LỊCH SỬ KHẨN HOANG MIỀN NAM
Nhu Cầu
Phát Triển Xứ Đàng Trong, Phục Quốc Và Củng Cố Quốc Gia
Nhu Cầu
Xác Định Vùng Biên Giới Việt Miên
Nhu Cầu
Chỉnh Đốn Về Nội Trị: Những Đồn Điền Chiến Lược Ở Hậu Giang
Làng
Xóm, Điền Đất Và Người Dân Thời Đàng Cựu
Nghĩa
Quân Thất Trận Và Nông Dân Mất Ruộng
Sơn Nam
Tập võ, đánh cờ tướng, tắm hơi, câu cá, chơi hoa kiểng, tìm
lạc thú yêu đương, du lịch, uống rượu với bạn, đọc sách về Thiền... là những
phương thức có hiệu quả để tìm sự thoải mái, thấy mình được hạnh phúc, không
còn cô độc trong xã hội phức tạp mà con người như càng cô độc. Thiết tưởng
những hình thức "tu luyện" nói trên tuy hữu hiệu nhưng chỉ là giải
trí nhất thời. Có lẽ ta nên đọc sử, đặc biệt là lịch sử nước nhà. Lúc sau này
những danh từ "Về nguồn, tìm dân tộc" thường được nhắc đến. Nhưng về
nguồn không chỉ để thưởng ngoạn là xong. Mỗi hình thức văn nghệ, mỗi vũ điệu,
mỗi lá cây chỉ đẹp trong bối cảnh lớn của nó. Cái vỏ sò, vỏ ốc nằm trên bãi cát
bao la đại dương ngoài xa, biển không một cánh buồm và bãi cát không in dấu
chân người. Hoa sen ở trong đầm, giữa biển cỏ hoặc trong ruộng lúa bát ngát,
với em bé ở trần, bơi xuồng, bụng hơi đói. Ta chỉ hết cô độc, hêt bị căng thẳng
thần kinh khi tìm ra cái cớ để giải thích nỗi buồn vô cớ. Cái cớ ấy có lẽ ta
chưa hòa hợp, dính liền được với bối cảnh hiện tại, như cái vỏ ốc trên bãi,
hoặc bông sen dính rễ dưới bùn. Chúng ta đang sống trong lịch sử, và hiện tại
quả là dính dấp với quá khứ. Nói gì thì nói, khi tìm hiểu một người, người ta
phải làm công việc cần thiết là sưu tra lý lịch. Và người Việt nam, không thể
nào hãnh diện đúng mức khi đọc tiểu sử của ông Hoa Thịnh Đốn, ông Nã Phá Luân
hoặc ông Khổng, ông Thích ca, mặc dầu đó là những người "của nhân
loại". Đọc sách lịch sử Tây tiến ở Mỹ Quốc, xem phim về anh hùng phiêu lưu
khẩn hoang là những phút mua vui hoặc nghiên cứu đứt đoạn. Không thể nào dùng
lịch sử của nước khác để làm lịch sử của mình được. Ta trở về với bối cảnh của
ta. Trở về, lại là hành động tích cực chớ không là thưởng ngoạn, thụ động. Đi
ngang vùng đất ngày xưa là thành Chí Hòa, ngắm những đám cỏ xanh rờn vừa vươn
lên khi mùa mưa trở về, ta không khởi ngậm ngùi; nhưng bứng vài cụm cỏ trên nền
đất đầy máu và nước mắt ấy đem về trồng trong chậu thì hóa ra vô duyên, tạm
thời giải khây được nhưng tạo ra một sự cô độc mới. Đến vùng Thuộc Nhiêu, Cai
Lậy, ngâm câu thơ "Đất linh bồi đắp cuộc Ba Giồng" của ông Học Lạc
vẫn là chưa đủ, cũng như khi qua đò máy Mỹ Thuận hoặc đò máy Vàm Cống vào buổi
có mưa lất phất, tưởng rằng cảnh đẹp "Khói sóng Tiêu Tương" hiện về.
