Loan, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam.
Tên trưởng đoàn cố vấn Mỹ hàng ngày đến làm việc tại dinh chúa đảo, đọc
duyệt tất cả phiếu trình, công điện đến và đi, phê duyệt các chương trình phòng
thủ, an ninh, cải huấn, các dự trù về trang bị, vũ khí, ngân sách. Bốn tên cô vấn
còn lại chia nhau theo dõi từng mặt công tác như: tình hình an ninh, lao động
khổ sai, chế độ dinh dưỡng và một tên chuyên theo tàu đánh cá. Chiếc tàu trên
danh nghĩa dùng vào việc đánh cá, cung cấp thực phẩm tươi cho nhà tù, nhưng thực
chất là kiểm soát an ninh, phát hiện những con tàu vận chuyển vũ khí của ta từ
miền Bắc vào chi viện cho chiến trường Nam Bộ.
Bọn cố vấn Mỹ được sự cộng tác đắc lực của chúa đảo Nguyễn Văn Vệ đã xây
dựng một chương trình “tâm lí chiến” ở nhà tù này.
Tù chính trị câu lưu tuyệt thực 23 ngày
Từ đầu năm 1964, phong trào đấu tranh của tù chính trị câu lưu phát triển
mạnh mẽ. Bản phúc trình về tình hình các can cứu chính trị thuộc Trung tâm cải
huấn Côn Sơn từ ngày 1-11-1963 đến 23-6-1964 đầy ắp các cuộc đấu tranh chống đối.
Sau đây là một số cuộc đấu tranh lớn được ghi trong phúc trình nói trên, do thiếu
tá Tỉnh trương Tăng Tư lập ngày 23-6-1964:
“...Ngày 5.2.1964, có 123 can cứu mới đến Trung tâm. Bọn này cuồng tín,
ngoan cố chống chào cờ, chống sinh hoạt học tập chính trị. Chúng tuyên bố qua
các Trung tâm Phú Lợi, Tân Hiệp, Thanh Tân, Quảng Trị, Đà Nẵng, nơi nào cũng giữ
lập trường không thay đổi. Ban Quản đốc giam 123 tên vào phòng 5 và phòng 7”.
“..Ngày 1.4.1964, 25 can cứu giam tại khu kỷ luật tuyệt thực đòi tháo
còng chân. Cùng trong ngày, 100 can cứu biệt lập tại các Trung tâm giải hồi về
Trung tâm 1, biệt giam tại phòng 4, chúng vẫn ngoan cố chống chào cờ”.
"... Trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 6, chúng luôn luôn yêu
sách, chê mắm sặc và khô mục, đòi hỏi mỗi tuần có 5 ngày thịt heo, rau tươi và
cho chúng ra ngoài sinh hoạt cải thiện đời sống nhưng Ban Quản đốc không chấp
thuận vì chúng không tôn trọng Quốc kì và không tuân theo nội quy Trung tâm”.
“...Do những yêu sách quá trớn, Ban Quản đốc không giải quyết nên chiều
6.6.1964, can cứu phòng 5 (46 can cứu), chủ trương tuyệt thực. Sáng ngày
7-6-1964 đến lượt phòng 7 (65 can cứu). Chiều 7-6- 1964 đến phòng 8 (23 can cứu).
Sáng 8-6-1964 đến phòng 4 (68 can cứu). Tổng sô can cứu tuyệt thực là 202 tên với
yêu sách:
1.
Giải tỏa tình
trạng hiệt giam.
2.
Tự do liên lạc
thư từ với gia đình.
3.
Được mua vật dụng
tại hợp tác xã.
4.
Mỗi tuần được
ăn 5 ngày thịt heo và rau tươi.
5.
Được tự do
liên lạc từ phòng này sang phòng khác.
6.
Cấp thuốc chữa
bệnh và thuốc bổ.
7.
Cho sản xuất
sinh hoạt (cải thiện) thêm.
8.
Không ăn khô mục
và mắm đắng.
9.
Cho nấu ăn tại
Trung tâm như trước.
10.
Mở cửa sổ các
phòng cho thoảng khí.
12.
Cho ăn ngày ha
bừa đầy đủ.
“12 điểm yêu sách của chúng đã được thiếu tá Tỉnh trưởng chấp nhận với
điều kiện là chúng phải chào cờ và tôn trọng nội quy Trung tâm. Chúng không chịu,
tuyển bố đấu tranh đến khi nào giải quyết mới thôi”.
Ban phúc trình của Tăng Tư phản ánh khá sát đúng với những nét lớn trong
phong trào đấu tranh của tù chính trị câu lưu lúc đó. Cuộc tuyệt thực đã được tập
thể tù chính trị câu lưu các phòng thảo luận và chuẩn bị rất kĩ từ một tháng
trước đó. Giàu thủ đoạn cai trị, Tăng Tư biết cuộc tranh đấu tuyệt thực và tuyệt
ẩm không thể kéo dài. Sáng 10-6-1964, hắn cho Giám thị trưởng xuống Trại IV,
thông báo sẽ giải quyết 12 yêu sách, với điều kiện phải chào cờ và chấp hành nội
quy. Đương nhiên là tù chính trị không thể chấp nhận.
Ngày 12-6-1964, Tăng Tư cho Trưởng trại đi các phòng tuyên bô: ai xin ra
chúng sẽ cho ra, ai không ra chết bỏ, nhà tù đã chuẩn bị sẵn huyệt chôn. 202 tù
chính trị kiệt sức, nằm chờ chết, cơn khát hoành hành.
Ngày 14-6-1964, anh Nguyễn Văn Nghĩa (tự Việt Thắng), sinh năm 1915 tại
Hà Nội hấp hối. Anh từ chối nhận phần nước cấp cứu, nhường lại cho đồng đội và
trăn trôi: “Cuộc đấu tranh còn gay go, kẻ thù còn ngoan cố, thế nào cũng phải
có người hy sinh, tôi đi trước, dành phần nước này để các đồng chí tiếp tục đấu
tranh...Chúc thắng lợi!"
Anh trút hơi thớ cuối cùng vào lúc 17 giờ 30, trần truồng, da thịt quắt
lại, mắt không nhắm hết, làn môi khô nứt nẻ. Toàn trại nằm ngay ngắn truy điệu
anh, nung nấu căm thù, quyết tâm chiến đấu.
Nội bộ tù nhân có sự dao động, phân hóa, một số người bỏ cuộc, xin ra.
Ngày 16-6-1964, anh Đoàn Khôi sinh năm 1924 tại Quảng Nam đã hy sinh lúc 9 giờ
tại phòng 7.
Chiều 16-6-1964, Tăng Tư thảo ,công văn số 038- CS/NA/AN/M thản nhiên
báo về Bộ Nội vụ cái chết của anh Nguyễn Văn Nghĩa và anh Đoàn Khôi, về chủ
trương đôi phó với cuộc tuyệt thực, Tăng Tư đã lộ rõ ý đồ sát nhân: “Đối với việc
tuyệt thực để đòi hỏi những yêu sách ngoan cố của chúng như miễn chào cờ, miễn
học tập, miễn công tác, tăng thực phẩm tươi, v.v... Thiểm tỉnh phải tỏ thái độ
cứng rắn với các y can, vẫn cho giam biệt lập bọn đầu sỏ chủ mưu và tìm cách hủy
diệt không khí đấu tranh của chúng”.
Mới trong tháng đầu nhận chức Tỉnh trưởng, Tăng Tư đã nhuốm đẫm máu tù
nhân. Ngày 18-6-1964, anh Bùi Dự sinh năm 1924 chết tại phòng 7, lúc 5 giờ.
Ngày hôm sau, Lê Kinh Đức (Lê Tự Kình), sinh năm 1916 tại Quảng Nam, chết lúc
10 giờ. Khi biết sự sống chỉ còn trong giây phút, anh đã từ chối nhận phần nước
và phần thuốc cấp cứu, lết ra cửa, lớn tiếng chửi rủa bọn chúa ngục, tố cáo chế
độ tàn bạo giết tù của Tăng Tư. Cho đến lúc chết, đôi mắt anh vẫn mở trừng trừng,
rực lửa.
Vài chục tù nhân còn trụ lại mặc niệm anh, mặc niệm cả 4 người đã ngã xuống.
Đêm ấy trời đổ mưa tầm tã. Nước mưa theo kẽ ngói dột ướt tường. Tù nhân bò dậy
thè lưỡi liếm lên vách, rồi công kênh nhau chọc thủng mái ngói, hứng nước mưa uống
cho đỡ khát rồi hứng đầy các lon gigô để dành cấp cứu cho các anh em đang kiệt
sức. Nhưng nước dự trữ cũng chẳng đáng là bao. Tăng Tư đã buộc họ vào tình thế
hoặc là chết, hoặc là phải khuất phục.
Những ngày sau đó, họ phải dùng nước trong thùng cầu, do kíp đổ thùng đã
đổ vào vài gáo. Nước hôi mùi phân, nhưng cứu sông được mạng người.
Ngày 28-6-1964, đúng 23 ngày tuyệt thực, tuyệt ẩm, 4 người đã hy sinh,
Tăng Tư mới tuyên bố chấp nhận yêu sách. 62 người quyết tử trụ lại khi ấy chỉ
còn thoi thóp thở. Các anh được đưa ra bệnh xá dùng thuốc trợ lực và húp nước
cháo loãng. Đây là cuộc tuyệt thực, tuyệt ẩm dài ngày nhất, hy sinh nhiều nhất,
nhưng giành thắng lợi to lớn. Thắng lợi của cuộc tuyệt thực đã đưa lực lượng tù
chính trị câu lưu lên vị trí bảo vệ khí tiết, chống chào cờ, chống toàn bộ nội
quy nhà tù.
Ngụy quyền phải thừa nhận vị trí
chính trị của tù chính trị câu lưu, công nhận họ là người của Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam, không truy bức về chính trị mà chỉ cốt giam giữ họ
trong vòng kỉ luật. Chúng gọi 500 tù chính trị còn lại lúc này là “bọn Trại I”
với ý nghĩa là Trại cộng sản, Trại chống đối thời 1957- 1960. Chúng chính thức
đổi tên Trại IV thành Trại I và lần lượt đối Trại I cũ (đang giam tù án) thành
Trại II, Trại II cũ thành Trại III, Trại III cũ thành Trại IV.
Bốn năm tranh đấu ở chuồng cọp
Vào thời điểm mà tù chính trị câu lưu Côn Đảo nổ ra cuộc tuyệt thực 23
ngày (6-1964) thì ở nhà lao Chí Hòa, cuộc đấu tranh chống chào cờ ngụy của lực
lượng tù chính trị cũng diễn ra quyết liệt. Ngụy quyền Sài Gòn tiếp tục phân loại,
thanh lọc số chống đối, đày ra Côn Đảo.
Chuyến lưu đày ngày 2-9-1964 đến Côn Đảo có hơn 30 người chống chào cờ,
trong đó có Võ Ái Dân, Lâm Hiệp Nghĩa. Họ bị đưa xuống chuồng cọp, biệt giam
cùng với tù câu lưu sau những trận khủng bố bằng củi đòn ở Trại IV.
Từ đầu năm 1965, ngụy quyền tiếp tục đày tù chính trị không án (câu lưu
dân sự) và tù câu lưu quân sự (tức tù binh) ra Côn Đảo. Tù binh bị đưa về Trại
V. Khi ấy ngụy quyền Sài Gòn còn chưa lập các trại tù binh Hố Nai, Phú Quốc.
Chuyến lưu đày ngày 18-1-1965 ra đảo, trong số 37 người về Trại I, có 5 tù binh
và 7 tù chính trị chống chào cờ bị cấm cố tại chuồng cọp.
Chuyến lưu đày ngày 25-6-1965, có 37 tù câu lưu dân sự và 25 tù câu lưu
quân sự bị đưa về Trại I. Tên công an biệt phái Vũ Thung chỉ huy trận đàn áp 25
tù bằng củi đòn, không ai không đổ máu. Ba ngày sau, chỉ còn bốn người kiên định
con đường chống chào cờ ngụy, được kết tập vào đội ngũ câu lưu dân sự. Ba người
giữ được khí tiết cho đến ngày toàn thắng là Lê Mạnh Tiến, Trần Văn Đức và Trần
Văn Thượng.
Cuối năm 1966, toàn bộ tù binh đều vươn lên chống chào cờ, chống làm khổ
sai, không đeo thẻ bài, không chào sĩ quan ngụy. Sau nhiều cuộc đấu tranh, địch
chấp nhận vị trí chính trị của tù binh, không cưỡng bức họ về khí tiết. Tháng
8-1968, địch chuyển tất cả về Trại tù binh Hố Nai (Biên Hòa).
Lê Mạnh Tiến từ khi ở nhà lao Chí Hòa đã được học Chỉ thị bảo vệ khí tiết,
Tám kinh nghiệm chiến đấu của năm Anh. Tiến sử dụng moọc gõ qua tường thông tin
cho các bạn tù ở chuồng bên.
Theo một nguồn tin mật báo, Ban An ninh Trung tâm Cải huấn I đã trình
Ban Quản đốc rằng, tù nhân Trại I định kì liên lạc bằng moọc với nhau vào thời
điểm sau bữa ăn trưa và sau bữa ăn chiều. Khi có chuyện đột xuất, họ có thể
liên lạc vào giờ bất kỳ trừ buổi tối. Nguồn tin mật báo cho biết, từ chuồng 55,
Lê Mạnh Tiến dùng moọc truyền qua chuồng 49 Tám kinh nghiệm chiến đấu của năm
Anh. Lê Mạnh Tiến cùng Trần Văn Hương, Lê Văn Đức học toán và Pháp văn, sau đó
Nguyễn Tấn Hiệp và Võ Ái Dân đến, phổ biến tài liệu Tri thức cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin.
Một bản báo cáo khác của Ban an ninh trung tâm cải huấn I cho biết, năm
1965 tại chuồng 26, nhóm tù nhân lao phổi nặng gồm Phan Công Phú, Lê Quyết Chiến,
Hồ Thạnh đã tổ chức kiểm điểm kế hoạch đấu tranh và học lý luận Duy vật lịch sử.
Phan Công Phú thuyết trình bài Lao động sáng tạo ra lịch sử xã hội loài người.
Những tù nhân này bệnh nặng, sức yếu, nằm học, lúc nào mệt quá, đau ngực, khó
thở thì nghỉ. Bản báo cáo đã dẫn cho biết chương trình Tri thức cơ bản của Chủ
nghĩa Mác-Lênin phần Duy vật Biện chứng có các bài:
Bài 1: Vật chất và ý thức.
Bài 2: Mối liên hệ phổ
biến - Vận động và phát triển.
Bài 3: Quy luật mâu thuẫn.
Bài 4: Qui luật lượng biến
- chất biến.
Bài 5: Quy luật phủ định
của phủ định.
Bài 6: Các cặp phạm trù.
Bài 7; Thực tiễn luận.
Phần Chủ nghĩa Duy vật lịch
sử có các bài:
Bài 1: Sản xuất và
phương thức sản xuất.
Bài 2: Giai cấp và đấu
tranh giai cấp.
Bài 3: Từ Công xã nguyên
thủy đến xã hội phong kiến.
Bài 4: Xã hội Tư bản.
Bài 5: Xã hội Xã hội Chủ
nghĩa.
Bài 6: Tồn tại xã hội và
ý thức xã hội.
Bài 7: Hạ tầng cơ sở và
Thượng tầng kiến trúc.
Bài 8: Vai trò của quần
chúng và cá nhân trong lịch sử.
Bài 9: Cách mạng và
chính quyền.
Bài 10: Chiến tranh và
quân đội”..
Chương trình huấn luyện Tri thức cơ bản của Chủ nghĩa Mác- Lênin do anh
Trần Ngọc Tự, cán bộ quân báo, nguyên là giảng viên chính trị Trường Sĩ quan Lục
quân bị đày ra đảo truyền bá trong từng chuồng cọp, từng nhóm tù rồi lan rộng ảnh
hướng đến toàn Trại I, Trại IV, chuồng cọp của lực lượng tù chính trị câu lưu.
Nhiều cặp phạm trù như: bản chất - hiện tượng, nội dung - hình thức, khả năng -
hiện thực, nguyên nhân - kết quả, phổ biến - đặc thù, đã được tù chính trị vận
dụng nhuần nhuyễn vào việc tổ chức và tranh đấu trong tù.
Bộ phận đường dây Côn Đảo từ khi liên lạc được với Trung ương Cục đều
tìm cách gửi tin tức vào Trại I và Chuồng Cọp. Bản báo cáo số 1655/CS/CSĐB/M
ngày 22-10-1965 về vụ "Bức thư của Ban chấp hành Đảng bộ miền Nam gửi các
đồng chí trong nhà lao" cho biết can cứu Nguyễn Nhơn, thuộc Trại I, làm khổ
sai tại Ban Kiến thiết, Ty công chánh đã liên lạc với can phạm Lê Văn Quý (tù
án) tại rẫy Sở Lưới, nhận tiền và tin tức vào Trại I, từ tháng 6-1965. Nhơn đã
nhận hai lần, tổng số 900 đồng và nhiều loại thuốc bổ, thuốc bệnh. Tháng
7-1965, Nhơn bàn giao đầu mối liên lạc này cho Đình Phú Nhàn. Nhàn nhận được từ
Quý các tin tức và vật dụng sau:
-
Gạo ở Sài Gòn
tăng giá 12 đồng/ 1 kg
-
Quân giải
phóng đánh lớn trên đường Sài Gòn-Vũng Tàu
-
Quốc lộ 19 bị
quân giải phóng uy hiếp
-
Đường giao
thông các tỉnh bị gián đoạn
Ngày 29-9-1965, Nhàn nhận từ Quý bức thư của Trung ương Cục. Thư viết bằng
mực nguyên tử trên giây trắng, nét chữ đứng, đầu đề là Ban Chấp hành Đảng bộ miền
Nam gửi các đồng chí trong nhà lao. Nội dung bức thư khoảng 1.000 từ, phân tích
âm mưu thủ đoạn của Mỹ - ngụy, thắng lợi to lớn của quân và dân ta trên chiến
trường, khẳng định cuộc đấu tranh trong tù là một bộ phận khăng khít của cuộc đấu
tranh giải phóng miền Nam, thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Nhàn đem bức thư về phòng 2, ngày hôm sau chuyển cho Trương Lịch ở phòng
3, Lịch xem xong chuyển đến Lương Văn Hóa ở phòng 4. Buổi tối, bức thư được
chuyển lại cho Đinh Phú Nhàn và Trần Tiếp. Nhàn giao cho Trần Thọ chuyển qua
phòng 5 thì bại lộ.
Vụ lộ bức thư của Trung ương Cục, địch bắt giam 22 can cứu tại Trại I. Mối
nguy cơ lớn nhất lúc ấy là có thể địch sẽ phanh phui ra đường dây liên lạc từ
Côn Đảo về Trung ương Cục. Bộ phận đường dây Côn Đảo theo dõi sát tình hình, và
bố trí Lê Văn Quý (đầu mối liên lạc về T rại I) vượt ngục đúng vào đêm anh bị
khai báo.
Sau hơn một tháng lẩn trốn tại một căn hầm bí mật trong rẫy, Quí cùng
ông già Kim lội sang Hòn Tre, đóng bè vượt đảo. Cuộc vượt ngục trong tình thế
khẩn cấp, đầy yếu tố bất ngờ và thành công của Lê Văn Quý đã chặn đứng được tổn
thất, bảo vệ an toàn đường dây liên lạc giữa Côn Đảo với Trung ương Cục.
Tháng 3-1965, thiếu tá Nguyễn Văn Vệ cho chuyển 230 tù nhân ở chuồng cọp
về Trại IV làm củi. Bộ phận trách nhiệm của tù chính trị câu lưu thảo luận, chấp
nhận lao động khổ sai vừa mức để giải tỏa cấm cố, có đại diện công khai để đấu
tranh với địch.
Do nguồn tin mật báo, địch phát hiện tù chính trị câu lưu chuẩn bị tố chức
kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 9-5-1967, chúa đảo Nguyễn Văn
Vệ triệu tập phiên họp bất thường tại văn phòng Ban quản đốc nhằm áp dụng biện
pháp an ninh triệt để, ngăn chặn các cuộc đấu tranh. Nguyễn Văn Vệ ra lệnh phân
tán 150 trong số 230 can cứu Trại IV, biệt giam trở lại chuồng cọp.
7 giờ sáng ngày 10-5-1967, Trưởng ban an ninh Lê Văn Tốt và Trưởng ban
chuyên môn Lê Văn Khương, hai tên ác ôn khét tiếng đưa 300 trật tự an ninh đến
Trại IV thực hiện việc chuyển trại. Cuộc giằng co và hỗn chiến diễn ra trong
hai tiếng đồng hồ. Bọn trật tự dùng hèo mây và củi đòn bửa vào đầu, vào lưng tù
nhân làm hơn 200 người thương tích.
Công điện thượng khẩn số 250/CEB-2-Y của Ty cảnh sát quốc gia Côn Sơn gửi
Nha Tổng giám đốc cảnh sát và công an ngụy lúc 17 giờ ngày 12-5-1967 cho biết,
có 8 can cứu bị trọng thương là: Dương Văn Siêu, Nguyễn Tấn Hiệp, Lê Văn Tâm,
Lâm Tường Bảo, Nguyễn Trọng Khả, Mai Thịnh, Huỳnh Tấn Lợi, Ngô Văn Giao. Do vết
thương quá nặng, Lê Văn Tâm đã chết lúc 9 giờ ngày 12-5-1967 và Lâm Tường Bảo
chết lúc 11 giờ 20 cùng ngày.
Biên bản khám nghiệm tử thi do Ty cảnh sát quốc gia lập lúc 11 giờ cùng
ngày xác nhận: “Lê Văn Tâm tức Lê Thế Lý, tức Ngọc Bửu, đính bài số 2291, sinh
năm 1930 tại Dương Xuân, An Nhơn, Bình Định, con của Lê Thi và Nguyễn Thị Pho bị
gãy 4 xương sườn trái và một vết thương thủng trán rộng một phân bên trái. Lâm
Tường Bảo tức Lâm Quang Sanh, đính bài số 1848, sinh năm 1919 tại Hà Thủy, Bình
Thuận, con của Lâm Thanh và Trịnh Thị Thu bị bầm má phải, chảy máu lỗ tai, bầm
đọng máu dưới da vùng ngực”.
Lê Văn Tâm và Lâm Tường Bảo đều thuộc lớp người kháng chiến cũ, bị ngụy
quyền khủng bố bắt giam từ năm 1956, thời hạn an trí 2 năm và gia hạn 9 lần cho
đến chết.
Cuộc tiến công Tết Mậu Thân (1968) làm rung chuyển tận nền móng của chế
độ Sài Gòn. Ngụy quyền Côn Đảo hoang mang lo sợ, áp dụng các biện pháp an ninh
ngăn ngừa một cuộc tiến công bất ngờ có thể diễn ra tại Côn Đảo. Tất cả tù
chính trị nguy hiểm đang bị giam giữ tại chuồng cọp đều phải tra chân vào còng.
Bình thường, mỗi chuồng chứng giam từ 2 đến 4 người, sau Tết Mậu Thân,
chúng giam từ 8 đến 10 người, có chuồng 12 người. Tất cả phải nằm nghiêng, chồng
chất lên nhau, người trên sân, người dưới bệ, không có chỗ giở mình, thiếu nước
uống, thiếu cả không khí đế thở. Những người nằm dưới sàn phải chịu treo chân
trên còng. Có lúc, bọn gác ngục còng một chân, có lúc chúng còng cả 2 chân rồi
còng tréo giò khiến người tù đau đớn và hết sức khó chịu.
Bọn gác ngục đánh đập tù luôn tay, ốm bệnh chúng không cho thuốc, thậm
chí khi có người hấp hối, anh em la đòi cấp cứu thì chúng chẳng những không cho
thuốc mà còn đàn áp thẳng tay. Trong vòng 10 ngày đầu của chiến dịch khủng bố
sau Mậu Thân, 3 tù chính trị câu lưu đã chết vì đòn roi, bệnh tật và suy kiệt tại
chuồng cọp là Trần Tùy (quê ở Quảng Nam), Ngô Khá (Bến Tre), Nguyễn Quyên
(Khánh Hòa).
Chúa đảo Nguyễn Văn Vệ duy trì chế độ còng tại chuồng cọp cho đến cuối
năm 1968. Chế độ kỷ luật hà khắc, vô thời hạn của Nguyễn Văn Vệ đã làm phân hóa
nội bộ tù nhân. Nhiều người nản chí và hoài nghi mục tiêu đấu tranh. Một số tù
chính trị câu lưu không chịu đựng được đã rời bỏ vị trí chiến đấu, ra đầu hàng
giặc. Theo tài liệu cung cấp của một số tù chính trị lưu tại Phòng lịch sử Đảng
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, vụ đầu hàng và khai báo của 2 tên Lê Tài Tới và Lê Văn
Nghiêm (quê Cà Mau) đã gây nhiều khó khăn cho những người ở chuồng cọp.
Bản Sơ kết tình hình Nhà lao Côn Đảo lưu trữ tại Ban An ninh Trung ương
Cục miền Nam cho biết, có 12 tù chính trị câu lưu đã ra hàng giặc vào cuối năm
1968, trong số đó có Đặng Văn Ní (tự Trần Văn Mi), sinh năm 1924 tại xã Nhơn Vinh,
quận Kiến Bình, tỉnh Kiến Tường đã ra nhập Ban An ninh trực tiếp đàn áp anh em.
Đặng Văn Ní khai báo 38 người lãnh đạo ở các phòng và phương thức liên lạc với
nhau bằng mật mã.
Hồ sơ còn lưu tại A27b Bộ Nội vụ và Hồ sơ của Vụ bảo vệ Đảng Trung ương
cho biết, nhiều tên trong số này đã làm mật báo cho địch ngay sau khi đầu hàng
và cả khi đã ra tù. Nguyễn Trai (tự Hai Tuất), sinh năm 1947 tại Đại Lộc, Quảng
Nam khai báo 30 người trong lực lượng cốt cán ở các phòng và hiến 3 kế sách
quan trọng cho bọn thông trị nhằm chia rẽ, không chế, đánh phá một cách hữu hiệu
lực lượng trung kiên tại chuồng cọp. Nội dung chính trong 3 kế sách của Nguyễn
Trai gồm:
“Một là: Hạn chế sự liên lạc của tù nhân bằng cách cứ 4 chuồng giam để
trống một chuồng nhầm gián đoạn sự liên lạc hằng moọc gõ qua tường, làm cho tù
nhân chỉ liên hệ được trong hộ phận nhỏ mà không thống nhất được ý kiến chung
trong các cuộc tranh đấu. Đồng thời tăng cường trật tự, canh gác cẩn mật, nhất
là khỉ tù nhân được ra ngoài (đi vệ sinh).
Hai là: Hiện có một số tù nhân dao động, muốn xin ra nhưng chưa có cơ hội.
Nếu đem những người này nhốt chung một chuồng, còng giò, cúp rau, cúp tắm, cúp
thuốc men trong vòng 2 tháng là tối đa sẽ có người xin ra (hàng).
Ba là: Quá trình chung sống trong cảnh tù đày, nhiều người có quan điểm
khác nhau, cá tính khác nhau, đụng chạm lâu ngày, tích tụ thành kiến dễ sinh ra
cự lộn, trong sinh hoạt và đấu tranh rất khó thống nhất. Khi đó tâm trạng người
tù trông đợi sự xáo trộn để mỗi người đi một ngả cho yên. Trường hợp này nếu
không xáo trộn sẽ làm tăng mâu thuẫn nội bộ, triệt tiêu đấu tranh trong tù”.
Kế sách 3 điểm của Nguyễn Trai được Trưởng ban an ninh đưa ra phiên họp
ngày 7-10-1968 và được Quản đốc chuẩn y. Ngày hôm sau (8-10), Vũ Thung huy động
lực lượng trật tự thanh lọc 104 trong số 336 chính trị câu lưu tại chuồng cọp I
qua chuồng cọp II.
Chuồng cọp I còn lại 232 can cứu, chúng giam mỗi chuồng bảy người, cứ một
chuồng giam một chuồng để trống. Tại chuồng cọp II, 104 can cứu mới chuyển qua,
cùng 9 can cứu do Ban chuyên môn quản lý được giam 4 người một chuồng, cứ một
chuồng giam, một chuồng trống để ngăn ngừa hệ thông liên lạc bằng moọc. Tất cả
đều bị còng.
Vũ Thung cho thử nghiệm, giam riêng 5 người mà NguyễnTrai chỉ điểm là
đang dao động, còng chéo giò và cúp nước tắm, mới 10 ngày đã có 3 người đầu
hàng. Riêng kế sách thứ 3 của Nguyễn Trai được tên giám thị thượng hạng Lê Văn
Khương, Trướng Ban Chuyên môn áp dụng một cách triệt đế trong những năm sau
này.
Bức xúc trước tổn thất của phong trào do bọn đầu hàng, phản biến gây
nên, cuối năm 1968, anh Tô Văn Sáu (Rạch Giá) đã trấn áp tên phản bội Võ Quang
Hồng (Long An). Những tên đầu hàng, phản biến khác co lại.
Mở đầu cho “thời kỳ sau Ngô Đình Diệm”, nhiều cuộc vượt ngục của tù án
chính trị được ấp ủ và chuẩn bị trước đó đã nổ ra và giành thắng lợi. Cuộc vượt
ngục tương đối quy mô của tù chính trị Sở Lưới đã diễn ra vào mùa hè 1964.
Trong một chuyến đi đánh cá tại Hòn Tre (phía tây Côn Đảo), 19 tù nhân đã trói
giám thị, đoạt ghe máy về vùng giải phóng an toàn.
Hồ sơ lưu trừ mang ký hiệu 8425/HC của Tổng nha Cảnh sát và Công an ngụy
cho biết 19 can phạm có tên là Lâm Văn Biền, Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Văn Bảy
(tự Bảy Bà Rịa), Sum, Sáu Bé, Ngói, Tây, Hải, Giác, Chính, Đào, Bé, Hoa, Dồi,
Bá, Sáu Bùi, hóa, Tươi, Mãi. Cuộc vượt ngục này do Ngói, Tây và Chính chỉ huy.
Sở Lưới khi ấy có gần 80 tù nhân do giám thị thượng hạng Lê Văn Tốt làm
chủ sở, giám thị Nguyễn Văn Thâm làm phụ tá. Khoảng 10 người làm bếp và phục vụ
tại sở, còn lại chia làm hai kíp lưới rùng (khoảng 40- 50 người) và kíp lưới
năm (lưới vây, khoảng 20 người). Lưới rùng đánh cá ven bờ còn lưới năm dùng ghe
máy đánh cá cách đảo với bán kính khoảng 10 km.
Như thường lệ, sáng 9-5-1964, giám thị Nguyễn Văn Thâm cùng tài công Nguyễn
Văn Thân thuộc Ty công chánh biệt phái qua đưa kíp lưới năm đi đánh cá ven Hòn
Tre, cách đảo lớn chừng 12 km. Lúc 19 giờ, giác lưới cuối cùng đã bủa xong, ba
tù chính trị là Ngói,
Tây và Chính đã dùng gậy uy hiếp, cùng lúc, các tù nhân khác xáp lại trói
giám thị Nguyễn Văn Thâm và tài công Nguyễn Văn Thân. Mọi việc đã được sắp đặt,
tù nhân Mãi đứng vào vị trí điều khiển máy, tù nhân Lâm Văn Biền cầm lái, nhằm
thẳng hướng Cà Mau. 9 giờ sáng hôm sau (10-5-1964), ghe máy cặp vào địa phận xã
Vĩnh Lợi (Bạc Liêu). Giám thị Nguyễn Văn Thâm và tài công Nguyễn Văn Thân bị bỏ
lại trên ghe, 19 tù nhân đã đổ bộ vào rừng và hôm sau gặp được du kích.
Giám thị Nguyễn Văn Thâm tìm đường về nhiệm sở sau một hành trình gian
truân. Nhưng “hoạ vô đơn chí”, Nguyễn Văn Thâm lại bị bắt làm tù binh lần thứ
hai của tù nhân Sở Lưới trong một cuộc vượt ngục quy mô hơn mà sự chuẩn bị đã bắt
đầu từ thời điểm ấy.
Quyết tâm chiếm tàu địch, vượt Côn Đảo của kíp lưới rùng đã hình thành từ
đầu năm 1964 và được khẩn trương chuẩn bị. Cuộc vượt ngục thành công của kíp lưới
năm đã thôi thúc ý chí vượt đảo của kíp lưới rùng.
Kíp lưới rùng hàng ngày đánh cá ở ven bờ, khu vực bãi Nhà Thờ và bãi Lò
Vôi. Khi có tàu chở hàng ra, kíp lưới rùng là lực lượng chủ lực theo xà lan ra
dọn tàu. Khởi xướng kế hoạch, Nguyễn Văn Mạnh tức Ba Đạn, nguyên Huyện ủy viên
Tân Bình đã bàn với Võ Văn Thuật, nguyên là Tỉnh ủy viên Gia Định và Lê Văn Thành,
cũng là cán bộ Đặc khu Sài Gòn - Gia Định về khả năng chiếm tàu vượt đảo. Mạnh ở
Sở Lưới đã lâu, am hiểu quy luật của địch, có quyết tâm cao với bản tính của một
con người hành động. Thành cũng ở
Sở Lưới lâu ngày, chuyên theo sà lan vận chuyển, có cảm tình với nhiều
tù nhân và cả giám thị trật tự. Thuật thận trọng, là Đảng ủy viên của các trại
tù án, mới chuyển ra Sở Lưới.
Võ Văn Thuật báo với Đảng ủy, được Đảng ủy duyệt lại toàn bộ kế hoạch và
chỉ đạo chặt chẽ, tránh sơ hở dẫn đến tổn thất và những hậu quả của nó. Võ Văn
Thuật chịu trách nhiệm trước Đảng ủy về sự thành bại của cuộc bạo động này. Kế
hoạch cướp tàu phải đồng thời đánh chiếm ba bộ phận:
-
Bán đội lính bảo
an áp tải kíp dọn tàu.
-
Toàn bộ nhân
viên thủy thủ tàu hàng.
-
Toàn bộ giám
thị, trật tự, nhân viên xà lúp.
Phải đảm bảo tập kết được đủ lực lượng, vũ khí, bí mật, bất ngờ, đánh
nhanh, thắng gọn, đồng thời chiếm được cả tàu hàng và sà lan, xà lúp, bắt trói
được toàn bộ nhân viên, thủy thủ, giám thị, binh lính, vào một thời điểm không
sớm quá (bọn địch ở cầu Tàu có thể phát hiện) mà cũng không muộn quá (trời tối,
khó tiếp cận mục tiêu), tuyệt đối không được nổ súng, không chế ngay vô tuyến
điện, còi báo động, đèn hiệu trên tàu, tránh đổ máu, kể cả đối với kẻ thù. Nếu
chỉ một trong các yêu cầu đó không thực hiện được, một trong các mũi tiến công
không hoàn thành nhiệm vụ là có thể thất bại và đổ máu.
Công tác điều tra nghiên cứu, lập phương án, tuyển chọn nhân sự, tìm kiếm
vũ khí được tiến hành trong nhiều tháng. Kế hoạch cướp tàu, Ban chỉ huy trao đổi
với một số trung kiên, còn số đông trong tổ chức, chỉ giáo dục tinh thần chiến
đấu, khi có thời cơ hành động mới giao nhiệm vụ cụ thể. Hàng chục mũi mác xung
kích, dao nhọn, buloong được cất giấu từ nhiều nơi, từ rẫy Sở Lưới tập kết về Cầu
Tàu, ém sâu trong những hốc đá, chờ ngày khởi sự.
Tháng 11-1964, công việc chuẩn bị cơ bản đã hoàn tất. Đội viên các mũi
xung kích đã sẵn sàng.
Từ khi tàu Lạc Hồng chìm, việc tiếp tế ra đảo do tàu TCS-131 (Thương cảng
Sài Gòn 131) đảm nhiệm. Ban chỉ huy quyết định hành động khi tàu TCS- 131 chở
chuyến hàng ra đảo cuối tháng 12-1964. Lần ấy không thành. Phần lớn lực lượng của
Đội III nằm trên xà lan, vào bờ từ chiều, đến 20 giờ 30 mới trở ra tàu. Lực lượng
xung kích của Đội I đã sẫn sàng nhưng trời tối, địch cảnh giác hơn, ta không khống
chế được. Ban chỉ huy quyết định dừng trận đánh.
Ba lần tiếp theo, trận đánh dự kiến vẫn không nổ ra được, vũ khí mang ra
tàu phải quẳng xuống biển. Ban chỉ huy tổ chức kiểm điểm, xây dựng quyết tâm, bố
trí lại lực lượng. Ban chỉ huy xác định rõ mục tiêu, phải chủ động điều hành
công việc khổ sai, sao cho đúng thời điểm “giờ G” phải tập kết lực lượng, bằng
mọi giá phải khởi sự trong chuyến dọn tàu sắp tới. Lực lượng được bố trí lại
như sau:
Đội 1 là lực lượng xung kích gồm 8 người: Nguyễn Văn Mạnh (tức Ba Đạn,
Ba Thọ là đội trưởng), Huỳnh Công Thưởng, Bùi Văn Của, Trần Xuân Dư, Nguyễn Văn
Tài, Phạm Văn Via, Nguyễn Văn Tuội, Nguyễn Ngọc Anh. Đội 1 có nhiệm vụ bắt gọn
tốp lính bảo an áp tải, cướp súng uy hiếp địch, hỗ trợ cho các lực lượng còn lại
hành động.
Đội II có nhiệm vụ đánh chiếm tàu hàng, bắt gọn toàn bộ giám thị, trật tự
áp tải và nhân viên thủy thủ trên tàu, lực lượng gồm 11 đội viên: Võ Văn Thuật
(Đội trưởng), Nguyễn Quốc Gia, Trần Văn Bền, Nguyễn Kế Hoa, Lê Văn Chánh, Lữ Sĩ
Hoa, Huỳnh Đình Danh, Tiêu Tùng Khải, Trần Văn Hằng, Nguyễn Ngọc Cấn, Nguyễn
Kim Hườn.
Đội III gồm 9 người do Lê Văn Thành chỉ huy, có nhiệm vụ chiếm sà lan,
sà lúp, bắt gọn tốp nhân viên địch trên xà lúp và làm chủ tình thế, kỹ thuật,
dùng sà lúp chở lực lượng vượt đảo về đất liền. Các đội viên của Đội III là
Nguyễn Văn Kỉ, Hồ Văn Lân, Lê Vãn Hiểu, Nguyễn Văn Phụng, Phan Ngọc Châu, Nguyễn
Văn Cư, Đào Minh Quân, Nguyễn Thành Danh.
Trong Đội III có Lê Văn Hiểu là thợ máy tàu, bị bắt quân dịch vào Hải
quân ngụy thời Ngô Đình Diệm, sau đào ngũ về tham gia cách mạng, rồi bị địch bắt,
đày ra Côn Đảo.
Sáng 27-2-1965, tàu TCS-131 vào vịnh Côn Lôn, kéo một hồi còi dài trước
khi neo đậu tại Đá Trắng. 6 giờ 30, kíp dọn tàu gồm 47 tù nhân Sở Lưới xuống xà
lan ra tàu.
Các báo cáo của nhà tù trong những ngày sau đó cho thấy, kíp dọn tàu hôm
ấy khá trật tự, phạm nhân làm việc tích cực, không có dấu hiệu gì nghi ngờ.
Nhưng mọi việc đã được định đoạt ngay từ phút bất ngờ nhất. Ban chỉ huy thông
nhất đã truyền đạt mệnh lệnh ra quân.
Tất cả các đội viên đã được tổ chức trong các mũi xung kích đều bám chắc
mục tiêu, từng người được phân công theo sát từng đối tượng tác chiến. Mỗi người
có sẵn trong túi những gói tiêu, ớt bột, như là gia vị của bữa ăn trưa, nhưng
khi khởi sự có thể trở thành vũ khí lợi hại để bịt mắt đối phương. Các loại nịt
quần, dải rút được chuẩn bị chắc chắn sẽ thành dây trói. Một sô chĩa, bù loong,
sắt nhọn đã được giấu sẵn trên xà lan, một số khác giấu ở khu vực cầu Tàu, ở rẫy
Sở Lưới sẽ được chuyển vào thời điểm thích hợp. Ban chỉ huy thống nhất bí mật
điều hành công việc, khi làm nhanh, làm chậm sao cho chuyến hàng tập kết đủ lực
lượng vào đúng “giờ G”.
Mỗi chuyến dỡ hàng từ tàu TCS.131 xuống đầy sà lan hết 2 giờ, từ sà lan
chạy vào bờ bốc hàng lên bờ rồi chạy ra cũng khoảng 2 giờ. Làm việc suốt trưa nắng
giữa mùa khô gió chướng, ai cũng thấm mệt. Không chịu nổi sóng gió, buổi chiều
có 5 can phạm xin lên bờ là: Cao Văn Mi (số đính bài C.14453), Trương Công
Quang (A.3321), Hứa Phong Lưu
(C.16764), Trương Văn Chỉ (C. 16246), Phạm Minh Tú (C. 15562) tất cả đều là thường
phạm, không nằm trong tổ chức chiếm tàu vượt đảo.
Theo gợi ý khéo của Ban chỉ huy thống nhất, Giám thị Nguyễn Văn Thâm đã
đề nghị xin nhân lực của Sở Chỉ Tồn tăng cường cho kíp dọn tàu. Giám thị chủ Sở
Lưới Nguyễn Văn Trương điều đình với Giám thị trưởng. Khi ấy phòng 18 Chỉ Tồn
có 16 phạm nhân mới lao động khổ sai về. Một người kiên quyết từ chối, còn 15
người miễn cưỡng đi theo chủ Sở Lưới.
16 giờ, sà lúp kéo luôn một lượt 3 sà lan chất đầy hàng vào bờ. Lê Văn
Thành điều khiển lực lượng trên xà lan dỡ hàng thật nhanh lên bờ. Đây là chuyên
hàng quyết định thời điểm cho trận đánh. Nhân lúc giải lao, Lê Văn Thành và
Nguyễn Văn Kỷ xin phép vào Sở uống nước. Ba bó sắt nhọn bọc giẻ lận lưng quần
theo các anh xuống sà lan.