Phải là một sự chuyển mình nhập thân vào bối cảnh mới. Ngày xưa là bóng dáng
thằng bé chăn trâu, lưng trần phơi nắng, thất học, ngày nay, ngày mai, bối cảnh
là ruộng lúa, máy cày và hoa màu phụ.
Đầu đề LỊCH SỬ KHẨN HOANG MIỀN NAM quá lớn, đòi hỏi
sự làm việc cần cù, kiên nhẫn, lâu dài của một tiểu ban, một nhóm có thẩm
quyền. Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, chúng tôi đánh bạo, thử vạch một lối để
trèo núi cao. Chắc chắn là có nhiều lối khác để đi tới đỉnh núi. Chúng tôi chỉ
có hy vọng là dẹp một mớ sỏi gai, để thấy bóng dáng đỉnh núi. Tài năng, kiến
thức, và thời giờ làm việc của một người chỉ có hạn, cũng may là được giúp đỡ
tận tình, đặc biệt của các viên chức ở Thư viện Quốc gia, Thư viện Khảo cổ, Thư
viện Hội Cổ học Ấn-Hoa. Một số bạn đã giúp đỡ vài tài liệu quan trọng.
Dám mong độc giả xem đây là bản khởi
thảo. Sau này, đất nước hòa bình, phương tiện dồi dào, nhiều vị thức giả và các
bạn trẻ hiếu học sẽ đi sâu vào đề tài nầy để những đức tánh lớn của dân Việt
được phát hiện bi hùng hơn, gần sự thật hơn.
Tháng 7 năm 1973
Sơn Nam
Sơn Nam
VỀ CHÚ THÍCH
Xin tạm viết tắt như sau:
GĐTC: Gia Định Thành Thông Chí của
Trịnh Hoài Đức, bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, do Nha Văn hóa Phủ Quốc vụ
khanh đặc trách Văn hóa xuất bản năm 1972, gồm ba tập Thượng, Trung Hạ. Nếu ghi
chú: GĐTC Trung, 17 tức là bản dịch nói trên thuộc tập Trung, trang 17.
QTCB: Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu, nhóm nghiên
cứu Sử Địa Việt Nam, Sài Gòn, 1972.
MMCY: Minh Mệnh Chánh Yếu, bản dịch của
Ủy ban Dịch thuật Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa xuất bản năm 1972, đã ra
hai tập 1 và 2.
ĐNNTC: Đại Nam Nhất Thống Chí, Lục Tỉnh Nam Việt,
bản dịch Tu Trai Nguyễn Tạo gồm hai tập Thượng và Hạ, Nha Văn hóa Bộ Quốc gia
Giáo dục xuất bản năm 1959.
Những tài liệu của Nha Văn khố Sài Gòn có số hiệu
ghi trong văn kiện, đại khái:
SL. 1678, tức Services Locaux, 1678.
CP. 615, tức Conseil Privé, 615.
Riêng về số hiệu SL. 1742 là tài liệu chữ Nho, đa
số về đời Minh Mạng; SL. 1755, đa số thuộc đời Tự Đức; và SL. 1743, thuộc loại
linh tinh đời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức (chưa sắp loại từng văn kiện).
Về các tỉnh Rạch Giá, Bạc Liêu và Cần
Thơ mà chúng tôi đề cập riêng rẽ, thí dụ E/7 tức hộp tài liệu đánh số E/7,
trong mục về tỉnh Rạch Giá, là của văn khố thuộc Rạch Giá. Thí dụ như T/1 ở
đoạn nói riêng về tỉnh Cần Thơ là tài liệu lưu trữ về tỉnh Cần Thơ, hộp T/1.
VỀ ĐỊA DANH, TÊN NGƯỜI...