Phụ bếp tàu TSC.131 Lê Văn Bạt vào thị trấn Côn Sơn chơi, theo xà lan ra
chuyến này để kịp dọn bàn ăn bữa tối cho thủy thủ. Xà lan cặp mạn tàu, Bạt xem
đồng hồ: 17 giờ 55 phút, rồi chạy vội vào phòng ăn. Trong bản thẩm vấn sau đó,
Lê Văn Bạt khai rằng, phút kinh hoàng đã xảy ra với hắn và đồng bọn ngay khi
cánh cửa phòng ăn vừa khép lại.
Nhận được tín hiệu từ Võ Văn Thuật, Nguyễn Văn Mạnh dẫn đội các đội viên
xung kích leo nhanh lên lồng cu, tiến công đội lính gác. Trong vòng một phút,
các anh đã làm chủ tình hình, trói gọn 3 tên lính, dùng ba khẩu súng vừa đoạt
được không chế boong tàu. Đội trưởng Nguyễn Văn Mạnh truyền đạt tiếp mệnh lệnh:
“Anh em các đội xung phong lên”.
Tất cả các đội đã áp sát mục tiêu, nhất tề hành động. Phần lớn số giám
thị, thủy thủ đều nhanh chóng đầu hàng. Riêng tên trật tự ác ôn Nguyễn Văn Hường
chống trả quyết liệt, nhưng Đội viên Trần Văn Hằng với lòng can đảm và sự hỗ trợ
của đồng đội đã hạ gục hắn, trói gô vào sàn tàu. Tất cả chỉ diễn ra trong vòng
5 phút, chẳng khác nào một cảnh trong phim kiếm hiệp.
Trời vừa tối, bọn địch ở đảo vẫn không hề hay biết gì. Ban chỉ huy khẩn
trương chỉ đạo các công việc giải quyết tù hàng binh, phá máy và quấn chân vịt
tàu Thương cảng, chuyển vận vũ khí, lương thực, phương tiện đi biển sang sà
lúp. Biên bản số 01/CSQG-CS lập trong đêm 27-2-1965 trên tàu TCS-131 ghi rõ tổn
thất của địch như sau:
-
Dụng cụ bị phá
hủy: sa bàn (1 cái), đền soi (2), rađa (1), cửa gió thông hơi phòng cơ khí trưởng
(1), dây điện đèn chạy tàu (bị cắt), xuồng cứu nguy (bị phá chân vịt).
-
Dụng cụ bị mất:
ống nhòm (2), đèn bấm (6), phao lớn (10), xa bàn (1), phao cá nhân (72), súng bắn
pháo hiệu (1), chèo đầm (14), thùng bánh lạt (2), thùng nước ngọt (4), dao Nhà
bếp (3), dẩy neo, dãy kéo các loại...
-
Nhân viên bị mất
tích: Nguyễn Văn Nghĩa (sĩ quan vô tuyến
điện).
Biên bản còn cho biết, Tiểu đỉnh (sà lúp) mang tên Cần Thơ - Sóc Trăng của
tỉnh Côn Sơn bị cướp mất cùng 4 súng carbine và 360 viên đạn. Các nhân viên Trần
Hiếu Lễ (phó thuyền trưởng), Nguyễn Văn Huê (phụ thợ máy), Nguyễn Văn Thâm (Phó
Sớ Lưới) bị bắt theo. Thiếu tá Nguyễn Thế Tỵ - Phó Tỉnh trưởng Nội an ra lệnh
báo động toàn đảo, rồi huy động nhân viên công an, binh sĩ võ trang bằng đại
liên, dùng ghe chèo cấp tốc ra tàu TCS.131. Chúng gấp rút sửa chữa tàu, cho đến
một giờ 35 phút sáng 28-2-1965 khởi hành cuộc truy đuổi. Lúc 17 giờ ngày 28-2,
tàu chạy đến Hòn Khoai, không thấy dấu vết gì, chúng quay trở về Côn Đảo.
Khi ấy, 57 tù nhân vượt đảo đã ung dung trong căn cứ của một đơn vị quân
giải phóng. Các báo cáo của tù chính trị khi về căn cứ hiện lưu tại Vụ Bảo vệ Đảng
Trung ương cho biết, khoảng gần 20 giờ tối 27-2-1965, chiếc xà lúp khởi hành,
không bật đèn, lách qua eo biển giữa Hòn Trác và Hòn Tài, vòng qua Hòn Bà, Hòn
Vung rồi nhằm thẳng hướng đất liền. Lê Văn Hiểu, Nguyễn Ngọc Cẩm và Nguyễn Văn
Ngày thay nhau trông coi máy và chạy tàu.
Thử thách lớn nhất trên đường về là chiếc xà lúp lâu ngày chưa thay rửa
thùng dầu, sóng gió lớn ngoài đại dương đã làm sục cả nước và cặn dưới đáy lên
tràn đầy các bình lọc, làm chết máy. Có lúc tổ máy phải dừng tàu để súc rửa
toàn bộ hệ thống lọc dầu, có lúc phải vừa chạy vừa xả e (nước và bọt, cặn) tại
các bình lọc. 8 giờ sáng ngày 28-2-1965, tàu cặp vào bờ biển vùng giải phóng Bạc
Liêu, cách chi khu Đầm Dơi 22 hải lý. Tàu mắc cạn cách bờ 1 km. Ban chỉ huy cho
anh em đổ bộ vào bờ, đem theo tù binh và vũ khí.
Một giờ sau, khi tất cả đã vào đến bìa Rừng Sác thì máy bay địch phát hiện
con tàu và oanh tạc cả khu rừng. Toàn đội tiến sâu vào rừng, đến khoảng 10 giờ
thì gặp đơn vị Quân giải phóng đang làm nhiệm vụ đặc biệt tại khu vực này. Ban
chỉ huy đã bàn giao tù binh vũ khí và tuân theo sự hướng dẫn của Quân giải
phóng về địa điểm tập kết an toàn.
Cuộc chiếm tàu vượt đảo của 57 tù nhân kíp dọn tàu thắng lợi trọn vẹn. Lực
lượng vượt đảo sau khi kiểm điểm tại chiến khu đã trở về địa phương, đơn vị cũ
hoặc theo sự phân công của Tổ chức Trung ương Cục. Trần Văn Hằng, người thanh
niên can đảm có công hạ thủ tên Hường, trật tự ác ôn nguy hiểm nhất đã được
tuyên dương công trạng và kết nạp Đảng sau đó 2 tháng. Người cán bộ Thành đoàn
Bùi Minh Trực vượt ngục về chuyến ấy đã hy sinh anh dũng trong trận càn
Xêđaphôn của Mỹ trên địa đạo Củ Chi.
Vụ 57 tù nhân chiếm tàu vượt ngục làm cho mâu thuẫn nội bộ địch thêm trầm
trọng. Quyền Trưởng ty cảnh sát quốc gia Côn Sơn Nguyễn Ngọc Lành đã báo cáo Tổng
Giám đốc Cảnh sát quốc gia tại văn bản số 279/CSĐB/CSBĐ/M ngày 4-3-1965, về những
nguyên nhân khiến cho tình hình an ninh xấu đi dẫn đến cuộc bạo động vượt ngục
xẩy ra. Những vấn dề căn bản trong 9 nguyên nhân mà Ty Cảnh sát nêu ra là:
chính quyền Côn Đảo chủ quan, không tin tưởng và giúp đỡ hoạt động của công an,
không có hiện pháp bố phòng đặc biệt khi có tàu đến, mọi tin tức và sự việc xẩy
ra đều thông báo cho Ty Công an để cộng tác điều tra.
Kết quả là Tỉnh trưởng Tăng Tư - Phó Tỉnh trưởng Nội
an Lê Thế Tỵ, phụ tá Quản đốc TTCH Trần Hữu Khoẻ bị phạt 50 ngày trọng cấm vì tắc
trách. Không lâu sau, Tăng Tư và Trần Hữu Khoẻ đều mất chức, bị đổi về đất liền.
1.
Hình
phạt dành cho quân nhân ngụy vi phạm kỷ luật nhà binh, chưa đến mức phai truy tố
ra toà.
Tù án chính trị chống chào cờ ngụy
Năm 1964, trong khi toàn bộ tù chính trị câu lưu đã vươn lên chống chào
cờ ngụy, chống toàn bộ các thủ đoạn cải huấn thì cuộc đấu tranh của tù án chính
trị mới bắt đầu. Chống chào cờ ngụy là trung tâm phong trào đấu tranh của tù án
chính trị trong giai đoạn này. Đó là sự khẳng định vai trò của Mặt trận Dân tộc
Giải phóng dân tộc miền Nam Việt Nam ngay trong lao tù, “người đại diện duy nhất
hợp pháp cho nhân dân miền Nam, không còn thừa nhận chính quyền Sài Gòn, dù chỉ
là nhà đương cuộc”.
Chào “quốc kỳ” là điều bắt buộc ghi trong nội quy nhà tù. Ngụy quyền Sài
Gòn đã 'biến việc chào cờ thành thủ đoạn tố cộng. Mỗi lần chào cờ, chúng bắt tù
nhân hô những khẩu hiệu phản động, ủng hộ chế độ phi nghĩa đang đày ải họ và đả
đảo chế độ cộng sản mà họ tôn thờ. Vì thế, đấu tranh chống chào cờ vừa là cuộc
đấu tranh của những người cách mạng dưới ngọn cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam chống chế độ ngụy quyền Sài Gòn vừa là cuộc đấu tranh giữa ý thức
hệ cộng sản và hệ tư tưởng tư sản.
Từ khi chế độ độc tài Ngô Đình Diệm sụp đổ (1-11- 1963), tù án,chính trị
cỏn Đảo đã phát khởi cuộc đấu tranh chống chào cờ. Anh Đô (người Gia Định)
không hô khẩu hiệu phản động khi chào cờ bị chúng đánh chết ở hầm dá Trại II.
ông Phan Văn Khá (Tiền Giang) chống chào cờ bị còng tại hầm đá Trại II trong gần
một năm trời. Mặc dù không trụ được lâu dài trong cuộc đấu tranh quyết liệt và
đơn độc ấy, ông vẫn là ngọn cờ đầu thôi thúc cuộc đấu tranh của tù án chính trị.
Từ năm 1965, nhiều chuyến tù chính trị vừa bị lưu đày từ Chí Hòa ra Côn
Đảo đã chống chào cờ. Theo báo cáo của Ban An ninh Trung tâm Cải huấn Côn Sơn,
chuyến tù nhân ra đảo ngày 18-1-1965 có 5 tù binh và 7 tù chính trị chống chào
cờ. Trong phiên họp tuần đầu của tháng 4-1965, Ban Quản đốc đã cho phép các Trưởng
trại dùng bạo lực không hạn chế để dập tắt phong trào chống chào cờ ngay khi vừa
nhen nhóm.
Thực hiện chủ trương này, Giám thị trưởng Trung tâm cải huấn 2 bắt tất cả
tù nhân bị cấm cố đều phải mặc quần áo chỉnh tề, ra sân sắp hàng chào cờ cùng với
những tù nhân chịu làm khổ sai vào các buổi sáng.
Ngày 29-4-1965 tại phòng 6 Trại II, 56 trong số 80 tù nhân bị cấm cố đã
không chịu mặc quần áo ra chào cờ. Địch còng tất cả vào 2 hầm đá, mỗi hầm chưa
đầy 8m2. Bọn gác ngục dùng bao bố bịt kín lỗ thông hơi, hòng biến 2 hầm đá
thành nấm mồ tập thể. Tù nhân la ó đòi mở lỗ thông hơi, tên giám thị ác ôn Lê
Ván Khương lạnh lùng tuyên bố: “Không khí cũng là của chính phủ “quốc gia”, các
anh không chào cờ, không thừa nhận chính quyền “quốc gia” thì các anh không được
thở”.
Sau 36 giờ, anh Sinh (quê Bến Tre) đã tắt thở, 2 người khác hấp hối. Địch
cho mở lỗ thông hơi song tiếp tục duy trì tình trạng tồi tệ đó thêm 2 ngày nữa.
Ngày 7-6-1965, 20 tù nhân mới từ Chí Hòa ra đảo không chào cờ. Họ tuyên
bố là người của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, đại diện hợp
pháp duy nhất của nhân dân miền Nam, không thừa nhận chính quyền Sài Gòn, nên
không chào cờ ngụy. Địch còng tất cả và cho bọn trật tự thả sức đánh đập. Sau 3
tuần bị đàn áp khốc liệt, 20 anh lần lượt bị đánh rớt.
Giông như học trò đi thi, cặp từ “đậu” và “rớt” đã trở thành phổ biến đối
với lực lượng tù án chống chào cờ. Cuộc “thi” này không chỉ đòi hỏi có trí tuệ
mà cả phẩm chất chính trị, tư tưởng, nhân cách, lòng trung thành và sức chịu đựng
bền bỉ kiên cường. Mỗi vinh quang và cay đắng trong sự thành bại của cuộc “thi”
này, người tù đều phải trả giá bằng máu và tính mạng mình.
Ngày 26-6-1965, trong số 250 tù án chính trị từ Chí Hòa bị đày ra Côn Đảo
có 96 người chống chào cờ. Địch giam riêng ở phòng một Trại II và tập trung
hàng chục tên trật tự ác ôn dùng củi gộc đàn áp nhiều trận đẫm máu. Sau một tuần,
9 người “đậu” được bị đưa về hầm đá, trong đó có Phạm Thông, Hồ Văn Tiên, Nguyễn
Văn Tựu, Nguyễn Văn Nuôi và Tào Tựu.
Chuyến tàu ra ngày 2 tháng 9 năm 1965 “đậu” được Phan Văn Hải.
Chuyến 26-2-1966, “đậu” được Nguyễn Tử Tòng.
Chuyến 1-12-1966, “đậu” được 11 người, trong đó có Ngô Đình
Thời, Nguyễn Văn Trường và Phạm Uyển.
Chuyên 5-2-1967, “đậu” được 27 người, trong đó có Nguyễn Văn Chánh và
Hoàng Thanh, nâng tổng số chống chào cờ lên 64 người. Tối 5-2-1967, địch đưa
toàn bộ số tù án chống chào cờ vào chuồng cọp I, giam 4 người một chuồng, còng
cả hai chân.
Đó là những ngọn cờ đầu trong phong trào chống chào cờ của tù án chính
trị Côn Đảo.
Cùng thời gian này, lực lượng tù án ở các sở tù khổ sai vươn lên chống
chào cờ hàng loạt. Đầu tháng 4-1967, tổng số tù án chống chào cờ tảng vọt lên
180 người.
Thiếu tá Nguyễn Văn Vệ, Đặc phái viên hành chính kiêm Quản đốc trung tâm
cải huấn Côn Sơn quyết định dùng biện pháp mạnh để đàn áp, khuất phục, bức
hàng.
Đang giam 4 người một chuồng, Nguyễn Văn Vệ ra lệnh dồn lại 6 người và
sau đó là 9 người một chuồng. Chuồng Cọp rộng 1,4 mét, dài 2,2 mét, không đủ chỗ
còng 2 chân, chúng còng mỗi người một chân, còng làm 2 lớp. Giờ ăn cơm từ 5
phút rút xuống 2 phút. Ăn xong, chúng cho 9 người một gô nước sôi, chuyền nhau
trong một phút, chậm là đánh. Chúng bắt tất cả nằm, ai ngồi dậy hay đổi tư thế
nằm là đánh hoặc lấy sào bịt đồng thọc xuống. Anh Trương Công Định (Thủ Đức) bị
chúng thọc sào nhọn làm toác da đầu. Anh Na kêu xin thuốc cho người bệnh bị
chúng dùng ống khóa đập vào ngực hộc máu tươi.
Đêm đến, tên Tám Kính thường tụ tập bọn trật tự ác ôn như Ba Đen, Tư ốm,
Đào Thanh Huy, Một, Giỏi nhậu trên nóc chuồng cọp và kích động bọn này. Chúng đổ
nước dơ, nước tiểu xuống đầu những người tù chuồng cọp rồi hè nhau xuống đánh.
Hầu như đêm nào cũng có người tù ở chuồng cọp đổ máu, ngất xỉu. Mạng sống bị đe
dọa, nhân phẩm bị chà đạp, thể xác và tinh thần của những người tù chuồng cọp bị
dày vò, đau đớn và căng thẳng suốt 24/24 giờ mỗi ngày ở chuồng cọp. Không chịu
nổi chế độ đàn áp quá khắc nghiệt, 77 người rớt trong tuần đầu, còn lại 103 người
tiếp tục cuộc chiến đấu.
Từ ngày 7 đến ngày 11-4-1967, lần lượt có 27 người tham gia tuyệt thực
làm 3 đợt đòi:
1.
Được tự do bảo
vệ tư tưởng.
4.
Cho về trại để
được rộng rãi.
Địch đàn áp quyết liệt không chỉ những người tuyệt thực mà cả số không
tuyệt thực, vì cho rằng số này sợ chết, không dám đấu tranh. số tuyệt thực địch
phân tán mỗi chuồng 2 người, không cho đem cơm nước vào và bỏ mặc không giải
quyết yêu sách gì. Mười hai ngày không ăn không uống, hơn một nửa số tuyệt thực
phải bỏ cuộc.
Ngày 20-4-1967, đồng chí Dương Văn Thưa - Tỉnh ủy viên Tây Ninh dùng mảnh
sắt mổ bụng, quyết tử hy sinh. Địch còng luôn cả hai chân, hai tay và bỏ mặc
không chữa chạy. Một số người không chịu đựng được sự căng thẳng và ác liệt kéo
dài đành bỏ cuộc.
Thấy tinh thần một số tù nhân đã nao núng, chúa đảo Nguyễn Văn Vệ tập
trung toàn bộ số giám thị và trật tự an ninh ác ôn khủng bố một trận quyết định
vào ngày 22-4-1967. Tên giám thị ác ôn Lê Văn Khương, Trưởng ban chuyên môn trực
tiếp chỉ huy trận này. Bọn trật tự ác ôn như những con thú say máu xông vào
đánh dập tù nhân bằng củi đòn suốt một buổi sáng. Sau trận đòn đẫm máu ấy chỉ
còn lại 8 người đậu được ở vị trí chống chào cờ.
Địch vẫn bỏ đói, bỏ khát và không giải quyết yêu sách. Hai hôm sau anh
Ngô Gấm và anh Hồ Văn sắc rớt, còn lại sáu người quyết tử chiến đấu bảo vệ khí
tiết là: Hoàng Thanh, Phan Văn Huệ, Nguyễn Tử Tòng, Phạm Thông, Nguyễn Văn Trường
(trong số 27 người tuyệt thực) và Ngô Đình Thời (trong số không tuyệt thực). Ngô
Đình Thời năm ấy chưa đầy 18 tuổi.
Cuộc tuyệt thực kéo dài đến 19 ngày, sau hàng chục công điện báo cáo và
xin ý kiến của Tổng nha cảnh sát, Tổng nha cải huấn, chúa đảo Nguyễn Văn Vệ phải
chấp nhận các yêu sách, để cho 6 người được tự do tư tưởng, không cưỡng bức
chào cờ ba que, trả lại mọi sinh hoạt bình thường. Khi đó, 6 người đậu được chỉ
còn hấp hối. Có người phải bắt từng con muỗi, con rệp ăn cầm hơi nhưng họ đã
không khuất phục trước bạo lực, không thừa nhận lá cờ của chế độ Sài Gòn.
Đây là cuộc đấu tranh quyết liệt nhất của tù án chính trị chống chào cờ,
khẳng định vị trí bảo vệ khí tiết của tù án chính trị bảo vệ khí tiết. Đó là
tiêu biêu thôi thúc lực lượng tù án chính trị vươn lên mạnh mẽ trong những năm
sau này.
Trong cuộc đấu tranh tháng 4 năm
1967, tù án chính trị chịu chấp nhận tổn thất không nhỏ. Nguyễn Văn Vệ còn giở
thủ đoạn bỉ ổi, cưỡng bức những người vừa bị đánh rớt diễu hành quanh chuồng cọp
hô khẩu hiệu phản động để nhục mạ họ. Nhưng tấm gương khí tiết kiên cường của những
ngọn cờ đầu trong phong trào chống chào cờ của tù án chính trị là niềm cổ vũ
thôi thúc mọi người tiếp tục vươn lên. Nhiều người vừa rớt trong đợt đàn áp
tháng 4 năm 1967 đã lần lượt tuyên bố chống chào cờ trở lại.
Chống kế hoạch “Ngũ niên tự túc”
Trong lúc áp dụng chế độ kỷ luật nghiệt ngã đối với số tù chính trị chống
chào cờ tại khu vực hầm đá, chuồng cọp, chuồng bò, chúa đảo Nguyễn Văn Vệ lại nới
rộng chế độ đối với số tù nhân chịu làm khổ sai, thuộc Trung tâm Cải huấn II
(TTCH II) bao gồm Trại II, Trại III và các sở tù. Từ năm 1965 đến 1968, nhân số
TTCH II biến động ở mức từ 3.000 đến 5.000 người.
Báo cáo ngày 14-5-1965 của Ban an ninh TTCH chọ biết toàn đảo có 3318 tù
nhân, trong đó có 527 tù chính trị câu lưu giam tại Trại I (TTCH I), 951 tù án ở
Trại II, 1185 tù án ở Trại III, số còn lại cũng thuộc TTCH II, ở rải rác các sở
ngoài. Đông nhất là Sở vệ sinh-văn phòng (202) và Ban an ninh tình báo (222).
TTCH II do Nguyễn Vãn Thà làm Giám thị trưởng Trung tâm. Theo một bản báo cáo của
tù chính trị, lưu tại Ban an ninh Trung ương Cục vào tháng 2-1967 thì cơ cấu
giam giữ tù nhân tại TTCH II như sau:
Trại II
-
Phòng 1-2-3 có
lúc gọi là “khu tu dưỡng”, giam tù án tử hình và chung thân, có lúc giam giữ đến
200 án tử hình, hiện chỉ còn trên dưới 20 người, giam tại phòng 3. Phòng một và
2 giam tù án chung thân (gần 200 người), làm các công việc khổ sai nội trại.
-
Phòng 4: Giam
tù áo trắng, làm bồi bếp, phục dịch văn phòng Quản đốc, văn phòng Giám thị trưởng,
công nhân tư gia cho các gia đình công chức, giám thị.
-
Phòng 5: Giam
tù làm Nhà bếp, hướng nghiệp.
-
Phòng 6: Biệt
giam nhẹ, gồm số tù bị địch chú ý trong các cuộc đấu tranh, hàng ngày đưa đi
làm ở các Sở xa, An Hải, An Hội, bị cách ly với số tù nhân trong trại (khoảng
150 người).
-
Phòng 7: Biệt
giam nặng, khoảng 100 người, gồm phần lớn là số chống chào cờ trong các đợt bị
đánh rớt. Từ tháng 9-1966, số này bị đưa đi làm Sở Rẫy Thiên Thu vừa khai phá.
-
Phòng 8: Giam
số thường xuyên đau yếu, bệnh hoạn, được bố trí làm các việc nhẹ như quét dọn vệ
sinh, kẻ vẽ, may vá quần áo tù.
-
Phòng 9: Giam
kíp tù làm công xưởng.
-
Phòng 10: Khoảng
120 người, làm Sở chỉ tồn (công việc khổ sai nặng nhọc khống cố định).
-
Phòng 11: Giam
số tù nhân làm trật tự trại.
Trại III
-
Phòng 12: Sở Tẩy
(vệ sinh toàn đảo).
-
Phòng 13: Sở
chăn nuôi và kíp phục vụ ở nhà thương.
-
Phòng 17: Trật
tự trại, y tế trại, văn phòng.
-
Phòng 18: Sở
ươm cây, Sở rẫy Cộng hòa, Sở rẫy Rảo an, Sở rẫy Tỉnh trưởng.
-
Phòng 21: Thợ
hồ, thợ sắt, hướng nghiệp, lò vôi.
-
Phòng 22: Lò gạch,
nuôi vịt.
-
Phòng 23:
Không cố định đối tượng giam giữ.
-
Phòng 24: Bệnh
lao, thương hàn và bệnh nan y.
Mỗi phòng giam từ vài chục đến khoảng 120 người. Ngoài 24 phòng thuộc Trại
II, Trại III, TTCH II còn cho phép một số kíp tù nhân được ở các trại tạm giam
tại Sở khổ sai như: Lò Gạch (khoảng 180 người) Công Xưởng (khoảng 150), Sở Lưới
(khoảng 90), Sở Chăn nuôi (khoảng 70), Nhà Đèn (khoảng 30), Sớ Ruộng, Cỏ Ong
(khoảng 100), Văn phòng Quản đốc (khoảng 80), Ban Văn nghệ (khoảng 60). Sở làm
công cho Mỹ xây dựng đài Loran có khoảng 250 tù nhân được thiết lập nhất thời từ
1964 đến 1966, xong công trình, chúng đưa về trung tâm. Vào mùa gió chướng, để
ngăn chặn tù nhân vượt ngục, địch đưa phần lớn số tù nhân các sở này vào trong
trại ngủ, trừ một số ít làm trật tự an ninh, số án nhẹ (dưới 2 năm) và một số
được ưu đãi làm ở Ban văn nghệ, Văn phòng.
Ban lãnh đạo lâm thời các trại tù án được thành lập từ năm 1963 (có lúc
danh xưng là Đảng ủy, Đảo ủy) không có vai trò đối với lực lượng tiên phong chống
chào cờ mà chỉ có ảnh hưởng nhất định với khối tù án chính trị chịu làm khổ
sai. Thực chất, ban lãnh 'đạo lâm thời chỉ dừng ở mức một Đường dây Côn Đảo, vừa
giữ mối liên hệ với Trung ương Cục, vừa tổng hợp tin tức, tình hình địch ta để
thông tin và hướng dẫn hoạt động của tù nhân.
Năm 1965, bộ phận Đường dây Côn Đảo có nhiều xáo trộn. Võ Văn Thuật cùng
56 tù chính trị Sở Lưới cướp tàu vượt đảo về đất liền thành công (27-2-1965).
Nguyễn Xuân Kí bị điều qua Cỏ Ống. Nguyễn Văn Ngư bị cấm cố và sau đó mãn án,
chuyển qua câu lưu tại TTCH II, chì còn lại Trương Minh nắm giữ đường dây liên
lạc với Trung ương Cục. Các kíp tù, Sở tù khổ sai tự hình thành Ban chỉ đạo hoặc
Bộ phận trách nhiệm theo sự tín nhiệm để lãnh đạo các hoạt động và tranh đấu của
tù nhân. Chống khổ sai với các mức độ “lãn công, khai bệnh, trì trệ, phá hoại
bí mật” là hình thức đấu tranh phố biến của các kíp tù khổ sai thuộc TTCH II
trong giai đoạn này.
Năm 1966, kế hoạch “ngũ niên tự túc” của chúa đảo Nguyễn Văn Vệ được cố
vấn Mỹ phê duyệt, trình Nha cải huấn và sau đó được thực thi tại đảo. Thực chất
của kế hoạch này là dùng viện trợ Mỹ để mở rộng các sở tù khổ sai, bóc lột lao
động của tù nhân, dùng tù nuôi tù, cho tù nhân được hưởng một phần hoa lợi để
khuyến khích lao động, đồng thời siết chặt kỷ luật nhà tù, thẳng tay đàn áp các
cuộc đấu tranh để triệt tiêu ý thức phản kháng của người tù.
Theo kế hoạch này, viện trợ Mỹ được đầu tư mở rộng các cơ sở hướng nghiệp,
dạy nghề, chăn nuôi, đánh cá. Các Sở rẫy An Hải, An Hội, Sở Ruộng, Sở chăn
nuôi, Lò gạch, Lò tương được mở rộng. Nhiều sở rẫy mới được thành lập như Hòa
Ni I, Hòa Ni II, Thiên Thu I, Thiên Thu II, Sơn Khê, Đồng Vọng, Đông Phong (sở
Bông Hường cũ). Viện trợ Mĩ được đầu tư mua giống, phân bón, công cụ. Tù nhân
lao động khổ sai được hưởng hoa lợi theo những tỷ lệ khác nhau: Trồng tỉa hưởng
25%, chăn nuôi 10% (không trừ vốn), hướng nghiệp 40% (sau khi trừ vốn). Trừ tù
án tử hình và số chống chào cờ bị cấm cố trong Chuồng Cọp, còn lại tất cả tù
nhân đều được huy động vào lao động khổ sai.
Nhiều tù nhân ở các phòng cấm cố đã được Vệ giải tỏa, đưa đi lao động khổ
sai. Ở các kíp khổ sai nặng nhọc như đốn củi, dọn tàu, khiêng gạch, sắt, xây
chùa
Núi Một, xây bốt 48 thường nổ ra các cuộc đấu tranh đòi hạ mức khổ sai,
làm công, phá hoại. Khẩu hiệu “ăn mặn - uống đậm - đi chậm - vác nhẹ - nắng ngủ
- mưa nghỉ - nhát gió - kỵ sương mù” phố biến trong các kíp tù khổ sai, với
nghĩa là vận dụng mọi hoàn cảnh làm giảm nhẹ lao động khổ sai, nhằm phá vỡ kế
hoạch “ngũ niên tự túc” của Nguyễn Văn Vệ.
Tháng 12-1967, Sở Củi (phòng 14 và 15 Trại III) mở đầu cuộc đấu tranh
công khai chống dọn củi ngoài giờ. Bằng lý lẽ đúng đắn và tinh thần kiên quyết,
tù nhân Sở Củi đã trực diện đấu tranh chống dọn củi từ xà lan lên bờ ngoài giờ
trong suốt một tuần. Nhiều người chịu đòn, chịu phạt xà lim nhưng cuối cùng địch
phải nhượng bộ, chấm dứt nạn khổ sai quá giờ. Lực lượng nòng cốt trong cuộc đấu
tranh này là số tù nhân cấm cố của phòng 6 và phòng 7 Trại II mới giải tỏa về Sở
Củi.
Thắng lợi của Sở Củi đã khích lệ phong trào đấu tranh của tù án chính trị
ở các sở tù khổ sai. Ngày 20- 12-1968, kíp Chỉ Tồn phòng 5 Trại II chống khai
thác đá tại Núi Một về xây lao mới. Cuộc đấu tranh này bị đàn áp dã man. Ngày
hôm sau, địch bắt kíp Chỉ Tồn phòng 5 đi đốn củi ở hòn Bảy Cạnh. Mỗi ngày 60
người đi làm, địch đưa 120 trật tự an ninh đi kèm, chúng dùng củi đòn đánh đập
rất dã man từ lúc xuống xà lan cho đến lúc về. Ngay ngày đầu đã có 15 người trọng
thương. Sau 6 ngày đàn áp trả thù, hầu hết tù nhân kíp Chỉ Tồn phòng 5 đều mang
thương tích, nhiều người phải nằm bệnh xá, nhưng tất cả vẫn từ chối đi khai
thác đá cho chủ thầu Mỹ xây khu trại giam mới.
Ở các sở rẫy, tù chính trị đấu tranh bằng cách phá hoại sản xuất. Khi
chăm sóc rau, họ làm lay gốc, dứt rễ để rau héo dần rồi chết. Sở rẫy Hòa Ni rộng
2 héc ta, 70 tù nhân lao động khổ sai coi một vụ chỉ thu hoạch được 100 trái
dưa leo. Địch trả thù rất dã man. Có người chỉ ăn một trái dưa do chính tay
mình trồng bị chúng đánh chết ngất tại ruộng, phải khiêng đi cấp cứu. Chuyện
“trái dưa 2 người khiêng” được phổ biến rộng rãi trong tù chính trị nhằm giáo dục
căm thù, phát động phong trào.
Sở rẫy Thiên Thu II được thành lập từ tháng 9- 1966 là một sở kiểu mẫu
trong kế hoạch “ngũ niên tự túc” của chúa đảo Nguyễn Văn Vệ. Lúc đầu giám thị
Phạm Minh Tâm, phụ tá Trưởng ban chuyên môn làm chủ sở. Sau vụ vượt ngục của
Hoàng Đình Khiển, Trần Văn Thạch và Nguyễn Văn Trúc, Vệ giao cho giám thị Huỳnh
Đại Phước (đã 3 đời làm giám thị ở nhà lao này) làm chủ sở với sự hỗ trợ của
100 tự trật an ninh để cai quản 120 tù chính trị vừa giải tỏa từ Trại IV cấm cố
mà phần lớn là số chống chào cờ bị đánh rớt. Xung quanh rẫy còn có 4 tháp canh
của lính bảo an canh gác. Vệ cho tù nhân sở này được hưởng 25% hoa lợi (mức cao
nhất trong các sở rẫy) với ý đồ vừa kích thích họ sản xuất theo kế hoạch “ngũ
niên”, vừa triệt tiêu một bộ phận tù nhân chống chào cờ.
Trái với ý đồ của Vệ, tù chính trị Sở Rẫy Thiên Thu đã tổ chức chống phá
một cách hiệu quả. Rau mới trồng được vài ngày lại bị nhố nhớm lên cho chết dần.
Khi làm cỏ, xới xáo thì chặn dứt rễ cái cho cây thui chột. Cả một rẫy đu đủ
đang chuẩn bị ra quả được bón phân đậm đặc làm cháy rễ, chết gần hết. Sau 11
tháng không thu hoạch được bao nhiêu, lại xảy ra 2 vụ vượt ngục, Huỳnh Đại Phước
phải xin Vệ cho giải tán sở.
Cuộc vượt ngục đầu tiên tại Sở rẫy Thiên Thu do các anh Hoàng Đình Khiển,
Trần Văn Thạch và Nguyễn Văn Trúc thực hiện. Khiển và Thạch đã từng vượt ngục lần
đầu vào ngày 19-8-1965, bơi 12km qua Hòn Cau, ẩn náu hơn một tháng thì bị bắt
vào cấm cố chung với số chống chào cờ ở Trại IV.
Ra Sở rẫy Thiên Thu, Khiển và Thạch lại tính chuyện vượt ngục. Lần này họ
kết tập thêm Nguyễn Văn Chúc thành bộ ba. Khiển là trưởng nhóm, Thạch là tham
mưu, Trúc là hướng đạo. Trúc trước đó ở Sở củi, thông thạo đường rừng và các
chòi canh của trật tự. Họ vượt khỏi Sở rẫy Thiên Thu vào một buổi chiều đầu năm
1967, qua mũi Lò Vôi, vượt phi trường Cỏ Ông, ẩn náu tại Đầm Tre. Họ bẻ lá cây
lót trong hốc đá đế nằm, đào củ nưa, củ nần, bắt ốc, bắt vích ăn qua ngày, chờ
mùa gió chướng sẽ đóng bè vượt biển. Địch huy động lực lượng tổ chức truy tìm
nhiều ngày và phát hiện ra nơi ẩn náu của 3 người từ những chiếc mai vích chôn
không kỹ.
Ít lâu sau cuộc vượt ngục không thành của ba anh Khiển, Thạch, Chúc, hai
anh Nguyễn Văn Me và Nguyễn Văn Tài lại tiếp tục vượt ngục một cách táo bạo.
Hai anh đào một căn hầm bí mật cách Sơ rẫy Thiên Thu không xa, tích trừ lương
thực, thực phẩm, nước uống rồi ẩn náu tại đó, chờ qua đợt truy nã của địch sẽ
lên núi đóng bè. Địch tổ chức truy nã gắt gao vì chúng phán đoán tốp vượt ngục
còn ẩn náu quanh đây. Gió chướng chưa nổi thì chưa thể đóng bè vượt ngục được.
Sau một tuần chúng phát hiện được căn hầm bí mật vào lúc Nguyễn Văn Tài bò lên
lấy nước khi trời chưa tối hẳn.
Lần này chúa đảo Nguyễn Văn Vệ trực tiếp khảo cung, tìm hiểu lý do và
phương thức vượt ngục. Hai anh đã tố cáo sự tàn bạo của chế độ nhà tù và tuyên
bố rằng thà lên rừng ở với thú dữ, thà vượt biển làm mồi cho cá mập còn hơn là
phải chịu cảnh địa ngục trần gian ở nhà tù này. Cả hai cuộc vượt ngục đều không
đạt mục đích giải thoát nhưng lại góp phần làm phá sản Sở Rẫy Thiên Thu, một sở
kiểu mẫu trong kế hoạch “ngủ niên tự túc” của Vệ. Sản xuất không hiệu quả, tù
nhân liên tiếp vượt ngục, Nguyễn Văn Vệ phải giải tán Sở rẫy này, đưa tù nhân
vào cấm cố trở lại.
Xưa nay vượt ngục thường xảy ra ở các kíp tù và các sở tù khổ sai ngoài
trại giam, nhưng lần đầu tiên ở nhà tù này đã nổ ra một cuộc vượt ngục tại
phòng cấm cố tù án tử hình trong Trại II, nơi được duy trì chế độ an ninh
nghiêm ngặt nhất. Ba tù án tử hình tổ chức vụ vượt ngục táo bạo ấy là Nguyễn
Văn Hai (chiến sĩ biệt động thành Sài Gòn - Gia Định), Lê Hồng Tư (lực lượng vũ
trang Thành đoàn Sài Gòn - Gia Định), Phạm Văn Dẩu (quân giải phóng Gia Định).
Tháng 10 năm 1966, ba người công kênh nhau trổ nóc nhà giam vào lúc nửa
đêm rồi vượt tường trại ra ngoài, nhằm hướng Núi Chúa đi lên. Vì bị cấm cố từ
ngày ra đảo nên cả 3 đều không biết đường, quanh quẩn mãi gần sáng mới đến được
chân núi.
Địch phát hiện và truy nã từ lúc 3 giờ sáng. Chúng siết chặt vòng vây
quanh triền núi. Lê Hồng Tư đuôi sức, lạc đội hình, bị bắt lúc 10 giờ sáng.
Nguyễn Văn Hai và Phạm Văn Dẩu tìm được nơi ẩn náu an toàn suốt ngày hôm ấy.
Đêm đến, Dẩu theo Hai xuống núi, ẩn tại chùa Hòa Sơn Tự. Các thầy chùa (cũng là
tù) biết nhưng không khai báo. Họ nấu cơm để sẵn tại 'bếp, đêm đến 2 anh bò vào
ăn. Ngôi chùa ở ngay trong thị trấn, bằng kinh nghiệm của người lính biệt động,
Nguyễn Văn Hai nhận định rằng địch bố phòng và truy tầm tù trốn hướng về phía
núi, khe suối, bãi biển hơn là trong thị trấn. Nguyễn Văn Hai kiếm được một bộ
quần cộc, áo thun còn mới, chiều tà anh đóng bộ đi dạo từng đoạn đường để nắm
tình hình, dáng dấp như một công chức, ít ai biết mặt một kẻ tử tù quanh năm cấm
cố trong trại.
Cuộc đào thoát của số tù trọng án ở
nhà lao cấm cố làm chúa đảo Nguyễn Văn Vệ điên đầu. Hắn cho tổ chức nhiều cuộc
hành quân lục núi, phục kích các ngả đường, án ngữ các bãi biển suốt ngày đêm,
cho sà lúp tuần tra quanh đảo và các hòn phụ cận. Ẩn tại chùa 4 ngày đêm, thấy
tình hình không êm, 2 anh vượt sang Cỏ Ống, núp tại Suối Ớt.
Bọn Mỹ đang xây đài Loran ở Cỏ Ông,
bố phòng rất cẩn mật. Ngày thứ 8 của cuộc vượt ngục, Nguyễn Văn Hai bị bắt
trong một lần đột nhập vào trạm gác kiếm đồ ăn. Hai ngày sau, Phạm Văn Dẩu bị địch
vây bắt được. Tất cả bị đưa về hầm đá Trại II. Nguyễn Văn Hai bị chúng đánh đập
nhiều trận dã man cho đến chết. Lê Hồng Tư và Phạm Văn Dẩu bị cấm cố vô thời hạn
cho đến ngày giải phóng. Sau cuộc vượt ngục của tù nhân khám tử hình, Nguyễn
Văn Vệ cho dây thép gai chăng kín trần các trại giam và tăng cường các biện
pháp an ninh, tình báo, mật báo nhằm phát hiện và ngăn chặn các âm mưu vượt ngục.
Bước phát triển mới của
phong trào chống chào cờ
Từ cuối năm 1967, phong trào chống chào cờ bước vào một giai đoạn mới.
Chuyến lưu đày 6-1967 từ Chí Hòa ra đảo có 14 người chống, địch đàn áp quyết liệt
tại Trại IV, bọn trật tự an ninh đánh dập hết bó roi mây này đến bó roi mây
khác. Ba ngày sau chỉ còn Sầm Thanh Liêm và Nguyễn Ngọc Minh đậu được. ít ngày
sau, Cao Văn Chín rớt trong đợt đó đã vươn lên chống lại. Địch đưa 3 anh sang
chuồng cọp II giam ở chuồng 30, cạnh chuồng Năm anh chống chào cờ đậu được
trong đợt đàn áp tháng 4-1967 (Phạm Thông mãn án đã chuyển qua trại câu lưu).
Tháng 10-1967, lực lượng chống chào cờ tăng lên 15 người, địch chuyển
các anh qua chuồng cọp I giam ở các chuồng 57, 58 và 59, mỗi chuồng 5 người,
còng một chân, không cho tắm giặt, không cho ăn rau. Tháng 2- 1968, số chống
chào cờ tăng đến 30 người, chuyến lưu đày tù Chí Hòa ra trong tháng đó có
68/300 người chống chào cờ. Sau 4 ngày đàn áp, còn “đậu” được 10 người, trong
đó có Đặng Trung Tâm, Lê Tùng, Nguyễn Việt Hùng, Lê Văn Ngọc (Bảy Bê) và Nguyễn
Thới (tức Hòa thượng Thích Thành Tuệ).
Lực lượng tù án chính trị ở các trại giam, phòng giam và các sở khổ sai
đều có những hình thức tố chức, liên lạc và chỉ đạo khác nhau. Tuy nhiên, cho đến
lúc đó, ngay cả những tố chức danh xưng là Chi uỷ, Đảng ủy, Đảo ủy cùng chưa chủ
trương chống chào cờ. Trong một số trường hợp, những người chống chào cờ còn bị
phê phán là “tả khuynh” “cực đoan”, “anh hùng cá nhân”... Một số người từng có
cương vị cao ngoài đời, từng tham gia bộ phận trách nhiệm ở trong tù đã tìm
cách dùng uy tín, lý lẽ và kinh nghiệm của mình để thuyết phục số anh em đang
chủ trương vươn lên chống chào cờ chấp hành tập thể, ở lại cùng tập thể.