Chúng tôi dùng theo ranh giới cũ và địa danh cũ,
hồi trước 1945, thí dụ như vùng Trà Vinh, là vùng tỉnh Trà Vinh, theo ranh giới
trước 1945. Hoặc Rạch Giá là Rạch Giá theo ranh giới thời Pháp thuộc, cũng như
Cà Mau tức là quận Cà Mau. Bạc Liêu là tỉnh Bạc Liêu ngày xưa với ranh giới bao
gồm luôn quận Cà Mau, xin bạn đọc chịu khó nhớ lại là xong, cho in lại bản đồ
Nam Kỳ với ni tấc quá nhỏ thì chẳng lợi ích gì cả.
Về tên người, chắc độc giả hẳn tha thứ
khi chúng tôi viết không phân biệt Nguyễn Ánh, Gia Long tẩu quốc, vì đó là thói
quen được chấp nhận.
Cũng như chúng tôi không phân biệt rõ ràng từng
giai đoạn, khi người Pháp mới đến "Inspecterur", gọi là Tham biện, vì
là tiếng gọi thông dụng và chánh thức thời đó; khu vực hành chánh
"Inspection" và "Province" đều gọi là Hạt, trong dân gian
và một số văn kiện chánh thức. Vì vậy, khi hành văn chúng tôi không phân biệt
Chủ tỉnh và Tham biện (Administrateur) cũng như chức vụ Thống đốc Nam Kỳ, không
phân biệt giai đoạn quân sự hay dân sự. Thời Pháp thuộc, danh xưng chánh thức
là "quan tham biện chủ tỉnh" (Administrateur, chef de province),
nhưng làm việc tại tòa bố (Inspection) tỉnh X.
Với một số độc giả còn trẻ, có thể
chúng tôi chưa chú thích đầy đủ, thí dụ như thuế thân, công sưu, cai tổng, hội
đồng quản hạt. Nhưng nếu chú thích quá tỉ mỉ thì lại hóa ra vô ích đối với
những độc giả cỡ 45 tuổi. Xin lượng thứ vậy.
Phần quan trọng nhứt của việc khẩn hoang là làm
ruộng. Chúng tôi không đề cập tới việc khai thác lâm sản, hải sản, ngư nghiệp
và các đồn điền cao su, đồn điền trà...
SƠN NAM
Đồng bằng sông Cửu Long, Ménam và
Irraouaddi là ba trung tâm sản xuất lúa gạo, có dư để xuất cảng, quan trọng
nhứt trên thế giới. Việt Nam, Xiêm, Miến Điện gồm đa số dân sống bằng nghề
nông. Ba quốc gia này liên ranh, nằm trong khu vực gió mùa với những nét lớn
giống nhau:
-
Lãnh thổ phát
triển lần hồi từ Bắc xuống Nam.
- Biết làm ruộng cấy ở đồng sâu, nhờ đó mà sản lượng
đạt mức cao so với ruộng tỉa ở đất khô.
Nam tiến không phải là mãnh lực huyền
bí của riêng dân tộc Việt Nam. Những dân tộc chịu ảnh hưởng ấn độ vẫn đạt được
kỹ thuật cày sâu cuốc bẫm không kém nước ta. Việc tôn thờ rắn thần và rồng để
cầu mưa, vài môn giải trí như thả diều, trai gái đối đáp nhau nào phải chỉ xảy
ra ở Việt Nam.
Dân Việt gặp dân Miên vốn có nền văn hóa cổ kính
khá cao. Vào thế kỷ 13, người Miên đã tìm ra giống lúa và dẫn thủy nhập điền
thích ứng giúp họ thâu hoạch 3 hoặc 4 vụ trong một năm. Cuộc Nam tiến của người
Xiêm, người Miến Điện gặp hoàn cảnh khá tốt về địa lý, hai con sông Ménam và
Irraouaddi thuận lợi cho việc thông thương, trong khi Hồng Hà và sông Cửu Long
có nhiều thác đá. Từ hạ lưu sông Hồng, dân Việt len lỏi theo mấy cánh đồng nhỏ
bé dọc theo bờ biển Đông nhiều giông tố để lần hồi đến hạ lưu sông Đồng Nai, sông Cửu Long.