Trong hoàn cảnh đó, những chiến sĩ tiên phong vẫn kiên trì quan điểm chống
chào cờ. Họ tuyệt đối tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của cách mạng, tin tưởng
vững chắc vào chính nghĩa của cuộc đấu tranh. Họ quan niệm rằng, trong lúc kẻ
thù dùng mọi thủ đoạn để triệt hạ khí tiết thì những người tù chính trị phải đặt
mục tiêu đấu tranh bảo vệ khí tiết lên hàng đầu.
Năm ngôi sao toàn thắng trong cuộc đấu tranh chống ly khai cùng hàng
trăm người hy sinh vô cùng anh dũng trong cuộc đấu tranh ấy đã trở thành biểu
tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho toàn thể tù chính trị Côn Đảo noi
theo. Sáu tù án chính trị chống chào cờ đậu được trong đợt khủng bố khốc liệt
tháng 4-1967 đã đặt nền tảng và thôi thúc lực lượng tù án vươn lên chống chào cờ
ngày càng mạnh mẽ.
Học hỏi kinh nghiệm của lớp người đi trước và bằng kinh nghiệm của chính
mình, nhiều người đã tự xác định phương châm và nguyên tắc đấu tranh trong tù.
Trong đấu tranh dân sinh dân chủ thì cá nhân phục tùng tập thể, nhưng trong đấu
tranh chính trị, bảo vệ khí tiết thì mỗi người tự quyết định sinh mạng chính trị
của mình; có tập thể thì cùng tập thể đấu tranh, không có tập thể thì tự mình
quyết định. Họ tâm niệm một cách sâu sắc rằng, mỗi người tù chính trị đều phải
tự mình chịu trách nhiệm trước Đảng, như khẩu hiệu mà họ hằng tâm niệm: Đảng đã
trao Đảng cho ta, ta phải giữ ta cho Đảng.
Điều cần phải “giữ” lúc này không chỉ là tính mạng mà trước hết và cao
nhất là sinh mạng chính trị, là phẩm chất và khí tiết. Nếu cần, họ sẵn sàng hy
sinh cả tính mạng mình để bảo vệ khí tiết, bảo vệ lý tưởng độc lập tự do và chủ
nghĩa xã hội, không khuất phúc trước bất cứ bạo lực nào. Đó chính là phẩm chất
của những người anh hùng mang chí lớn mà nhiều năm sau, tập thể tù án chính trị
mới nhận ra và vươn lên, noi theo.
Kế từ khi cuộc tiến công Tết Mậu Thân (1968) nổ ra, địch siết chặt kỷ luật
nhà tù, lập các phương án chống tù nhân bạo động. Tháng 5 năm 1968, số chống
chào cờ tăng lên đến 71 người, hạt nhân phong trào đấu tranh bảo vệ khí tiết của
tù án chính trị ngày càng mở rộng, đúng theo phương châm của những người tiên
phong: Đường càng đi, đội ngũ càng đông.
Chúa đảo Nguyễn Văn Vệ mở đợt đánh phá bức hàng quyết liệt. Lực lượng chủ
yếu được giao cho Ban Chuyên môn của tên giám thị ác ôn số một Lê Văn Khương đảm
nhiệm. Khương tập hợp khoảng gần 100 trật tự tay sai mở cuộc đàn áp, dồn tất cá
tù án chính trị chống chào cờ về chuồng cọp II. Hắn cho trật tự lôi tù nhân ra
bãi cát trước cửa chuồng cọp đánh, mỗi ngày một trận.
Vệ còn ra lệnh bớt cơm, bớt nước, không cho tắm giặt, cấm ngặt rau. Bữa
cơm chỉ có một loại mắm ruốc đen, nặng mùi. Việc không cấp rau trong nhiều
tháng liền làm cho cơ thể tù nhân suy sụp nghiêm trọng. Các bệnh táo bón, kiết
lỵ, phù thũng phổ biến. Nhiều người kiệt sức, teo cơ, bại liệt, không còn đứng
nổi trên đôi chân của mình.
Tên giám thị Nguyễn Văn Rồng - Phó ban chuyên môn đã thẳng thừng tuyên bố
trước đòi hỏi cấp rau của tù nhân chuồng cọp: “Ranh giới giữa các anh với nội
quy nhà tù là rau. Muốn ăn rau phải chịu chào cờ”.
Các yêu sách của tù nhân đều bị đàn áp đẫm máu. Ông Tôn (ở Cần Thơ) bị
đánh hộc máu, ngất xỉu tại trận. Anh Phan Đình Tựu (Điện Bàn, Quảng Nam) bị
đánh nhiều phát bệnh tâm thần, suốt ngày hát những bài ca cách mạng. Địch còng
cả hai tay, hai chân, khớp miệng anh cho đến chết (28-5-1968). Một số tù chính
trị không chịu đựng nổi sự khốc liệt, rớt dần.
Trước tình hình đó, một số người đã tuyên bố tuyệt thực đến chết để chặn
bàn tay khủng bố của kẻ thù. Anh Nguyễn Văn Trường và anh Hồ Văn sắc tuyệt thực
từ giữa tháng 5-1968 để phản đối đàn áp, đòi tôn trọng tự do tư tưởng, thực hiện
qui chế tù chính trị. 10 ngày sau Hồ Văn sắc rớt, một mình Nguyễn Văn Trường tiếp
tục cuộc tuyệt thực ròng rã hơn 2 tháng trời. Khi anh lả đi, chúng bơm sữa vào
hậu môn. Tỉnh lại, anh tiếp tục tuyệt thực. Cùng lúc đó, Nguyễn Văn Chánh và Sầm
Thanh Liêm đã tuyệt thực, phản đối kỷ luật tàn bạo tại chuồng cọp.
Công văn số 341/CSQG CS/CSĐB/M ngày 31-7- 1968 của Trưởng ty cảnh sát quốc
gia Côn Sơn cho biết, ngày 24-7-1968, Ty cảnh sát quốc gia Côn Sơn đã cử nhân
viên đến Trung tâm cải huấn để “chứng kiến cuộc tuyệt thực của 3 chính trị phạm
VC tên Nguyễn Văn Trường đính bài số C.18526, sầm Thanh Liêm số A.3564 và Nguyễn
Văn Chảnh CT.610 đang bị biệt giam tại Khu biệt lập II để phản đối nội quy
Trung tâm... Can phạm Nguyễn Văn Trường tuyệt thực đến nay đã 2 thảng 6 ngày,
được đưa về bệnh xá Trại IV vào sáng 23-7-1968... Hai can phạm Sầm Thanh Liêm
và Nguyễn Văn Chảnh tuyệt thực tính đến nay đã 18 ngày, vẫn còn ngoan cố, chưa
chịu tuân theo nội quy Trung tâm, nhưng củng đã được đưa về bệnh xả Trại IV
ngày 26-7-
1968”.
Nguyễn Văn Trường tuyệt thực đến ngày thứ 72. Khi ấy anh đã bị liệt cột
sống, nằm bất động. Nguyễn Văn Chánh và Sầm Thanh Liêm tuyệt thực đến ngày thứ
26. Ba anh đă đạt kỷ lục dài ngày nhất về tuyệt thực, nêu tấm gương bền bỉ tự lực
chiến đấu trong lực lượng tù án chính trị chống chào cờ. Đến khi địch tuyên bố
ngừng đợt khủng bố tại chuồng cọp, các anh mới ăn uống trở lại.
Khi đó, ngoài Phan Đình Tựu đã anh dũng hy sinh và ba anh tuyệt thực thắng
lợi là Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Văn Chánh, Sầm Thanh Liêm, còn 21 anh “đậu” được
tại chuồng cọp trong đợt đàn áp này là: Phan Văn Huệ, Nguyễn Tử Tòng, Hoàng
Thanh, Ngô Đình Thời, Trương Văn Lành, Bùi Văn Me, Đoàn Văn Khét, Nguyễn Tấn Ngọc,
Đặng Trung Tâm, Liêu Văn Bé, Tào Tựu, Võ Duy Quang, Cao Văn Chín, Phạm Ngọc
Minh, Trần Việt Hùng, Hồ Văn Minh, Đặng Quốc Tuấn, Bảy Bê (Lê Văn Ngọc), Lê
Tùng, Thích Hành Tuệ (Nguyễn Thới), Ngô Vản Thiều.
Nếu như cuộc đàn áp khốc liệt mùa hè 1967 chỉ có sáu anh đậu được thì đợt
đàn áp đẫm máu giữa năm 1968, con số ấy đã tăng lên 24. Điều đó chứng tỏ sức sống
mãnh liệt của phong trào bảo vệ khí tiết.
Tiếp nối truyền thông đấu tranh chống li khai cộng sản của tù chính trị
câu lưu, những ngọn cờ đầu trong cuộc đấu tranh chống chào cờ đã dẫn dắt lực lượng
tù án chính trị vào cuộc đấu tranh chính trị, bảo vệ khí tiết. Ở ngoài mặt trận,
trước khi bị bắt, họ đã phủ nhận chế độ Sài Gòn, tay sai của Mỹ bằng "vũ
khí vật chất" thì giờ đây, giữa lao tù, xiềng xích, nanh vuốt kẻ thù, một
lần nữa họ lại công khai phủ nhận ngụy quyền Sài Gòn bằng "vũ khí tư tưởng",
tuyên bố không thừa nhận chế độ Sài Gòn, tuyên bố chỉ có Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam là người đại diện hợp pháp duy nhất của nhân dân miền
Nam.
Đây không phải chí là lời tuyên bố của một tổ chức chính trị, một phái
đoàn ngoại giao mà là lời tuyên bố của những con người tay trong xiềng, chân
trong còng, trong đọa đày cùng cực, trong nanh vuốt và cạm bầy của kẻ thù,
trong sự đày ải, khủng bố triền miên và căng thẳng tột độ, trong sự đày ải, khủng
bố chết đi sống lại hàng trăm lần. Mỗi một lời tuyên bố của họ đều phải trả giá
bằng máu và mạng sống. Phan Đình Tựu (quê ở Quảng Nam) đã hy sinh ngay trong cuộc
đấu tranh, 24 người đậu được đã tiếp tục bị còng xiềng, cấm cố vô thời hạn đến
tàn phế, bại liệt cả 2 chân, phải lết bằng đôi tay của mình.
Cuối năm 1968, địch đưa số tù bại lết cùng những người mắc các chứng bệnh
nan y về Chí Hòa, sau chuyển về Tân Hiệp (Biên Hòa).
Tại Tân Hiệp, lực lượng tù án chính trị bại lết và tù chính trị câu lưu
mắc bệnh nan y từ Côn Đảo về đã liên tục đấu tranh, không chào cờ ngụy, không
chấp hành nội quy nhà tù, không mặc áo trắng, không đeo thẻ bài khi tiếp thân
nhân thăm nuôi. Các anh Ba Tròn, anh Đại bị địch dùng roi điện đánh lột da
lưng. Các anh Bùi Văn Me, Nguyễn Tấn Ngọc, sầm Thanh Liêm, Nguyễn Mãi bị chúng
lột hết quần áo, đánh đập 3 ngày ba đêm, biệt giam xà lim, còng tréo chân tay
cho đến khi Nguyễn Mãi tắt thở chúng mới ngưng đợt đàn áp, không cưỡng bức thi
hành nội quy nhà tù.
Cuối năm 1969, được tin Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, lực lượng tù chính
trị ở Côn Đảo về đã công khai tổ chức lễ tang Bác tại nhà lao Tân Hiệp, sau đợt
ấy, chúng đày tất cả trở lại Côn Đảo. Trong chuyến đày đi đảo năm ấy, hai anh
Lê Quyết Chiến và Trần Quang Hưng đã tháo còng, nhảy xuống sông Lòng Tàu trốn
thoát. Trước đó, anh Nguyễn Văn Trường và Phan Văn Huệ đang điều trị tại bệnh
viện Biên Hòa cũng tìm cách thoát được ra ngoài. ít lâu sau, cả bốn anh đều lần
lượt bị bắt lại và đày ra đảo.
Từ cuối năm 1968, phong trào chống chào cờ lại bùng lên mạnh mẽ. Nhiều đợt
lưu đày tù chính trị từ nhà lao Chí Hòa ra Côn Đảo đã bổ sung lực lượng chống
chào cờ. Đợt tháng 11-1968 có 42 người chống, đợt tháng 4-1969 có 22 người chống.
Nhiều tù chính trị ở các sở tù khổ sai tự động chống chào cờ từng đợt vài ba
người một. Các báo cáo chu kỳ (10 ngày), nguyệt kì (hàng tháng) của Ban chuyên
môn trung tâm cải huấn Còn Sơn còn lưu lại cho thấy tháng nào cũng có nhiều người
chống chào cờ ngụy. Nguyệt trình số 463/TTCH/CM/NT/M (từ ngày 14-7-1969 đến
ngày 14-8- 1969) đã ghi nhận:
-
Tám can phạm
cs thụ huấn tại các phòng 13, 16, 17 Trại IV (cấm cố) chống chào cờ.
-
Bốn can phạm
cs phòng 6 Trại II (cấm cố) và 2 can phạm phòng
12 Trại IV hoả thực tái chống chào cờ.
-
Tám can phạm
phòng 9 Trại IV chống và tái chống chào cờ.
-
Năm can phạm
phòng 9, 12, 16 Trại IV chống chào cờ.
-
Khoảng 6 giờ
ngày 7-8-1969, tàu HQ.405 vận chuyển 259 can phạm thành án và 115 can cứu cộng
sản từ Trung tâm Cải huấn Sài Gòn đến. Hồi 17 giờ cùng ngày có 53 tên mới ra chống
chào cờ.
-
Ngày 8-8-1969,
2 can phạm cs phòng 6 Trại 11 (mới ra) chống chào cờ.
-
Chiều
9-8-1969, thêm 2 can phạm cs (mới ra) và 3 can phạm cs phòng 16 Trại TV (cấm cố)
chống chào cờ.
-
Hồi 17 giờ
ngày 11-8-1969, một can phạm cs phòng 14 Trại IV (cấm cố) chống chào cờ".
Báo cáo chu kỳ số 737/TTCH/CM/CK/M (Từ ngày 10-12-1969 đến 20-12-1969)
ghi nhận:
-
Hai can phạm cộng
sản phòng 15 Trại IV (cấm cố) chống chào quốc kỳ Việt Nam cộng hòa.
-
Ba can phạm cs
phòng 16 Trại IV (cấm cố) chống chào cờ.
-
Khoảng 15 giờ
30' ngày 14-12-1969 từ Trung tâm Cải huấn Sài Gòn vận chuyển đến Trung tâm 338
can phạm bàng tàu HQ.406 (trong số này cỏ 44 tên chống chào quốc kỳ).
-
Khoảng 18 giờ
ngày 17-12-1969, từ Trung tâm Cải huấn Tân Hiệp đã không vận đến Trung tâm 37
can phạm mới đến chống chào quốc kỳ.
-
Chín can phạm
cs thuộc phòng 9 Trại V (hoả thực) và phòng 5 Trại II (hoả thực) chống chào quốc
kỳ.
-
Bốn can phạm
cs phòng I Trại II chống chào quốc kỳ..
-
Bốn can phạm
cs phòng 15 Trại IV (cấm cố) chống chào quốc kỳ”.
Sô liệu bản Nguyệt trình từ 14-7-1969 đến 14-8- 1969 và Báo cáo chu kỳ từ
ngày 10-12-1969 đến 20-12- 1969 do Ban chuyên môn trung tâm cải huấn Côn Sơn thống
kê cho thấy, trong 40 ngày đó, đã có 191 tù chính trị chông chào cờ, trong đó
có 59 người tại đảo chống và tái chống chào cờ, 98 người từ Chí Hòa và 37 người
từ Tân Hiệp ra chống chào cờ.
Bản báo cáo sơ kết tình hình Nhà lao
Côn Đảo do Ban Tổ chức Trung ương Cục và Ban An ninh Trung ương Cục tổ chức thực
hiện vào năm 1974 còn cho biết 306 phụ nữ (có 2 cháu bé) bị đày Côn Đảo ngày 26
tháng 11 năm 1969 đều tuyên bố chống chào cờ và đấu tranh rất kiên cường.
Lực lượng phụ nữ ra đảo đợt tháng 11 -1969 đã nâng con số chống chào cờ
lên trên 500 người, chưa kể đến hơn 300 tù chính trị câu lưu chống toàn diện
đang bị giam ở chuồng cọp. Chúa đảo Nguyễn Văn Vệ quyết định giải tỏa tù chính
trị câu lưu từ chuồng cọp về Trại IV (cấm cố).
Nhiều người bị còng xiềng và đày ải nghiệt ngã lâu ngày đã teo cơ, bại
liệt, không đi nổi. Tên Giám thị trưởng ban chuyên môn cho bọn trật tự an ninh
sắp hàng đôi từ chuồng cọp về Trại IV dùng roi mây, củi đòn đánh đập man rợ,
xua đoàn tù tàn tạ về trại. Người nào bại liệt không đi nổi chúng đưa lên biệt
giam ở chuồng bò. Từ đấy, chuồng bò là một trong những khu tập trung giam tù bại
liệt.
Đánh đập, khủng bố man rợ hàng trăm trận vẫn không dập được phong trào
chống chào cờ. Chúa đảo Nguyễn Văn Vệ đổi thủ đoạn. Đối với 100 tù án chống
chào cờ vừa giải tỏa từ Chuồng Cọp II, giam tại phòng 9 và phòng 10 Trại IV,
Nguyền Văn Vệ cho xả còng, cho nước tắm, ăn no, cấp thêm một cần xé rau muống,
cho ăn thịt vích, nghỉ 2 ngày, sau đó đưa đi lao động khố sai, bắt rào dây thép
gai quanh Trại VI vừa xây dựng. Hai anh Vũ Đức Đạo và Hồ Hồng Vân (sinh viên)
đã đi đầu trong đợt chống khổ sai làm lao này. Hai anh bị đánh tại chỗ cho đến
khi gục xuống. Noi gương 2 anh, cả hai phòng 9 và 10 Trại IV lần lượt chống đợt
khố sai rào thép gai. Họ chấp nhận chế độ cấm cố và sau đó trở lại chuồng cọp.
Trong số tù chính trị bị đày ra Côn Đảo từ sau cuộc tiến công Tết Mậu
Thân có gần 500 thiếu niên bị giam ở ba nơi: Công xưởng, Sở ruộng Quang Trung
và Sở Rẫy Điền Viên. số ở Công xưởng đông hơn cả (350 em) được hướng nghiệp một
số nghề thủ công cơ khí. Ở Điền Viên có 70 em, còn lại vài chục ở Sở Quang
Trung, cũng được hướng nghiệp về kĩ thuật chăn nuôi, trồng trọt, làm tương...
Nhận rõ các thủ đoạn lừa mị và bóc lột lao động của địch, các em đã tham
gia các phong trào đấu tranh chống khổ sai, phá hoại sản xuất, làm thất bại kế
hoạch “ngũ niên tự túc” của Nguyễn Văn Vệ. Nhiều thiếu niên đã dũng cảm tham
gia phong trào chống chào cờ như Trần Lịch, Đặng Xi, Huỳnh Ngọc Huệ, Lê Văn Hiệp,
Sáng... Nhiều người trở thành cốt cán trong phong trào Đồng Khởi (8-1970) ở Trại
II, Trại III, Trại V sau này.
Sau cuộc đấu tranh chống mắm ruốc và chống còng tháng 11 năm 1969, địch
gom số tù bại lết ở Trại IV về Chuồng Bò, một chi nhánh trực thuộc Trại IV biệt
lập do Ban Chuyên môn của Lê Văn Khương trực tiếp phụ trách. Họ bị đói khát lâu
ngày, cơ thế tàn tạ và thiếu dinh dưỡng trầm trọng. Giờ tắm nắng, hàng trăm người
tù lết ra sân bứt từng nắm cỏ cú (cỏ gấu), cỏ mần trầu ăn.
Hai tên ác ôn Lê Văn Khương và Nguyễn Văn Rỗng cho bọn trật tự đánh đập
họ đổ máu trên sân cỏ, đưa tất cả vào trại rồi cho trật tự nhố sạch cỏ trong
sân, không cho tù ăn. Tên Rồng tuyên bố) “Cỏ này của chính phủ quốc gia. Các
anh không chào cờ, không thừa nhận chính phủ quôc gia nên không được ăn”.
Đầu năm 1970, số tù bại lết lên đến 193 người, địch đưa về nhà dù Trại
VII. Nhà dù được lập tạm theo kiểu lều dã chiến giữa bãi cát trống thuộc khu vực
Trại VII đang xây dựng dở dang. Thiếu tá Nguyễn Văn Vệ cho dựng khu nhà dù này
từ tháng 5-1968 theo chỉ thị của Bộ Nội vụ để chuẩn bị tiếp nhận thêm 5.000 can
phạm mới bị bắt sau Tết Mậu Thân. Khu vực nhà dù có 4 lều liền nhau, quây bằng
tăng (tente) quân dụng của Mỹ, có sạp tre lót sàn nằm trên cát. Ban ngày, hơi
cát nóng bỏng bốc lên cùng mái tăng hấp nóng hắt xuống thiêu đốt người tù. Nửa
đêm, khí đất xông lên lạnh ngắt. Gió thổi cát bụi mù mịt, bữa cơm nào cũng trộn
cát.
Tù bại lết vốn là những người đã có một quá trình đấu tranh kiên cường
trong tù, đến lúc này vẫn là lực lượng xung kích trong đấu tranh chống địch. Một
số cán bộ của Thành đoàn và Đặc khu Sài Gòn - Gia Định hình thành lực lượng
nòng cốt trong Ban lãnh đạo tù bại lết, trong đó có Phan Trọng Danh, Đỗ Hoàng Hải
(Hồ Thái Hòa), Nguyễn Văn Mẫn, Tôn Thất Hương (Nguyễn Nam Lộc), Nguyễn Văn Đô,
Nguyễn Chơn Trung, Nguyễn Văn Minh (Nguyễn Kiên Trung).
Đợt kỷ niệm ngày thành lập Đảng 3-2-1970, với danh nghĩa là Đảng ủy, các
anh đã tổ chức kết nạp Đảng cho 4 thanh niên là Nguyễn Thân Phước, Ngô Văn Thiều,
Tư Ếch, Tuấn. Lễ kết nạp không có cờ, hoa, ảnh Bác, không có văn bản quyết định
nhưng xúc động, trang nghiêm. Các đảng viên cũ và mới đã siết chặt tay nhau ứa
nước mắt. Người trẻ và người già, tất cả trong họ đã nguyện hiến dâng trọn đời
cho lý tương cộng sản, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Đợt kỷ niệm sinh nhật Đảng năm ấy đã chuẩn bị tư- tưởng cho một cuộc đấu
tranh quyết liệt của tù bại liệt. Mục tiêu của đợt đấu tranh này là đòi đưa tù
bại lết về Sài Gòn chữa bệnh, trước hết cải thiện đời sống, giải tỏa trại dù,
đưa về trại cũ. Hình thức đấu tranh là đưa yêu sách, tuyệt thực, hô la, nếu địch
không giải quyết sẽ mổ bụng, quyết tử hy sinh để tố cáo. Mở đầu cuộc đấu tranh,
ngày 18-2-1970, năm anh Đặng Trung Tâm, Võ Duy Quang, Nguyễn Hân, Trần Khắc Phi
và Lê Văn Ngọc tuyệt thực đòi:
1.
Thức ăn phải
được cải thiện.
4.
Phải đưa về
các trại thoáng khí.
Ngày 20-2-1970, địch giải quyết vấn đề thức ăn và nước uống, năm anh kết
thúc tuyệt thực. Nhưng ngày hôm đó, một lều khác của nhà dù lại tiếp tục cuộc đấu
tranh với các yêu sách:
1.
Đưa bác sĩ đến
khám và điều trị.
2.
Cấp phát rau, tuần
3 lần (từ nhiều tháng qua địch đã không cho tù chính trị chống chào cờ ăn rau).
Tù nhân bại lết ngồi thành đội ngũ chỉnh tề tại lều, xé quần áo kết
thành biểu ngữ, dùng mắm ruốc viết khẩu hiệu:
1.
Chúng tôi cực
lực phản đối chế độ lao tù hà khắc, giết hại tù nhân.
2.
Yêu cầu cải
thiện đời sống, có rau, thịt cho tù.
3.
Yêu cầu cho gặp
Ban quản đốc.
Trưởng Trại VII lảm ngơ. Tù nhân bại lết đã hô la khẩu hiệu suốt 2 ngày.
Ngày thứ 3, Ban lãnh đạo quyết định kết hợp cả hai hình thức: hô la và mổ bụng
tố cáo. Tám người xung phong quyết tử. Sau khi bình chọn, người thanh niên 23
tuổi Nguyễn Thân Phước thắng cuộc. Thân Phước là người đề ra hình thức mổ bụng
trong cuộc đấu tranh này. Trước sự ngần ngại của đồng đội, Thân Phước đã phân
tích bằng lý lẽ có sức thuyết phục: “Chúng ta luôn quí trọng sự sống. Nhưng nếu
như vì sự hy sinh của một người mà 192 người khác được sống thêm nửa năm nữa chẳng
hạn thì tập thể chúng ta sẽ có thêm 96 năm sống để tranh đấu cho Đảng. Vì 96
năm sống ấy, cho tôi được hành động”.
Mười giờ sáng ngày 24-2-1970, Thân Phước rạch bụng, lôi một khúc ruột ra
ngoài. Sự phẫn nộ của tù nhân dâng lên tột đỉnh. Tất cả đồng thanh thét vang tưởng
như xé toang cả trại dù:
-
Đả đảo chế độ
lao tù khắc nghiệt!
-
Yêu cầu giải
toả trại dù, cải thiện đời sống tù nhân.
-
Tù nhân mổ bụng
tự sát, yêu cầu Ban quản đốc xuống giải quyết.
Địch cho quân xông vào đánh đập dã man và cướp Nguyễn Thân Phước. Những
người tù bại lết đã vây chặt, giữ thi thể Nguyễn Thân Phước, chống trả đàn áp
và liên tục hô la khẩu hiệu phản đối. Cuộc hô la và chống trả và đàn áp kéo dài
đến 17 giờ chiều, đại úy Nguyễn Phúc Trân, phụ tá Quản đốc đến giải quyết, đưa
xe hơi lên chuyển tất cả tù bại lết về Trại IV, đưa Thân Phước đi bệnh xá.
Phúc trình không số ngày 25-2-1970 của giám thị Trần Văn Du cho biết:
“Vào lúc 18 giờ ngày 24-2-1970, số phạm nhân tạm gửi Trại VII, 193 người nay
chuyến về Trại IV (...) Can phạm Thân Phước, đính bài 19.226 dùng lưỡi lam mổ bụng
dưới sườn phải dài 10 phân, sâu một phân rưỡi (...) Yêu sách đòi tất cả số can
phạm bệnh tật tại Côn Sơn được đưa về Chí Hòa chữa bệnh, thức ăn phải có rau cải,
tuần 3 lần. Thức ăn đúng giá biểu 10 cent mỗi ngày. Tất cả số can phạm nhân được
đưa về Trại IV xong lúc 19 giờ”.
Trước sau, có hơn chục cuộc đấu tranh bằng hình thức mổ bụng để phản đối
chế độ nhà tù giết người, song trường hợp người thanh niên Nguyễn Thân Phước mổ
bụng tranh đấu cùng tập thể tù chính trị bại xụi, tàn phế lần ấy đã gây xúc động
lớn, khích lệ hàng ngàn tù nhân Côn Đảo vùng dậy trong năm 1970.
Hai tên giám thị ác ôn Lê Văn Khương và Nguyễn Văn Rồng, Trưởng và Phó
ban chuyên môn nắm trọn quyền sinh quyền sát với số tù nhân chống đối tại khu vực
cấm cố: Trại IV, Trại I, chuồng cọp, chuồng bò. Lê Văn Khương tiếp tục siết bóp
đời sống số tù nhân chống đối, hòng làm cho họ suy sụp về cơ thể, mòn mỏi về
tinh thần, tàn lụi ý chí đấu tranh, nhưng hắn đã lầm.
Ngày 24-4-1970, tù bại lết phòng 9 Trại IV nổ ra cuộc đấu tranh đòi cấp
rau và thịt. Trong 2 tháng qua, địch vẫn không cấp rau và chỉ cho ăn thịt có một
lần. Mở đầu một cuộc đấu tranh, 9 người tù bại lết ở phòng 9 đã xung phong tuyệt
thực là Thích Hành Tuệ, Trần Văn Hải, Huỳnh Thành Minh, Phan Nhược, Lê Văn Động,
Ngô Mờ, Nguyễn Văn Thoại, Đào Duy Nghệ và Lê Văn Ngọc.
Ngày 28-4-1970, Lê Văn Khương đưa bọn trật tự đến đàn áp, phân tán xuống
chuồng cọp. Trong đợt đàn áp ấy, Hòa thượng Thích Hành Tuệ cùng 3 người nữa đã
mổ bụng để phản đối. Vừa chống trả địch, tù nhân Trại đã hô vang các khẩu hiệu:
“Đả đảo đàn áp tù bại lết”.
Máu chảy - ruột mềm, toàn thể tù chính trị câu lưu Trại I, nữ tù chính
trị ở chuồng cọp, tù binh ở Trại đã hô la ủng hộ cuộc đấu tranh của tù bại lết.
Địch dùng vôi bột và củi đòn đàn áp toàn bộ khu vực Trại I, Trại IV, Trại V và
chuồng cọp.
Cuộc đấu tranh của tù bại lết vẫn tiếp diễn. Ngày 1-5-1970, thêm 9 người
khác tiếp tục tuyệt thực: Võ Duy Quang, Ngô Văn Thiều, Cao Văn Chín, Nguyễn Văn
Thê, Châu Văn Cưu, Huỳnh Công Thuần, Tô Ếch, Trần Văn Tư và Bồ Minh Biện. Địch
phân tán mỗi người một chuồng, đè từng người cán miệng chích thuốc, đổ nước
cháo và cơm.
Tù chính trị câu lưu Trại I, nữ tù chính trị ở chuồng cọp, tù binh ở Trại
V đã hô la ủng hộ cuộc đấu tranh của tù bại lết. Địch dùng vôi bột và củi đòn
đàn áp toàn bộ khu vực Trại I, Trại IV, Trại V và chuồng cọp.
Cuộc đấu tranh của tù bại lết bước vào giai đoạn quyết liệt. Ngày
1-5-1970, thêm 9 người khác tiếp tục tuyệt thực: Võ Duy Quang, Ngô Văn Thiều,
Cao Văn Chín, Nguyễn Văn Thê, Châu Văn Cưu, Huỳnh Công Thuần, Tô Ếch, Trần Văn
Tư và Bồ Minh Biện. Địch phân tán mỗi người một chuồng, đè từng người cán miệng
chích thuốc, đổ nước cháo và cơm.
Ngày thứ 7, Cao Văn Chín mổ bụng, tất cả các chuồng lại phát loa, thông
báo, hô la làm náo loạn chuồng cọp. Tập thế phụ nữ ở chuồng cọp cùng tù chính
trị Trại I, Trại IV, Trại V đều hô la hưởng ứng cuộc đấu tranh của tù bại lết.
Địch dỡ mái ngói, trút vôi bột trấn áp các cuộc hô la, sau đó chúng xối nước
làm cho vôi bột ăn lở loét da thịt, làm rụng tóc người tù. Ngày 17-5- 1970, địch
mới giải quyết một phần yêu sách.
Những đợt đấu tranh quyết liệt của
tù bại lết từ Trại IV, chuồng bò đến Trại VII, chuồng cọp, cùng với phong trào
đấu tranh của hơn 300 nữ tù chính trị tại chuồng cọp đã trở thành ngọn cờ thôi
thúc phong trào đấu tranh chống chào cờ của toàn thể tù chính trị Côn Đảo.
Nữ tù chuồng cọp và vụ chuồng cọp Côn Đảo
Trong những năm 1966-1968, lực lượng nữ tù chính trị bị giam ở Trại V và
chuồng cọp đã trở thành lực lượng trung kiên, sát cánh với tập thể tù chính trị
câu lưu và tập thể tù án chính trị chống chào cờ tại chuồng cọp. Tinh thần đấu
tranh kiên cường của tập thể nữ tù chính trị có tác dụng như một ngòi thuốc
súng, làm bùng lên một cao trào đấu tranh trong lực lượng tù án chính trị.
Tháng 8-1966, ngụy quyền Sài Gòn đày 36 phụ nữ chống đối lâu năm từ các
nhà lao đất liền ra Côn Đảo, giam ở Trại V. Trại V khi ấy có một bộ phận tù
binh và một bộ phận tù câu lưu dân sự mới bị đưa ra. Tập thể nữ tù chính trị là
lực lượng kiên cường tranh đấu. Các chị tuyên bố chống chào cờ, chống nội quy,
chịu chế độ cấm cố khắc nghiệt.
Năm 1967, các chị đã tuyệt thực 10 ngày đòi cải thiện đời sống, đòi đưa
về đất liền. Chị Nguyễn Thị Bé đã dùng dao lam mổ bụng trước mặt tên đại úy
Nguyễn Phúc Trân, phụ tá Quản đốc để phản đối hành động man rợ của chúng đối với
phụ nữ. Cuối năm 1968, địch đưa 36 phụ nữ ở Côn Đảo về Nhà lao Thủ Đức.
Sau cuộc tổ chức lễ tang Bác tại các nhà lao Thủ Đức, Chí Hòa (9- 1969),
ngụy quyền Sài Gòn đày 342 phụ nữ và 2 cháu bé ra Côn Đảo ngày 29-11-1969. Tất
cả bị giam ở Chuồng Cọp, mỗi chuồng 5 người. Bất chấp nội qui, các chị đã liên
hệ công khai, đấu tranh đòi tăng khẩu phần ăn, đòi trả quần áo, vận dụng vệ
sinh, đòi được tắm giặt, có thuốc trị bệnh, đòi cho các chị có thai ra bệnh xá
sinh nở.
Bọn gác ngục đã nhiều lần dàn áp bằng vôi bột và sào nhọn bịt đồng Bản
Sơ kết tình hình Nhà lao Côn Đảo của Trung ương Cục soạn thảo năm 1974 đã đánh
giá: “Từ cuối năm 1969 đến tháng 8- 1970, đội ngũ chị em phụ nữ ở chuồng cọp là
ngọn cờ hiệu triệu dũng cảm nhất, kiên quyết nhất, làm cho địch khiếp sợ, góp
phần động viên phong trào toàn đảo".
Đầu năm 1970, tập thể nữ tù chính trị ở chuồng cọp đã tổ chức học tập Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà một số người có trách nhiệm đã chép được từ
Nhà lao Chí Hòa. Bản Di chúc được chuyền tay trong số cốt cán ở các chuồng. Vào
thời điểm thuận lợi, số cốt cán trong mỗi chuồng sẽ truyền miệng từng đoạn Di
chúc của Bác Hồ kính yêu cho những người cùng chuồng.
Chị Lê Hồng Quân, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn biệt động nữ mang tên Lê Thị
Riêng đã phố biến Di chúc của Bác cho tập thể 14 chị em què lết, tàn tật ở gian
hầm đá nổi số một đối diện với chuồng cọp II vào đúng dịp 19-5-1970.
Bọn gác ngục lợi dụng đặc điểm sinh lý của phụ nữ để kìm kẹp không chế
các chị. Hình phạt tồi tệ mà chúng thường áp dụng là không cho tắm, không cho
nước rửa, không cho đổ thùng cầu. Có lúc chỉ vì không chịu khai tên tuổi, chúng
phạt 19 chuồng phụ nữ, không cho đổ thùng cầu, chuồng lâu nhất bị phạt 53 ngày.
Không có đồ dùng vệ sinh, các chị phải xé quần áo rách ra dùng mỗi kỳ có
kinh, dùng nước tiểu mà giặt, quạt cho khô dùng tiếp. Chuồng cọp lúc nào cũng nồng
nặc mùi hôi hám, khó chịu. Khi hết cả những mảnh áo rách, các chị phải ngồi
trên thùng cầu hoặc trên những tấm nilon trong suốt thời kỳ có kinh, lâu lâu lại
trút vào thùng cầu.
Trong suốt 8 tháng ở chuồng cọp, các chị chỉ được ăn 3 lần thịt heo, 3 lần
rau xanh, còn lại là tương chua và mắm ruốc xấu. Thêm vào đó là các trận đàn áp
bằng vôi bột làm cho cơ thể suy sụp rất nhanh. Rệp ở chuồng cọp rất nhiều,
chúng phụ họa với bọn gác ngục xâu xé các chị. Chống rệp không khác gì chống giặc.
Mỗi đêm các chị giết hàng trăm con, vệt máu giết rệp đỏ bầm khắp tường mà cuộc
chiến đấu không đêm nào kết thúc. Ớ các chuồng giam tù nam giới, tình cảnh cũng
diễn ra tương tự.
Song song với các thủ đoạn đàn áp, kẻ địch còn dùng biện pháp mua chuộc,
phân hóa, tách được 25 phụ nữ cầu an ra khỏi đội ngũ. Số này chịu điều kiện, chấp
hành nội qui, chịu chào cờ ngụy, được chúng ưu ái cho mở chuồng suốt ngày, cho
gửi thư, nhận tiền của gia đình, được đi chợ mua gạo và thực phẩm về nấu ăn.
Sinh hoạt trong tù cỡ đó cũng xem như “thần tiên” giữa chốn “địa ngực trần
gian”. Những nữ tù kiên trung thuở ấy còn nhớ mãi kỷ niệm sâu sắc về bà Sáu Mù.
Tên thật của bà là Nguyễn Thị Chỉ, quê Quảng Nam, mắt đã lòa, nhưng bà vẫn
đứng vững trong tập thế chiến đấu, chống chào cờ, chống nội quy, chịu mọi cực
hình ở chuồng cọp I. Tóc bạc, lưng còng, mắt mờ, sức yếu, bà thường nép mình
vào một xó chuồng, đôi tay run rẩy, rờ rẫm trên đầu gối mình, lơ đãng lắng nghe
mọi âm thanh đơn điệu xung quanh chuồng 27.
Tháng 6-1970, trong một lần xáo trộn, bà Sáu Mù được đưa về chuồng 24,
nơi giam những phụ nữ đã chịu điều kiện. Họ cũng thương bà, kính phục bà. Đến bữa
thấy khẩu phần ăn có đĩa rau muống và nửa hột vịt luộc nóng hổi và thơm phức,
bà biết ngay là đang ở chung với số phụ nữ chịu điều kiện, chấp hành nội quy.
Bà gắp miếng hột vịt lên rồi lại bỏ xuống, trào nước mắt, bỏ cơm, xin về lại
chuồng 27 chung với tập thể chiến đấu, với tương chua, mắm ruốc nặng mùi quen
thuộc của chế độ kỷ luật.
Hình ảnh bà má Sáu Mù gần 70 tuổi giam chung với các nữ sinh 15 tuổi và
các nhà sư bị hành hạ trong chuồng cọp đã được phái đoàn nghị sĩ Mỹ phơi bày
trước dư luận quốc tế vào tháng 7-1970, trong vụ phát hiện ra những sự thật
kinh khủng tại Chuồng Cọp Côn Đảo.
Vụ “chuồng cọp Côn Đảo” đã tạo nên một chấn động chính trị, phơi bày sự
dính líu thối nát của chính quyền Mỹ tại Nam Việt Nam. Vào tháng 6 năm 1970, một
Ủy ban điều tra của Hạ nghị viện Mỹ đã đến Sài Gòn để điều tra về các khoản viện
trợ Mỹ cho Nam Việt Nam.
Cùng thời điểm đó, Bản tường trình của 5 sinh viên học sinh Cao Nguyên Lợi,
Nguyễn Thanh Tòng, Nguyễn Tuấn Kiệt, Trần Văn Long, Nguyễn Minh Trí về một địa
ngục có thật tại Chuồng Cọp Côn Đảo mà họ vừa trải qua đã được đọc trước Liên Ủy
ban Nội vụ - Tư pháp định chế - Xây dựng nông thôn của Hạ nghị viện ngụy, phiên
họp ngày 19- 6-1970. Bản tường trình được in rồi phân phát trong hội nghị và giới
báo chí. Nhờ đó mà nhà báo Don Luce đã tìm cách gặp những sinh viên này và được
họ chỉ dẫn sơ đồ chuồng cọp Côn Đảo.
Ngày 2-7-1970, hai dân biểu Mỹ Augustus Hawkins và William Anderson đã
tách ra khỏi đoàn, bay ra Côn Đảo. Don Luce tháp tùng chuyến đi với danh nghĩa
phiên dịch. Luce năm ấy 35 tuổi, là thư ký Hội đồng Nhà thờ thế giới, từng là
Giám đốc cơ quan tình nguyện quốc tế ở Việt Nam, nói thạo tiếng Việt.
Trong lời tường thuật trước giới báo chí, hai dân biểu Mỹ khẳng định rằng,
các ông đã tận mắt thấy: “Khoảng 500 người bị giam trong các chuồng cọp... Có
những tu sĩ phật giáo... Có nhiều phụ nữ từ 15 đến 70 tuổi, có cả những bù già
bị mù mắt... Họ bị giam giữ chỉ vì đấu tranh cho Hòa bình... Họ bị bỏ đói, bỏ
khát bị nhốt như những con vật trong các chuồng cọp... Họ bị ngạt thở vì người
ta tung vôi bột vào trừng phạt họ... Trong bảy tháng họ chỉ được ăn rau có 3 lần...
Nhiều người trong số đó bị còng lâu ngày đến mức không thể đứng lên bằng đôi
chân của mình được nữa... Đó là sự đối xử kinh khủng nhất đối với con người mà
chúng tôi chưa bao giờ được thấy...”.
Dân biểu Anderson đã chỉ trích các nhân viên của cơ quan AID của Mỹ làm
nhiệm vụ cố vấn cho chính phủ Nam Việt Nam về chế độ nhà tù.
Ngày 7-7-1970, nhiều Hãng thông tin phương Tây như UPI, AP (Mĩ), AFP
(Pháp), Roitơ (Anh) đã đưa một loạt tin về cuộc họp báo của 2 dân biểu Augustus
Hawkins và William Anderson về thực trạng kinh khủng mà những người tù chính trị
đang phải chịu đựng ở Chuồng Cọp Côn Đảo. Dân biểu Hawkins, một trong 12 thành
viên của Ủy ban điều tra Hạ nghị viện Mĩ đến Việt Nam đã tuyên bố từ chức để phản
đối Ủy ban này bưng bít sự thật về tội ác của cố vấn Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn tại
Côn Đảo, nhất là trong các chuồng cọp. Hawkins cho biết, trong bản báo cáo dày
70 trang của Ủy ban này, chỉ có một đoạn nói về Nhà tù Côn Đảo.