Tuy là đặt chân trên đất Cao Miên nhưng
đối thủ đáng nể của người Việt đi khẩn hoang lại là người Xiêm đang nuôi tham
vọng đô hộ vùng Vạn Tượng, Cao Miên và Mã Lai. Xiêm quốc lúc bấy giờ đang thời
hưng thịnh, với tướng giỏi, quân sĩ có kinh nghiệm về chiến đấu đường bộ và
đường thủy.
Người Việt đã giữ được thế chủ động
trong hoàn cảnh gay go.
Khi đặt chân ở đồng bằng sông Cửu Long, nước Việt
bị chia cắt từ sông Gianh, công trình khẩn đất và giữ đất lúc đầu chỉ do một số
dân từ Quảng Bình trở vào gánh vác. Bấy giờ, ưu thế của người Việt khong là kỹ
thuật canh tác cao, nhưng là ưu thế về tổ chức chính trị và quân sự. Bộ mấy
hành chính khá hoàn hảo đã giúp chúa Nguyễn theo dõi được tình hình ở những địa
phương xa xôi, quân đội có thể tập trung khá nhanh khi cần thiết. Đơn vị xã hội
nhỏ nhất là thôn ấp đủ khả năng tự trị, các tổ chức đồn điền có thể tự quản trị
về kinh tế và an ninh.
Quân đội Xiêm hùng mạnh, nhưng đi xa
thì mất hiệu năng. Nước Cao Miên bấy giờ quá suy nhược, vua chúa kém năng lực
chỉ biết cầu viện với ngoại bang, dân chúng thì ly tán: người Xiêm thường lùa
bắt từng loạt dân Cao Miên đem về xứ họ để làm nông nô phục dịch.
Vua chúa Việt Nam thúc đẩy việc khẩn
hoang vì những lý do sau đây:
- Mở rộng địa bàn thống trị, đất rộng, dân giàu thì
kinh đô được bảo vệ chu đáo hơn.
-
Thuế điền và
thuế đinh gia tăng nhanh chóng.
-
Nạn đói kém
được giảm thiểu, nơi này thất mùa, nơi kia bù lại, ít có nguy cơ nội loạn.
- Dân số gia tăng,
thêm lính tráng, thêm dân xâu.
Bộ Đinh và bộ Điền tiêu biểu cụ thể cho nhân lực,
tài lực. Với binh sĩ giữ gìn bờ cõi và trấn áp nội loạn, với tiền bạc và nhân
công làm xâu, vua chúa tha hồ phung phí, sống xa hoa, xây đắp cung điện lăng
tẩm, ưu đãi người trong giòng họ, mua chuộc quan lại, để ngôi vị được ổn định,
chống các âm mưu ly khai ở địa phương.
Về phía dân chúng, khẩn hoang là việc
tích cực, không phải là hưởng thụ, thụ động, chờ thời vận.
* Phải có yếu tố thiên nhiên tương đối thuận lợi, đất
quá thấp thì lúa dễ bị ngập, quá cao thì gặp nạn thiếu nước. Từ nơi cư trú đến
thửa ruộng, đường đi phải gần để khỏi phí thì giờ lui tới, lúa đem về nhà không
mất nhiều công lao và phí tổn chuyên chở.
* Đủ nước ngọt để uống, nấu cơm và cho trâu bò uống.
*
Gia đình đủ
vốn liếng, đủ lúa gạo ăn trong khi chờ lúa chín. Lại còn quần áo, tu bổ nhà
cửa, thuốc uống, trầu cau, lúa gạo để nuôi heo gà, ghe xuồng, nông cụ. Thêm vào
đó, còn yếu tố xã hội vì làm ruộng đòi hỏi sự hợp quần cần thiết:
- Sức một người, một gia đình chỉ có giới hạn. Một
khoảnh ruộng ở giữa tư bề đất hoang thì hoa mầu sẽ bị chim chuột từ các vùng
lân cận tập trung lại phá nát. Năm bảy gia đình góp sức canh tác liên ranh nhau
thì sự tổn thất vì chim chuột được giảm thiểu.
-
Mùa cấy tuy là
co giãn, xê xích mươi ngày nhưng nằm trong thời gian quy định. Cấy quá sớm,
thiếu nước, cấy quá trễ, cây lúa mọc không kịp nước mưa. Mỗi người chỉ có thể
cấy chừng 4 mẫu tây trong một mùa mà thôi, đàn bà lo cấy ở nơi này thì đàn ông
lo dọn đất ở nơi kia. Dọn đất cấy quá sớm, cỏ mọc trở lại, trì hoãn thì nước
trong ruộng lên cao, không dọn đất được. Lúa chín mà gặt trễ chừng năm bảy ngày
là hư hao.
Phát cỏ, cấy lúa, gặt lúa đòi hỏi sự tập trung nhân
công, mướn hoặc đổi công, theo lịch trình không được bê trễ. Phải nhờ người lân
cận hoặc ở địa phương khác đến. Ngay trong một khoảnh đất nhỏ, mặt đất chưa
bằng phẳng, nơi cao nơi thấp, việc đắp bờ, tát nước vẫn là công trình của nhiều
người.
Vùng định cư để khẩn hoang cần liên lạc
với vùng phụ cận dễ dàng để giải quyết vấn đề nhân công. Trong một ấp, nhà này
không được ở quá xa nhà kia. Gần thôn ấp, phải có nơi bán tạp hóa, có người cho
vay, người tiêu thụ lúa. Việc sanh đẻ, cưới hỏi, may chay đòi hỏi các phương
tiện tối thiểu. Nhà cửa, tính mạng người dân phải được bảo vệ, chống trộm cướp,
loạn lạc. Lại còn nhu cầu học vấn, nhu cầu về tâm linh với đình, chùa, miễu,
hát xướng.
Đơn vị tối thiểu về xã hội vẫn là một làng.
Khẩn hoang đòi hỏi nhiều yếu tố căn bản. Khẩn hoang
ở đồng bằng sông Cửu Long là cuộc vận động lớn, toàn diện về chính trị, quân
sự, kinh tế, văn hóa.
Vua chúa quy định chính sách điền địa, thuế khóa,
quân dịch và thưởng phạt. Tùy nhu cầu mà có khi quân sĩ, lưu dân và tù nhân
phải đóng đồn, lập ấp, cày cấy ở nơi mất an ninh. Đất kém mầu mỡ, khó canh tác
nhưng chính quyền lại cưỡng bách đến định cư. Có những giai đoạn, những khu vực
mà chính phủ kiểm soát chặt chẽ việc khẩn hoang, nhưng cũng có lúc người dân
được dễ dãi. Nhiều vùng đất tuy người Cao Miên chưa chánh thức nhượng cho ta
nhưng dân ta đã đến khẩn hoang, hoặc ngược lại, đã nhượng từ lâu nhưng vẫn còn
hoang phế.
Cuộc vận động phối hợp quân sự, chính
trị và kỹ thuật này có thể chia ra từng thời kỳ:
1) Từ các chúa Nguyễn đến những năm cuối đời Gia Long:
Khai khẩn vùng đất phù sa tốt, đất giồng ven sông, đất cù lao theo nhu cầu phát
triển xứ Đàng Trong, phục quốc và củng cố quốc gia.
Còn lại các vùng nước ngập sâu vào mùa mưa, đất quá
phèn, rừng Sác. Vùng người Miên tập trung, trên nguyên tắc thì để nguyên vẹn
(Rạch Giá, Sóc Trăng, Trà Vinh, Châu Đốc).
Thành lập các trấn Biên Hòa, Gia Định, Định Tường
và Vĩnh Thanh.