Bài viết về vụ chuồng cọp Côn Đảo của John Helmul và Don Luce đăng trên
tạp chí TIME, phát hành hàng triệu bản trên khắp toàn cầu cuối tháng 7-1970 đã
làm chấn động dư luận thế giới về sự khủng khiếp của nhà ngục của Mỹ ngụy tại
Nam Việt Nam.
Những ngày tiếp theo, nhiều tờ báo lớn ở Mỹ, Pháp, Nhật, Italia, Cộng
Hòa Liên bang Đức, Cộng Hòa Dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Liên Xô... đã đưa tin và dẫn
lời của 2 dân biểu Mỹ, lên án tội ác của Mỹ - ngụy tại chuồng cọp.
Lời tố cáo của 2 dân biểu Mỹ là xác đáng, tuy nhiên, đó chỉ là một phần
nhỏ về sự thật tội ác của Mỹ ngụy mà hai ông tận mắt chứng kiến. Song sự thật
bé nhỏ ấy đã thức tỉnh lương tri nhân dân Mỹ và nhân loại tiến bộ, rằng chính
phủ Mỹ đang tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược đầy tội lỗi và sự nhơ bẩn của
hàng chục tỉ đô la viện trợ mỗi năm để bảo hộ cho một chính quyền tay sai tàn bạo,
phi nhân tính.
Bản tin Việt Nam Thông tấn xã, Thông tấn xã Giải phóng đã đưa tin lên án
tội ác của Mỹ - ngụy đối với tù chính trị Côn Đảo, chỉ trích gay gắt bọn cố vấn
Mĩ, chúa đảo Nguyễn Văn Vệ, trưởng ban chuyên môn Lê Văn Khương. Tờ Tin Sáng xuất
bản tại Sài Gòn ngày 15 và 16-7- 1970 đã đăng toàn bộ thiên phóng sự của Don
Luce về chuồng cọp Côn Đảo, khởi đầu cho phong trào đấu tranh đòi cải thiện chế
độ lao tù ở miền Nam Việt Nam.
Trước áp lực của dư luận, ngụy quyền phải mở cửa chuồng cọp, quét dọn sạch
sẽ. Trung tuần tháng 7-1970 địch chuyển số tù án chống chào cờ về chuồng bò,
chuyển toàn bộ phụ nữ về Trại V. Sau đó chúng cho tay chân đập phá vách ngăn và
dàn song sắt chuồng cọp II, dỡ một phần mái ngói chuồng cọp I, đưa các đoàn báo
chí ra quay phim, chụp hình.
Về Trại V, tập thế nữ tù chính trị nhanh chóng củng cố tổ chức, hình
thành Ban cán sự tại mỗi phòng để lãnh đạo toàn diện các hoạt động của tù nhân.
Các chị tiếp tục đấu tranh đòi đưa về đất liền, trả tự do, trong khi chờ đợi trả
tự do phải được cải thiện đời sống, có thuốc men trị bệnh, được nhận thư và bưu
kiện tiếp tế của gia đình. Tháng 11-1970, ngụy quyền đưa tất cả phụ nữ tù về
Nhà lao Tân Hiệp (Biên Hòa).
Đồng khởi chống khổ sai và chống chào cờ
Từ đầu năm 1970, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thư đầu năm (1970)
của Trung ương Cục gửi các dồng chí trong các nhà lao đã được bóp Đường dây Côn
Đảo chuyển cho các trại tù chính trị. Xúc động về Di chúc Bác Hồ và phấn khởi về
chủ trương chỉ đạo của Trung ương Cục, tù chính trị các trại tù khổ sai đã thảo
luận một phương án vùng lên tranh đấu.
Tinh thần đấu tranh kiên quyết của nữ tù chính trị, của tù chính trị chống
chào cờ và tù bại lết ở chuồng cọp, chuồng bò, nhà dù Trại VII dồn dập từ đầu
năm 1970 đã tạo khí thế mới, thôi thúc phong trào, nhất là từ khi vụ “chuồng cọp
Côn Đảo” được phơi bày trước dư luận quốc tế.
Theo một báo cáo của tù chính trị do bộ phận Đường dây Côn Đảo tổng hợp
ngày 23-11-1970 gửi Trung ương Cục miền Nam, Ban lãnh đạo các trại tù khổ sai
đã tập hợp ý kiến của tù chính trị các phòng, các trại và thông nhất phát động
một đợt đấu tranh qui mô toàn đảo mang tên tháng Tám nhằm:
-
Chống khủng bố,
phá lỏng kìm kẹp, giành quyền làm chủ.
-
Hạ uy thế địch,
nâng cao uy thế tù chính trị. Mở đầu cho thời kì tiến công chính trị, phối hợp
với cuộc đấu tranh tố giác Mỹ - ngụy ở bên ngoài.
-
Tích cực xây dựng
lực lượng, chuẩn bị đón thời cơ mới.
-
Thiết thực kỉ
niệm ba ngày lễ lớn: 19-8, 2-9, 3-9 và củng là hành động cụ thể làm theo Di
chúc thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu.
Bản sơ kết tình hình Nhà lao Côn Đảo cho biết, cuộc đấu tranh dã diễn ra
sôi nổi với các hình thức trực diện, đưa yêu sách, bãi công đòi hạ mức khổ sai,
cải thiện đời sống, loại trật tự, mật báo ra khỏi phòng, bầu đại diện, làm chủ
sinh hoạt trong các phòng giam kết hợp chống chào cờ. Phương châm đấu tranh là:
bất ngờ, khẩn trương, đồng loạt, nhân nhượng, chú trọng yêu cầu dân sinh (hạ mức
khổ sai) nhưng bám chắc yêu cầu chính trị (chống chào cờ, loại ác ôn, bầu đại
diện).
Ngày 11-8-1970, Sở Củi đưa yêu sách hạ mức khổ sai, củi chẻ từ 4 tấc xuống
3 tấc, củi đòn từ 7 tấc xuống 5 tấc, đòi tăng thực phẩm, chấm dứt khủng bố đánh
đập, loại bọn giám thị, trật tự ác ôn ra khỏi sở. Cùng ngày, các sở cử người trực
diện đưa yêu sách cho Ban Quản đốc, đòi giảm giờ làm, thêm thức ăn, cấp rau cải,
thuốc chừa bệnh, thêm người làm rẫy cải thiện. Kíp lao công nội trại và Nhà bếp
đòi nghỉ bù ngày chù nhật.
Ngụy quyền Côn Đảo hết sức lúng túng, chúng hứa sè chuyến các kiến nghị
của tù nhân về Bộ Nội vụ. Tù nhân tiếp tục đấu tranh. Sở Rẫy Đông Phong bãi
công phản đối tên chủ sở gian ác.
Bước vào giai đoạn 2, toàn thể Trại III, Sở Vệ Sinh, Sở Ruộng và Lò Gạch,
các phòng mãn án câu lưu của Trại VI đấu tranh đòi được bầu đại diện phòng, đại
diện trại, loại bọn ác ôn, tăng thực phẩm. Địch chấp nhận việc bầu đại diện,
còn yêu sách tăng thực phẩm, chúng hứa chuyền về Bộ. Ngày 16-8-1970, Trại III
và ba sở của Trại II bầu xong đại diện, bọn trật tự ác ôn, mật báo tự động rút
lui khỏi các phòng.
Nắm được bước phát triển của phong trào, Ban lãnh đạo Trại II và Trại
III quyết định phát động đấu tranh chính trị, chống chào cờ. Ngày 21-8-1970,
toàn thể Trại III nhất loạt chống chào cờ. Tù chính trị Trại II cũng đưa toàn bộ
yêu sách, tuyên bố bãi công chờ Ban Quản đốc nhà tù giải quyết, đồng thời chống
chào cờ ngay lúc đó. Địch đưa tất cả vào cấm cố.
Lực lượng tù bại lết ở Sở Muối trực diện đưa yêu sách chống khô đắng,
đòi cấp rau xanh 3 ngày một lần, phát quần áo năm 1970. Sau 3 ngày địch không
giải quyết, anh em đã lết ra đường, căng biểu ngữ, hô khẩu hiệu đấu tranh. Địch
đàn áp làm 15 người bị thương nặng.
Ngày 24-8-1970, thiếu tá Nguyễn Văn Vệ gửi Công điện thượng khấn số
472/TTCH/CS/M/ZZ về Bộ chỉ huy cảnh sát quốc gia xin lực lượng cảnh sát dã chiến
cơ động ra đàn áp. Nha cảnh sát quân khu 3 được lệnh chuẩn bị một đại đội cảnh
sát dã chiến, trang bị đầy đủ dụng cụ chống bạo động, dự trù phương tiện cần
thiết để sẵn sàng không vận ra Côn Sơn khẩn cấp khi tình hình đòi hỏi.
Ngày 31-8-1970, gần 100 tù nhân Công Xướng, 50 tù nhân Sơ ruộng Quang
Trung và gần 300 tù nhân làm lao công xây dựng lao mới (Trại VI, Trại VII và Trại
VIII) đã bãi công, vào cấm cố. Hơn 4.000 tù chính trị đồng loạt chống chào cờ
và chống khổ sai đã tạo một uy thế chính trị vô cùng to lớn, làm chuyển biến
tương quan lực lượng, mở màn cho một giai đoạn đấu tranh quyết liệt với địch.
Toàn bộ sinh hoạt trên đảo dựa trên lao động khổ sai của tù nhân nay bị
ngừng trệ. Ngụy quyền Côn Đảo phải sử dụng bọn trật tự an ninh và trại sinh tiểu
đoàn tâm lý chiến thí điểm vào việc dọn vệ sinh, đốn củi, phục dịch trong cư xá
giám thị và khu gia đình. Ngày 3- 9- 1970, toàn thể các trại đều làm lễ tưởng
niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, học tập Di chúc Bác Hồ và kiểm điểm quá trình đấu
tranh trong tù. Sau này, tù chính trị Côn Đảo gọi đợt tranh đấu tháng 8-1970 là
cao trào Đồng khởi chống khổ sai và chống chào cờ.
Được tăng cường một đại đội cảnh sát dã chiến, Nguyền Văn Vệ đưa tối hậu
thư vào tất cả các phòng, buộc tù nhân đầu hàng vô điều kiện (chấp hành nội
quy, chào cờ, làm khố sai), nếu không chúng sẽ dùng biện pháp mạnh. Các phòng đều
trả lại tối hậu thư.
Ngày 5-11-1970, Nguyễn Văn Vệ tập trung toàn bộ giám thị, trật tự và cảnh
sát dã chiến lần lượt tiến công từng trại. Hàng trăm tù nhân đã bị thương tích
nặng vì lựu đạn cay, dùi cui, gậy gộc. Sau 3 tháng đàn áp, có đến một phần ba số
tù chính trị chống chào cờ bị bức rời hàng ngũ, còn “đậu” được 2.640 người. Đó
là con số kỷ lục về chống chào cờ sau những trận đàn áp khốc liệt từ trước đến
nay.
Bất lực, Nguyễn Văn Vệ bị cách chức, ngụy quyền Sài Gòn đưa trung tá Cao
Minh Tiếp ra thay. Vốn là sĩ quan tình báo đã được nhiều lần tu nghiệp ở Mỹ, từng
làm Giám đốc Trung tâm tình báo hỗn hợp Việt - Mỹ phụ tá Tổng thư ký úy ban Phượng
hoàng Trung ương, Cao Minh Tiếp thực hiện nhiều thủ đoạn nham hiểm và thâm độc.
Ra Côn Đảo tháng 2-1971, Tiếp huy động tất cả các nguồn thực phẩm cho tù
nhân ăn tết cổ truyền. Hắn tự tay viết thư chúc tết tù nhân, và đặt thẳng vấn đề
“hợp tác sản xuất” giữa tù nhân và nhà tù, nêu khẩu hiệu “tự túc tự cấp - có
làm, có hưởng”. Cao Minh Tiếp trả lại sinh hoạt bình thường cho các trại cấm cố,
cấp hột vịt, coi như phần ăn phụ trội, mở hội nghị đại diện tù nhân các trại đế
thăm dò nguyện vọng mà thực chất là ráo riết chuẩn bị cho âm mưu:
-
Lừa mị để
chiêu hồi sản xuất
-
Đàn áp để đánh
rã số chống chào cờ ngoan cố
-
Thanh lọc tù
nhân, phẩn vùng giam giữ.
Tuy nhiều thủ đoạn, Cao Minh Tiếp vẫn bất lực. Tù chính trị tẩy chay khẩu
hiệu “tự túc, tự cấp - có làm, có hưởng”, mặc dù hắn đã tăng mức hưởng lợi từ
25% lên 40%, 60%, 80% rồi 100%.
Bất chấp sự đàn áp, khủng bố, số tù chính trị chống chào cờ vẫn tăng lên
đến hơn 3.000 vào tháng 7- 1971. Cao Minh Tiếp ráo riết thúc đẩy việc xây dựng
khu biệt lập Trại VII (chuồng cọp Mỹ), và thanh lọc tù nhân, thực hiện chiến lược
phân vùng giam giữ. Trong tháng 11 và tháng 12-1971, Tiếp chỉ huy nhiều trận
đàn áp, xé phòng dồn trại, đưa trên 1.000 tù án chính trị mà chúng xem là cốt
cán, biệt giam về Trại VII đưa hơn tám trăm tù chính trị câu lưu từ Trại I về
Trại VI khu B. Chiến lược phân vùng giam giữ của Cao Minh Tiếp chia Côn Đảo
thành 3 khu vực:
-
Khu vực I gồm
Trại II, Trại III và các Sở tù khổ sai là nơi giam giữ số tù nhân chấp hành nội
quy, chịu làm khổ sai,
-
Khu vực III gồm
Trại VI, Trại VII, và Trại VIII là nơi cấm cố các phần tử cốt cán, cầm đầu, khó
cải tạo.
-
Khu vực II gồm
Trại I, Trại IV và Trại V là khu đệm,vừa có cấm cố, vừa khổ sai, chờ thanh lọc,
phân loại.
Tháng 5-1972, thực hiện xong chiến lược phân vùng giam giữ, ngăn chặn đấu
tranh, Cao Minh Tiếp được thăng chức đại tá, làm Giám đốc Nha cải huấn, trung
tá hải quân Đào Văn Phô ra Côn Đảo kế vị.
Nhằm đối phó với cuộc tiến công mùa hè 1972 của quân và dân ta, Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu ra Sắc lệnh 271-TT/SL ngày 10-5- 1972 ban bố tình trạng khẩn
trương, thiết quân luật trên toàn lảnh thổ Việt Nam cộng hòa.
Ngày hôm sau, 11-5-1972, Bộ chỉ huy cảnh sát quốc gia ngụy cho di tản
ngay 828 người tình nghi là cộng sản vừa bị bắt ở Thừa Thiên ra Côn Đảo, trong
số đó có 515 nam, 313 nữ, ngoài ra còn có 36 trẻ em từ một đến 9 tuổi bị bắt
theo mẹ. Phiếu trình số 878/ĐB/E225 ngày 2-6-1972 của Trướng khối cảnh sát đặc
biệt cho biết, Côn Đảo khi đó có 8.441 tù nhân, trong đó có 2.924 can cứu cộng
sản an trí, 4.237 can phạm thành án và 828 nghi can cộng sản.
Đợt di tản thứ 2 có 398 nghi can bị đày ra Côn Đảo ngày 13-6- 1972. Tất
cả đều là thường dân ở các quận Phú Cam, Phú Lộc tỉnh Thừa Thiên, không rõ tội
trạng, không có hồ sơ, án tiết, chí có một bản danh sách ghi "tình nghi hoạt
động cho cộng sản".
Từ ngày 22-6 đến 6-7-1972, Bộ chỉ huy cảnh sát Quốc gia Sài Gòn đã cử 3
toán cảnh sát đặc biệt, tổng cộng 23 tên do thiếu tá Lê Kim Vũ làm Trưởng đoàn
ra Côn Đảo thẩm vấn và phân loại. Phiếu trình số 966/BTL/CSQG/ĐB/E2 ngày
26-6-1972 cho biết: “Việc phân loại phải thực hiện trong thời gian 60 ngày. Côn
Đảo đang lập thêm một trại giam bằng lều vải để tiếp nhận thêm can phạm từ đất
liền đưa ra”.
Từ cuối năm 1972, ngụy quyền Côn Đảo ráo riết phân loại tù nhân, xé
phòng đồn trại nhằm thực hiện âm mưu ém dấu tù chính trị, chuyển án chính trị
thành thường phạm. Cuộc đấu tranh của tù chính trị Côn Đảo bước vào giai đoạn mới,
quyết liệt và mạnh mẽ, trên cơ sở pháp lý của Hiệp định Paris (1973).
Tiểu đoàn tâm lý chiến thí điểm
Bất lực trước phong trào chống chào cờ ngày càng dâng lên mạnh mẽ, chúa
đảo Nguyễn Văn Vệ cùng phái đoàn cố vấn Mỹ tại Côn Đảo đã soạn thảo “Chương
trình tâm lý chiến Côn Sơn” thay cho chính sách cải huấn thực thi trong nhiều
năm qua đã thật sự phá sản. Chương trình này đưa ra dự án xin 300 sĩ quan tâm
lý chiến của quân đội ngụy để thành lập 10 tiểu đoàn tâm lý chiến, được tuyển mộ
trong số tù chính trị Côn Đảo. Phiên họp Hội đồng Nội các ngụy ngày 26-9- 1969
chấp thuận cho thành lập một tiểu đoàn thí điếm với Sự trợ giúp hữu hiệu của
các cố vấn Mỹ và Đài Loan.
Tổng cục chiến tranh chính trị ngụy đã tuyển chọn 30 sĩ quan tâm lí chiến,
biệt phái qua Nha cải huấn, giao cho cố vấn Mỹ và cố vấn Đài Loan huấn luyện 4
tuần về quản trị khám đường, thực tập 2 tuần tại khám Chí Hòa. Tháng 5-1970,
thiếu tá Nguyễn Văn Vệ được cử làm Trưởng đoàn đưa 30 tên sĩ quan tâm lý chiến
đi thụ huấn tại Đài Loan trong 5 tuần lễ.
Sau khoá huấn luyện, trung tá YINKANG cầm đầu một đoàn cố vấn tâm lý chiến
cùa Trung Hoa dân quốc bay ra Côn Đảo, cùng cố vấn Hoa Kỳ và Trung tâm cải huấn
Côn Sơn tuyển lựa 800 tù chính trị ‘‘theo tiêu chuẩn an trí trên một năm, biết
đọc, biết viết, “hạnh kiểm tốt”, lập thành 5 đại đội, 15 trung đội, dưới quyền
một sĩ quan tiểu đoàn trưởng, 5 đại đội trưởng, 15 trung đội trưởng và một Ban
tham mưu”.
Địch chọn vào Tiểu đoàn tâm lý chiến thí điếm hầu hết số tù mới bị bắt từ
sau cuộc tiến công Tết Mậu Thân (1968), chưa có án tiết và chưa có biểu hiện chống
đối. Từ khi họ ra Côn Đảo, ngụy quyền đã giam riêng ở Trại VI khu A, vừa được
xây dựng. Trại VI A được tổ chức theo kiểu quân sự hóa, kết hợp với hình thức tự
quản của tù nhân. Bọn sĩ quan tâm lý chiến dùng quy chế quân sự để quản trị
thay cho quy chế nhà tù.
Chúng không gọi tù nhân là can phạm, can cứu mà gọi là trại sinh. Trại
sinh mặc quần áo lính ngụy, không đeo phù hiệu, được sinh hoạt tự do trong trại,
được tự do tranh luận với các sĩ quan tâm lý chiến. Thông qua tranh luận, chúng
loại dần các trại sinh có tư tưởng chống đối.
Chương trình tâm lý chiến huấn luyện 216 giờ giáo dục công dân, 172 giờ
văn hóa, 517 giờ chính trị, 612 giờ hướng nghiệp, 70 giờ văn nghệ, 72 giờ thể dục,
156 giờ khảo hạch.
Phiếu trình số 4456/BNV/CH/10 ngày 12-12-1971 của Giám đốc Nha cải huấn
Nguyễn Phú Sanh gửi Thủ tướng ngụy cho biết: Trong số 800 trại sinh thuộc tiểu
đoàn tám lý chiến thí điểm, có 426 người đã chống lại dưới nhiều hình thức, còn
lại 374 người theo học hết chương trình. Mãn khoá (từ 31-8-1970 đến
29-10-1971), 368 trại sinh đủ điểm để phóng thích. Trại sinh Hồ Văn Tư (tự Út
Oanh), đính bài 11524 thuộc tỉnh Vĩnh Long “đậu” thủ khoa. Trại sinh Đinh Thái
Bình (bí danh Tư Bê, Giá Rai, Bạc Liêu) trước khi mãn khoá đã lên văn phòng tiểu
đoàn một tháng viết phản tính, hiến kế đánh phả Việt Cộng. Hai trại sinh Lý Văn
Thắng, đính bài 13264 ở Kiên Giang và Nguyễn Văn Chiến, đính bài 13745 ở Sóc
Trăng đã xin ở lại làm mật bảo viên cho tiểu đoàn ở khoá học tiếp theo mà không
cần hưởng thù lao.
Trung tá Nguyễn Mẫu, trưởng khối cảnh sát đặc biệt đã lập phiếu trình
ngày 25-12-1971, đề nghị Tư lệnh Bộ chỉ huy cảnh sát quốc gia chấp thuận đề nghị
của Nha cải huấn: “Tăng cường và bành trướng đoàn cán bộ tâm lý chiến để có thể
cung ứng ít nhất cho 4 trung tâm ở đất liền là Thủ Đức, Tân Hiệp, Sài Gòn và
Trung tâm thiếu nhi Đà Lạt”.
Theo chủ trương này, Tiểu đoàn Tâm lí chiến khóa II đã được thành lập
vào tháng 4-1972, song tiểu đoàn này chết yểu sau đó một tháng.
Đối với tập thể tù chính trị câu lưu Trại I, bọn gác ngục đã bất lực
không khuất phục được về chính trị, chúng thực hiện các thủ đoạn giam giữ họ
trong khuôn khổ kỷ luật nhà tù, lúc nới lỏng, lúc xiết chặt, tùy theo tình
hình.
Tháng 2-1971, trung tá Cao Minh Tiếp ra nhận chức chúa đảo, thực thi
chương trình “chiêu hồi sản xuất”, xoa dịu tình hình, chế độ lao tù đờ phần khắc
nghiệt. Tù chính trị câu lưu được ra sân chơi, được quản trị Nhà bếp, trồng rau
cải thiện, mỗi tháng được đôi lần ăn cá tươi. Tháng 8-1971, Cao Minh Tiếp ra lệnh
cấm cố trở lại, tước quyền quản trị Nhà bếp, bữa ăn chỉ còn cơm hẩm và mắm
thôi.
Ban lãnh đạo tù chính trị câu lưu Trại I quyết định phát động một đợt đấu
tranh nhằm:
-
Mục đích yêu cầu:
Đòi nới rộng từng phần về đời sống, hạn chế sự siết bóp của địch, phối hợp với
phong trào đấu tranh chung trên đảo và gắn với phong trào đấu tranh chính trị
bên ngoài, lấy đấu tranh để củng cố và xây dựng nội bộ.
-
Khẩu hiệu, yêu
sách: Đòi trả tự do cho tù chính trị không án (câu lưu) và mãn án, đưa về đất
liền trị bệnh cho người già yếu, trong lúc chờ trả tự do phải cải thiện đời sống.
-
Hình thức đấu
tranh: Trực diện yêu sách, dư luận phản ứng, thông báo hô la, vận động tranh thủ...
Nếu địch ngoan cố sẽ tuyệt thực".
Trình tự cuộc đấu tranh diễn ra giống như dự kiến. Sau một tuần trực diện
nêu yêu sách, địch vẫn không giải quyết. Tập thể tù chính trị câu lưu quyết định
sử dụng hình thức hô la thông báo toàn trại và tuyệt thực. Cuộc tuyệt thực kéo
dài đúng 14 ngày, 13 người dao động, bỏ cuộc nhưng tập thể quyết định đấu tranh
đến cùng. Có 5 tù chính trị ở phòng 7 dùng dao lam mổ bụng moi ruột để biểu thị
ý chí quyết tử tranh đấu.
Ngày 1-10-1971, theo lệnh của Tổng quản đốc các trung tâm cải huấn, Cao
Minh Tiếp trả lại sinh hoạt bình thường, trả quyền quản trị Nhà bếp, bệnh xá,
cung cấp rau xanh cho các bữa ăn và cấp thuốc điều trị cho những người bị bệnh.
Vấn đề trả tự do và đưa về đất liền, hắn hứa sẽ đề đạt cấp trên nghiên cứu giải
quyết. Cuộc đấu tranh kết thúc thắng lợi vào lúc 17 giờ ngày 1-10-1971. Thắng lợi
của đợt tranh đấu này đã góp phần quan trọng củng cố nội bộ, nâng cao uy thế của
tù chính trị câu lưu.
Thực hiện chiến lược phân vùng giam giữ, ngày 20- 12-1971, Cao Minh Tiếp
ra lệnh chuyển hơn 800 tù chính trị câu lưu Trại I về Trại VI khu B. Ngày 3-2-
1972 lực lượng tù chính trị câu lưu tại Trại VI khu B đã thành lập Đảng bộ mang
tên Lưu Chí Hiếu. Đồng chí Trần Văn Cao là Bí thư, đồng chí Trịnh Văn Tư là Phó
Bí thư, đồng chí Mai Xuân Cống là Uy viên Thường vụ.
Đợt đầu, Đảng bộ kết tập 11 người, sau đó xây dựng 10 chi bộ trong 10
phòng của Trại VI khu B, mỗi chi bộ từ 5 đến 10 đảng viên tổng số 62 đảng viên
được kết tập vào cuối năm 1972.
Đảng bộ xác định rõ nhiệm vụ là lãnh đạo toàn diện về chính trị, tư tưởng,
tổ chức, hoạt động và tranh đấu của lực lượng tù chính trị câu lưu. Mang tên
Lưu Chí Hiếu, người chiến sĩ kiên cường trong cuộc đấu tranh chống ly khai và
hy sinh anh dũng tại chuồng cọp (24- 12- 1961), vẹn toàn khí tiết, Đảng bộ đã đặt
lên hàng đầu nhiệm vụ lãnh đạo cuộc đấu tranh chính trị, bảo vệ khí tiết của lực
lượng tù câu lưu.
Đảng bộ ra tập san Xây Dựng, tiếng nói của tù chính trị câu lưu Trại VI
khu B, mỗi tháng một số, mỗi số được chép thành 10 bản gửi cho 10 phòng. Anh Lê
Tú tức Nguyễn Đằng được cử làm chủ bút. Báo được chép tay trên giấy học trò khổ
nhỏ (khoảng 9 X 13cm), trình bày đẹp. Nội dung gồm các thể loại: xã luận, tín tức,
bình luận, truyện ký, thơ ca, tiểu phẩm... mang tính chất thông tin, giáo dục
chính trị, sinh hoạt tư tưởng và tổng kết kinh nghiệm đấu tranh.
Đảng bộ tổ chức ra Đoàn Thanh niên Lao động mang tên Nguyễn Văn Trỗi, do
Sầm Thanh Liêm, một đảng viên trẻ tuổi làm Bí thư. Mỗi phòng giam có một chi
đoàn làm nòng cốt trong các sinh hoạt và đấu tranh. Phong trào Trại VI khu B lên
rất mạnh.
Nghị quyết của Đảng ủy được toàn thể tù nhân chấp hành nghiêm túc. Mỗi
chủ trương trước khi thành nghị quyết đều được trưng cầu ý kiến của tập thể tù
nhân từng phòng. Buổi sáng phát chủ trương, buổi chiều đã tập hợp được ý kiến
các phòng về Văn phòng Đảng ủy (Phòng 3). Ngày thành lập Đảng và các ngày lễ kỉ
niệm của cách mạng, của dân tộc đều được tổ chức trọng thể, công khai treo cờ của
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, bảo đảm tính giáo dục cao, bất
chấp sự khủng bố của kẻ thù.
Đảng ủy chủ trương vừa giáo dục chính trị, lí luận, nhân cách, vừa rèn
luyện lực lượng trong tranh đấu. Tập tài liệu Nhà lao Côn Đảo do Ban Tổ chức
Trung ương Cục tổng kết đã phản ánh cuộc tuyệt thực tranh đấu 14 ngày cùa tù
chính trị Trại VI B như sau:
“Ngày 8-10-1972, nhân cái chết thê thảm của đồng chí Đoàn Hảo 56 tuổi,
quê Quảng Nam tại bệnh xá Lao VI B do giam cầm đày ải khắc nghiệt, không thuốc
men chữa trị nên đồng chí phát bệnh rồi chết chỉ trong ba ngày. Ban chỉ đạo Lao
VI B quyết định giữ xác đồng chí Đoàn Hảo tại bệnh xá để tố cáo tội ác và buộc
chúng phải giải quyết các yêu sách của ta, cụ thể là:
-
Cơm ăn đủ no,
thức ăn đủ bữa, cấp rau và cá tươi.
-
Bãi bỏ việc cất
giữ tiền của gia đình gửi cho tù nhân.
-
Trả lại sinh
hoạt bình thường.
-
Được mua hàng,
vật dụng trực tiếp, không qua trật tự.
-
Đòi gặp Quản đốc
(để giải quyết).
Cuộc đấu tranh diễn ra ác liệt. Địch dưa một trung đội cảnh sát dã chiến
và hàng trăm an ninh trật tự bao vây bệnh xá. Anh em y tá của ta và bệnh nhân
đóng cửa bệnh xá, cột dây kẽm gai, bám giữ chặt cứa, phát loa tố cảo địch, nêu
các yêu sách. Trung tá Quản đốc Đào Vãn Phô ra lệnh cho bọn an ninh trật tự ác
ôn dung cây, đa, thanh Sắt, dao, cưa sắt phá cứa, đâm chém dã man rồi cướp xác
đồng chí Đoàn Hảo khiêng ra ngoài. Phẫn nộ trước những hành động cực kỳ tàn bạo
của ké thù, toàn Lao VI A hô la phản đối và 9 phòng Lao VI B gồm 860 người quyết
định tuyệt thực để chặn bàn tay đẫm máu của địch và làm áp lực buộc chúng giải
quyết các yêu sách”.
Sau 19 ngày tuyệt thực, Quản đốc Đào Văn Phô mới giải quyết các yêu
sách. Đảng bộ lãnh đạo tập thể tù chính trị kiên trì đấu tranh, đi đến thắng lợi
những mục tiêu xác định. Sau nhiều cuộc đấu tranh quyết liệt, nhiều lần đổ máu,
địch mặc nhiên thừa nhận vị trí chính trị cùa tù câu lưu, để tù nhân được tự do
sinh hoạt trong trại. Nếp sống và sinh hoạt chính trị ở Trại VI khu B giống như
một vùng giải phóng giữa ngục tù Côn Đảo.
Việc thành lập Đảng bộ Lưu Chí Hiếu đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc
của tù chính trị câu lưu. Đảng bộ Lưu Chí Hiếu thực sự trở thành bộ tham mưu
chiến đấu lãnh đạo toàn bộ các hoạt động và tranh đấu tại Trại VI khu B. Nhiều
đảng viên của Đảng bộ sau này đã được cử vào Đảng ủy lâm thời, góp phần quan trọng
trong thời điểm nổi dậy giải phóng hoàn toàn Côn Đảo.
Sự ra đời của Đảng bộ Lưu Chí Hiếu có vai trò đóng góp xuất sắc của hai
đồng chí Trần Văn Cao và Trịnh Văn Tư. Trần Văn Cao tức Trần Văn Đa, Nguyễn Ngọc
Cao, sinh năm 1917 tại Bình Thuận, nguyên là Huyện ủy viên, bị bắt ngày
3-2-1958.
Trần Văn Cao từng tham gia Liên chi ủy Nhà lao Gia Định, tham gia dự thảo
Chỉ thị bảo vệ khí tiết, bi đày ra Côn Đảo tháng 7-1959, trực diện chống ly
khai, cùng 59 chiến sĩ kiên cường về chuồng cọp sau “chiến dịch chuyển hướng”
tháng 4-1960 rồi bị rớt khi chỉ còn 21 người (9-1960).
Nhận thức ra sai lầm, Trần Văn Cao đã nghiêm khắc kiểm điểm trước tập thể
cốt cán, cùng nhau xây dựng phương án Kiến tạo lập trường khí tiết (10-1960) và
luôn đứng hàng đầu trong cuộc đấu tranh vươn lên, được tập thể tù chính trị câu
lưu tín nhiệm cử vào Ban lãnh đạo ở các phòng.
Phiếu nhận xét hàng năm do Trưởng trại giam trình Quản đốc nhà lao phê về
Trần Văn Cao những nội dung như sau: “Hạnh kiểm: Rất kém. (...) Tinh thần học tập:
Chống mọi sinh hoạt, học tập chính trị. (...) Trình độ giác ngộ: Rất kém...
Đương can là một phần tử trung kiên của cộng sản. Suốt thời gian thụ huấn, luôn
tỏ thái độ ngoan cố chống lại chánh quyền. Thành phần ngoan cố khó cải tạo”.
Kiên trì tổ chức, kiên trì tranh đấu, bền bỉ vươn lên, song Trần Văn Cao
và những người đồng chí hướng vẫn chưa xây dựng được một tổ chức Đảng thật sự.
Trong một thời gian dài, những người có vai trò lãnh đạo của tù chính trị câu
lưu đã bất đồng về quan điểm.
Một số người đối lập quan điểm với nhóm Trần Văn Cao chủ trương trong tù
không cần sinh hoạt, không cần tổ chức với lý do là ở trong tù, không có sự chỉ
đạo của Trung ương, không ai lấy danh nghĩa gì mà tổ chức. Vào tù, mỗi người tự
quản lý mình, tự bảo vệ sinh mạng chính trị của mình, khi nào bức xúc cần đấu
tranh thì bàn bạc thống nhất phương châm hành động rồi tranh đấu. Đứng đầu quan
điểm này là đồng chí Hoàng Dư Khương, nguyên Phó Bí thư Xứ ủy Nam Bộ. Tán đồng
với Hoàng Dư Khương còn có Trần Xuân Lê, nguyên Xứ ủy viên và vài trăm người
khác.
Tháng 7-1970, Trịnh Văn Tư bị đày ra Côn Đảo. Trịnh Văn Tư (Tư Cẩn) tên
thật là Trịnh Văn Lâu, sinh năm 1927 tại quận Trà Ổn, tỉnh Vĩnh Long, nguyên
cán bộ binh vận Trung ương Cục, Khu ủy viên Khu ủy Miền Tây Nam Bộ, đặc trách
chỉ đạo Vùng trọng điểm 2 (Vĩnh Long), bị bắt tháng 4-1970, thời hạn an trí 2
năm. Ra Côn Đảo, Trịnh Văn Tư nhanh chóng nhập cuộc, góp phần tích cực với những
người có trách nhiệm ở Trại I củng cố đội ngũ, tổ chức học tập chính trị, lý luận,
học các nghị quyết của Trung ương và Trung ương Cục một cách bài bản. Trịnh Văn
Tư được tù chính trị câu lưu Trại I tín nhiệm bởi phẩm chất vững vàng về chính
trị, bản lĩnh trong tranh đấu, giản dị, chân thành với đồng chí, bạn tù.
Trịnh Văn Tư đứng hẳn về quan điểm kiên trì tổ chức, kiên trì đấu tranh
mà thuyết phục anh em. Cuối năm 1970, Hoàng Dư Khương bị bại liệt nặng, địch
chuyển ra Sở Muối, Trịnh Văn Tư và Trần Văn Cao tiếp tục đấu tranh về mặt lý luận,
quan điểm, thuyết phục được Trần Xuân Lê thay đổi lập trường, nghiêng về phía
kiên trì tổ chức, kiên trì đấu tranh. Trên 200 tù chính trị câu lưu trước đây
theo quan điểm không tổ chức, không sinh hoạt trong tù cũng dần dần ngả theo. số
anh em này có phẩm chất chính trị tốt, chỉ hạn chế về mặt nhận thức và phần nào
sùng bái cá nhân (đối với Hoàng Dư Khương).
Từ năm 1971, tù chính trị câu lưu Trại I đã nhất trí về tư tưởng, quan
điểm, tiến tới xây dựng tổ chức lãnh đạo tập trung và thống nhất, cả công khai
và bí mật, dẫn đến bước phát triển mới của phong trào và sự ra đời của Đảng bộ
Lưu Chí Hiếu. Giữa năm 1973, Trần Văn Cao chuyên sang bộ phận chờ trao trả theo
Hiệp định Paris, Trịnh Văn Tư được cử làm Bí thư Đảng bộ, sau đó được cử làm Bí
thư Đảo ủy lâm thời, lãnh đạo cuộc nổi dậy giải phóng Côn Đảo. Các đảng viên được
kết tập trong tù đều chuẩn chất, sau về đều được Đảng bộ các địa phương công nhận.
Thời kỳ sau Ngô Đình Diệm (1964-1972) ở Nhà tù Côn Đảo là thời kỳ ngụy
quyền Sài Gòn thực hiện chiến lược chống cộng theo bài bản của Mỹ, với sự gia
tăng của viện trợ Mỹ và sự can thiệp ngày càng sâu của cố vấn Mỹ vào việc quản
trị tù nhân. Đó cũng là thời kì mà phong trào đấu tranh của tù chính trị Côn Đảo
bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ, với lực lượng tham gia đông đảo, với
tính chất chính trị điển hình.
Ngay sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, nhân lúc các phe nhóm quân sự và
dân sự tranh giành quyền lực, tù chính trị Côn Đảo đã tuyên bố chống chào cờ,
khẳng định một cách dứt khoát vị trí chính trị, là người của Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam, không thừa nhận bất cứ cá nhân hay phe nhóm nào của
chính quyền Sài Gòn.
Nếu như chống chào cờ trước đó chỉ là chống một trong những thủ đoạn tố
cộng cực đoan kiểu Ngô Đình Diệm, thì trong thời kỳ này đã trở thành hình thức
đấu tranh chính trị cao nhất, với ý nghĩa khẳng định vị trí chính trị của Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, không thừa nhận chế độ Sài Gòn, tay
sai của đế quốc Mỹ.
Áp dụng các bài bản tâm lý chiến của Mỹ, các phương tiện chống bạo động
được sản xuất từ Mỹ, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cố vấn Mỹ, ngụy quyền đã đàn
áp lực lượng chống chào cờ bằng Cảnh sát dã chiến và lựu đạn cay, bằng trật tự
an ninh và củi đòn, bằng cách bịt các lỗ thông hơi trong xà lim làm rối loạn đường
hô hấp, nhiều tháng không cho ăn rau làm rối loạn tiêu hóa, kết hợp với còng xiềng,
cấm cố trường kỳ làm teo cơ, bại liệt hàng trăm người tù, làm suy kiệt hàng
ngàn người khác. Sự tàn bạo của Mỹ - ngụy vượt quá mọi giới hạn tưởng tượng của
con người.
Cùng với sự phát triển của cách mạng miền Nam, phong trào đấu tranh
chính trị trong Nhà tù Côn Đảo đã chuyến mình và phát triển mạnh mẽ. Tù án
chính trị đã sát cánh bên tù chính trị câu lưu, lực lượng lao động khổ sai liên
hệ chặt chẽ với khu vực cấm cố, bộ phận đường dây Côn Đảo tố chức mạng lưới
liên lạc với Trung ương cục và các trại tù.
Thắng lợi to lớn, cùng những hy sinh và tổn thất trong nhiều năm tranh đấu
đã tạo thành mối liên hệ nhân quả, tiếp thêm sức mạnh cho tù chính trị Côn Đảo.
Gương đấu tranh kiên cường của tù chính trị câu lưu, của nữ tù chính trị, của
tù án chính trị chống chào cờ, của tù chính trị bại lết đã Hòa nhịp và thôi
thúc lực lượng tù án đang chịu lao động khổ sai vươn lên chống khổ sai và chống
chào cờ, tạo nên cao trào Đồng khởi tranh đấu, làm phá sản những thủ đoạn tâm
lý chiến và chiêu hồi của Mỹ - ngụy tại Nhà tù Côn Đảo vào tháng 8 năm 1970.
Nhiều cuộc đấu tranh của tù chính trị đã vượt ra khỏi phạm vi nhà tù, tạo
được mối quan tâm sáu sắc của dư luận trong nước và quốc tế, góp phần vào mặt
trận đấu tranh ngoại giao của cách mạng miền Nam. Những tội ác ghê tởm của Mỹ -
ngụy tại chuồng cọp Côn Đảo được phơi bày trước dư luận trong nước và quốc tế từ
tháng 7 năm 1970, đã góp phần đẩy nhanh ngày tàn của ngụy quyền Sài Gòn trong
những năm sau này.
Mỹ - ngụy phá hoại Hiệp định Paris,
tráo trở việc trao trả tù chính trị
Theo một bản tài liệu do những người tù làm ở Văn phòng Quản đốc chép lại,
gửi về Trung ương Cục, vào thời điểm Hiệp định Paris có hiệu lực (3-1973), ở
Côn Đảo có 9.892 tù nhân, trong đó có 274 là thường phạm, 940 quân phạm thường
tội, 636 quân phạm chính trị, 4.020 can phạm đặc biệt (chính trị phạm có án),
3.498 an trí đặc biệt (tù chính trị không có án), 37 nghi can, 487 chưa phân loại.
Trong khi đó, ngụy quyền Sài Gòn chỉ công bố danh sách trao trả cho ta 5.081
nhân viên dân sự (tù chính trị) toàn miền Nam, trong đó ở Côn Đảo có 4.075 người.
Tập sách “Tù chính trị - một vấn đề của chế độ Sài Gòn” do Hội những người
Việt Nam tại Paris ấn hành 1974 đã dẫn tờ trình số 40 của Quản đốc trung tâm cải
huấn Côn Sơn ngày 20-2-1973 ghi nhận vào thời điểm đó, Côn Đảo có 102 giám thị
và nhân viên cải huấn; tống số tù nhân là 9.850, trong đó có 8.792 nam, 1.058 nữ.