2)
Từ cuối đời
Gia Long tới cuối đời Minh Mạng: Khai khẩn phía hữu ngạn Hậu Giang, nối qua
vùng đồi núi Thất Sơn, vì nhu cầu xác định biên giới Việt Miên. Khai khẩn vùng
đồi núi, vùng đất thấp, canh tác những lõm đất nhỏ mà cao ráo, giữa vùng nước
ngập lụt.
Thành lập tỉnh An Giang, tách ra từ trấn Vĩnh
Thanh.
3) Từ đời Thiệu Trị tới đời Tự Đức: Khai khẩn những
điểm chiến lược, nhằm đề phòng nội loạn ở phía Hậu Giang, chánh sách đồn điền
được thúc đẩy mạnh.
Thực dân Pháp đến, nhằm mục đích bóc lột nhân công
rẻ tiền, và xuất cảng tài nguyên, đã thực hiện được vài việc đáng kể:
1)
Cho đào kinh
để chuyên chở lúa gạo, giúp giao thông vận tải được dễ dàng, đồng thời rút bớt
nước vào mùa lụt từ Hậu Giang ra Vịnh Xiêm La. Vùng đất phèn, tạm gọi là phù sa
mới, không còn bị nước ngập quá cao. Việc chuyên chở sản phảm về Sài Gòn ít tốn
kém hơn trước.
Thành lập các tỉnh mới: Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, vùng này trở thành nơi dư lúa gạo, nhờ dân ít mà mức sản xuất
cao. Khai khẩn rừng tràm và đồng cỏ.
2)
Thúc đẩy việc
làm ruộng sạ, nhờ chọn các giống lúa thích hợp hơn, giúp vùng đất thấp ở Long
Xuyên, Châu Đốc và Đồng Tháp Mười canh tác được. Còn lại là vùng rừng Sác Cần
Giờ, rừng Đước Cà Mau, vùng than bùn U Minh, vùng đất quá nhiều phèn chung
quanh Hà Tiên và Đồng Tháp Mười.
Nhu Cầu Phát Triển Xứ Đàng Trong, Phục Quốc Và Củng Cố Quốc Gia
Từ lâu, các chúa Nguyễn đã biết về vùng
đất ở Đồng Nai và Cửu Long, nhưng cơ hội chưa thuận lợi để đẩy mạnh cuộc phát
triển về phía Nam. Năm 1623, một phái bộ của chúa Nguyễn đến Oudong yêu cầu
được lập cơ sở ở Prei Nokor (vùng Sài Gòn) để thu thuế hàng hóa.
Năm 1658, khi còn bận rộn giao tranh với chúa Trịnh
ở phương Bắc, chúa Hiền cho quan Khâm mạng đến Trấn Biên dinh (Phú Yên) đem
2000 quân đến Mỗi Xui (Mô Xoài) để đánh phá, bắt vua Nặc Ông Chân giải về Quảng
Bình. Khi ấy ở Mỗi Xui (vùng Bà Rịa ngày nay) và ở Đồng Nai, "đã có lưu
dân của nước ta đến sống chung lộn với người Cao Miên khai khẩn ruộng đất.
Người Cao Miên khâm phục oai đức của triều đình đem nhượng hết cả đất ấy rồi đi
lánh chỗ khác, không dám tranh trở chuyện gì".
Năm 1672, tình hình vô cùng thuận lợi cho Hiền
Vương, ngài đã thắng chúa Trịnh, lấy sông Gianh làm ranh giới. Năm 1764, Cao
Miên có loạn, thêm lý do để quân chúa Nguyễn can thiệp, lần này phá luôn được
các đồn binh Cao Miên ở Sài Gòn, Gò Bích và Nam Vang sau khi thắng ở Mô Xoài.
Bảy năm sau, 1679, Trần Thắng Tài và Dương Ngạn
Địch đem binh biền và gia quyến hơn 3000 người và chiến thuyền hơn năm chục
chiếc đến gần kinh đô.