Nhằm thực hiện âm mưu ém giấu tù chính trị, không trao trả theo Hiệp định
Paris, tháng 10-1972, ngụy quyền Sài Gòn đã chỉ thị cho tất cả các Trung tâm cải
huấn lập danh sách tù chính trị. Ngoài các mục thông thường như tên họ, năm
sinh, cha mẹ, tội trạng, án tiết, ngày giam, toà xử, đính bài, còn thêm mục sức
khỏe và hạnh kiểm. Ngày 22-11-1972, Trung tâm cải huấn Côn Sơn đã hoàn thành
danh sách, gửi về Nha cải huấn và Bộ Nội vụ ngụy.
Ngày 8-2-1973, theo điện văn của Nha cải huấn và Bộ Nội vụ ngụy, Trung
tâm cải huấn Côn Sơn lập báo cáo riêng về sô tù nhân già yếu (từ 60 tuổi trở
lên), què lết, bại xụi, mắc các chứng bệnh nan y. Cùng ngày, Nha cài huấn phê
duyệt trả tự do (phóng thích đơn phương) cho 219 tù nhân, lọc trong danh sách
1.500 người mà Trung tâm cải huấn Côn Sơn đề nghị, trong đó:
Công điện số 18190/CSQG/K3/317/M ngày 8-3- 1973 của Bộ chỉ huy cảnh sát
quốc gia quân khu 3 cho biết: từ ngày 16 đến ngày 22-2- 1973, Bộ tư lệnh cảnh
sát quốc gia quân khu 3 đã tiếp nhận 147 can phạm cộng sản nan y tàn phế từ
Trung tâm cải huấn Côn Sơn chuyển đến đế cấp tốc lập thủ tục trả tự do trong
quân khu. Ngày 7-3-1973, quân khu đã hoàn tất việc chuyến giao các can phạm nói
trên cho cảnh sát quốc gia các địa phương trong quân khu.
Tài liệu tham khảo đặc biệt tháng 3-1973 của Việt Nam Thông tấn xã đăng
bài của Roland Pierre Parigneaux, thông tin viên Hãng AFP thường trú tại Sài
Gòn viết về tình trạng thương tâm của 124 người tù bại lết vừa được trả tự do tại
Biên Hòa mà họ được tận mắt chứng kiến. Bài báo có đoạn:
“Cuối tháng 2-1973, 124 người trong số những người “thân cộng” bị giam
giữ từ bao nhiều năm ở Côn Sơn (trước gọi là Côn Lôn) đã được chính quyền Sài
Gòn trả lại tự do một cách thầm lặng, không kèn không trống, không thông qua
thương lượng, không người chứng kiến. Khi đi lại, họ phải bò lê dưới đất. Đôi
cánh tay khẳng khiu, thân hình chỉ còn là một bộ xương, ống chân thì teo lại, bấm
không còn biết đau và mang nhiều sẹo rất sâu; vết tích của những xiềng xích còn
để lại trên da thịt hồi những ngày họ bị nhốt hàng năm, nằm chồng chất lên nhau
trong những xà lim nhỏ và chỉ mới nghe nói cũng đủ rùng mình: những “chuồng cọp”
ở nhà tù trên đảo Côn Sơn”.
Bác sĩ Champlin đã gặp 14 người trong sô 124 người đó và dành thời gian
khám cho một nửa. Không những chân họ bị liệt mà còn mất hết cảm giác. Người ta
nhận thấy các bắp thịt nói chung đều bị teo; nguyên nhân tình trạng này, theo
những nhận xét sơ bộ trong khi chưa có những dụng cụ chuyên môn, là do nhiều
nhân tố: “thiếu dinh dưỡng một cách trầm trọng, nhất là vitamin nhóm B, dây thần
kinh bị hư hỏng không còn đảm bảo được chức năng của nó vì thiếu vận động. Tình
trạng bị liệt bắt đầu phát hiện sau bốn năm tháng. Một sô bị tê liệt đến ngang
hông, có người bị liệt đến phía dưới một chút. Người ta nhận thấy có nhiều hiện
tượng chấn thương bộ phận, có thể là do bị đánh mãi vào một chỗ và có những vết
thương ở cổ chân trông có vẻ là những vết bị xiềng”.
Phóng viên Hãng tin AFP nhận xét rằng, việc chính quyền Sài Gòn trả tự
do một cách thầm lặng và không chính thức cho 124 người tù tàn tật, bại lết nói
trên là nhằm loại bỏ những nhân chứng bất lợi trước Ủy ban Kiểm soát và Giám
sát Quốc tế. Song chính tội ác dã dẫn chúng đến sự trừng phạt, trước hết là dư
luận tiến bộ.
Vụ “chuồng cọp Côn Đảo” đầy tai tiếng, từng làm nhức nhối lương tri loài
người, nay được phơi bày trước dư luận bằng những nhân chứng đau thương, thức tỉnh
nhân bản của chính những người Mỹ đã từng ngờ vực và hiểu sai lạc về cuộc chiên
tranh này. Tập san Đối Diện sô 50, tháng 10-1973, xuất bản tại Sài Gòn đã đăng
bài của Gumbỉeton, Giám mục địa phận Détroí (Mỹ) mang tựa đề “Tôi sẽ không bao
giờ quên” viết về cuộc gặp gỡ của ông với 3 trong số 124 người tù bại lết vừa
được trả tự do. Và đây là những lời mà ông tâm huyết:
“Tôi sẽ không bao giờ quên, giây phút anh ta bước vào phòng. Không ai
trong chúng tôi biết nói gì cả. Anh ta không còn có thể bước đi được nữa. Anh
ta dựa vào tường mà lết một cách chậm chạp và đau đớn, gập cong người lại trong
tư thế ngồi xổm. Thật là hình ảnh đáng thương. Thanh niên này trước khi bị bắt
rất khỏe mạnh. Bây giờ thì hình như anh không thể lết được. Cả ba người này
không hề có tội gì mà vẫn bị tù và bị đối xứ tàn ác, vu cho là phá rối trị an.
Tôi bị kích động sâu xa vì thái độ hòa nhã của họ, tuy đã gánh nhiều khổ
nhục. Họ đã nói năng không thù hận (...) Họ đòi hỏi khẩn thiết nhất không phải
là cho chính họ mà cho những người còn lại trong tù. Họ xin chúng tôi làm bất cứ
cái gì để can thiệp đòi thả hàng ngàn người khác mà họ biết là còn đang ở trong
tù”.
Vị giáo sĩ người Mỹ chưa hết kinh ngạc vì những đau đớn vô biên mà người
tù chính trị Côn Đảo vừa trải qua, thì ông lại một lần nữa bàng hoàng kinh ngạc
vì lòng nhân ái vượt lên trên nỗi đau khổ của họ. Họ không than thân, không oán
trách, không thù hận mà khẩn thiết đòi trả tự do cho hàng ngàn người khác còn
đang bị giam cầm tại địa ngục Côn Đảo.
Sự khâm phục của vị giáo sĩ đã bật lên thành lời khi ông ký vào bản
Tuyên bố báo chí ngày 26-4-1973 cùng Linh mục Robert Manning (dòng Tên) và Giáo
sư Tiến sĩ Georges Label (Đại học Québec, Canada). Cả ba ông được Ủy ban Quốc
tê vận động trả tự do cho tù chính trị ở miền Nam Việt Nam cử đến Sài Gòn ngày
19-4-1973 đế xem xét tại chỗ vấn đề tù chính trị. Tuyên bố báo chí có đoạn xúc
động, thành tâm, tự đáy lòng các ông, về những người tù tàn phế mà các ông đã tận
mắt mục kích:
“Chúng tôi đã gặp một số tù chính trị vừa mới được chính quyền Sài Gòn
thả ra. Họ đều thành tàn phế, tất cả. Chế độ lao tù ở miền Nam Việt Nam thật là
bất nhân.
Chúng tôi sẽ thông báo cho nhân dân Hoa Kỳ, đặc biệt là giới Kitô hữu được
biết những gì hiện nay đang xảy ra ở miền Nam Việt Nam, nhân dân miền Nam Việt
Nam đã đau khổ quá nhiều vì tại chúng tôi.
Các tù nhân chính trị phải được trả tự do ngay tức khắc và vô điều kiện.
Các tự do dân chủ phải được lập ngay tại miền Nam Việt Nam theo đúng điều
11 Hiệp định Paris.
Bao nhiêu lâu mà các tù nhân chiến tranh chưa được trả tự do, bao nhiêu
lâu mà các quyền căn bản của con người không được nhìn nhận thì bấy lâu sẽ
không có hòa bình và hòa giải, hòa hợp dân tộc ở miền Nam Việt Nam.
Phần của những người ở miền Nam Việt Nam là tranh đấu cho quyền sống của
họ, còn phần chúng tôi, chúng tôi cam kết làm tất cả để chính phủ Hoa Kỳ không
còn là nguồn gốc cho tai họa của họ”.
Cùng với việc phóng thích đơn phương những tù nhân đã bị hành hạ, đày ải
đến tàn phế, ngụy quyền Sài Gòn ráo riết xúc tiến việc thanh lọc danh sách tù
chính trị được gọi là “nhân viên dân sự” để trao trả cho Chính phủ Cách mạng
lâm thời. Danh sách này do Nha cải huấn và Bộ Nội vụ ngụy thanh lọc trong số tù
chính trị thuộc các Trung tâm cải huấn Chí Hòa, Tân Hiệp, Côn Sơn. Danh sách được
lập, duyệt nhiều lần, đến ngày 13-3-1973 thì hoàn tất.
Vừa thanh lọc, ngụy quyền Sài Gòn vừa tiến hành các thủ đoạn ém giấu tù
chính trị, chuyển tù chính trị thành thường án. Từ ngày 12-12- 1972 đến
20-3-1973, ngụy quyền Sài Gòn đưa ra Côn Đảo 4 toán sĩ quan, mang danh là Toà
án quân sự mặt trận lưu động Vùng 2 và Vùng 3 chiến thuật, xử những người tù
chính trị không có tên trong danh sách trao trả thành thường án với các tội
danh “phá rối trị an”, “gian nhân hiệp đảng”, “giữ vũ khí bất hợp pháp”...
Chúng lập sẵn các bản án rồi cưỡng bức tù nhân ký và lăn tay, chụp hình dán
vào. Ai một tội danh chúng xử một bản án, 2 tội danh xử 2 án... có người bị xử
tới 10 án, tổng cộng 45 năm tù.
Lập xong bản án, chúng bắt đầu cưỡng bức lăn tay chụp hình, ký án và xé
phòng dồn trại. Những người có tên trong danh sách trao trả được đưa về Trại
II, Trại III, Trại V và Trại I. Số còn lại dồn về Trại IV, Trại VI, Trại VII và
Trại VIII. Trung tá Nguyễn Văn Vệ, tên đao phủ khét tiêng trong nghề quản ngục
được điều trở lại Côn Đảo để thực thi mưu đồ này. Theo lời khai của Vệ khi ra
trình diện sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Thủ tướng ngụy Trần Thiện
Khiêm trực tiếp giao nhiệm vụ cho Vệ, bằng mọi giá phải thanh lọc được 4.075 tù
nhân ở Côn Đảo có tên trong danh sách trao trả, tập trung về một nơi, số còn lại
tách riêng và chuyển án thành thường phạm.
Vệ ra Côn Đáo nhận chức vào trung tuần tháng 3- 1973, cho mời đại diện
tù chính trị các phòng giam, các trại giam ra thương lượng việc thanh lọc riêng
số tù nhân có tên trong danh sách trao trả. Thái độ của tù chính trị lúc đó là
kiên quyết đấu tranh đòi công bố Hiệp định Paris và Nghị định thư, đòi trao trả
ngay, trao trả hết tù chính trị, đòi lập Ban đại diện từng trại tù, trực tiếp
làm việc với Ủy ban liên hợp hai bên và đòi có sự giám sát của Ủy ban Quốc tế.
Vệ hứa tất cả, nhưng không làm gì.
Cuối tháng 3-1973, Vệ bay về Sài Gòn, yết kiến Thủ tướng ngụy, xin cho
dùng biện pháp mạnh. Được Thủ tướng ngụy đồng ý, Vệ qua Bộ Nội vụ xin yểm trợ 3
đại đội cảnh sát dã chiến, trang bị đầy đủ các phương tiện chống bạo động, cùng
16 nhân viên nghiệp vụ lăn tay chụp hình, bay ra Côn Đảo.
Tù chính trị cỏn Đảo đã đổ nhiều máu trong cuộc đấu tranh chống lăn tay
chụp hình, đòi trao trả ngay, trao trả hết tù chính trị theo tinh thần Hiệp định
Paris.
Chống lăn tay chụp hình,
tráo án chính trị thành thường phạm
Nhờ có rađiô bí mật giấu trong phòng, tù chinh trị Côn Đảo ở các trại nắm
được diễn biến cuộc đàm phán tại Hội nghị Paris và sớm có trong tay bản Hiệp định.
Đêm 27-1-1973, tại Trại VI khu B, Đảng bộ Lưu Chí Hiếu chép được toàn văn Hiệp
định Paris và các Nghị định thư qua bản tin đọc chậm của Đài tiếng nói Việt
Nam. Đảng ủy họp bất thường để quyết định chủ trương trong tình hình mới:
1.
Phát huy khí
thế cách mạng của người chiến thắng, đấy mạnh đấu tranh đòi chính quyền miền
Nam trao trà nhanh, trả hết tù chính trị cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
Hòa miền Nam Việt Nam, đòi thực hiện qui chế đối với tù chính trị theo đúng
tinh thần và nội dung đã được ghi trong Nghị định thư.
2.
Cảnh giác đề
phòng âm mưu xé lẻ, thủ tiêu tù chính trị của địch, phát hiện những phần tử xấu
mà địch cài cấy vào số được trao trả.
Đảng ủy còn bàn những biện pháp cụ thể như tổ chức viết danh sách tù
chính trị làm nhiều bản, tìm cách gửi cho phái đoàn ta; may cờ Mặt trận, viết sẵn
các bài về chế độ nhà tù để tổ chức mít tinh tố cáo địch ngay tại nơi trao trả;
bố trí đảng viên lãnh đạo từng đợt trao trả trên đường về...
Đảng ủy củng cố lại tổ chức. Đồng chí Trịnh Văn Tư (Trịnh Văn Lâu, Tư Cẩn)
làm Bí thư thay đồng chí Nguyễn Ngọc Cao có tên trong danh sách trao trả. Đồng
chí Đào Văn Trân (Tư Thâu) được bổ sung vào Thường vụ. Ban điều hành và chi bộ
các phòng đều được bồ sung, chân chỉnh.
Bộ phận đường dây Côn Đảo và tù chính trị ở các trại cùng chép được toàn
văn Hiệp định Paris và Nghị định thư về trao trả tù chính trị. Trong khi ngụy
quyền hết sức bưng bít tin tức và không công bố Hiệp định thì tù chính trị Côn
Đảo lại công khai tổ chức học tập nội dung Hiệp định Paris và Nghị định thư,
tuyên truyền ý nghĩa thắng lợi của Hiệp định, bàn bạc các chu trương đấu tranh.
Tập tài liệu Nhà lao Côn Đảo do những người có trách nhiệm vừa được trao
trả về tổng hợp tại căn cứ của Trung ương Cục (1974) cho biết, Ban chỉ đạo các
trại tù đã dựa vào các bài xã luận, tin tức của Đài tiếng nói Việt Nam phát động
đợt học tập Hiệp định, Nghị định thư và tình hình nhiệm vụ mới:
-
“(...) Toàn đảo
đã nhất trí chủ trương phóng tay phát động cuộc đấu tranh trong nhà lao kết hợp
với cuộc đấu tranh của cả nước và trên thế giới buộc địch phải thi hành nghiêm
chỉnh Hiệp định Paris và Nghị định thư về việc trao trả, cụ thể nhằm vào các khẩu
hiệu:
-
Phải thông báo
Nghị định thư về việc trao trả,
-
Cải thiện chế
độ đối xử, giam giữ và cấp dưỡng cho phù hợp, cụ thể: cơm ăn no, thức ăn đủ bữa,
cấp phát quần áo, thuốc men đủ trị bệnh; chấm dứt mọi hành động đày ải, hành hạ,
đánh dập, bắt bớ, tra tấn tù nhân; bãi bỏ khổ sai, chào cờ; giải toả biệt lập,
biệt giam...
-
Đòi phải trả
nhanh, trả hết tù chính trị đúng theo Hiệp định và Nghị định thư về việc trao
trá đã qui định, chống chiêu hồi, chiêu hàng, phóng thích đơn phương, chống xử
tráo án, ém giấu lưu giữ.
-
Đòi phải có
phái đoàn quốc tế, Ủy ban liên hiệp và Hội hồng thập tự đến đảo để điều tra tù
và chứng kiến việc di chuyển (đến nơi) trao trả”.
Cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng ác liệt. Địch đàn áp đẫm máu với ý đồ phá
hoại bằng được việc trao trả, ém giấu tù chính trị, chuyến tù án chính trị
thành thường phạm. Ngày 14-4-1973, Bộ chỉ huy Cảnh sát Quốc gia ngụy tăng cường
một Tiểu đoàn cảnh sát dã chiến trang bị mạnh, do đại úy Lê chỉ huy, không vận
tới Côn Sơn, một bộ phận đóng tại Hí Viện (rạp hát), một bộ phận đóng tại Bộ chỉ
huy cảnh sát quốc gia Côn Sơn. Quản đốc Nguyễn Văn Vệ giở mặt, bác bỏ mọi yêu
sách của tù nhân. Vệ gửi tối hậu thư, yêu cầu tù nhân chấp hành lệnh lăn tay,
chụp hình, dồn phòng, chuyển trại của Ban Quản đốc, nếu chống, hắn sẽ áp dụng
biện pháp mạnh. Đương nhiên là các trại tù phản đối, và cuộc chiến bắt đầu.
Sáng 30-4-1973, Nguyễn Văn Vệ huy động Tiểu đoàn cảnh sát dã chiến mới
được tăng cường (khoảng 400 tên) cùng lực lượng của Bộ chỉ huy cảnh sát quốc
gia Côn Sơn (70 tên) và lực lượng của Ban 2 Đặc khu Côn Sơn (gần 100 tên), trật
tự an ninh (300 tên) mở cuộc tiến công vào Trại I nhằm thanh lọc tất cả số tù
nhân không có tên trong danh sách trao trả đưa về Trại VII. Chiến thuật của Vệ
là dùng lựu đạn cay, phi tiễn bắn dồn dập vào từng phòng để dập tắt sức phản
kháng của tù nhân rồi cho cảnh sát dã chiến và bọn trật tự xông vào đàn áp.
Tù chính trị chống trả bằng cách dùng khăn mặt thấm nước tiểu che mặt,
nhặt lựu đạn cay ném ra ngoài và dùng tay không đánh trả khi bọn cảnh sát dã
chiến xông vào. Phòng một và phòng 2 kiên cường chống địch từ sáng đến chiều,
chịu trên trăm trái lựu đạn cay, đánh lui nhiều đợt tiến công của cảnh sát dã
chiến, xế chiều, tất cả đều đã ngấm hơi độc, xỉu dần, trên 100 người bị thương
tích nặng, 1 người chết sau đó vài ngày. Cảnh sát dã chiến mang mặt nạ phòng độc
lôi từng người ra sân. Bọn trật tự an ninh nhận mặt tù nhân, đối chiếu với thẻ
đính bài, lọc theo danh sách, đưa về Trại VII.
Sau khi phòng một và phòng 2 bị đàn áp đẫm máu, tù nhân phòng 3 đã rời vị
trí chiến đấu, chấn nhận lệnh lăn tay, chụp hình, dồn phòng, chuyền trại. Trong
tình hình bất lợi, phòng 4 phát loa yêu cầu Ban Quản đốc ngưng đàn áp để thương
lượng.
Quản đốc Nguyễn Văn Vệ chấp nhận yêu sách của tù nhân, chữa trị cho những
người bị thương, đưa những người có tên trong danh sách đến trại mới, trả lại mọi
sinh hoạt bình thường. Các phòng còn lại của Trại I cũng thương lượng đạt kết
quả như phòng 4.
Ngày 1-5-1973, Nguyễn Văn Vệ dàn trận tiến công Trại II. Lực lượng nữ tù
chính trị bị giam ở đây đã chuẩn bị tinh thần và tổ chức lực lượng chống trả
quyết liệt, song đến giờ chót, tình hình lại diễn ra giống như Trại I.
Đội ngũ kiên cường nhất trong cuộc đấu tranh chống lăn tay chụp hình là
lực lượng tù chính trị câu lưu ở Trại VI khu B. Cuộc đàn áp dẫm máu nhất đã diễn
ra tại đây.
Sáng 2-5-1973, tiểu đoàn cảnh sát dã chiến được vũ trang từ đầu đến chân
cùng hàng trăm giám thị, trật tự dàn trận tiến vào Trại VI khu B. Quản đốc Nguyễn
Văn Vệ ra lệnh tiến công 5 phòng dãy bên phải. Lực lượng tự vệ của tù nhân án
ngữ phía trong cửa ra vào, dùng cây và sắt nhọn chốt các lỗ khóa và cột dây
thép gai chặt lại. Toàn trại hô vang khẩu hiệu:
- Phản đối chính quyền Sài Gòn đàn áp tù chính trị.
- Yêu cầu anh em binh sĩ và trật tự không đàn áp tù nhân.
Nguyễn Văn Vệ mời đại diện tù nhân ra thương lượng, buộc đại diện phải
kêu gọi toàn thể tù nhân phải chấp nhận lệnh ra khỏi phòng đế lăn tay, chụp
hình và kí tên vào các bản án chúng đã làm sẵn. Trước mặt Quản đốc và gần ngàn
tên ác ôn lăm lăm súng ông, hèo gậy trong tay, Tổng đại diện Hoàng Phùng dã cầm
loa dõng dạc tuyên bô: “Nhà cầm quyền yêu cầu tôi kêu gọi anh em chấp nhận lệnh
lăn tay, chụp hình. Tôi nói việc đó là do anh em quyết định!”.
Tiếng loa vừa dứt thì tiếng hô “phản đối!” “đả đảo!” từ 10 phòng nhất loạt
vang lên. Đảng ủy Lưu Chí Hiếu đã phát động toàn trại kiên quyết chống thủ đoạn
lăn tay, chụp hình, chuyển án của địch. Tổng Đại diện Hoàng Phùng bị đưa trớ về
phòng 2. Cuộc tấn công bằng lựu đạn cay của cảnh sát dã chiến bắt đầu.
Mỗi phòng rộng hơn 100 mét vuông, chúng bắn bình quân 30 trái lựu đạn
cay, có phòng chúng bắn tới 48 trái. Anh Hồ Chí Tặng và anh Nguyễn Kim Cúc chết
ngạt vì hơi cay trong phòng. Anh Nguyễn Chính, tự vệ chiến đấu nầm gần cửa
phòng bị một trái phi tiễn bắn trúng làm gẫy xương bả vai. Lực lượng tự vệ của
tù nhân vừa dùng khản mặt thấm nước tiểu bịt mũi, miệng dể chống hơi cay, vừa
chụp lựu đạn cay ném trả lại và bảo vệ cửa phòng.
Chừng 2 giờ sau thì tất cả đều ngất xỉu bởi ngấm hơi độc, nằm ngổn ngang
trong khám. Bọn cảnh sát dã chiến mang mặt nạ phòng độc, xáp vào từng phòng, cạy
những khúc cây, mẩu thép mà tù nhân chốt vào ổ khóa. Phòng nào không mở khóa được,
chúng dùng cưa sắt cưa bỏ chốt khóa, kéo từng người quăng ra sân. Mấy chiếc xe
GMC đã chờ sẵn. Hai tên trật tự đứng sau xe, đứa túm hai tay, đứa túm hai chân
người tù, đu đưa lấy đà rồi quăng từng người lên thùng xe. Hai tên khác đứng
trên thùng xe quăng tiếp vào phía trong, chất như những khúc củi, chở về Trại
VII (chuồng cọp Mỹ), không cần biết ai chết, ai sống.
Riêng hai anh Nguyễn Kim Cúc và Hồ Chí Tặng đã tắt thở, Nguyễn Văn Vệ
cho chôn cất ngay đế phi tang, đồng thời chỉ thị cho Trưởng ty Y tế lập chứng tử
về một căn bệnh nan y, thay vì lựu đạn cay, hơi ngạt.
Buổi chiều ấy, phát hiện ra hai anh chưa dự cuộc lăn tay chụp hình, Phó
quản đốc Nguyễn Phú Hội tức tốc điều một chiếc xe Jeep, đích thân đưa 2 nhân
viên lăn tay chụp hình cùng một toán giám thị, trật tự lên nghĩa địa Hàng
Dương, moi cát, dựng thi thể hai anh dậy để lăn những ngón tay đã chết cứng của
người nằm dưới huyệt vào bản án mà chúng đã lập sẵn.
Vụ đàn áp man rợ này sau đó đã bị các tờ báo đối lập ở Sài Gòn phanh
phui. Quản đốc Nguyễn Văn Vệ đã phải trả lời trước bọn quân cảnh tư pháp Bộ Nội
vụ ngụy ra đảo điều tra về việc lăn tay những xác chết dưới huyệt.
Trong lúc thi thể Nguyễn Kim Cúc, Hồ Chí Tặng chưa yên phận dưới mồ thì
máu tù nhân Trại VI khu B vẫn đổ. Chiều 2-5-1973, địch hốt số tù nhân từ phòng
1 đến phòng 4 của Trại VI khu B về Trại VII. Tại sân Trại VII, những người tù vừa
tỉnh lại sau trận đàn áp bằng lựu đạn cay đã tiếp tục chống trả việc chuyển trại
và hô vang các khẩu hiệu phản đối việc đàn áp man rợ của nhà tù.
Cảnh sát dã chiến và trật tự dùng dùi cui gậy gộc trấn áp cho đến khi tù
nhân gục hẳn, chúng kéo lê họ vào trại mới. Anh Huỳnh Tấn Lợi bị đánh chết
trong trường hợp như vậy. Tù chính trị Trại VII tổ chức ngay cuộc hô la phản đối
ngụy quyền đàn áp tù nhân để chia lửa cho Trại VIB. Địch chia quân khủng bố
luôn Trại VII. Anh Phạm Ngô 37 tuổi, quê ở Quảng Ngãi, tù án tử hình bị chúng
đánh dập phổi chết.
Cuộc chiến đấu cuối cùng diễn ra vào lúc xế chiều. Từng người tù bị lôi
ra trước những “toà án ma”. Mang danh Tòa án quân sự mặt trận lưu động nhưng
không có chánh án, không luật sư, không công tố, không công lý mà chỉ có bạo lực
và cưỡng bức. Địch bố trí nhiều bàn để thực hiện việc lăn tay, chụp hình và ký
tên vào bản án làm sẵn, kỳ lạ đến mức không ai biết gì về tội trạng, án tiết của
mình. Mỗi bàn có 2 tên làm nghiệp vụ lăn tay, chụp hình và 5 tên trật tự. Một
tên ôm chặt toàn thân người tù. Tên thứ hai nắm một cánh tay bẻ quặt ra sau
lưng. Tên thứ ba ôm chặt cánh tay còn lại. Tên thứ tư giữ cườm tay và tên thứ
năm nắm chặt từng ngón tay người tù để tên cán bộ nghiệp vụ bôi mực và lăn tay
lên bản án.
Người tù lặng lẽ chờ đến phút ấy, dồn hết sức lực, gồng mình, xịch chéo
ngón tay, bôi nhòe hết dấu. Bọn trật tự xúm lại đánh từng người cho đến nhừ tử
rồi lặp lại từng động tác. Kết quả vẫn như trước. Hỏng cả bản án, chúng kéo người
tù ra sân, đánh đập cho đến khi họ ngất lịm.
Trên 200 tù chính trị câu lưu thuộc 4 phòng (1,2, 3 4), đã chống trả quyết
liệt gần ngàn tên ác ôn với đầy đủ phương tiện khủng bố, không ai chịu ký án.
Các bản lăn tay bằng cách cưỡng bức, chỉ để lại những vết mực nhòe nhẹt, lem luốc.
Ba ngày sau, Nguyễn Văn Vệ đưa quân vào, tính làm nốt 6 phòng còn lại của
Trại VI B. Vệ cho đưa công xa đến, cho kéo dây kẹp điện vào các cửa sắt và dùng
mỏ hàn phá cửa để uy hiếp tù nhân. Tù nhân các phòng hô la phản đôi rầm rầm. Đồng
chí Trần Nga, Bí thư chi bộ phòng 7 tuyên bố với Nguyễn Văn Vệ:
-
Chúng tôi
không sợ chết đâu. Các ông cứ kẹp điện vào đi, tụi tôi nhào ra, điện giựt chết
cho các ông coi liền.
Vệ đấu dịu, mời đại diện tù nhân ra thương lượng. Đồng chí Nguyễn Văn Mốt
trong Ban đại diện tù nhân tuyên bô :
-
Các ông muốn
thương lượng phải trên tinh thần hình đẳng, tôn trọng Hiệp định Paris. Trước hết,
các ông phải rút toàn hộ quân đội, cảnh sát và trật tự an ninh ra khỏi trại.
Biết không thể dùng bạo lực cường bức được, Vệ đành ra lệnh rút quân,
thương lượng với tù nhân, đồng ý công bố Hiệp định Paris và Nghị định thư, đưa
danh sách cho đại diện ta gọi những anh em có tên ra tập trung về nơi trao trả.
Trên 130 tù câu lưu được trao trả trong đợt ấy.
Nhờ nguồn tài liệu do bộ phận Đường dây Côn Đảo chuyến về, Ủy ban Vận động
cải thiện chế độ lao tù tại Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền
Nam Việt Nam đã tố chức nhiều hoạt động đấu tranh chính trị và ngoại giao tố
cáo Mỹ ngụy phá hoại Hiệp định Paris, đàn áp tù chính trị, hỗ trợ cho cuộc đấu
tranh ở Côn Đảo. Nhiều tờ báo đối lập ở Sài Gòn cũng lên án chính quyền Nguyễn
Văn Thiệu, ủng hộ cuộc đấu tranh của tù nhân. Tờ Đối Diện số 49, tháng 8- 1973
đã đăng danh sách 14 tù nhân chính trị chết trong các trận đàn áp từ 14-4-1973
đến 6-5-1973:
TT Họ và tên Tuổi Quê quán Ngày hy sinh
1
Nguyễn Văn Tường1923
Kiến Hòa 14.4.1973
2
Lê Thị Cúc 1952 Quảng
Nam 14.4.1973
3
Nguyễn Văn Bảy
49 tuổi Vĩnh Long 28.4.1973
![]() |
![]() |
||
Hồ Chí Tặng
1924 Kiến Phong 2.5.1973
Trần Tùy
1915 Quảng Ngãi 3.5.1973
Trần Thị Sáu 1950 Sài
Gòn 4.5.1973
Lê Thị Thanh 24 tuôi Sài
Gòn 5.5.1973
Huỳnh Tấn Lợi 5.5.1973
Phạm Ngô 37 tuôi Quáng
Ngãi 6.5.1973
Nguyễn
Văn Lợi 1916 Quảng Ngãi 6.5.1973
4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 |
Phạm Xồi 6.6.1973
Phối hợp với Mặt trận ngoại giao
Nhằm mục tiêu đấu tranh đòi thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris và hỗ
trợ cho cuộc đấu tranh của tù chính trị, Ủy ban Vận động cải thiện chế độ lao
tù miền Nam Việt Nam đã ra lời kêu gọi Ủy ban Quốc tế kiểm soát và giám sát Hiệp
định Paris tại Việt Nam can thiệp để trả tự do cho tù chính trị. Ủy ban được
thành lập ^ngày 30-10-1970, đại diện cho 30 tổ chức, đoàn thể quần chúng ơ miền
Nam Việt Nam, trong đó có nhiều giáo sư, thấm phán, luật sư, bác sĩ, kỹ sư, dân
biểu, linh mục, Hòa thượng, sinh viên có tên tuổi.
Từ 1970 đến 1973, ủy ban đã có nhiều hoạt động hỗ trợ đắc lực cho cuộc đấu
tranh của tù chính trị, trong đó có tù chính trị Côn Đảo. Khi biết tin Tống thống
Nguyễn Văn Thiệu xuất ngoại xin Quốc hội Mỹ tăng viện trợ và bay sang Roma yết
kiến Đức Giáo hoàng đế tranh thủ sự ủng hộ, Ủy ban đã gửi bức thư ngày 4-4-
1973 thỉnh cầu Đức Giáo hoàng không tiếp Nguyễn Văn Thiệu vì vụ “chuồng cọp Côn
Đảo” bê bối và tráo trở trong việc trao trả 200.000 tù chính trị ở miền Nam Việt
Nam. Cuộc gặp gỡ vẫn diễn ra, song vấn đề tù chính trị đã trở thành trọng tâm
chính trong cuộc thảo luận giữa Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Đức Giáo hoàng.
Nguồn tin của Toà thánh cho biết, kết quả cuộc đôi thoại là bi đát.
Tại Quốc hội Mỹ, Thiệu cũng bị tiếp đón lạnh nhạt, bị từ chối đề nghị
tăng ngân sách viện trợ, bị chất vấn về 200.000 tù chính trị và chuồng cọp Côn
Đảo. Tổng thống Thiệu còn được đón tiếp bằng cà chua, trứng thối trên các đường
phố ở Washington và 24 băng chất nổ đặt tại Toà đại sứ của ngụy quyền Sài Gòn ở
Roma.
Trong các ngày 12, 13 và 14-4-1973, đại diện của Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cùng Ủy ban Vận động cải thiện chế độ lao tù đã
đến Paris, dự Hội nghị vận động trả tự do cho tù chính trị ở miền Nam Việt Nam
với sự tham gia của 97 tổ chức quốc gia và quốc tế. Các đại biểu xúc động và lo
âu khi được Ủy ban Vận động cải thiện chế độ lao tù cung cấp tài liệu, tin tức,
hình ảnh xác thực về việc bắt bớ, tra tấn, tù đày do tờ Tin tức lao tù phát
hành tại miền Nam Việt Nam cùng danh sách những người bị bắt giữ mà không cần
xét xử gì.
Một cuốn phim ngắn quay cảnh những tù nhân vừa thoát khỏi nhà tù Côn Đảo
đang bò lết trên mặt đất, hai chân tê liệt vì bị còng lâu ngày trong chuồng cọp
làm cho người ta liên tưởng đến những hình ảnh tàn bạo không phai mờ trong trại
tập trung của Hítle. Những bức ảnh chụp bọn cảnh sát dã chiến mặc đồ rằn ri,
tay cầm dùi cui, roi điện, đầu chụp mặt nạ phòng độc, tất cả đều được sản xuất
tại Hoa Kỳ đứng giữa làn khói mờ mịt của lựu đạn cay và xác tù nằm ngổn ngang trong
sân trại, chất đống trên thùng xe GMC đã đem lại cảm giác rùng rợn cho các đại
biểu, giống như họ đang thấy cảnh bọn quỷ sứ hiện hình trên một địa ngục trần
gian thật sự. Sau ba ngày thảo luận sôi nổi, Hội nghị đã cam kết mở một chiến dịch
quốc tế đòi hỏi:
1.
Trao trả càng
sớm càng tốt mọi tù nhân chính trị đòi thuộc về Chính phủ Cách mạng lâm thời.
2.
Trả tự do càng
sớm càng tốt cho mọi tù nhân chính trị không đòi được thuộc một trong hai bên với
sự chứng kiến của các nhân chứng có thẩm quyền (Ủy ban Quốc tế kiểm soát và
giám sát, Hội Hổng thập tự Quốc gia và đại diện các tổ chức được chỉ định).
3.
Chấm dứt mọi
hành hạ và ngược đãi đối với tất cả tù nhân chính trị trong khi chờ đợi trao trả
và phóng thích họ.
4.
Chấm dứt mọi
cuộc bắt bớ và mọi hành động đàn áp và trải ngược với Hiệp định Paris”.
Hội nghị đã cử một phái đoàn đến Việt Nam quan sát từ ngày 19-4- 1973 đến
ngày 1-5-1973 gồm:
-
Giảm mục
Bélanger, địa phận Valleyfield (Québec).
-
Bà Thelma
Balaer, Hội ddồng các giáo phái tại Canada.
-
Ồng Georges
Lebel, Tiến sĩ giáo sư Đại học Québec.
Cùng đi có Giám mục Thomas Gumbleton, Giám mục địa phận Detroit Mỹ và
linh mục Robert Manning (dòng Tên). Trong Bản tường trình ngày 1-5-1973 do
Georges Lebel soạn thảo, phái đoàn quan sát đã khẳng định rằng ở Nam Việt Nam
có tù chính trị. Tuyên bố vạch rõ tính phi pháp của các Toà án Quân sự mặt trận
với con số 27.000 người đang bị giam giữ do các toà án này kết án (đã được kiểm
chứng). Tuyên bố còn cho biết có một số đông tù nhân bị tạm giam và cho đến nay
vẫn chưa xét xử gì; số đông những người khác bị câu lưu hành chính với thời hạn
tối đa là 2 năm nhưng cũng có thể tiếp tục bị gia hạn. Phái đoàn quan sát ước định
có ít nhất là 30.000 tù chính trị thuộc loại câu lưu hành chánh đã bị giam giữ
tại các Trung tâm cải huấn lớn trực thuộc chính quyền Sài Gòn, chưa kể đến nhà
tù ở các tỉnh, huyện và vạch rõ thủ đoạn chuyển tù chính trị thành thường phạm
tại Trung tâm Cải huấn Côn Sơn.
Phối hợp với các hoạt động của phái đoàn quan sát Quốc tế do Hội nghị vận
động trả tự do cho tù chính trị cử đến miền Nam Việt Nam, Ủy ban vận động cải
thiện chế độ lao tù tại Sài Gòn đã cung cấp nhiều tin tức, tài liệu. Bằng những
tài liệu xác thực thu thập được trong thời gian đó, đặc biệt là nguồn tài liệu
từ Nhà tù Côn Đảo gửi về, ngày 30-6-1973, Ủy ban đã gửi thư cho: Chủ tịch Thượng
nghị viện Sài Gòn, Đức Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (Sài
Gòn), Chủ tịch Ủy ban Quốc tế kiểm soát và giám sát. Bức thư cho biết:
“Sau ngày ký Hiệp định Paris 27-1-1973, giới hữu trách chỉ cho tù ăn khẩu
phần 40 đồng một ngày gồm 400 gram gạo và nửa con mắm sặc, không có một chút
rau, bệnh không có thuốc, 'không thông báo cho tù chính trị nội dung Hiệp định
Paris mà còn bắt tù nhân ký giấy chiêu hồi. Nhà cầm quyền đổi tù nhân từ trại
này qua trại khác, đem giam họ ở những nơi bí mật để khỏi trao trả, tiếp tục
các hình phạt biệt lập, biệt giam, kềm kẹp, cấm cố triền miên.
Sáng 29-4-1973, một đại đội cảnh sát dã chiến được lệnh ném lựu đạn cay
đàn áp, xúc 34 anh em tử hình ở phòng 11 Trại II và 200 chị em phụ nữ, có 16 em
bé ở phòng 8 và phòng 9 của Trại II đưa đi nhốt ở chuồng cọp mới, viện lý do là
những người này không có tên trong danh sách trao trả nên phải chuyển đi trại
khác.
Ngày 1-5-1973, đàn áp Trại VII bắt tù nhân phải dời trại với lý do là
không có tên trong danh sách trao trả. Trong trận đàn áp này, có phòng phái chịu
hơn 30 quả lựu đạn cay, nồng độ cao (...). Ngày 2-5- 1973, đàn áp Trại VI khu A
và khu B, có 2 tù chính trị chết tại chỗ là:
1.
Nguyễn Kim Cúc
sinh năm 1916 tại Sài Gòn, mang sô đính bài HC 12.860, Đại diện phòng 3, chết
lúc 12 giờ ngày 2.5.1973.
2.
Hồ Chí Tặng
sinh năm 1924 tại Kiến Phong, ở phòng 5, chết lúc 15 giờ cùng ngày.
Những người chịu trách nhiệm trực tiếp các cuộc đàn áp trên là trung tá
Nguyễn Văn Vệ - Quản đốc và Chín Khương - Phó Quản đốc trại giam Côn Sơn. Hai
người này đã bị dư luận quốc nội và quốc ngoại nguyền rủa và bị nhà cầm quyền
chuyển đi hồi 1970 vì vai trò của họ tại Côn Sơn khi chuồng cọp bị phát giác. Từ
tháng 4.1973, nhà cầm quyền lại ngang nhiên bất chấp dư luận, đưa họ trở về Côn
Sơn để đàn áp tù nhân chính trị.
Nghĩ rằng chúng tôi cùng các quí vị
đều có trách nhiệm về những cải chết thê thảm ở Côn Sơn. Trước nỗi thống khổ của
tù chính trị hiện nay, chúng tôi mong rằng quí vị sẽ không im lặng”.
Đấu tranh đòi trao trả tù chính trị
Trước sức ép của dư luận, ngụy quyền Sài Gòn tìm mọi cách ém giấu tù
chính trị. Chiếu công điện số 53 (14-2-1973) của Giám đốc Nha cải huấn ngụy, tất
cả các danh sách tù nhân từ Côn Đảo gửi về đều không sử dụng các danh từ can phạm
cộng sản, can phạm chính trị nữa mà gọi chung là can phạm đặc biệt, được chia
thành hai loại:
-
Thường phạm
can án (đã ra toà).
-
Thường phạm
can cứu (chưa ra toà).
Ngoài danh sách chính thức đế trao trả cho Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam như đã công bố, nhà lao Côn Đảo còn nhận lệnh của
Nha cải huấn lập danh sách khác:
-
Danh sách tất
cả tù nhân án tử hình.
-
Danh sách tất
cả tù nhân án chung thăn.
-
Danh sách toàn
bộ số tù câu lưu đưa ra kêu án chính trị trong các phiên toà ngày 12 tháng 12
và ngày 28 tháng 12 năm 1972.
Các mục lập giống như danh sách đợt I. Hàng ngày Nha cải huấn gọi điện
trực tiếp cho Quản đốc nhà tù, đọc tên từng người tù yêu cầu xác nhận xem có ở
Côn Đảo không, nếu có thì cho biết số đính bài, hạnh kiểm. Danh sách bổ túc này
khoảng 500 người, phần lớn có tên trong danh sách trao trả. Cùng lúc với danh
sách bổ túc, Nha cải huấn lại yêu cầu Côn Sơn lập danh sách trên 2.000 tù nhân
do Ủy ban Phật giáo vận động phóng thích tù nhân đưa ra. Danh sách này có cả tù
án, tù câu lưu chính trị, có cả một số nhân vật quan trọng không phải Phật giáo
như Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Trần Ngọc Hiền (thuộc lưới tình báo chiến lược
A.22)...
Ngụy quyền Sài Gòn đặc biệt quan tâm danh sách này. Chúng biệt phái một
toán cảnh sát từ Sài Gòn ra phối hợp với Trung tâm cải huấn Côn Sơn truy lục hồ
sơ từng người, chia thành 2 loại: có tên trong danh sách trao trả và không có
tên trong danh sách trao trả, ghi vào sổ riêng dấu tích đặc biệt của từng người,
đánh máy thành 2 bản, một đem về, một lưu lại Côn Sơn.
Những tù nhân nằm ngoài danh sách trao trả chính thức mà ngụy
quyền đưa vào các danh sách bổ túc sau này hầu hết là do
các tổ chức thuộc Ủy ban vận động cải thiện chế độ lao tù đưa ra đấu tranh đòi
trao trả. Trong trường hợp những người tù được các tố chức này đưa ra mà không
có tên trong danh sách trao trả thì ngụy quyền tìm cách chuyển trại, ém giấu hoặc
lén lút chở ngay về các tỉnh, phóng thích đơn phương.
Ngày 20-5-1973, thiếu tá Thái Văn Thượng, Đặc phái viên của Nha cải huấn
ngụy bay ra Côn Đảo, làm việc với Quản đốc Nguyễn Văn Vệ và cho không vận về
Sài Gòn 232 tù chính trị theo những danh sách riêng. Chúng tách 20 người chuyến
tiếp đi Plâyku, 30 người đi Kon Tum, số còn lại giam ở Tân Hiệp (Biên Hoà).
Tháng 11-1973, Nha cải huấn và Bộ Nội vụ ngụy lại cử một toán nhân viên
ra Côn Đảo nhận 39 tù chính trị thuộc các tính Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa,
Ninh Thuận, Bình Thuận không vận thẳng về Nha Trang, đơn phương phóng thích. Những
người có tên trong danh sách trao trả được đưa về trại Hố Nai (Biên Hòa). Tại
đây, ngụy quyền làm các thủ tục trao trả và tiến hành các hoạt động tâm lý chiến,
chiêu hồi với âm mưu tổ chức một số tên tù tay sai thành đội ngũ chiêu hồi,
chiêu hàng trong danh sách trao trả. Bọn này có nhiệm vụ tố cáo chế độ cộng sản
tại nơi trao trả và xin “tìm tự do” dưới chế độ Việt Nam cộng hòa.
5.081 nhân viên dân sự trong danh sách chính thức được trao trả cho
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại sân bay Lộc Ninh
làm ba đợt:
-
Đợt I: 750 người,
từ ngày 28.4 đến 24-5-1973
-
Đợt II: 825
người, từ ngày 23.6 đến 24-7-1973
-
Đợt III: 3.506
người, từ ngày 8.2 đến 7-3-1974
Bằng các thủ đoạn cài số thường phạm, quân phạm, trật tự, cầu an, đầu
hàng vào danh sách trao trả, ngụy quyền Sài Gòn đã “vận động” được 211 tên
chiêu hồi, xin “tìm tự do” dưới chế độ Việt Nam cộng hòa trong ba đợt trao trả.
Việc đấu tranh thực hiện trao trả
5.081 nhân viên dân sự, trong đó có 4.075 người ở Côn Đảo là một bước thắng lợi
của tù chính trị. Số người còn ở lại tiếp tục cuộc đấu tranh trên cơ sở pháp lý
Hiệp định Paris, đòi trao trả hết tù chính trị, trong lúc chờ đợi, phải cải thiện
đời sống, thực hiện chế độ tù chính trị. Địch nhượng bộ có mức độ, giải quyết
yêu sách nhỏ giọt, hạn chế, song chúng không đàn áp quyết liệt như trước nữa.
Mục tiêu cơ bản của chúng là ém giấu
tù chính trị, chuyển án thành thường phạm đã làm xong. Những người tù chính trị
không được trao trả đã củng cố lực lượng, phát triển nhiều hình thức đấu tranh
và tích cực chuẩn bị cho ngày giải phóng mà họ biết chắc chắn rằng không còn xa
nữa.
Củng cố lực lượng, chuẩn bị đón thời cơ
Trong hai năm 1973 và 1974, Mỹ - ngụy vẫn tiếp tục lưu đày nhiều chuyến
tù chính trị ra Côn Đảo. Theo sự chỉ đạo của Bộ Nội vụ và Nha cải huấn ngụy, tù
chính trị bị giam giữ tại các Trung tâm Cải huấn đều được gọi là “can phạm phá
rối trật tự trị an”. Hàng ngàn người không có chứng cứ phạm tội, chưa từng ra
toà lần nào cũng bị gán cho những bản án như vậy. Theo một bản báo cáo của tù
chính trị Côn Đảo gửi cho Trung ương Cục miền Nam, tính đến ngày 19-7- 1973, địch
đã chuyển 2.201 tù chính trị thành án “gian nhân hiệp đảng”.
Nhằm tạo giải pháp thiết thực phòng thủ Côn Đảo, từ năm 1974, ngụy quyền
Sài Gòn chuyển cơ sở hành chánh Côn Sơn trực thuộc chính quyền Trung ương thành
thị xã Phú Hải trực thuộc tỉnh Gia Định. Trung tâm cải huấn Côn Sơn đổi thành
Trung tâm cải huấn Phú Hải. Các trại giam cùng được đổi tên thành Phú Hải, Phú
Sơn, Phú Hưng, Phú Thịnh, Phú Phong, Phú Tường...
Những người tù chính trị Côn Đảo hiểu rất rõ bản chất ngoan cố của ngụy
quyền Sài Gòn. Trong lúc tận dụng yêu tố pháp lý cua Hiệp định Paris đế đấu
tranh giành lợi thế cho mình và lên án sự phi pháp của kẻ thù trước dư luận, những
người tù chính trị Côn Đảo vẫn tích cực chuẩn bị những điều kiện tự giải phóng
cho mình khi có thời cơ thuận lợi.
Thời gian này, các tổ chức trong nước và quốc tế đã lên tiếng mạnh mẽ, ủng
hộ cả vật chất và tinh thần cho cuộc đấu tranh của tù chính trị Côn Đảo. Chị Trần
Thị Ngọc Sương, cán bộ phụ vận của Thành ủy Sài Gòn - Gia Định đã tổ chức được
một tổ nòng cốt trong số công chức làm việc ở Bưu điện Sài Gòn hết lòng giúp
các thân nhân và các tổ chức thuộc Ủy ban Vận động cải thiện chế độ lao tù gửi
bưu phẩm cho tù chính trị Côn Đảo. Chị Sương đã vận động một cốt cán ra làm Trưởng
ty Bưu điện Côn Đảo, tạo điều kiện thuận lợi cho tù chính trị nhận bưu phẩm và
chuyển giúp thư từ, danh sách tù chính trị về đất liền.
Theo một bản tổng kết của tổ chức này, từ 1969 đến 1974, cơ sở nòng cốt
của Bưu diện Sài Gòn đã chuyển trên 3.000 gói bưu kiện cho tù chính trị Côn Đảo.
Tháng 7 năm 1973, Nguyễn Đình Tào, một sinh viên trẻ ở Sài Gòn, bị giam tại Trại
VI khu B đã nhận được một thùng quà của một người bạn Hà Lan chưa quen biết. Một
vài chữ trên thùng đã mờ, nhưng còn đọc được:
FROM: (...) MORRIS 12 (...) AREENLAND
HOLLAND
TO: Nguyễn Đình Tào
Phòng 2 - trại 6b - Côn Đảo, SOUTH VIETNAM
Trong thùng có một bánh xà phòng thơm của Pháp; hai gói thuôc lá thơm của
Anh kèm một ống đót giả ngà; một ống vố (tẩu) bằng cùi bắp kèm một gói Half and
Half của Mỹ; còn lại là thực phẩm đóng hộp gồm: Thịt heo của Liên Xô, patê của
Bỉ, thịt hầm đậu của Hà Lan, thịt cừu của úc, dứa hộp của Côte D lvoire (Châu
Phi).
Tất cả sản phẩm của 8 nước thuộc 5 Châu: Âu - Á- Mỹ - Phi - Úc của người
bạn từ vạn dặm gửi tới được Nguyễn Đình Tào trao lại cho Ban điều hành của tù
chính trị Trại VI khu B. Ban điều hành và anh em quản lý các phòng, đã bàn bạc
để chia đều món quà đầy tình nghĩa quốc tế cho toàn bộ trên 800 tù chính trị Trại
VI khu B. Bánh xà phòng được giao cho bệnh xá để tắm gội cho anh em bệnh tật;
ba gói thuốc bóc ra chia đều cho 10 phòng, mỗi phòng 6 điếu, mỗi người nghiện
được rít một hơi, thực phẩm các loại khoảng 1,5 ki-lô-gam được mở ra trộn đều
và chia cho mỗi phòng được hơn nửa chén ăn cơm, hơn 80 người cùng thưởng thức.
Thức ăn, thuốc hút chỉ sau bữa chiều đã hết sạch, chỉ có mối tình của
người bạn từ vạn dặm là còn đọng mãi trong trái tim những người tù chính trị
Côn Đảo. Từng mảnh thùng carton, từng mảnh lon đồ hộp được anh em tù chính trị
chia nhau, cắt mài thành những đồ lưu niệm.
Cùng thời gian ấy, anh Trịnh Minh Bách, số tù 19.282 ở Trại VI khu B Côn
Đảo cũng nhận được một tấm bưu thiếp của một người bạn Hà Lan khác, là Willem
Van Gelder ở Tusveld 31 Bornerbroek (Hà Lan) với lời cổ vũ thật cảm động của một
trái tim thân thương và tha thiết (đánh máy trên bưu thiếp, bằng tiếng Việt):
Bạn thân mến,
Chúng tôi đang vận động để giúp anh. Vậy anh nên vững lòng và giữ vững
tinh thần. Và ngày kia, chúng tôi có thể được tin anh được tự do.
Wiỉlem Van Geỉder, Tusveld 31, Boruc broek (Hà Lan).
Những dòng chữ ngắn ngủi cùng những món quà không lớn ấy lại có sức cổ
vũ phi thường. Mỗi người tù chính trị Côn Đảo tự thấy cuộc đấu tranh chính
nghĩa của mình đang sống giữa những dòng thác cách mạng của thời dại, đang đấu
tranh cho độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, vì tiến bộ và nhân văn của loài
người. Tập san Xây Dựng, tiếng nói của tù chính trị Trại VI khu B, số đặc biệt
kỷ niệm Quốc khánh 2-9-1973 đã in bài thơ cứa Nguyễn Đằng và bản nhạc Mối tình
vạn dặm của Bùi Văn Toản nói lên niềm tự hào và vững tin của những người tù Côn
Đảo trước tấm lòng nhân ái bao la của những người bạn Năm châu. Cho đến những
ngày gần đây, trong những dịp họp mặt, gặp nhau, những người tù chính trị Côn Đảo
vẫn nhắc: MORRIS - WIlLEM van GElDeR,
giờ này, các anh ở đâu?
Năm 1974, các cuộc đấu tranh của tù nhân Côn Đảo tăng nhiều so với năm
1973. Công văn số 449/TTCH/CS/AN/TK ngày 27-6-1974 về tình hình an ninh Trưng
tâm cải huấn cho biết, năm 1973 có 127 vụ vi phạm nội quy, 84 vụ gây rối, trong
khi đó, chỉ tính từ 1-1-1974 đến 26- 6-1974 đã có 112 vụ vi phạm nội quy và 57
vụ gây rối.
Công văn số 449/TTCH/CS/CM/M/TK ngày 20-7- 1974 của Ban chuyên môn đã khẩn
cấp phúc trình Quản đốc nhà tù về tình hình an ninh như sau: “Liên tiếp trong 2
ngày 17 và 18-7-1974, sô can cứu chống đối Trại Vỉ đã tuần tự từng phòng hô la.
Số can cứu thuộc Trại VII khu D đồng thanh hưởng ứng Trại VI hô la các khẩu hiệu”.
Quản đốc nhà tù khẩn cấp triệu tập nhiều cuộc họp bàn giải pháp đảm bảo
an ninh cho trung tâm. Ngày 14- 8-1974, Bộ chỉ huy cảnh sát quốc gia Côn Sơn đã
ban hành lệnh cấm trại 100% nhân số và gửi công điện sô 1506/CSQG/CS/HQ thông
báo cho các phòng ban trực thuộc, cho Bộ chỉ huy cảnh sát quốc gia yếu khu Cỏ Ống,
Bến Đầm và trung đội cảnh sát dã chiến tăng phái đế thực hiện.
Trong một tài liệu khác mang tên Biên bản ghi nhận các cuộc xách động,
gây rối, chống đối của các can phạm thụ huấn tại Côn Sơn ngày 7-2-1975, Trung
tá Lâm Hữu Phương, tên chúa đảo cuối cùng đã ghi nhận:
“Từ đầu tháng 1 đến cuối tháng 12-1974 có tất cả 149 vụ chống đối, xách
động và gây rối của các can phạm dưới các hình thức: Hô la tập thể, đòi nhà cầm
quyền phái cung cấp đầy đủ lương thực, thuốc men; tụ họp học tập, đọc thông báo
yêu cầu Chính phủ Việt Nam cộng hòa phái tôn trọng Hiệp định Paris, đòi phải
trao trả tức khắc cho tất cả số can phạm còn (bị) giam giữ, ca hát những bài ca
cộng sán, xuyên tạc quân đội Việt Nam cộng hòa và đồng minh, hô khẩu hiệu đề
cao cộng sản”.
Cũng trong biên bản trên, chúng ghi nhận: “Riêng trong tháng 1- 1975 đã
có 11 vụ hô la, chống đối, xách động với các hình thức tương tự như trên (...)
Đặc biệt dã có 12 vụ khám phá các nơi chôn giấu, tịch thu một sô tài liệu, bài
ca cộng sản, cờ Mặt trận Giải phóng miền Nam và một sô vật dụng khác như: một
rađiô 2 băng, một đồng hồ chạy nước, 23 cây sắt nhọn, 50 con dao lớn nhọn, một
số dao găm làm bằng cây, một số đồ kịch nghệ, 9 súng AK, 8 súng M16, 15 súng lục,
3 máy điện thoại có ống liên hợp, cần ăng ten, lựu đạn, bêta, mã tấu, kềm cắt,
tất cả đểu bàng gỗ, dây điện và một sô vật dụng linh tinh tại Phú Tường, Phú
Phong, Phú An, Phú Bình và Phú Hưng” (tức Trại I, Trại V, Trại VI và Trại VII).
Quản đốc Lâm Hữu Phương ráo riết chỉ đạo tăng cường các biện pháp phòng,
thủ, sắp đặt phương án chống bạo động, tố chức lục soát các phòng giam, truy
tìm tài liệu, vũ khí và tiếp tục thanh lọc số tù chính trị thuộc “đối tượng
nguy hiểm” đưa biệt giam tại chuồng cọp Mỹ (Trại VII).
Địch phán đoán đúng. Qua những bức thư của Trung ương Cục từ năm 1970,
1971 và 1972, tù chính trị Côn Đảo đã nắm được chủ trương chiến lược của Đảng
ta là “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” và kết thúc chiến tranh bằng một cuộc
tổng tiến công và nổi dậy. ở một số trại, tù chính trị đà xây dựng tự vệ bí mật,
tự tạo vũ khí, tổ chức lực lượng đề sẵn sàng nổi dậy khi có thời cơ thuận lợi.
Những vũ khí bằng sắt và bằng gỗ mà địch thu được như đã báo cáo đều là
một phần trong sự chuẩn bị nổi dậy của tù chính trị. Đảng bộ của tù chính trị
câu lưu mang tên Lưu Chí Hiếu được thành lập ở Trại VI khu B còn chỉ đạo lực lượng
tự vệ bí mật dùng giẻ thấm nước muối siết các chấn song cửa sổ cho mòn dần và
dùng sắt nhọn soi từng mảng tường trại giam, sau đó quết cơm nguội với tro bếp
trét lại để khi có thời cơ sè bẻ song, đạp tường giải thoát.
Bản tài liệu “Sơ kết tình hình Nhà lao Côn Đảo” do Ban An ninh Trung
ương Cục thực hiện cho biết, trong nhiều bức thư chỉ đạo từ năm 1969 đến 1973,
Trung ương Cục đã trang bị cho tù chính trị tư tưởng tự giải phóng. Bức thư
tháng 4-1969 có đoạn xác định chủ trương đấu tranh trong tù: “Đẩy mạnh đấu
tranh dân sinh dân chủ, tập hợp rộng rãi quần chúng tham gia, lôi kéo những ai
có thể tham gia được, duy trì, giữ vững, không ngừng nâng cao phong trào, có
liên tục đấu tranh mới bảo vệ được thanh danh, khí tiết đảng viên. Ra sức xây dựng
thực lực nhầm đảm bảo yêu cầu hiện nay, đồng thời sẵn sàng để tự giải thoát
thoát mình khi có thời cơ thuận lợi sau này”.
Chủ trương này đã được Đảng ủy Trại III vận dụng như sau: “Đẩy mạnh đấu
tranh dân sinh dân chủ làm đòn xeo, mở rộng dân chủ để tạo thế. Qua đấu tranh,
ra sức xây dựng thực lực, đưa phong trào tiến lên theo phương hướng chống chào
cờ, chống khổ sai tập thể, đòi quyền tự quản trị, đòi trả tự do, đồng thời sẵn
sàng tự giải thoát mình khi có điều kiện”.
Nhờ có rađiô, tù chính trị Côn Đảo ở nhiều trại đã theo dõi sát tình
hình chiến sự từ cuối năm 1974 cho đến đầu năm 1975. Tin tỉnh Phước Long hoàn
toàn giải phóng (1-1975) làm nức lòng tù chính trị. Đảng ủy Lưu Chí Hiếu nhận định
cuộc tiến công quyết định của quân và dân ta đã bắt đầu.
Tháng 3-1975, khi chiến dịch Tây Nguyên mở màn cho cuộc Tống tiến công
mùa xuân 1975 thì Mỹ - ngụy tăng cường phòng thủ Côn Đảo. Chúng sửa lại con đường
từ thị trấn qua Hàng Dương lên Sở Tiêu. Từ con đường bọc sau lưng suốt 8 trại
này, địch mở thêm 2 nhánh nữa, một nhánh chạy thẳng vào khu vực Trại VI, Trai
VII, Trại VIII, một nhánh vào khu vực Trại I, Trại IV, Trại V. Với hệ thống dường
này, địch có thể khống chế các trại từ phía chân núi. Trong trường hợp tù nhân
nổi dậy, chúng có thế cơ động lực lượng và bố trí hỏa lực đàn áp, hất lực lượng
nổi dậy ra phía biển và nhanh chóng tiêu diệt.
Tháng 4-1975, Nhà tù Côn Đảo có 7.448 tù nhân, trong đó có 4.234 tù
chính trị (494 phụ nữ), còn 3.214 là tù thường phạm, quân phạm. Trong số 4.234
tù chính trị, có 2.488 người đang chịu chế độ cấm cố ở Trại I, Trại V, Trại VI
và Trại VII. Những người này đã chống chào cờ ngụy, chống học tố cộng, chống nội
quy nhà tù từ nhiều năm trước, 1.746 người còn lại chịu làm khổ sai chung với
tù thường phạm ở Trại II và Trại III.
Bộ máy kìm kẹp của địch gồm một tiểu đoàn bảo an (khoảng trên 500 tên),
một Đại đội cảnh sát (gần 100 tên), 89 giám thị, 130 công chức và gần 1.000 trật
tự an ninh được tuyển chọn trong số tù thường phạm, quân phạm lưu manh nhất, tất
cả khoảng 2.000 tên. Như vậy, cứ hơn 2 tù chính trị thì có một tên trong bộ máy
kìm kẹp. Đó là chưa kế đến hệ thống trại giam kiên cố, hệ thống khu kỷ luật với
20 hầm đá (Trại II), 14 xà lim (Trại III), 31 phòng biệt giam (chuồng bò) 384
chuồng cọp Mỹ (Trại VII) và một số xà lim, hầm tối ở Trại I, Trại V và Trại VI
(chuồng cọp Pháp đã bị phá bỏ từ năm 1970); cũng chưa kể đến nội quy khắc nghiệt
của nhà tù, sẵn sàng cấm cố biệt lập tất cả những ai chống đối.
Trước ngày giải phóng, 58,7% tù chính trị đang ở trong các trại cấm cố.
Hiếm có một nơi nào trong đất liền lại có điều kiện bảo vệ an ninh cho ngụy quyền
như vậy.
Ngày 29-4-1975, trong khi quân giải phóng tiến vào Sài Gòn, ở Côn Đảo
các trại tù cấm cố bị canh gác chặt chẽ. Bọn gác ngục, trật tự, an ninh lầm lì.
Một sự im lặng, căng thẳng đáng sợ bao trùm. Bầu trời Côn Đảo náo loạn bởi các
chuyến bay quân sự các loại lên xuống sân bay Cỏ Ông chở quân tướng Mỹ, ngụy di
tản. Canô, tàu há mồm cặp bãi Cỏ Ong, chuyển tiếp ra các tàu đón người di tản
đang đậu ngoài khơi.
16 giờ 30 phút, bọn cố vấn Mỹ đóng ở Côn Đảo rút chạy. Đêm ấy chúa đảo
Lâm Hữu Phương tự lái xe chở vợ con qua chi khu Bến Đầm, bí mật xuồng ca nô trốn
ra tàu di tản, bỏ lại cả phương án tử thủ Côn Đảo và lũ tay chân đang hoang
mang nhốn nháo.
Sáng 30 tháng 4 năm 1975, đại úy Phạm Huỳnh Trung - Chỉ huy phó Đặc khu
Côn Sơn triệu tập một cuộc họp liên tịch giữa các sĩ quan và công chức có quyền
thế trên đảo, cùng đám gác ngục ác ôn nhất như Lê Văn Khương, Đồ Văn Phục...
Chúng quyết định khóa chặt tất cả các phòng giam, bố phòng nghiêm ngặt trong,
ngoài lao, tổ chức di tản ra tàu bằng mọi phương tiện trên đảo và âm mưu thủ
tiêu toàn bộ tù chính trị bằng lựu đạn vào giờ chót.
Nhưng cách mạng đã chặn bàn tay khát máu, không để lũ quỷ dữ kịp thực hiện
tội ác cuối cùng. Kế hoạch di tản và thủ tiêu tù chính trị vừa bàn ngớt miệng
thì cơn bão táp cách mạng ập đến. Tin Dương Van Minh đầu hàng, thành phố Sài
Gòn hoàn toàn giải phóng như tiếng sét đánh ngang tai làm chúng rụng rời chân
tay, kinh hoàng tháo chạy. Cuộc di tản hỗn loạn trên đảo kéo dài đến nửa đêm.
Trong khi đó linh mục Phạm Gia Thụy tích cực vận động giáo dân trong họ
đạo Côn Sơn không di tản, ở lại giúp tù chính trị giải thoát khỏi ngục tù. Đại
úy Kiều Văn Dậu, Trưởng ban 3 (hành quân - tác chiến) Đặc khu Côn Sơn ở lại
cùng 49 binh sĩ bảo an. Số binh sĩ này đã góp phần bảo vệ an ninh trên đảo
trong phút giao thời. Linh mục Phạm Gia Thụy bàn bạc với Kiều Văn Dậu và một số
công chức về việc mở của nhà lao giải thoát cho tù chính trị. Tù chính trị bị cấm
cố và bị bỏ đói suốt ngày 30-4-1975.
Bằng nhiều nguồn tin, anh em đều phán đoán trong đất liền có biến động lớn,
nhưng chưa biết là Sài Gòn đã được giải phóng. Ban lãnh đạo các khu của Trại
VII quyết định tổ chức kỷ niệm trọng thể ngày Quốc tế Lao động (1-5) để phát
huy uy thế của tù chính trị đồng thời thăm dò phản ứng của địch. Các trại khác
cũng đều chuẩn bị làm lễ kỷ niệm.
Vào lúc 23 giờ, khi các trại đang khẩn trương chuẩn bị khẩu hiệu, bài
trí nơi làm lễ để sáng ra làm đồng loạt vào lúc kẻng tan nghiêm thì đại úy Kiều
Văn Dậu cùng Trưởng ty Thanh niên Nguyễn Văn Đồng và anh Nguyễn Văn Sơn, nhân
viên Hợp tác xã tiêu thụ Côn Đảo vào Trại VII. Họ mở phòng 24 khu H, gặp nhóm
cán bộ quân báo để báo tin Dương Văn Minh đầu hàng, Sài Gòn được giải phóng, bọn
ác ôn trên đảo đã bỏ chạy hết, bọn trật tự an ninh gốc thường án, quân phạm,
lưu manh đang cướp bóc, gây rối loạn trên đảo. Nhóm binh sĩ, công chức yêu cầu
anh em tù chính trị ra giải phóng Côn Đảo, duy trì trật tự an ninh và đảm bảo
tính mạng, tài sản cho những người còn lại trên đảo.
Các đồng chí có trách nhiệm trong Khu H nhanh chóng hội ý và nhận định:
Có thể Sài Gòn đã được giải phóng, cần tranh thủ thời cơ tự giải phóng cho
mình, song cần hết sức cảnh giác âm mưu thủ tiêu tù chính trị của địch. Anh em
yêu cầu nhóm công chức báo tin cho mượn rađiô để nghe tin tức và cử người ra
ngoài trại để nắm tình hình.
Rađiô được mang tới, mọi người hồi hộp lắng nghe giọng nói thân thương của
Đài tiếng nói Việt Nam phát bản tin Dương Văn Minh đầu hàng, thành phố Sài Gòn
hoàn toàn được giải phóng, Ủy ban Quân quản Sài Gòn - Gia Định đã được thành lập
và công bố 12 chính sách trong vùng mới giải phóng.
Ngay sau phút bàng hoàng vì sung sướng, những người có trách nhiệm ở Khu
H quyết định hành động; chớp thời cơ giải phóng Côn Đảo. Lực lượng tù nhân giải
phóng thu ngay khẩu súng cácbin và chùm chìa khóa Trại VII, người mở cửa, người
phát loa thông báo cho các khu. Tiếng reo hò từ Khu H lan ra các khu Trại VII.
Được tin Sài Gòn đã giải phóng, nhiều phòng chưa kịp mở khóa, anh em đã bẻ
song, phá cửa, đạp tường ra. Lúc ấy là 1 giờ sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975. Ba
giờ sáng, cả 8 khu (A-B-C-D-E-F-G-H) của Trại VII hoàn toàn được giải phóng.
Các đồng chí có trách nhiệm ở Trại VII triệu tập ngay một cuộc họp và
quyết định thành lập Đảo ủy lâm thời (gồm 7 người) đế lãnh đạo cuộc nổi dậy. Đồng
chí Trịnh Văn Tư được cử làm Bí thư. Đồng chí Phan Huy Vân (Hai Tân) Phó Bí
thư, đồng chí Mai Xuân Công là ủy viên thường vụ. Ban chấp hành còn có các đồng
chí Nguyễn Nam (Hà), Lê Văn Triết (Đoàn Cao Hồng)... Đảo ủy lâm thời đề ra
chương trình hành động, gồm 3 điểm chính:
-
Cử người đi giải
phóng các nhà lao, trước hết là lao phụ nữ.
-
Tổ chức ngay lực
lượng võ trang, chiếm trại lính và các vị trí quan trọng.
-
Thành lập
chính quyền cách mạng để quản lý và giải quyết mọi việc trên đào.
Hai đồng chí Trần Ngọc Tự và Lê Viết Lành nhận nhiệm vụ tổ chức lực lượng
võ trang. Các đồng chí chọn một số thanh niên khỏe mạnh, thành lập ngay một
trung đội, võ trang bằng khẩu carbine vừa chiếm được và các loại vũ khí thô sơ
đến chiếm trại lính Bắc Bình Vương ở khu vực Lò Vôi (gần Trại VI, Trại VII).
Trung đội thứ 2 được tổ chức ngay sau đó, đến chiếm trại lính Bình Định Vương ở
khu vực Sở Ruộng (gần Trại I, Trại IV, Trại V). Bọn lính ở hai trại này đã chạy
hết, bỏ lại mấy thùng lựu đạn và vài khẩu súng.
Trong lúc đó, Đảo ủy lâm thời tổ chức lực lượng chia thành nhiều tốp, từ
Trại VII đến giải phóng các trại. Trại VI khu B lúc ấy giam gần 500 phụ nữ, có
một số vừa bị đày ở đất liền ra trước đó 10 ngày. Chị em giấu được một chiếc
rađiô, nghe được tin Sài Gòn giải phóng từ trưa 30-4-1975 nhưng không thể báo
tin cho các trại và không tìm cách nào ra được. Mãi đến 3 giờ sáng, các chị mới
vận động được tên Trưởng trại mở cửa cho ra. Cùng lúc ấy, lực lượng giải phóng
của Trại VII cũng vừa đến. Các chị cử đại diện đến Trại VII nhận sự chỉ đạo của
Đảo ủy lâm thời. Theo đề nghị của Đảo ủy lâm thời, các chị Hai Nhân và Tư Cúc
tham gia Đảo ủy, chị Phạm Thị Đào tham gia chính quyền cách mạng.
Rạng sáng 1-5-1975, tù nhân ở Trại I, Trại IV và Trại V vần chưa biết
gì, Mọi người đang chờ kẻng tan nghiêm để kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động thì lực
lượng giải phóng từ Trại VII tràn vào mở cửa. Đến bây giờ, nhiều người vẫn chưa
quên được giây phút kinh ngạc và sung sướng ấy. Ở Trại V có phòng không dám
tin, đòi phải có đại diện của tù câu lưu ở Trại VI khu B cũ đến, anh em mới ra
khỏi nhà lao và hành động.
Tù chính trị ở Trại VIII, Trại II, Trại III biệt giam Chuồng Bò lần lượt
được mở cửa. Khoảng 8 giờ sáng, lực lượng tù nhân đã hoàn toàn làm chủ thị trấn
Côn Đảo. Lực lượng võ trang giải phóng phát triển lên một đại đội. Trung đội thứ
3 đến chiếm Ty cảnh sát, thu được một kho súng, đủ trang bị cho một tiểu đoàn.
10 giờ, Đài truyền thanh phát sóng báo tin Côn Đảo hoàn toàn giải phóng và công
bố danh sách các thành viên trong chính quyền cách mạng. Chính quyền được tố chức
theo tinh thần “hòa hợp - hòa giải dân tộc”, gồm 15 người, lấy tên là Ủy ban
Hòa hợp - Hòa giải Dân tộc tỉnh Côn Sơn.
Linh mục Phạm Gia Thụy được cử làm Chu tịch. Bảy ủy viên là tù chính trị
vừa được giải phóng, trong các chức vụ: Phó Chù tịch thứ nhất, tống thư kí, ủy
viên quân sự, ủy viên an ninh, ủy viên chính trị và thông tin, ủy viên kinh tế
và xã hội; 7 ủy viên khác là sĩ quan, công chức, giám thị đã tham gia giúp tù
chính trị trong cuộc nổi dậy giải phóng cỏn Đảo.
Trưa 1-5-1975, lực lượng võ trang của tù nhân giai phóng phát triển lên
một tiểu đoàn. Đồng chí Võ Thanh chỉ huy một đại đội lên chiếm sân bay Cỏ Ong.
Trung đội bảo an và một số nhân viên bảo vệ sân bay nộp vũ khí đầu hàng. Ta thu
27 máy bay, nhiều chiếc còn nguyên vẹn.
18 giờ, đại đội thứ 3 của lực lượng võ trang giải phóng đã chiếm chi khu
quân sự Bến Đầm. Tù chính trị hoàn toàn làm chủ Côn Đáo, không phải nổ một phát
súng nào. Buổi tối, Đảo ủy lâm thời họp mở rộng, có đại diện của tất cả các trại.
Ban chấp hành được củng cố, gồm 14 đồng chí. Đảo ủy bàn việc quản lý, bảo vệ đảo
và liên hệ với đất liền.
Chiều 1-5-1975, tại thành phố Vũng Tàu vừa giải phóng, Trung tướng Lê Trọng
Tấn - Tư lệnh cánh quân Duyên Hải đã họp với đại diện Bộ Tư lệnh Hải quân, Khu ủy
miền Đông, Sư đoàn Sao Vàng và Thành ủy thành phố Vũng Tàu, bàn phương án giải
phóng Côn Đảo bằng một cuộc hiệp đồng quân chủng Hải-Lục - Không quân. Tiểu
đoàn 445, bộ đội địa phương tỉnh Bà Rịa cùng Tiểu đoàn 6, thuộc Trung đoàn 12 của
Sư đoan Sao Vàng anh hùng dược lệnh tập kết về cảng Rạch Dừa, đế xuống tàu ra
giải phóng Côn Đảo. Đảng bộ và nhân dân thành phố Vũng Tàu đã gửi hàng chục tấn
lương thực, thực phẩm, rau xanh, thuốc chữa bệnh cho các chiến sĩ Côn Đảo.
Chiều 2-5-1975, đài Vô tuyến điện Côn Đảo phát sóng, chuyển bức điện của
chính quyền cách mạng ở Côn Đảo về đất liền: “Ủy ban Hòa giải Hòa hợp Dân tộc ở
Côn Sơn đã thành lập 7 giờ sáng ngày 1-5- 1975. Chúng tôi nhiệt liệt chào mừng
thành phố Sài Gòn đã được giải phóng. Sẵn sàng thi hành mệnh lệnh của Chính phủ
Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam”.
Đài phát sóng liên tục, đến 15 giờ ngày 3-5-1975 thì liên lạc được với
Thành ủy Sài Gòn - Gia Định. Khi được hỏi Côn Đảo cần gì để đất liền chi viện
ngay thì đồng chí đại diện cho Đảo ủy lâm thời đã nghẹn ngào trả lời: “Chúng
tôi cần ảnh Bác Hồ!”.
Rạng ngày 4-5-1975, tàu V.609 và tàu V.683 hải quân chở bộ đội ra đến
nơi thì những người tù chính trị Côn Đảo đã hoàn toàn làm chủ và ổn định tình hình
trên đảo. 500 tấm ảnh Bác Hồ được tù nhân giải phóng rước về các phòng, các trại.
Giờ phút ấy trang nghiêm ấy, không gian Côn Đảo dường như lắng lại, tan vào những
giọt nước mắt nóng hổi trên gò má hóp của những người tù. Ủy ban Quân quản Côn
Đảo được thành lập. Cuộc đấu tranh của những người tù chính trị Côn Đảo đã
giành được thắng lợi trọn vẹn sau gần 20 năm thư thách nghiệt ngã, từng trải
qua biết bao gian khổ hi sinh và những bước thăng trầm.
Cuộc nổi dậy giải phóng Côn Đảo là sự biểu hiện sinh động của tư tưởng bạo
lực cách mạng trong nhà tù. Trong lúc phát huy sức mạnh tổng hợp của các hình
thức và lực lượng vào cuộc đấu tranh chính trị, những chiến sĩ cách mạng trong
nhà tù đã kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chống khổ sai, đòi quyền dân sinh, dân
chủ và đặc biệt chú trọng duy trì, phát triển tư tưởng bạo lực cách mạng. Sức mạnh
chính trị, kết tinh từ ý chí của những tập thể và cá nhân tiêu biểu, kiên cường
đấu tranh chống ly khai, chống tố cộng, chống chào cờ từ hơn mười năm trước đã
được nhân lên nhiều lần trong cuộc Đồng khởi chống chào cờ và chống khổ sai của
hơn 4.000 người năm 1970.
Đấu tranh vũ trang được sử dụng hạn chế trong một số cuộc vượt ngục tiếp
tục được duy trì dưới hình thức võ trang tự vệ chống khủng bố trong thời kì đấu
tranh trên cơ sở pháp lý Hiệp định Paris và kết hợp rất sinh động với sức mạnh
chính trị trong đêm nổi dậy.
Quần đảo Côn Lôn cũng như các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là một bộ phận
không thể tách rời của Tổ quốc Việt Nam. Ngay từ khi lập nghiệp ở phương Nam,
các triều đại phong kiến nước ta đã mờ mang, khai thác, xây dựng và bảo vệ quần
đảo, thực hiện chủ quyền của mình một cách thường xuyên liên tục để biến quần đảo
Côn Lôn thành một nơi trù phú, tham gia quá trình phát triển chung của đất nước.
Việc tổ chức Đội Hoàng Sa để thống lĩnh các quần đảo với tư cách là một đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt; việc tổ chức cuộc nổi dậy của binh lính và cư
dân trên đảo chống hành động xâm lược của Công ty Đông - Ân thuộc Anh ngày
3-2-1705 đời chúa Nguyễn Phúc Chu chứng tỏ điều đó.
Thực ra, quần đảo Côn Lôn chỉ rơi vào tay thực dân Pháp từ ngày
28-11-1862, đúng 74 năm sau khi ký kết Hiệp ước Vécxai, hiệp ước đầu tiên của
Nguyễn Ánh ký với nước Pháp, không có giá trị về mặt pháp lý cũng như trên thực
tế. Từ ngày đó, thực dân Pháp đã lựa chọn Côn Đảo làm nơi xây dựng nhà tù để khủng
bố và tiêu diệt bất kê lực lượng cách mạng nào dám chống lại chúng. Nhà tù Côn
Đảo là con đẻ của chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương, một công cụ đàn áp để bảo
vệ chính quyền thực dân. Cũng từ đó, Nhà tù Côn Đảo trở thành một chiến trường
đặc biệt, nơi diễn ra cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt, một mất một còn của những
người yêu nước Việt Nam bị giặc tù đày chống lại bọn cướp nước.
Từ ngày thành lập, Nhà tù Côn Đảo đã là tấm gương phản chiếu trung thành
những bước thăng trầm trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân ta
qua các thời kỳ. Mở đầu cuộc đấu tranh trường kỳ chống thực dân xâm lược ở Côn
Đảo là cuộc khởi nghĩa toàn đảo ngày 23-6-1862, nhân dân hải đảo nhất tề đứng
lên phá tan nhà tù, đuổi quân Pháp ra khỏi quần đảo, thể hiện ý chí quật cường,
không cam chịu làm nô lệ của nhân dân Côn Đảo.
Những nghĩa quân thời Trương Định, Thủ Khoa Huân, những người ứng nghĩa
cần Vương bị cầm tù ở Côn Lôn đã bất chấp chính sách giết sạch, phá sạch, đốt sạch
của quân viễn chinh Pháp, liên tiếp chủ trương dùng bạo lực chống lại kẻ thù có
bạo lực, tổ chức những cuộc bạo động, những cuộc nổi dậy cướp súng giặc, giết
giặc, giải thoát khỏi cảnh ngục tù khủng khiếp.
Trong nửa cuối thế kỷ XIX, khi đất nước bị xâm lược, Nam triều đã trở
thành công cụ đàn áp cách mạng của thực dân Pháp, những cuộc vũ trang bạo động
lẻ tẻ ở Côn Đảo rất ít khi thành công. Có khi đã thành công ở đảo lại bị tổn thất
ở đất liền, do sự câu kết giữa thực dân cướp nước và bè lũ phong kiến phản động
bán nước. Đó là trường hợp của cuộc khởi nghĩa vẻ vang ở Hòn Bảy Cạnh ngày
27-8- 1883. Sau mỗi cuộc khởi nghĩa của tù nhân, thực dân Pháp càng siết chặt
chế độ lao tù, tăng cường đàn áp, giết hại người tù với những thú đoạn gian xảo,
tinh vi hơn.
Hầu hết những người đứng đầu phong trào Văn Thân đã nhận ra điều đó. Bị
cầm tù ở Côn Đảo những năm dầu thế kỷ XX, bộ phận sĩ phu phong kiến tiến bộ nhất
đã từ chối hình thức đấu tranh bạo lực ở nhà tù mà chỉ biếu lộ sự phản kháng chế
độ lao tù bằng dòng thơ tù, một dòng thơ cách mạng và yêu nước độc đáo trong lịch
sử văn học dân tộc. Những bài thơ của lớp tù Văn Thân thuở đó đã biểu thị tinh
thần yêu nước nồng nàn. ý chí kiên cường đấu tranh cho nền độc lập nước nhà, thổi
bùng trong tâm trí các thế hệ tù Côn Đảo tinh thần bất khuất của một dân tộc
chưa bao giờ khuất phục trước kẻ thù. Khí tiết thanh cao của các sĩ phu yêu nước
cũng đã cảm hóa được cả những người tù thường phạm.
Những cuộc nổi dậy của tù nhân thuộc các phong trào Bãi Sậy, Yên Thế,
Duy Tân, Thái Nguyên... trong những năm cuối chiến tranh thế giới thứ nhất đã
phân hóa sâu sắc các sĩ phu Văn Thân bị cầm tù ở Côn Đảo. Một vài người tiếp tục
chủ trương bạo động đã tham gia cuộc nổi dậy ở Banh I năm 1918; một số người
khi mãn hạn tù đã tích cực tham gia những tố chức tiền thân của Đảng; những người
còn lại đều “giữ được tấm lòng không thay đổi” (Huỳnh Thúc Kháng).
Nửa cuối những năm 20, cánh cổng sắt của nhà tù đế quốc ở Côn Đảo mở rộng
để đón những người tù chính trị bị bắt trong phong trào quốc gia bồng bột rồi
chấm dứt với cuộc bạo động Yên Bái của Quốc dân đảng, lớp tù trí thức tiểu tư sản.
Nếu như ngoài xã hội, “họ không biết đưa đất nước mình đi đến đâu” - như viên
trùm mật thám Đông Dương Mácty (L. Marty) đã từng nhận xét, thì trong Nhà tù
Côn Đảo họ cũng không làm được gì hơn thế.
Đầu những năm 1930 hàng trăm tù nhân là đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng
có mặt tại đảo, họ không có một phương sách, một biện pháp, một cuộc đấu tranh
nào đáng kế để chống lại chế độ lao tù. Có điều đáng ghi nhận là nội bộ những
người tù Quốc dân đảng đã phân hóa ngày một sâu sắc và rõ nét. Một số ít do tư
cách hèn hạ, không chịu đựng nổi cảnh ngục tù đã đầu hàng, làm cò mồi, chỉ điểm
cho giặc; một số khác thì than thân trách phận vì đã bồng bột theo những thủ
lĩnh thiếu suy nghĩ; còn bộ phận tiến bộ nhất đã tham gia những phong trào đấu
tranh của tù nhân dưới sự lãnh đạo của tổ chức cộng sản trong nhà tù.
Nhiều thanh niên trí thức sớm nhận ra sự bế tắc về đường lối của Việt
Nam Quốc dân đảng và sự bất lực của những thủ lĩnh đảng này. Sống bên những người
cộng sản, dần dần họ được cảm hóa vì nhân cách, vì tình thương và về lý tưởng cộng
sản. Cùng học tập và đấu tranh với người cộng sản, dần dần họ tin tưởng vào sự
lãnh đạo của những người cộng sản qua thể nghiệm bản thân trong đời sống lao
tù. Những người tiên tiến nhất, ngay trong nhà tù, đã tự nguyện đứng dưới cờ cộng
sản, một số khi ra tù trở thành đảng viên cộng sản.
Cuối những năm 20, đầu những năm 30, nhất là sau cao trào Xô viết - Nghệ
Tĩnh, các chiến sĩ cộng sản bị đày ra Côn Đảo ngày một nhiều. Bè lũ thực dân âm
mưu sử dụng hệ thống nhà tù đế giết hại tù chính trị, giết hại những người cộng
sản. Song những lớp tù chính trị cộng sản bị đày ra Côn Đảo ngày một nhiều, mở
ra một giai đoạn mới, khác hẳn về chất, trong phong trào đấu tranh của tù chính
trị ở Côn Đảo.
Bè lũ thực dân dùng hệ thống nhà tù nhằm mục đích tiêu diệt phong trào
cách mạng Việt Nam, tiêu diệt Đảng Cộng sản Việt Nam. Phải đấu tranh giành lấy
quyền sống, không thể để cho bọn chúa ngục muốn làm gì thì làm. Đấu tranh trong
tù là một bộ phận của cuộc đấu tranh cách mạng, là cuộc đấu tranh một mất một
còn giữa những người cách mạng và bọn cướp nước đế bảo vệ sinh lực của Đảng, để
bảo vệ lý tưởng của Đảng, để vươn lên ngang tầm những đòi hỏi mới của cách mạng.
Người cộng sản mang trong mình tinh thần bất khuất của dân tộc, không một bạo lực
nào của kẻ thù làm nhụt chí khí. Trong lao tù, tay chân bị xiềng xích, thân thế
bị đánh đập tra tấn tàn nhẫn, họ vẫn bình tĩnh, lạc quan, giữ vững niềm tin vào
cách mạng, suốt đời trung thành với cách mạng, với Đảng, với Tổ quốc.
Trong Nhà tù Côn Đảo, chính kẻ thù cũng thấy rõ người cộng sản là những
con người có bản lĩnh chiến đấu phi thường. Bọn cai ngục tra tấn đánh đập,
nhưng vừa đánh vừa sợ, vừa đánh vừa khâm phục những người tù cộng sản. Khó khăn
gian khổ càng tôi luyện những chiến sĩ cộng sản thành những con người gang
thép, vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt của chế độ nhà tù đế quốc dã man.
Trong cuộc đấu tranh chống chế độ lao tù, để thay đổi dù chỉ là một con
cá khô mục thối, bớt một thanh củi, một hòn đá, một chuyến xe, một tảng san hô,
thêm một phút được hít thở không khí..., những người cộng sản đã được tổ chức
thành đội ngũ chặt chẽ, tập hợp được đại đa số quần chúng, đã đưa ra những khẩu
hiệu thích hợp, đã biết lúc tiến, lúc thoái để bảo vệ phong trào. Dưới sự tố chức
và lãnh đạo của tổ chức Đảng trong tù, trận tuyến đấu tranh đã được phân rõ: một
bên là bọn chúa ngục, một bên là tất cả tù nhân giành quyền sống.
Có thể nói Côn Đảo cũng như nhiều nhà tù của đế quốc Pháp ở nước ta hồi
đó, là biểu tượng của khí phách anh hùng, tinh thần bất khuất của dân tộc Việt
Nam.
Ý nghĩa chính trị lịch sử lớn lao của cuộc đấu tranh của tù chính trị
Côn Đảo là đã góp phần quan trọng vào việc làm cho Đảng cộng sản Việt Nam tiếp
tục tồn tại và phát triển, đập tan mưu đồ của thực dân Pháp hòng biến Nhà tù
Côn Đảo thành công cụ để tiêu diệt Đảng Cộng sản.
Cũng trong quá trình đấu tranh ở Nhà tù Côn Đảo, những người cộng sản đã
góp phần vào việc giành quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam về tay giai cấp công
nhân, cảm hóa những đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng có tư tưởng tiến bộ, phân
hóa và cô lập những phần tử xấu, mở rộng mặt trận thông nhất giải phóng dân tộc,
giác ngộ và tranh thủ được sự cảm tình của các tầng lớp khác đối với Đảng Cộng
sản,
Trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng của “địa ngục trần gian” Nhà tù Côn Đảo,
người chiến sĩ cách mạng có thể sống và đấu tranh được là nhờ có lòng tin tưởng
sắt đá, không gì lay chuyên nổi vào thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Lòng tin này do giác ngộ lý tưởng cộng sản, do học tập, rèn luyện mà có. Những
người cộng sản đã biến nhà tù khủng khiếp này thành trường học chủ nghĩa cộng sản.
Bản lĩnh và tri thức cách mạng của các chiến sĩ cộng sản đã được nâng cao rõ rệt,
một khi ra khỏi nhà tù là có thể lao ngay vào hoạt động cách mạng một cách có
hiệu quả.
Các đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta, từ Bác Hồ đến các đồng
chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng đều đã trải qua nhà tù của đế
quốc. Bác Tôn Đức Thắng, các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Đức
Thọ, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Văn
Linh và rất nhiều đồng chí cán bộ cao cấp khác của Đảng đã trải qua “trường đại
học sau chân song sắt” ở Côn Đảo.
Học lý luận cách mạng là để vận dụng sáng tạo vào hoạt động cách mạng,
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng con người, nó đòi hỏi phải có một tình
thương và niềm tin vô hạn đối với con người. Có tình thương và niềm tin thì mới
dám dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Truyền thống của
dân tộc ta, nhân dân ta là biết đấu tranh và biết thương yêu. Trong các nhà tù
đế quốc trước đây, kể cả Nhà tù Côn Đảo, những người cách mạng rất thương yêu
đoàn kết với nhau. Những người cộng sản ở Côn Đảo nhờ biết đoàn kết “thương người
hơn cả thương thân”, nên đã có sức mạnh chiến thắng kẻ địch tàn ác và xảo quyệt.
Đó cũng là một điểm rất quan trọng bảo đảm cho tổ chức Đảng luôn luôn giữ được
sự thống nhất ý chí và hành động. Đoàn kết là do có đường lối, chủ trương đấu
tranh đúng và do có tình thương yêu đồng chí sâu sắc.
Ở Nhà tù Côn Đảo, tình đồng chí, tình thương yêu đoàn kết giữa những người
cộng sản thật là cao đẹp. Nhờ vậy mà trong lúc những người tù thuộc các đảng
phái khác gục ngã, thì những người cộng sản luôn luôn đứng vững.
Trong cảnh tù đày chết chóc, không có tình cảm nào thiêng liêng, cao cả
bằng tình đồng chí của những người cộng sản. Chính tình thương yêu cao cả này
đã giúp người cộng sản chiến thắng những thủ đoạn được tính toán vừa tàn bạo vừa
tinh vi của đế quốc hòng xóa bỏ nhân phẩm, thủ tiêu nhân cách, biến con người
thành súc vật. Trong thiếu thốn mọi bề của cuộc sống lao tù, những người cộng sản
“sống rất người” với mọi ý nghĩa cao đẹp nhất, họ chỉ lo cho anh em, cho đồng
chí, không hề nghĩ đến mình kể cả tính mệnh. Do vậy mà cách mạng phát triển, nhờ
thế mà Đảng tồn tại. Cách mạng càng khó khăn bao nhiêu thì người cách mạng càng
cần phải giữ vững khí tiết cộng sản, nêu cao tinh thần thương yêu đồng chí, bảo
vệ sự đoàn kết chặt chẽ của Đảng. Những người cộng sản Việt Nam đã làm như thế ở
địa ngục Côn Đảo, chính vì thế họ là người chiến thắng.
Thế hệ tù nhân kháng chiến chống Pháp (1946- 1954) đã kế thừa tinh thần
quật khởi của cách mạng Tháng Tám 1945. Không chỉ giới hạn cuộc đấu tranh ở mức
độ “dân sinh, dân chủ” đòi quyền lợi hàng ngày, họ đã tổ chức tù nhân thành một
đạo quân kháng chiến.
Quán triệt sâu sắc đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa
vào sức mình là chính, Đảng ủy Côn Đảo đã xác định: Nhà tù là một mặt trận, tù
nhân là những chiến sĩ hoạt động ngay trong lòng địch. Nhiệm vụ của những người
cộng sản trong tù là phải tổ chức tù nhân thành một lực lượng kháng chiến giữa
sào huyệt kẻ thù. Phải liên tục công kích địch, phá hoại cơ sở vật chất, tuyên
truyền giác ngộ binh lính địch, tạo điều kiện cho các chiến trường giành thắng
lợi.
Xuất phát từ tư tưởng đó, Đảng ủy Côn Đảo đã tổ chức toàn bộ tù nhân
thành một đạo quân chiến đấu, dưới danh nghĩa công khai là Liên đoàn tù nhân
kháng chiến Côn Đảo, có hệ thống tố chức chặt chẽ từ cấp toàn đảo đến từng tổ
ba người. Phương châm hành động là tích cực công kích địch, liên tục đấu tranh
từ thấp đến cao, đẩy kẻ địch vào thế bị động đối phó và tiến tới sử dụng bạo lực
cách mạng, chớp thời cơ tự giải phóng cho mình.
Khi nhận được tin chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, Hiệp định Giơnevơ
đã được ký kết, Đảo ủy Côn Đảo đã chỉ đạo chuyển phương án vũ trang giải phóng
thành cuộc tổng đình công kết hợp với bãi thực kéo dài 40 ngày đòi trao trả
theo Hiệp định. Kết quả là thực dân Pháp phải trao trả toàn bộ số tù binh và tù
chính trị mà chúng đã từng kết án phi pháp.
Tiếp tục phương châm của thế hệ tù chính trị lớp tiền bối, Đảng đoàn ủy
Côn Đảo thời chống Pháp đã quán triệt phương châm biến nhà tù đế quốc thành trường
học cách mạng. Các lớp học lý luận trong tù vẫn được duy trì thường xuyên, kể cả
ở các khám tù cấm cố cũng như các kíp tù lao động khổ sai. Song thành tích nổi
bật trong học tập của tù nhân kháng chiến là phong trào bình dân học vụ.
Nếu như thế hệ tù chính trị trước năm 1945 phần nhiều là trí thức giác
ngộ cách mạng thì phần lớn lớp tù nhân kháng chiến lại là nông dân, công nhân,
dân nghèo thành thị vốn ít được học hành, nhiều người chưa biết chữ. Xóa mù chữ
và phổ cập bậc tiểu học là chương trình hành động mà Liên đoàn tù nhân kháng
chiến và Đảng ủy Côn Đảo quan tâm thực hiện như một nhiệm vụ chính trị lớn mà Đảng
và Chính phủ ta đã giao phó. Hàng loạt lớp bình dân học vụ dã được tổ chức ở tất
cả các khám. Mồi người tù bị đày ra Côn Đảo đều phải làm đơn gia nhập Liên đoàn
tù nhân kháng chiến, đăng ký trình độ văn hóa và được phiên chế vào các lớp học
thích hợp. Sau mỗi khóa học đều có kiểm tra để chuyển lớp, chuyển cấp.
Theo tổng kết của Đảo ủy, năm 1952, ông già Tiếu là người cuối cùng được
thanh toán nạn mù chữ tại khu biệt lập Banh II. Năm 1954, Liên đoàn tù nhân
kháng chiến đã căn bản phổ cập tiểu học cho toàn thể tù binh, tù chính trị. Ở
khu biệt lập Banh II, nhiều tù nhân đã kiên trì tự học toàn diện từ bậc tiểu học
đến chương trình tú tài. Nhiều người khi vào tù mới học dở dang bậc tiếu học, khi
ra tù (1954) đã có trình độ tương đương tú tài, thi vào đại học và phục vụ Tổ
quốc trong nhiều lĩnh vực khoa học - kỹ thuật.
Thành tích đó xứng đáng là một chiến công trong lĩnh vực giáo dục. Tỷ lệ
100% số tù nhân được xóa mù chữ và phổ cập tiểu học ở một nhà tù khắc nghiệt
như Côn Đảo mãi mãi là điểm son sáng ngời trong lịch sử đấu tranh của thế hệ tù
nhân trong kháng chiến chống Pháp.
Một trong những điểm nối bật của lớp tù nhân kháng chiến là khí phách đấu
tranh trước kẻ thù được nhân lên gấp bội, khi họ đã ý thức được phẩm giá của
người công dân một nước Việt Nam độc lập, không chấp nhận trở lại vòng nô lệ,
không khuất phục, không cúi đầu trước bất cứ một thê lực bạo tàn nào.
Người thanh niên Lê Ngọc Hương tiêu biểu cho một thế hệ tù nhân kháng
chiến, trong cuộc đấu tranh chống cúi đầu lúc điểm danh với lời tuyên bố bất hủ:
“Cái đầu chúng tôi có thể rời khỏi cổ, nhưng từ nay không bao giờ cúi nữa”. Người
thiếu nữ Võ Thị Sáu ung dung bước ra pháp trường Côn Đảo và từ chối rửa tội với
lời tuyên bố hùng hồn: “Tôi không có tội! Chính bọn thực dán Pháp xâm lược mới
là kẻ có tội”. Từ chối bịt mắt, chị nhìn thẳng vào họng súng kẻ thù hát bài Tiến
quân ca và hô vang khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm” khiến kẻ thù phải
bàng hoàng kinh sợ, ngay cả khi chị đã ngã xuống rồi.
Nhiều quan điểm lý luận trong tranh cách mạng đã được lớp tù chính trị
kháng chiến nâng lên một trình độ mới như quan niệm về tù kháng chiến, về sự
lãnh đạo của Đảng trong tù, về các hình thức đấu tranh trong tù mà lớp tù chính
trị trước đây chưa có điều kiện giải quyết triệt để, nay cũng được Đảng bộ Nhà
tù Côn Đảo tổng kết qua thực tiễn đấu tranh, làm sáng tỏ.
Nếu như luận điểm của Ngô Gia Tự “người cộng sản ở đâu cũng phải tổ chức,
phải đấu tranh, trong hoàn cảnh nào củng phải lãnh đạo quần chúng... phải đấu
tranh giành quyền sống, phải tranh thủ thời gian mà học tập, để có cơ hội về phục
vụ hữu ích cho Đảng...” là tư tưởng chỉ đạo lớp tù chính trị tiền bối, trở
thành một định hướng cho thế hệ tù chính trị cộng sản tiền bối thì lớp tù chính
trị kháng chiến đã phát triển lên một trình độ cao hơn.
Đảng bộ đã xác định: Nhà tù là một mặt trận, tù nhân là những chiến sĩ đối
mặt kẻ thù ngay trong lòng địch. Nhiệm vụ của những người cộng sản trong tù là
phải tổ chức tù nhân thành một lực lượng kháng chiến ngay giữa sào huyệt kẻ
thù, phải tổ chức tù nhân thành một lực lượng kháng chiến ngay trong lòng địch,
giữa sào huyệt kẻ thù, phải liên tục đấu tranh, phá hoại cơ sở vật chất địch,
làm suy yếu hàng ngũ địch, buộc địch phải thường xuyên bị động đối phó, tạo điều
kiện cho các chiến trường giành thắng lợi.
Đại hội lần thứ 4 của Đảng bộ Côn Đảo còn xác định rõ nhà tù là một mặt
trận trong cuộc kháng chiến, tù nhân là một lực lượng của kháng chiến. Trách
nhiệm của cán bộ, đảng viên trong cuộc chiến tranh giải phóng này là dù bất kỳ ở
đâu, trong hoàn cảnh nào, đảng viên cũng phải tổ chức lại, lãnh đạo quần chúng
đấu tranh với kẻ thù.
Đảng Đảo ủy Côn Đảo không chỉ lãnh đạo trong phạm vi nhân kháng chiến mà
lãnh đạo toàn thể khối tù nhân, kể cả các tù chính trị thuộc các đảng phái
khác, kể cả tù tư pháp (thường phạm) cũng như tù nhân các dân tộc Việt - Miên -
Lào, không chỉ trong phạm vi nhà tù mà phải lãnh đạo quần chúng bị áp bức trên
toàn địa bàn Côn Đảo, kể cả giám thị, công chức, binh lính bị bọn thực dân, đế
quốc lừa gạt làm tay sai cho chúng.
Đó là một bước tiến lớn trong tư duy lý luận của lớp tù nhân kháng chiến.
Điều đó cũng đưa tới những đặc trưng riêng trong các hoạt động của lớp
tù chính trị kháng chiến. Chủ trương võ trang giải thoát là một thực tiễn sinh
động.
Vượt ngục, tự giải thoát là chuyện muôn thuở của người tù. Với những người
tù Côn Đảo thì thà chết trên biển hay trong bụng cá mập còn dễ chịu hơn là chết
bởi sự hành hạ của bọn đao phù tại “địa ngục trần gian này”. Vì thế mà các cuộc
vượt ngục không chỉ nói đơn thuần là “năm ăn - năm thua” hay “chín phần chết -
một phần sống” mà có thể nói là đi vào chỗ chết để tìm sự sống.
Nhưng khác hẳn với những cuộc vượt ngục trước đó, tổ chức tù nhân kháng
chiến đã xác định rõ mục đích cho mỗi cuộc vượt ngục là giải phóng một lực lượng
cách mạng chứ không mang ý nghĩa giải thoát sinh mạng cho cá nhân. Các cuộc vượt
ngục lẻ thì tùy theo điều kiện của từng nhóm, nhưng kế hoạch giải thoát từng bộ
phận hay toàn thể tù chính trị thì cá nhân phải phục tùng tập thể. Toàn bộ kế
hoạch giải thoát (dù là một bộ phận nhỏ) đều do thường vụ Đảo ủy trực tiếp chỉ
đạo, sau khi đã tính toán thật kỷ những khả năng thành công hay thất bại, dù vẫn
biết rằng: “Mưu sự tại nhân - thành sự tại thiên”. “Thiên” ở đây có thể hiểu là
hàng loạt các yếu tố rủi ro mà trong hoàn cảnh của người tù Côn Đảo không thể
kiểm soát được.
Cuộc võ trang giải thoát lớn nhất trong lịch sử nhà tù này của 200 tù
binh tại Bến Đầm (12-12-1952) không thành, nhưng nó đã để lại nhiều bài học quý
về kinh nghiệm võ trang tự giải phóng của tù chính trị Côn Đảo. Mười ba năm
sau, cuộc chiếm tàu địch, vượt Côn Đảo của 57 tù chính trị Côn Đảo thời chống Mỹ
(27-2-1965) thắng lợi trọn vẹn trong điều kiện địch kiểm soát vô cùng nghiêm ngặt
đã minh chứng cho tư tương võ trang tự giải phóng của thế hệ tù chính trị kháng
chiến là hoàn toàn có cơ sở, không chỉ về lý luận mà trên thực tiễn của Mặt trận
Nhà tù.
Tư tưởng võ trang giải thoát được tiếp
tục hoàn thiện và phát triển đến đỉnh cao là cuộc nối dậy giải phóng Côn Đảo
toàn thắng đêm 30 rạng ngày 1-5-1975.
Lịch sử đấu tranh chính trị giai đoạn 1955-1975 ở nhà tù Côn Đảo mang những
nét đặc thù của thế hệ tù chính trị trong nhà tù Mỹ - ngụy. Nội dung cơ bản của
cuộc đấu tranh trong giai đoạn này là đấu tranh chính trị, bảo vệ khí tiết của
người cách mạng, bảo vệ lí tưởng cộng sản, bảo vệ lí tưởng độc lập tự do và chủ
nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai sáng cho dân tộc.
Không chỉ là nơi cách ly, giam giữ, khủng bố, đày ải, giết hại như thời
Pháp thuộc, Mỹ- ngụy đã biến Nhà tù Côn Đảo thành nơi tiến hành các thủ đoạn tố
cộng, diệt cộng tinh vi, thâm độc và tàn bạo nhất. Chúng không từ bỏ một thủ đoạn
nào: cải huấn, tâm lý chiến, chiêu hồi, chiêu hàng, khủng bố tàn bạo, đày ải
trường kỳ, đánh đập vô hạn độ, bỏ đói, bỏ khát triền miên, đẩy người tù vào cảnh
ngộ cùng cực, làm cho họ kiệt quệ về thể xác, mòn mỏi về tinh thần, rã rời về ý
chí, để rồi đánh gục họ về lý tưởng.
Mỹ - ngụy sử dụng đạo quân khủng bố gồm những tên tay sai trung thành,
có lai lịch thâm thù cộng sản, kết hợp với những kẻ phản bội ghê tởm nhất, dưới
sự chỉ huy của những tên cai ngục già đời, lọc lõi trong nghề, được tu nghiệp tại
Mỹ, Anh, Đài Loan về quản trị khám đường, tình báo chiến lược, tâm lý cải huấn
với sự trợ giúp ngày càng tăng của cố vấn Mỹ viện trợ Mỹ phương tiện đàn áp của
Mỹ.
Mỹ - ngụy đã kết hợp các kiểu khủng bố hành hạ tàn bạo như thời trung cổ
với các kiểu đàn áp bằng phương tiện hiện đại nhất, dã man nhất, kết hợp hệ thống
tình báo, mật báo, công an, giám thị, trật tự dày đặc đế kiểm soát từng hành
vi, cử chỉ của người tù và một chiến lược bố phòng có thể tiêu diệt cả chục
ngàn người tù trong phút chốc, giống như những trại tập trung của phát xít Đức
trong chiến tranh thế giới thứ II.
Sự tàn bạo của Mỹ - ngụy đạt đến trình độ tinh vi, sâu độc, vượt khỏi mọi
giới hạn. Chúng không giết tù chính trị hàng loạt mà giết họ dần mòn, để họ chết
lay chết lắt, chết trong đau đớn quằn quại triền miên, chết từng làn da thớ thịt,
từng tế bào thần kinh, chết từng phần, từng phần cơ thể. Chúng không để cho người
tù được chết dễ dàng mà đặt họ trong tình trạng sống dở, chết dở, đẩy họ đến
ranh giới mong manh của sự sống và cái chết để tìm điểm yếu của từng người, tìm
giây phút dao động, bối rối của họ mà tăng đòn tiến công, khuất phục lý tướng,
buộc họ phải từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, phản bội lại chính mình, trở thành công
cụ tay sai cho chúng, rồi sử dụng tư cách của một tên phản bội mà đánh phá lại
cách mạng.
Mỹ - ngụy không từ một thủ đoạn nào để truy bức người tù. Chúng có thể bịt
tất cả lỗ thông hơi trong xà lim, không cho họ thở; có thể không cho họ ăn rau
trong nhiều tháng, làm rối loạn các chức năng tiêu hóa, tuần hoàn của cơ thể.
Chúng có thế đánh đập, đày ải đến mức rối loạn tâm thần, bỏ đói, bỏ khát triền
miên làm cơ thể suy sụp, rã rời; có thể cấm cố, còng xiềng không kỳ hạn, đến mức
teo cơ, bại liệt hàng trăm con người. Chúng có thế phạt không cho đổ thùng cầu,
để xà lim ngập phân và nước tiểu giống như nhà cầu; có thể biến bệnh xá thành
nhà xác, biến trại giam thành địa ngục.
Mỹ - ngụy đã vận dụng những thành tựu khoa học hiện đại để đánh lên tất
cả các giác quan người tù, sử dụng phương tiện hiện đại để đàn áp hàng loạt khi
cần, kết hợp với kiểu hành hạ như thời trung cổ, làm cho người tù không còn ra
hồn người, không khi nào được yên phận tù. Cả về sự tàn bạo, thâm độc và tinh
vi, Mỹ - ngụy đều vượt xa thực dân Pháp. Chính vì thế mà loài người đã kinh ngạc,
sững sờ và đau đớn trước những tội ác ghê tởm của Mỹ - ngụy khi một phần sự thật
ở chuồng cọp Côn Đảo bị dư luận phanh phui.
Đấu tranh chính trị, bảo vệ khí tiết, luôn luôn là trung tâm cuộc đối đầu
giữa người tù và bộ máy khủng bố của nhà tù. Người tù chân trong còng, tay
trong xiềng, khi bị biệt giam cô độc giữa xà lim, khi trần trụi giữa bầy ác ôn
say máu, họ phải chống trả với tập đoàn chống cộng có tiềm lực, phương tiện và
sự tàn bạo, thâm độc vô hạn độ. Đó là nơi đối đầu gay gắt giữa ý chí đấu tranh
cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội với một thế lực chống cộng quốc tế của
chủ nghĩa thực dân mới, do đế quốc Mỹ và tay sai tiến hành tại miền Nam Việt
Nam.
Không chỉ hạn chế trong phạm vi bảo vệ quyền sống và sinh mạng chính trị
của các chiến sĩ cách mạng, cuộc đấu tranh chính trị trong Nhà tù Côn Đảo chính
là một bộ phận của cách mạng miền Nam, nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc, thống
nhất Tổ quốc, đồng thời mang ý nghĩa một cuộc đấu tranh giữa 2 ý thức hệ: cộng
sản và tư sản, nhằm bảo vệ lý tưởng cộng sản, bảo vệ nhân quyền, lẽ sống nhân
văn, chống bạo lực, áp bức, chống thú tính, cường quyền.
Đấu tranh chính trị bảo vệ khí tiết là đỉnh cao trong phong trào đấu
tranh của tù nhân Côn Đảo. Bằng cuộc đấu tranh chính trị bảo vệ khí tiết, những
người tù chính trị Côn Đảo đã biến nhà tù thành trận tuyến đấu tranh quyết liệt,
đối mặt với kẻ thù.
Phong trào đấu tranh của tù chính trị có lúc lôi cuốn hàng ngàn người
tham gia, có lúc bị địch đàn áp chỉ còn lại vài người, nhưng không một lúc nào
dừng lại. Nhiều người từng dao động, rơi rớt một đôi lần rồi lại vươn lên, vững
vàng trong đội ngũ chiến đấu. Đã có quan điểm một thời đánh giá những người tù
đã li khai là đầu hàng, phản bội, thậm chí cho rằng hơn 80% những người bị bắt,
bị tù thời Mĩ-ngụy là có vấn đề. Nhận định không xuất phát từ thực tiễn lịch sử
ấy làm cho việc kiểm điểm, đánh giá cán bộ thiếu khách quan, việc sinh hoạt,
công tác của những người từng bị bắt, từng ở tù gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng
đến chính sách và công tác cán bộ của Đảng.
Đánh giá về những người bị bắt, bị tù cần phải đặt trong hoàn cảnh lịch
sử cụ thể, đồng thời phải thấu hiếu những âm mưu thâm độc và tàn bạo của kẻ
thù. Vào những lúc thử thách cao nhất của cuộc chiến đấu, đương đầu với sự khủng
bố man rợ tột cùng, không phải ai cũng đủ bản lĩnh chịu đựng. Gương chiến đấu bền
bỉ, kiên cường và toàn thắng của năm Anh trong lực lượng tù chính trị câu lưu,
của sáu Anh trong lực lượng tù án chính trị và gương hi sinh vô cùng anh dũng của
Trần Trung Tín, Lưu Chí Hiếu, Cao Văn Ngọc cùng hàng trăm đồng chí, đồng bào là
đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Đó là những người anh hùng thật sự, nhiều lần anh hùng. Nhiều người
trong số đó xứng đáng dược nhận danh hiệu cao quý nhất trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta. Mỗi tấm gương ấy là những trang đẹp nhất
trong lịch sử tranh cách mạng ở Nhà tù Côn Đảo giai đoạn này. Nhưng không chỉ
có như vậy.
Hàng ngàn người do sức chịu dựng có hạn, đã chọn những hình thức đấu
tranh từ thấp lên cao, hàng ngàn người khác từng sai lầm, vấp ngã đã dũng cảm
vươn lên đấu tranh. Đó là tuyến thứ 2 trong mặt trận đấu tranh chính trị của
các chiến sĩ cách mạng trong Nhà tù Côn Đảo.
Có những người từng hàng chục lần bị đánh “rớt” vẫn kiên trì vươn lên đấu
tranh, cho đến khi khẳng định được vị trí chính trị. Họ bị đánh đập, hành hạ, bị
bỏ đói, bỏ khát, bị còng xiềng, cấm cố đến tàn phế, bại liệt, không còn lết nổi
trên đôi tay được nữa. Đó là mức giá mà họ đã phải trả trong cuộc đấu tranh
sinh tử, một mất một còn để bảo vệ khí tiết của người chiến sĩ cách mạng, bảo vệ
lý tưởng cộng sản, bảo vệ nhân cách con người.
Giữa xà lim, chuồng cọp, trong nanh vuốt, cạm bẫy của kẻ thù, người chiến
sĩ cách mạng luôn ý thức được rằng, nhà tù là một mặt trận mà người tù là chiến
sĩ; cuộc đấu tranh trong nhà tù là một bộ phận của cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, trong điều kiện đặc biệt khó khăn. Mỹ - ngụy dùng mọi thủ đoạn thâm độc
và tàn bạo nhất với mục đích khuất phục đội ngũ trung kiên trong tù là nhằm
đánh bại ý chí đấu tranh của một dân tộc, đánh rã lí tưởng cộng sản đang trở
thành nguy cơ đe doạ nền thống trị của chủ nghĩa tư bản, thực dân.
Chính vì thế mà đội ngũ ưu tú nhất trong lực lượng tù chính trị đã tự
nguyện đảm nhận sứ mệnh lịch sử, đại diện cho chính nghĩa của một dân tộc khát
khao độc lập, tự do, chống chủ nghĩa thực dân mới; mang lý tưởng cộng sản và lẽ
sống nhân văn, chống bạo lực, cường quyền.
Đó là một trong những lý do mà Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng
đã viết trong lời tựa cho bộ sách về Nhà tù Côn Đảo: “Nhà tù Côn Đảo luôn luôn
là chiến trường cách mạng đấu tranh quyết liệt với kẻ thù (...) Cuộc chiến đấu
bất khuất đầy dũng cảm và thông minh của các chiến sĩ Côn Đảo là những trang
chói lọi của lịch sử cách mạng, được nối tiếp và nhân lên trong chủ nghĩa anh
hùng cách mạng của nhân dân ta qua kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sự hy,
sinh cao cả của biết bao liệt sĩ trong cuộc chiến đấu ấy đã và đang tiếp tục
khai hoa kết quả trong những thắng lợi và thành tựu của dân tộc Việt Nam
ta"
Đấu tranh chống ly khai của tù chính trị câu lưu và đấu tranh chống chào
cờ của tù án chính trị là những hình thức đấu tranh cao nhất. Điều đó không loại
trừ và đòi hỏi phải kết hợp sử dụng những hình thức đấu tranh ở mức thấp hơn
như: chống học tố cộng, chống hô khẩu hiệu phản động, tiến tới chống toàn bộ nội
quy nhà tù, chống tất cả các âm mưu thủ đoạn của địch.
Để giành được mục tiêu bảo vệ khí tiết, những người tù chính trị Côn Đảo
đã vận dụng tất cả các hình thức thích hợp trong một cuộc đấu tranh: đưa đơn kiến
nghị, tạo dư luận, thuyết phục, đấu lý, hô la, tuyệt thực, tuyệt ẩm, mổ bụng
quyết tử tranh đấu... Có cuộc đấu tranh bắt đầu từ từng người, vài người, đến cả
phòng, toàn trại và nhiều trại phôi hợp. Có trại' tuyệt thực, trại đình công,
trại đấu tranh dư luận, có người mổ bụng rồi toàn trại hô la, nhiều trại hô la
hỗ trợ.
Tất cả các hình thức, các lực lượng được huy động vào cuộc đấu tranh với
mức tối đa, tạo nên sức mạnh ý chí to lớn của tù chính trị đề chiến đấu và chiến
thắng. Mưu trí, sáng tạo của người tù chính trị Côn Đảo không chỉ dừng ở mức
nghiên cứu lý luận, vận dụng các hình thức, phương pháp đấu tranh trong tù mà
mưu trí, sáng tạo nằm ngay trong quá trình đấu tranh thực hiện những hình thức
và phương pháp ấy.
Người tù chính trị phải đem thân xác, ý chí, phẩm chất, nhân cách của
mình ra chống lại cả bộ máy khủng bố với, chế độ kỷ luật, còng xiềng, cấm cố,
đòn roi, súng đạn và bạo lực không hạn chế. Cuộc đấu tranh trong tù đòi hỏi vừa
phải có trí tuệ, vừa có gan chịu đòn. Mỗi thắng lợi giành được, người tù chính
trị phải đổi bằng máu xương và tính mạng mình. Hàng trăm người đà chết thê thảm
trong tù, hàng ngàn người bị đày ải đến tàn phế, mang những chứng bệnh nan y mà
từ ngày ra tù đến nay phải dùng nhiều thuốc hơn cơm, đau đớn, quằn quại trên
giường bệnh nhiều hơn là giấc ngủ. Nhìn nhận cách mạng là sáng tạo thì chắc chắn
sẽ không có một nơi nào mà sáng tạo lại phải trả giá đắt như trong nhà tù Côn Đảo.
Trong điều kiện ngăn cách gắt gao và kiểm soát ngặt nghèo của kẻ địch,
tù chính trị Côn Đảo vẫn tìm mọi cách tổ chức chi bộ, đảng bộ, hoặc ban lãnh đạo,
tố trung tâm... ở từng trại, từng phòng. Song những nồ lực nhằm đi tới việc
thành lập Đảo ủy, chỉ đạo cuộc dấu tranh chung toàn Côn Đảo không đạt kết quả.
Lực lượng tù chính trị câu lưu đã ly khai và lực lượng tù án chịu chào cờ,
làm khổ sai, nhất là số công nhân tư gia, thư ký văn phòng (tù áo trắng) có điều
kiện liên hệ, móc nối thông tin, tổ chức, thảo luận để đi đến quyết nghị thì lại
thiếu lập trường khí tiết. Ngược lại những chiến sĩ trung kiên đương đầu với kẻ
thù tàn bạo để bảo vệ ngọn cờ khí tiết thì đang bị biệt giam trong xà lim, hầm
đá, chuồng cọp, chuồng bò. Họ không có điều kiện liên hệ, thảo luận, đánh giá
tình hình, thông tin cần thiết để tổ chức và chỉ đạo toàn diện.
Từ năm 1963, nhờ đường dây bí mật, Trung ương Cục đã theo dõi và chỉ đạo
cuộc đấu tranh trong các nhà tù, trong đó có Nhà tù Côn Đảo. Trung ương Cục đã
chỉ đạo các Đảng bộ địa phương hỗ trợ cuộc đấu tranh trong tù, chỉ đạojực lượng
công khai hợp pháp ở Sài Gòn phối hợp chặt chẽ, đưa vấn đề tù chính trị ra trước
công luận trong và ngoài nước. Những bức thư hàng năm của Trung ương Cục gửi ra
Côn Đảo có giá trị thông tin tình hình, xác định chủ trương và cố vũ, nhân lên
sức mạnh đấu tranh của tù chính trị Côn Đảo.
Tuy nhiên, sự chỉ đạo của Trung ương Cục mang tính chất định hướng hơn
là chỉ thị, nghị quyết. Trong lúc chỉ đạo lực lượng tù chính trị đoàn kết đấu
tranh, lấy mục tiêu bảo vệ khí tiết kết hợp với các yêu cầu dân sinh dân chủ
làm nhiệm vụ chủ yếu, Trung ương Cục bao giờ cũng nhấn mạnh rằng: hình thức tổ
chức và hình thức đấu tranh trong tù phải tùy tình hình cụ thể mà đề ra cho phù
hợp.
Trong nhiều trường hợp, không có sự chỉ đạo của tổ chức Đảng, người tù
chính trị phải tự lực chiến đấu, tự xác định mục tiêu chống các thủ đoạn tố cộng,
diệt cộng, bảo vệ khí tiết của người chiến sĩ cách mạng là nhiệm vụ hàng đầu.
Khi đã hình thành các Ban lãnh đạo, Chi bộ, Đảng bộ thì sự lãnh đạo tập thể được
kết hợp chặt chẽ với tinh thần tự lực chiến đấu của từng cá nhân. Trong thời điểm
cao trào hoặc những cuộc đấu tranh ở mức độ cao như tuyệt thực, mổ bụng hô
la... thì vai trò lãnh đạo và ý chí đoàn kết đấu tranh của tập thể có vai trò
quyết định. Khi địch đàn áp quyết liệt, một số đông đã dao động thì ý chí tự lực
chiến đấu của những cá nhân kiên cường là nhân tố giữ vai trò quyết định thắng
lợi.
Trên mặt trận nhà tù, lực lượng đấu tranh chính trị, bảo vệ khí tiết là
ngọn cờ lãnh đạo, dù khi chưa thành lập chi bộ, chưa có tổ chức hoặc chỉ là những
cá nhân tự lực chiến đấu, dù những cá nhân ấy không phải có quá trình lâu,
không giữ chức vị cao trước khi bị bắt. Đã có nhiều tổ chức Đảng, nhiều cá nhân
từng có cương vị cao trước khi bị bắt cố thể hiện vai trò lãnh đạo, nhưng vô hiệu,
vì họ đã đứng bên lề cuộc đấu tranh chính trị bảo vệ khí tiết.
Có người như Hoàng Dư Khương từng giữ cương vị lãnh đạo Phó Bí thư Xứ ủy
từng có ảnh hưởng lớn trong tập thể tù chính trị, nhưng khi chấp nhận ly khai,
đã tự đánh mất sự tín nhiệm và vai trò lãnh đạo của mình. Ngược lại, có những
người mà quá trình tham gia cách mạng, trình độ lý luận, cương vị công tác rất
bình thường như ông già Cao Văn Ngọc (tù chính trị câu lưu, 64 tuổi), người
thanh niên Ngô Đình Thời (tù án chính trị, 20 tuổi)... lại trở thành Ngôi sao
sáng cho toàn thể tù chính trị noi theo vì họ đã đứng vững trên tuyến đầu của
cuộc đấu tranh bảo vệ khí tiết.
Người thợ giày Lưu Chí Hiếu, văn hóa mới chỉ lớp 3 trường làng, cương vị
cao nhất mới tương đương tiểu đội trưởng, chưa từng là chi ủy viên lại được cả
một Đảng bộ mang tên, lấy phẩm chất khí tiết của anh làm tôn chỉ mục đích, làm
nhiệm vụ hàng đầu cho Đảng bộ.
Đảng bộ Lưu Chí Hiếu thành lập ở Trại VI Khu B (3-2-1972) là một Đảng bộ
vững mạnh, thật sự có vai trò lãnh đạo vì được sinh ra từ cuộc đấu tranh bảo vệ
khí tiết của tù chính trị câu lưu, hội tụ được những tinh hoa tiêu biểu trong
cuộc đấu tranh ấy. Đảng bộ Lưu Chí Hiếu là nòng cốt của Đảo ủy lâm thời Côn Đảo
trong đêm nổi dậy (đêm 30 rạng ngày 1-5-1975). Các đảng viên được Đảng bộ tập hợp
và kết nạp mới trong tù về đều được Đảng công nhận và phát huy tác dụng tốt.
Lực lượng tù nhân đã đi đầu trong cuộc đấu tranh chính trị bảo vệ khí tiết,
với những tập thể và cá nhân tiêu biểu, đã trải qua 19 năm liên tục đấu tranh,
giành những thắng lợi chói lọi qua nhiều năm chống ly khai (1955-1964) chống nội
quy, chống chào cờ (1960-1975) với đỉnh cao của cuộc Đồng khởi chống khổ sai và
chống chào cờ năm 1970 và cuộc nổi dậy giải phóng Côn Đảo năm 1975 xứng đáng được
nhận những danh hiệu cao quí nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của
dân tộc ta.
1.
Amtơ G: Lời
phán quyết về Việt Nam, Nxb QĐND, H.1985.
2.
André Manrax -
Jean Pièrre Débri: Thoát khỏi ngục tù Sài Gòn - chúng tôi vạch tội, Nxb Văn học
giải phóng, 1975.
3.
Ban nghiên cứu
Lịch sử Đảng Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo: Nhà tù Côn Đảo 1862-1945, Nxb Sự Thật,
H.1987.
4.
Bàng Thông,
Đông Tùng và Marty L: Tài liệu của Sở mật thám Đông Dương về Đông Dương cộng sản
Đảng, Tập san Sử Địa, Sài Gòn, số 14-15 (1969).
5.
Biến cố 11 - từ
đảo chính đến tù đày (Hồi ký của Thi - Đông - Đán - Sửu - Hương - Cầm - Tương -
Vinh). Trần Tương xuất bản. Sài Gòn, 1971.
6.
Có Bác mãi
trong tim, Nxb Sự Thật, H.1990.
7.
Côn Đảo, Sở
Văn hóa Thông tin Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, 1984.
8.
Công báo Việt
Nam cộng hòa (từ 1954-1975), Thư viện khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh.
9.
Chu Lai: Nhà
lao cây dừa, Hội Cựu chiến binh Kiên Giang, 1992.
10.
Chu Thiên: Một
bải phú Nôm yêu nước làm ở Côn Đảo - Tạp chí Văn học (Viện Văn học), H. số 1
(1965).
11.
Chung một bóng
cờ, Nxb CTQG, H.1993.
12.
Dư Văn Chất:
Người chân chính, Nxb Hà Nội, 1993.
13.
Đinh Xuân Lâm
- Võ Văn Bạch: Một số tư liệu về phong trào Cần Vương ở Bắc Kỳ - Tạp chí
“Nghiên cứu lịch sử” (Viện Sử học), Hà Nội, số 5 (1985).
14.
Đối Diện
(báo), Thư viện Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh.
15.
Đối mặt. Ban
liên lạc tù chính trị Côn Đảo tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và Hội Văn học - nghệ
thuật- thành phố Đà Nẵng xuất bản 1993.
16.
Hành Sơn: Cụ
Trần Cao Vân, Minh Tân xuất bản, Paris 6,
1952.
17.
Hoàng Văn Đào.
Từ Yên Bái đến các ngục thất Hỏa Lò, Côn Nôn, Guyane, Nxb Sông mới, Sài Gòn,
1957.
18.
Hồ Chí Minh -
Toàn tập, tập 2 - Nxb Sự Thật, H.1981.
19.
Hồ Chí Minh -
Tuyển tập, tập 2 Nxb Sự thật, H.1980.
20.
Huỳnh Thúc
Kháng: Thi tù tùng thoại, Nxb Nam Cường, Sài Gòn, 1951.
21.
Lê Hữu Phước:
Lịch sử Nhà tù Côn Đảo 1862- 1930. Luận án Phó Tiến sĩ khoa học lịch sử, mã số
50315. Cơ sở đào tạo, Viện khoa học xã hội Thành phô Hồ Chí Minh, 1992.
22.
Lê Quang Vịnh:
Đường đi, Nxb Thanh niên, H.1984.
23.
Lê Quang Vịnh:
Sóng Côn Đảo, Nxb Văn hóa, H.1988.
24.
Lê Quý Đôn: Phủ
Biên tạp lục, Tập 1, bản dịch của Lê Xuân Giáo, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn
hóa xuất bản, Sài Gòn, 1972.
25.
Lịch sử vận tải
Quân đội nhân dân Việt Nam, 1945-1975, Nxb. Quân đội nhân dân, H.1989.
26.
Mai Nguyễn:
Côn Đảo ngày giải phóng, Tạp chí . Lịch sử Đảng số 5, tháng 5-1990.
27.
Nguyễn Tiến
Hưng: Từ Tòa Bạch ỏc đến Dinh Độc lập, Nxb QĐND, H.1990.
28.
Nguyễn Bá Thế:
Chí sĩ Việt Nam - Đặng Nguyền Cẩn - Văn hóa nguyệt san, Sài Gòn, số 61 (1961).
29.
Nguyễn Bá Thế:
Chí sĩ Việt Nam - Nguyễn Văn Ngôn - Vàn hóa nguyệt san, Sài Gòn, số 63 (1961).
30.
Nguyễn Bá Thế:
Chí sĩ Việt Nam - Nguyễn Thành - Văn hóa nguyệt san, Sài Gòn, số 66 (1961).
31.
Nguyễn Đình Thống:
Từ Hàng Keo đến Hàng Dương. Tuần báo Sài Gòn giải phóng, thứ bảy, số 184, ngày
30-7-1994.
32.
Nguyễn Đình Thống:
Cố vấn Mỹ, viện trợ Mỹ và các hoạt động tình báo tại Côn Đảo. Chuyên đề khoa học,
đề tài: Nhà tù Côn Đảo (1955-1975).
33.
Nguyền Đình
Thông: Đề án bảo tồn khu di tích lịch sử Côn Đảo và những vân để cần tiếp tục
nghiên cứu. Chuyên đề khoa học.
34.
Nguyễn Đình Thống:
Điểm mặt những tên chúa ngục Côn Lổn. Chuyên đề khoa học, đề tài: Nha tù Côn Đảo
(1955-1975).
35.
Nguyền Đình
Thông: Tượng đài Nghĩa trang Hàng Dương và thân thế hai đồng chí Vũ Văn Hiếu -
Lưu Chí Hiếu. Chuyên đề khoa học, đề tài: Nhà tù Côn Đảo (1955-1975).
36.
Nguyễn Đình
Thông: về 18 chiến sĩ chống ly khai cuối cùng trong chuồng cọp. Chuyên đề khoa
học, đề tài: Nha tù Côn Đảo (1955-1975).
38.
Nguyễn Đình Thống:
Tiểu sử “Ông già Bà Rịa” Cao Văn Ngọc. Chuyên đề khoa học, đề tài: Nhà tù Côn Đảo
(1955-1975).
39.
Nguyễn Đình Thống:
Một vài số liệu về tù nhân Côn Đáo qua các giai đoạn lịch sử. Chuyên đề khoa học,
đề tài: Nhà tù Côn Đảo (1955-1975).
40.
Nguyền Đức Thuận:
Bất khuất, Nxb Thanh niên, H.1967.
41.
Nguyễn Hiến
Lê: Đông Kinh nghĩa thục, Nxb Lá Bối, Sài Gòn, 1974.
42.
Nguyễn Huyền
Anh: Việt Nam danh nhân từ điển, Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1967.
43.
Nguyễn Minh Nhựt:
Tổ chức lao tù Poulo Condor thời Pháp thuộc 1861-1945. Tiểu luận cao học sử học,
Đại học văn khoa Sài Gòn, 1972.
44.
Nguyễn Minh
Triết: Nhận xét về bệnh lý tại một nhà lao. Luận án Tiến sĩ Y khoa, bảo vệ tại
Đại học Y khoa Huế, 1972, (Bản lưu của tác giả).
45.
Nguyễn Quang
Thắng: Phan Châu Trinh, cuộc đời và tác phẩm, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1987.
46.
Nguyễn Thanh Đức:
Nguyền Thiện Thuật, người lãnh đạo khởi nghĩa Bãi Sậy. “Kiến thức ngày nay”, Hội
Nhà văn TP. Hồ Chí Minh, số 61, ngày 1-6-1961.
47.
Nguyễn Thế
Anh: Phong trào kháng thuế miền Trung năm 1908 qua các châu bản triều Duy Tân.
Tủ sách Sử học, Bộ Văn hóa giáo dục và Thanh niên, Sài Gòn, 1973.
48.
Nguyễn Văn
Xuân: Phong trào Duy Tân - Nxb Lá Bối, Sài Gòn, 1970.
49.
Nhà tù Côn Đảo
1862-1945, Nxb Sự thật, H 1987.
50.
Nhà tù Côn Đảo
1845-1954, Nxb Sự thật, H 1991.
51.
Những ngày tù
ngục Tổ sử phụ nữ Nam Bộ biên soạn, Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh, 1986.
52.
Nổi dậy giải
phóng Côn Đảo Tạp chí Lịch sử Đảng số 7, tháng 12-1984.
53.
Phạm Xanh: Tìm
hiểu quá trình hình thành một làng đảo: Làng An Hải (Côn Đảo) - Tạp chí Nghiên
cứu Lịch sử (Viện Sử học), Hà Nội, số 1-2 (1987).
54.
Quản trị lao
xá Phòng lao thất Hoa Kỳ biên soạn, Bộ tư lệnh cảnh sát quốc gia Việt Nam cộng^hòa
ấn hành, Sài Gòn 1972 Thư viện Khoa học xã hội Thành phố HỒ Chí Minh.
55.
Quốc Phong:
Nhà tù Côn Đảo dưới con mắt một nhà háo nước ngoài - “Kiến thức ngày nay”, Hội
Nhà văn Thành phô Hồ Chí Minh, so" 67 (1-9-1991).
56.
Sơn Nam: Phong
trào Duy Tân ở Bắc, Trung, Nam, Nxb Đông Phô", Sài Gòn, 1974.
57.
Sử Quán triều
Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, tập V, Nxb Khoa học xã hội, H.1971.
58.
Sử Quán triều
Nguyễn: Đại Nam thực lục chính hiên, tập XXXI, Nxb Khoa học xã hội, H.W69.
59.
Sử Quán triều
Nguyễn: Đại Nam thực lục chính biên, tập XXV, Nxb Khoa học xã hội, H.1971.
60.
Tài liệu căn bản
về vấn đề can phạm và cải huấn Trung tâm phôi hợp và thi hành Hiệp định Paris
thuộc Phủ tổng thống Việt Nam cộng hòa ấn hành, Sài Gòn 1974.
61.
Tài liệu tham
khảo đặc biệt, Tập bản tin của Thông tân xã Việt Nam lưu tại Phòng tin trong nước.
62.
Tóm tắt thành
tích đấu tranh của tù chính trị Côn Đảo 1862- 1975 Ban chấp hành Đảng bộ huyện
Còn Đảo chủ biên, 1994, Lưu Văn phòng Huyện ủy Côn Đảo.
63.
Thái Bạch: Thi
văn quốc cấm thời thuộc Pháp, Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1968.
64.
Trần Huy Liệu:
Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại
Việt Nam, tập V, Nxb Văn Sử Địa, H.1958.
65.
Trần Văn Quế:
Côn Lỏn sử lược - Thanh Dương tùng thư xuất bản, Sài Gòn, 1961.
66.
Tù chính trị -
Một vấn đề của chế độ Sài Gòn Hội người Việt Nam tại Paris ấn hành 1974 Bản dịch
của ông Phạm Văn Ba, Trưởng ban liên lạc tù chính trị tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
67.
Từ địa ngục trần
gian (thơ) Uy ban Mặt trận Tổ quốc và Ban Tuyên giáo thành phố Biên Hòa, xuất bản
1990.
68.
Từ ngục tù Côn
Đảo Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hòa, xuất bản 1993.
69.
Tuyền hố của
phái đoàn quân sự Việt Nam cộng hòa trong Ban liên hợp quân sự hai bên ngày
8-3-1974 về việc kết thúc trao trả nhân viên dân sự và nhân viên quân sự của cộng
sản bị bắt trước ngày 28- 1-1973, Trung tâm phôi hợp và thi hành Hiệp định
Paris ấn hành, Sài Gòn 1974 Thư viện Khoa học xã hội TP Hồ Chí Minh.
70.
Vạn Hạnh
(báo), Thư viện Khoa học xã hội TP Hồ Chí Minh, ký hiệu CN 70
71.
Vàng trong lửa:
Ban Khoa học xã hội Thành ủy TP HỒ Chí Minh, 1990.
72.
Hồ sơ lưu trữ
của A27 Bộ Nội vụ:
-
Âm mưu bạo động
của can phạm Côn Sơn Ký hiệu Gl.l (25) Hộp 45, số 1692.
-
Bản kè khai tổng
số can cứu chính trị bị giam giữ tại Côn Sơn Ký hiệu Gl.l (24) Hộp 242, số
7267.
-
Bảo vệ an ninh
tỉnh Côn Sơn Ký hiệu B06 Hộp 2, số 74.
-
Các can phạm
Côn Sơn đang trong tình trạng xáo động Ký hiệu B06 Hộp 5, sô 132.
-
Can phạm tuyệt
thực Ký hiệu Gl.l Hộp 49, số 1809.
-
Cấp giấy chứng
nhận cho linh mục Nguyễn Thiện Thuật ra uỷ lạo phạm nhân tại Côn Sơn Ký hiệu
Dl.12 Hộp 2, số 74.
-
Côn Lốn sử lược
Ký hiệu 566 TL.
-
Chính trị phạm
và thường phạm Côn Đảo đình công Ký hiệu Gl.l (25) Hộp 4, số 127.
-
Chuyển giao
Trung tâm huấn chính Côn Sơn cho quân đội (1957) Ký hiệu D1.12 Hộp 12, số 48.
-
Cử ông tỉnh
trưởng Côn Sơn kiềm nhiệm chức vụ quản đốc Trung tâm huấn chính Côn Sơn Ký hiệu
A3.1, Hộp 1, sô' 33.
-
Di chuyển phạm
nhân ra Côn Sơn Kv hiệu Gl.l, Hộp 14, số 447.
-
Địa thế tỉnh
Côn Sơn và hoạt động của Ty công an Ký hiệu A2.2, Hộp 1, số 2.
-
Khám phá tổ chức
thành lặp Ban chấp hành Liên đoàn chính trị giải phóng tù nhân Côn Đảo Ký hiệu
Gl.l (25), Hộp 33, số 1029.
-
Phòng thủ tỉnh
Côn Sơn Ký hiệu B1.4 (01), Hộp 2, số 52.
-
Phúc trình
không số ngày 5-9-1958 Nguyễn Văn Hòa (công an biệt phái) gửi Tổng Giám đốc
cành sát và công an Sài Gòn Ký hiệu D1.12, Hộp 12, sô 75.
-
Phúc trình của
phái đoàn Trung ương quan sát tại Côn Sơn Ký hiệu Gl.l (25), Hộp 42, số 1499.
-
Sắc lệnh của
Quốc trưởng Việt Nam cộng hòa ân xá phạm nhân Côn Sơn (1964) Ký hiệu Al.o, Hộp
2, sô 63.
-
Phạm Sau, Trưởng
đoàn cán bộ cải huấn tại Côn Sơn (Hồ sơ cả nhân) Ký hiệu 11116/cQ.
-
Tài liệu phúc
đáp một số vấn đề đặt ra cho Ty Cảnh sát quốc gia Côn Sơn liên hệ đến công tác
tình báo Ký hiệu B1.10 Hộp 4, số 144.
-
Thành lập chi
công an Côn Sơn Ký hiệu B01, Hộp 2, số 48.
-
Thành lập Bộ
chỉ huy tỉnh Côn Sơn Ký hiệu A3.1, Hộp 1, số 8.
-
Thuyền máy của
tỉnh Côn Sơn đã bị phạm nhân dùng vượt đảo Ký hiệu Gl.l (25) Hộp 42, số 1413.
-
Tiễu lệnh
phòng thủ Côn Sơn 1972 Ký hiệu 1199677.
-
Tình hình an
ninh và nội bộ tỉnh Côn Sơn (1965) Ký hiệu A2.2, Hộp 4, sô 137.
-
Tình liình
giam cứu tại Côn Sơn Ký hiệu A1.2, Hộp 3, sô 118.
-
Tổ chức Việt Cộng
tại Côn Đảo Ký hiệu Gl.l, Hộp 132, số 6691.
-
Tổ chức can phạm làm mật báo viên Ký hiệu B1.10 Hộp 4, số
124.
-
TỔ chức đặc uỷ
và chi bộ nhà lao Ký hiệu Gl.l (25), Hộp 43, số
1593.
-
Tổ chức lại
Trung tâm cải huấn Côn Sơn Ký hiệu Dl.12, Hộp 8, số 314.
-
Trung tâm cải
huấn Côn Sơn (tập hồ sơ chuyên đề về tổ chức, điều hành, hoạt động của trung
tâm cải huấn Côn Sơn tù 1957 đến 1975) Ký hiệu 7869 CĐ.
-
Trung tâm cải
huấn Côn Sơn yêu cầu Ty cảnh sát quôc gia địa phương đến chứng kiến các can phạm
Việt Cộng tuyệt thực đòi hỏi không phải chào quốc kỳ (1968) Ký hiệu Gl.l (25) Hộp
47, số 1774.
-
Tăng Tư, thiếu
tả tỉnh trưởng Côn Sơn Hồ sơ cá nhân Ký hiệu 80997 CT.
-
Ty chiêu hồi
Côn Sơn Ký hiệu 8043 CĐ.
-
Việt Cộng liên
lạc thư từ nội địa ra Côn Sơn Ký hiệu D1.12, Hộp 1, số 19.
-
Việt Cộng thiết
lập cơ sở tại Côn Sơn Gl.l, Hộp 33, số 1626.
-
Việt Cộng dự định
tổ chức tại Côn Sơn một tỉnh ủy độc lập Ký hiệu Gl.l (03), Hộp 4, số 153.
-
Nguyễn Vãn Vệ,
thiếu tá, Đặc phái viên hành chính kiếm quản đốc T rung tâm cải huấn Côn Sơn
(1965-1971 và 1973-1974) Hồ sơ cá nhân Ký hiệu 80.864-CT.
-
Vụ Lè Văn Tâm
và Lâm Tường Bảo (1967) Ký hiệu Gl.l (25), Hộp 49, số 1089.
-
Vụ vượt ngục của
các can phạm Sở Lưới có sự tham gia của can phạm Nguyễn Văn Bảy Ký hiệu 8425
HC.
-
Xây dựng tù nhân làm mật báo viên Ký hiệu B1.10, Hộp 4, số
125.
73.
Hồ sơ lưu trữ
của Ban quản lý khu di tích lịch sử Côn Đảo: (gồm các báo cáo, biên bản, công
điện, tờ trình của Trung tâm cải huấn Côn Sơn còn lưu lại, chưa phân loại,
không có ký hiệu):
-
Bản cung khai
phản tỉnh của Nguyễn Văn Hai tự Quảng tại trung tâm cải huấn ỉ ngày 18-3-1961.
-
Báo cáo hàng
tháng của Trung tâm cải huấn Côn Sơn từ 1957 đến 1959.
-
Báo cáo chu kỳ
(10 ngày) và báo cáo nguyệt kỳ (30 ngày) của Ban chuyên môn Trung tâm cải huấn
Côn Sơn từ 1966 đến 1970.
-
Báo cáo đặc biệt
của Ty công an Côn Sơn ngày 28- 6-1960.
-
Báo cáo ngày
15-9-1961 của Đoàn trưởng Nguyền Trung Thu về chương trình công tác một tháng của
Đoàn cải lương lưu động tại Côn Sơn.
-
Bảo cáo của
Trưởng ban an ninh Vũ Thung về tình hình an ninh kèm bản phản tính của 12 can cứu
ra đầu thú tại khu kỷ luật.
-
Biên bản dàn xếp
nội bộ của Trung tâm cải huấn I (20-6-1960).
-
Biên bản họp
bàn về việc bổ túc tổ chức an ninh chung và tìm giải pháp tổ chức thích ứng cho
Trung tâm cải huấn Côn Sơn.
-
Biên bản số
02/CSQG CS/PCS lập đêm 27-2-1965 về vụ can phạm Sở Lưới cướp tàu vượt ngục.
-
Biển bản ngày
7-2-1975 ghi nhận các cuộc xách động, gây rối chống đối của các can phạm phá rối
trị an.
-
Biên bản bàn
giao giữa cựu và tân tỉnh trưởng Côn Sơn (1963).
-
Công điện số
08/cs/VP/4 ngày 27-4-1972 của Đặc phái viên hành chính Côn Sơn gửi Tổng nha cảnh
sát và công an.
-
Công điện số
367/ĐKCS /B3+4 ngày 20-5-1968 của Đặc khu Côn Sơn gửi Tổng nha cảnh sát (Sài
Gòn).
-
Công điện số
179 I CSQG cs /CSĐB /M ngày 13-5- 1967 về vụ 27 can phạm chống chào cờ tuyệt thực.
-
Công điện số
1008/CSQG cs/CSĐB/K/Y ngày 10-8- 1968 của Ty cảnh sát quốc gia Côn Sơn gửi Tổng
nha cảnh sát và công an về việc can phạm chống chào cờ tuyệt thực.
-
Công điện số
499/TTCH CS/AN/TK ngày 27-6- 1974 về tình hình an ninh.
-
Công văn sô
204 / TTHC ics /2M ngày 15-4-1958 của Quản đốc Trung tâm huấn chính Côn Sơn.
-
Công văn số
435/TTHC ICS I2M ngày 15-8-1958 của Quản đốc Trung tâm huấn chính Côn Sơn gửi Tổng
nha cảnh sát Sài Gòn.
-
Công văn số
1001ANIM ngày 26-1-1962 của Ban an ninh Trung tâm cải huấn II về vụ Liên chi Đảng
bộ tù án.
-
Công văn số
038-CS/NA/AN/M ngày 16-6-1964 của Tỉnh trưởng Tăng Tư gửi Bộ Nội vụ về việc 202
can cứu chính trị tuyệt thực.
-
Công văn số
149 ICSCA/M ngày 16-6-1959 của Chi công an Côn Sơn về tình hình an ninh chung.
-
Công văn số
164 /CACS /M ngày 24-8-1959 của Chi công an Côn Sơn về tình hình an ninh chung.
-
Công văn số
165/CSCA/M ngày 24-8-1959 của Chi công an Côn Sơn về tình hình an ninh chung.
-
Giám đốc quần
đảo và đề lao Côn Đảo (1954-1956).
-
Nguyệt trình số
467/NA / TTHC-CS IM ngày 25-11- 1959 của Trung tâm huấn chính Côn Sơn.
-
Nguyệt trình số
235/NA/TTHC/M 15-5-1960 của Trung tâm cải huấn Côn Sơn (TTCH/ CS).
-
Nguyệt trình
sô 423 /NA I TTCH/M ngày 16-6-1960 của TTCHCS.
-
Nguyệt trình
sô 1364 Ị NA/ TTCH / M ngày 7-10-1960 của TTCH cs.
-
Nguyệt trình số
205 IBQĐ /HC IM ngày 21-7-1961 của TTCH cs.
-
Nguyệt trình số
429/BQĐ/HCIM 22-10-1962 của TTCH cs.
-
Nguyệt trình số
289/CS-TTCH II/BC ngày 15-5- 1962 về tình hình của TTCtì II.
-
Nguyệt trình số
330/CS-TTCH II/BCÌM ngày 15-8- 1962 về tình hình của TTCH II.
-
Phúc trình sô
135 IĐCT IĐB /TV/M ngày 23-4-1960 của Dương Văn Hiếu, Trưởng đoàn công tác đặc
biệt Trung Việt tại Sài Gòn, phó ban chỉ huy Trung ương chiến dịch chuyển hướng
(tháng 4-1960) tại Côn Đảo gửi Ngô Đình Cẩn.
-
Phúc trình thảng
3-1961 của Ban cải huấn TTCH cs về việc can vận 18 can cứu chống ly khai theo sự
vụ lệnh 042 cs IVP/ SVL ngày 10-3-1961 (kèm 17 bản xác định lập trường không ly
khai).
-
Phúc trình số
30/cs/TTCH II ngày 15-8-1962 của giám thị trường TTCH II.
-
Phúc trình
ngày 14-11-1963 của Ty cảnh sát quốc gia Côn Sơn.
-
Phúc trình về
tình hình các can cứu chính trị thuộc TTCH cs từ 1-
1-1963 đến 24-6-1964.
-
Phúc trình của
Ban an ninh TTCH cs từ 1965 đến 1969.
-
Phúc trình
ngày 25-2-1970 của giám thị Trần Văn Du về việc can phạm Trại VII (nhà dù) mổ bụng.
-
Số liệu về sổ
người bị giam giữ và tình hỉnh ở Nhà lao Côn Sơn từ ngày ngừng bắn cho đến
19-7-1973.
-
Sự vụ lệnh sô
' 042/CS/VP/SVL ngày 11-3-11961 về việc thanh toán 18 can cứu chống ly khai ở
khu kỷ luật thuộc trung tâm cải huấn I.
74.
Hồ sơ lưu trữ
của Cục Lưu trữ Trung ương Đảng
-
Ban Thông nhất
Trung ương (phông) Đơn vị bảo quản 163.
-
Khôi tài liệu
chính quyền củ (phông) Đơn vị bảo quản 186.
75.
Hồ sơ lưu trữ
tại Phòng Lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu
-
Nguyễn Hoàng
Ân: (hồi ký) về tù chính trị Trại II (1957-1962).
-
Phạm Văn Ba:
(bản ghi băng) vể tù chính trị Trại I (1964-1975).
-
Phan Trọng
Bình: (bản ghi lời kể) về cuộc đấu tranh clĩống ly khai ở chuồng cọp 1959-1964.
-
Trần Văn Cao:
(bản ghi băng) về phong trào đấu tranh của tù chính trị cảu lưu (1960-1975).
-
Nguyền Văn
Chánh: (hồi ký) về cuộc đẩu tranh chống chào cờ của tù án chính trị.
-
Mai Xuân Cống:
(hồi ký) về phong trào đấu tranh của tù chính trị câu lưu 1964-1975.
-
Tạ Đại: (báo
cáo) về tiểu đoàn tâm lý chiến 1970-1971.
-
Trần Hân: Hồi
ký về tù chính trị câu lưu Trại II (1957-1960).
-
Đỗ Hằng: Hồi
ký về tù chính trị câu lưu Trại I (1959-1975).
-
Bùi Hóa: Hồi
ký về giải phóng Côn Đảo.
-
Nguyễn Kế Hoa:
Chiếm tàu địch, vượt Côn Đảo 27- 2-1965.
-
Trương Văn Hỏi:
Tình hình nhà lao Côn Đảo (1961- 1971).
-
Hội thảo tù
chính trị Côn Đảo tình Bình Trị Thiên, 1990.
-
Hội thảo tù
chính trị Côn Đảo tình Đồng Nai, 1990, 1991.
-
Hội thảo tù
chính trị Côn Đảo, Thành phố Hồ Chí Minh, 1985, 1986, 1987.
-Hội thảo tù chính trị Côn Đảo -tỉnh Ninh Thuận, 1994.
-
Hội thảo tù
chính trị Côn Đảo tỉnh Phú Khánh, 1988, 1990.
-
Hội thảo tù
chính trị Côn Đảo tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, 1993.
-
Hội thảo tù
chính trị Côn Đảo tỉnh Tây Ninh, 1990, 1992.
-
Hội thảo tù chính
trị Côn Đảo đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, 1990.
-
Phạm Quang Hồng:
Tù chính trị Côn Đảo làm lễ tang Bác (1969).
-
Nguyễn Thành
Khải: Tuổi trẻ trong tù (1957-1961).
-
Huỳnh Văn Khi:
Bảo vệ khí tiết trong tù (1957- 1961).
-
Nguyễn Xuân
Ký: Cuộc đấu tranh chống ly khai ở Trại I.
-
Trịnh Văn Lâu
(Trịnh Văn Tư): Sổ tay ghi chép trong tháng 5- 1975, khi làm Bí thư Đảo ủy lâm
thời.
-
Sầm Thanh
Liêm: Đấu tranh chống chào cờ của tù án chính trị.
-
Trần Tấn Lộc:
Một số ý kiến và phong trào đấu tranh của tù chính trị câu lưu Trại 1
(1957-1975).
-
Phan Văn Minh:
Công tác an ninh trong Nhà tù Côn Đảo.
-Phan Văn Minh: Cuộc tuyệt thực 23 ngày tháng 6-1964.
-
Trần Nga:
Phong trào đấu tranh của tù tri câu lưu Trại I (1957- 1960).
-
Nguyễn Đình
Nga: Hoạt động của tù án chính trị (1959-1967).
-
Lê Quang Ngọc:
Tổ chức và đấu tranh của tù chính tri câu lưu Trại II (1957-1960).
-
Phan Thanh
Nhàn: Công tác y tế trong tù (1957- 1962).
-
Nguyễn Thị Nhiễu:
Phong trào đấu tranh của nữ tù chính trị (1966-1969).
-
Hoàng Phùng:
Phong trào đấu tranh của tù cảu lưu (1957-1975).
-
Lê Hồng Quân:
Học Di chúc Bác trong chuồng cọp Côn Đảo.
-
Hoàng Sĩ Quỳ:
Sơ kết phong trào chống chào cờ của tù án chính trị (1963-1973).
-
Nguyễn Quýnh
(Nguyễn Xuân Tôn): Truyền thống đấu tranh cách mạng của Nhà tù Côn Đảo
(1862-1975).
-
Phạm Quốc Sắc:
Sơ kết phong trào đấu tranh của tù chính trị cảu lưu (1957-1964).
-
Lê Tam: Một số
ý kiến về công tác địch vận trong tù.
-
Trần Trọng
Tân: Tổ chức và hoạt động của tù án chính trị từ 1971 cho đến ngày giải phóng
Côn Đảo.
-
Lê Văn Thả: Một
số ý kiến về công tác y tế và đại diện trong tù (1957-1961).
-Võ Hồng Thái: Phong trào đấu tranh của tù án (1959-1974).
-
Phan Xuân
Thành: Tù chính trị Côn Đảo làm lễ tang Bác (1969).
-
Nguyễn Văn
Thành: Một số ý kiến về vai trò của một sô' cán bộ quân báo, về việc giải phóng
Côn Đảo và vụ đốt tài liệu ngày 2-5- 1975.
-
Nguyễn Văn Thiện:
Đường dây Côn Đảo (1971- 1974).
-
Lê Hồng Thoại:
về 41 phụ nữ chống ly khai (1957- 1958).
-
Phạm Thông: Đấu
tranh chống chờn cờ và cuộc tuyệt thực 19 ngày của tù án chính trị Côn Đảo
(1964-1967).
-
Nguyễn Trung
Tín: Tình hình nhà lao Côn Đảo 1969-1971.
-
Nguyễn Trung
Tín - Ngô Văn Năng - Trương Văn Hỏi: Báo cáo tình hình nhà lao Côn Đảo từ thảng
11 -1966 đến 7-1973.
-
Lê Mạnh Tiến:
Một số ý kiến về tù binh ở Côn Đảo (1965-1968).
-
Tọa đàm về cuộc
chiếm tàu địch, vượt Côn Đảo ngày 27-2-1965 tổ chức tại Vũng Tàu ngày
27-2-1985.
-
Tọa đàm về tù
nhởn Côn Đảo VỚI Bác Hổ tại Vũng Tàu (5-1989).
-
Tọa đàm về cuộc
đâu tranh của tù chính trị câu lưu (1957-1975) tổ chức tại Thành phố Hồ Chí
Mình (1985), Đồng Nai (1981), Vũng Tàu (1987).
-
Tọa đàm về đường
dây Côn Đảo (1963-1967), tháng 10-1982.
-
Tọa đàm về Chuồng
Cọp Côn Đảo (1965-1973), tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh tháng 5-1986.
-
Tọa đàm về cuộc
nổi dậy giải phóng Côn Đảo 1-5- 1975, tổ chức tại Thành pliố Hồ Chí Minh tháng
10-1984.
-
Tọa đàm về trường
hợp đồng chí Huỳnh Văn Khi và 7 người chống ly khai cuối cùng ở chuồng cọp
tháng 9- 1961, tổ chức tại Long Thành (Đồng Nai) tháng 6-1984.
-
Lê Văn Triết:
về tù chính trị câu lưu (1957-1975).
-
Lưu Văn Trọng:
Chuồng Cọp Côn Đào (1969-1973).
-
Bùi Thị Thanh
Vân: Phong trào đấu tranh của nữ tù chính trị Côn Đảo.
-
Nguyễn Trọng
Vĩ: Phong trào đấu tranh cùa tù chính trị câu lưu (1957-1961).
-
Lê Quang Vịnh:
Tù án chính trị chống chào cờ ngụy.
-
Lê Xuân Vinh:
Tiểu sử liệt sĩ Lưu Chí Hiểu.
76.
Hồ sơ lưu trữ
của Trung tâm lưu trừ II, Thành phô Hồ Chí Minh
-
Biệt bộ tham
mưu thuộc Phủ tổng thống (phông)
-
Báo cáo về
tình hình hoạt động tính Côn Sơn Ký hiệu TM, Hộp 412, cặp 619.
-
Tình hình an
ninh và kế hoạch bình định tính Côn Sơn Ký hiệu TM, Hộp 411, cặp 13.
-
Tòa đại biểu
chính phủ Việt Nam (phông):
-
Học chính trị
và tố cộng Ký hiệu F6-142.
-
Phúc trình
hàng thảng của Côn Đảo, Ký hiệu E03-156.
-
Phúc trình về
hoạt động của tỉnh Côn Sơn Ký hiệu E03-155.
-
Thông tư của
Ban chỉ đạo chiến dịch tố cộng Trung ương Ký hiệu F6-134.
-
Văn phòng Phủ
tổng thống (phông):
-
Báo cáo hàng
tháng của tỉnh Côn Sơn Ký hiệu BT V 383.
-
Báo cáo hàng
thảng của các tỉnh (có Côn Sơn) Ký hiệu BT 664.
77.
Hồ sơ lưu trữ
của Vụ bảo vệ Đảng, Ban Tô chức Trung ương:
-
Cặp I: Tài liệu
về anh chị em tù chính trị Côn Đảo.
-
Cặp II: Tài liệu
về anh chị tù chính trị Côn Đảo.
-
Pháp III: Nhận
làm việc cho địch.
-
Cặp IV: Vụ
Nguyễn Kim Trân và Phạm Gia Thụy.
-
Cặp V: Vượt đảo,
tuyệt thực, gặp nhau, ly khai Đàng.
-
Cặp VI: Vụ 22
tù chính trị có dính líu đến bức thư của Ban chấp hành Đảng bộ miền Nam.
-
Cặp VI: Lý lịch,
tường thuật của những người tù Côn Đảo.
-
Cặp VIII: Văn
kiện, tài liệu của Đảng bộ miền Nam.
-
Cặp IX: Danh
sách bị bắt, bị tù, có đầu hàng, phản biến.
-
Cặp X: Hồ sơ
văn kiến hành chính và tình báo của đích.
-
Cặp XI: Hồ sơ
trả tự do, ốm chết.
-
Cặp XII: Danh
sách tù chính trị tại Côn Đảo.
79. Hồ sơ lưu trữ của V16B Bộ Nội vụ (Một số tình hình về các nhà tù ở
miền Nam, ký hiệu N221/189)
-
AI gửi X10
ngày 25-6-1971 (Thư Trung ương cục gửi các đồng chí ở nhà lao Côn Sơn).
-
Ban chấp hành
Đảng bộ miền Nam gửi các đồng chí nhà lao 1965.
-
Báo cáo tình
hình Côn Sơn 30-1-1965 (Ư5 gửi Trung ương Cục).
-
Báo cáo tình
hình nhà lao Côn Đảo từ tháng 11- 1966 đến 7- 1993.
-
Báo cáo và kết
luận của đoàn đón tiếp Lộc Ninh về hai nhóm T45 và K23 ở trong tù (Trại II, Trại
V, Hô Nai).
-
Báo cáo năm
1971 (Nhà lao Côh Đảo gửi Trung ương Cục).
-
Báo cáo của đồng
chí Võ Văn Thuật tại Trung ương Cục về vụ cướp tàu vượt đáo ngày 27-2-1965.
-
B76 gửi C69
tháng 12 năm 1969 về việc liên lạc ra Côn Đáo (C69 là Ban an ninh Trung ương Cục).
-
Chí thị sô 33
/ CT của Trung ương Cục: Một sô chủ trương cụ thể về sự hỗ trợ của bên ngoài đối
với các nhà lao (12-12-1962).
-
Gửi 82 (Trung
ương Cục gửi nhà lao Côn Đảo 16- 6-1971).
-
Nhà lao Côn Đảo
(Ban Tổ chức Trung ương Cục, 1974).
-
Những số liệu
về người bị giam và tình hình ở Nhà lao Côn Đào (Tài liệu do anh chị em làm khổ
sai tại Văn phòng quản đốc nhà lao ghi chép gửi về).
-
P10 gửi X97 (Bộ
phận an ninh nắm đường dây Côn Đảo gửi Thường vụ Trung ương Cục).
-
Sơ kết phong
trào đâu tranh của tù chính trị câu lưu.
-
Sơ kết phong
trào đâu tranh chống chào cờ của tù án chính trị.
-
Sơ kết phong
trào đấu tranh của thiếu niên ở Nhà tù Côn Đào.
-
Sơ kết tình
hình Nhà lao Côn Đảo 1954-1975.
-
Thư của T rung
ương Cục gửi các đồng chí ở Côn Đảo (1 -1972).
-
Thông cáo số 1
ngày 1-5-1975 của úy ban hòa hợp hòa giải dân tộc tính Côn Sơn.
-
XI0 gửi AI
(Nhà lao Côn Đảo GỬI Trung ương Cục 1971).
-
X10 gửi các Y
(Đường dây Côn Đảo gửi các trại, 1970 - 1971).
1.
Bulletin
AdministratiỊ de la Cochinchine, Sài Gòn, 1908.
2.
Bulletin
Offìciel de la Cochinchine Francaise, Sài Gòn, n° 35 (1862).
3.
Bulletin
Officiel de la Cochinchine Francaise, Sài Gòn, n° 41 (1862).
4.
Bulletin
Officiel de la Cochinchine Francaise, Sài Gòn, n° 94 (1862).
5.
Bulletin
Officiel de la Cochinchine Francaise, Sài Gòn, 1869.
6.
Bulletin
Officiel de la Cochinchine Francaise, Sài Gòn, 1871.
7.
Bulletin
Officiel de la Coekinchi'ne Franẹaise, Sài Gòn, 1878.
8.
Bulletin
Officiel de L’Indochine Franẹaise, Sài Gòn, n° 878, 1889.
9.
Bulletin
Officiel de L’Indochine Franẹaise, Sài Gòn, n° 351, 1891.
10.
Bulletin
Officiel de L’Indochine Franẹaise, Sài Gòn, n° 16, 1892.
11.
Bulletin
Officiel de L’Indochine Franẹaise, Sài Gòn, n° 18, 1893.
12.
Bulletin
Officiel de L’Indochine Franẹaise, Sài Gòn, n° 566, 1896.
13.
Journal
Officiel de L’Indochine Franẹaise, Sài Gòn, 2° som 1929.
14.
Demariaux, J c
- Les secrets des Iles de Poulo Condore (Le grand bagce Indochinois) - J
Pyronnet et Cie, Paris, 1956.
15.
Gaide, Louis -
Notice historique sur Poulo Condore - Bulletin des Amie du Vieux Hue, n° 2,
Avril - Ruin 1925.
16.
Hemery, D - Ho
Chi Minh de L’Indochine su Vietnam - Découvertes Gallimard - Histoire, Paris,
1990.
17.
Malletret, L -
L’archéologie du delta du Mékong, T.I, Paris, 1959.
18.
Maybon, c -
Histoire moderne du pays d'Annam 1592 - 1820 - Plos et Nourrit, Paris, 1919.
19.
Septans, A -
Les commencements de L'Indochine franẹaise - Challamel Aĩné, Paris, 1887.
20.
T.F.E.O -
Poulo ,Condore, Sài Gòn,,1947 (J.B = Jaque Brulé). Trung tâm lưu trữ Quốc gia
II, Thành phố Hồ Chí Minh (Hồ sơ lưu trữ):
- Rapport d'ensemble du Pénitencier de Poulo Condor e
1928.
-
Procès ver bal
de prise de possession du groupe de Poulo Condore (1861).
-
Circulaire du
Ministre des Colonies à M le Gouverneur Général de L'Indochine Franẹaise (31
Octobre 1925).
-
Circulaire du
Gouverneur de la Cochinchine à Messieurs les Administrateurs, Chefs de
province, le Directeur de la Prison Centrale et le Directeur du Pénitencier de
Poulo Condore (25 Janvier 1926).
-
Circulaire
confidentielle du Gouverneur Général de Plndochine à Messieurs Ise Chefs
dAdministration locale (10 Janvier 1930).
- Internement à Poulo Condore de déportés politiques (1903-1905).
- Sosiété socrète du “Ciel et de la Terre”.
- Rapport sur Poulo Condore (du Cabinet de
VArchitecte...) (17!8! 1874).
- Plan général du Pénitencier de Poulo Condore 1874.
- Arrêté du Gouverneur Général de L’Indochine
5/7/1904.
-
Règlement
particulier du Pénitencier de Poulo Condor e 1875.
-
Reglement
particulier du Pénitencier de Poulo Condor e 1889.
-
Situation de
l’effectif de Poulo Condore.
- Rapport sur la situation du Pénitencier de Poulo
Condore 3/12
/1884.
-
Rapport du
Conducteur chargé du travaux du phare de Bai Kan à M le Directeur des Travaux
Publics @5/2/1884).
-
Rapport du
Directeur des Travaux Publics (5/5/1884).
-
Rapport su la
situation du Pénitencier de Poulo Condore (24/10/1884).
-
Circulaire du
Lieutenant Gouverneur de la Cochinchine à Messieurs les Adminitrateurs
(5/4/1895).
-
Rapport
Confidential sur Ưémeute (19/6/1890).
-
Interrogatoire
du personnel préposé à la surveillance des détenus du Pénitencier (Eiỉmeute du
19/6/1890).
-
Interrogatoire
de détenus ayant pris part à l’émeute au Jeudi 19 Juin 1890.
Etat nominatif des agents à Récompenser (23/6/1890).
-
Rapport du
Procureur Général, Chefs du Service judicaire de L’Indochine à M le Secrétaire
Général à Saigon (21/11/1890).
-
Rapport de
L’Administrateur du Pénitencier de Poulo Condore à M le Directeur de
l’Intérieur (6/9/1883) sur la révolte de Bai Canh.
-
Rapport au
sujet de la révolte du 27 Aoũt à Bai Canh (23/9/1883).
-
Rapport de
L’Administrateur Bataille sur la révolte de Bai Canh (28/9/1883) Traduction de
la dépêche du Gouverneur de Bình Thuận (25/10/1883).
-
Etat des
condamnés évadés de Bai Canh avec la baleinière et le canot de sauvetage, à la
suite de la révolte du 27 Aoũt 1883.
-
Rapport du M
De Colbert, Directeur, à M le Lieutenant Gouverneur de la Cochinchine
(18/2/1897).
-
Postes de
couchage des détenus (14/1/1899).
-
Extraits du
rapport de quinzaine 1897.
-
Rapport de M
Azsaud, Procureur Général, Chefs du Service Judicaire de L’Indochine à M le
Lieutenant Gouverneur de la Cochinchine (14/1 /1902).
-
Arrêté du
Lieutenant Gouverneur de la Cochinchine 1902.
-
Plan du
Pénitencier de Poulo Condore (20/4/1876).
-
Plan du
Pénitencier de Poulo Condore (16/3/1889).
-
Plan du
Pénitencier de Poulo Condore (24/10/1885).
-
Lavétographique
de la plaine occupée par le Pénitencier de Poulo Condore (1888).
-
JStude de M
Levesque sur le Pénitencier de Poulo Condore (1904).
-
Procès verbal
d'arrestation d'évadés (5/4/1904).
-
Situation de
reffectif.. (1909).
-
Rapports de
qiunzaine 1904-1906.
-
Situation de
l’effectif.. 1896, 1897, 1898, 1899, 1905, 1906.
-
Evasions de
prisonniers 1893-1894.
-
Télégramme
officiel du Cabinet du Lieutenant Gouverneur
(28/7/1904).
-
Rapport du N
Rodier à VAdministrateur du Territoire de Quang - Choou - Van (17/8/1904).
-
Etat nominatif
des prisonniers originaires de l’Annam (3e trimestre 1912).
-
Rapport de N
Codenet, Administrateur des Service Civil, Directeur des lies et du Pénitencier
de Poulo Condore à N le Gouverneur de la Cochinchine (27/8 et 26/10/1912).
-
Rapport du N
De Gaillande à N le Gouverneur de la Cochinchine (5/5 et 20/10/1915).
-
Rapport de M
Malaye, Directeur des Iles te du Pénitencier de Polou Condore à M Le Lieutenant
Gouverneur de la Cochinchine (16/3/1909).
-
Situation
générale des détenus au 15 Mai 1909.
-
Télégramme
officiel 8/7/1909.
-
Règlement
particulier des Iles et du Pénitencier de Poulo Condore 1903.
HẾT
Nguồn: Internet
Không có nhận xét nào