Hiền Vương cho phép bọn di thần nhà
Minh vào Nam. Chi tiết đáng chú ý là đoàn chiến thuyền này được đưa vào Nam có
người hướng dẫn. Đây là cuộc hướng dẫn thần tình, chứng tỏ thời chúa Nguyễn bản
đồ và khung cảnh ở đồng bằng sông Đồng Nai và Cửu Long được nghiên cứu khá
tường tận. Chúa Nguyễn và người hướng dẫn đã đánh giá đúng mức giá trị chiến
lược của vùng Mỹ Tho và vùng Biên Hòa — nơi bọn di thần nhà Minh được phép đến
định cư — sự đánh giá ấy mãi đến sau này vẫn còn là đúng.
Miền Nam vẫn còn hai nơi quan trọng khác ở phía Tây
và Tây Nam. Năm 1699, Nguyễn Hữu Cảnh đem binh lên tận Nam Vang để can thiệp về
quân sự. Chuyến về vào khoảng tháng tư năm canh thìn (1700), ông cho quân sĩ
theo dòng Tiền Giang, trú đóng tại Cái Sao (vùng chợ Thủ của Long Xuyên)
"Ba quân bị phát bịnh dịch và ông cũng bị nhiễm bịnh". Thời gian trú
quân ở đây là hơn nửa tháng, binh kéo đi hai ngày sau là ông mất. "Ông có
công dẹp yên Cao Miên rồi khai thác đất này". Ai trực tiếp khai thác? Chắc
chắn là số binh sĩ bị bịnh, hoặc một số tình nguyện ở lại vùng Cái Sao mà khai
thác trước khi đất đai này được vua Cao Miên nhượng cho. Bấy giờ nhóm này sống
cheo leo bên kia sông Tiền. họ được gọi là dân Hai Huyện, trực thuộc phủ Gia
Định từ xưa.
Năm 1705, Nguyễn Cửu Vân thừa lịnh hành quân lên
Cao Miên để đánh quân Xiêm, khi trở về lại cho trú quân ở Vũng Gù (nay là Tân
An) lập đồn điền, "làm thủ xướng cho quân dân", đắp đồn và đào kinh
cho rạch Vũng Gù và rạch Mỹ Tho ăn thông với nhau, nối liền sông Vàm Cỏ Tây qua
Tiền Giang.
Về phía Vịnh Xiêm La, khoảng năm 1680, Mạc Cửu đã
lập ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau. Hà Tiên trở
thành thương cảng quan trọng, thôn ấp định cư nằm sát mé biển, thuận tiện cho
ghe thuyền tới lui, hoặc ở đất cao theo Giang thành, sông Cái Lớn, sông Gành
Hào, Ông Đốc để canh tác.
Trần Thắng Tài (Đồng Nai), Dương Ngạn
Địch (Mỹ Tho), Nguyễn Hữu Cảnh (Tiền Giang), Nguyễn Cửu Vân (Vàm Cỏ), Mặc Cửu
(Hà Tiên) và quân dân đã đi những bước tiên phong trong thời gian ngắn. Nhóm di
thần nhà Minh và dân Việt thật sự làm ruộng và định cư nơi đất lạ. Bao nhiêu
khó khăn dồn dập xảy tới: cuộc tranh chấp về quân sự với người Cao Miên, người
Xiêm. Mãi đến 134 năm sau (1834), vùng đất mà ông Nguyễn Hữu Cảnh
khai sáng còn gặp chinh chiến với quân Xiêm, mặc
dầu cuộc Nam tiến hoàn tất vào năm 1759. Lại còn việc tranh chấp dằng dai với
anh em Tây Sơn, khiến việc khẩn hoang bị đình trệ hoặc hư hại.
Chúa Nguyễn nắm nguyên tắc căn bản là phát triển
các đơn vị hành chính liền ranh nhau. Thoạt tiên dinh Trấn Biên đóng ở vùng Phú
Yên. Năm 1698, chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh đặt ra Gia Định phủ gồm có:
- Xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn
Biên.
- Xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên
Trấn;
Rồi lần hồi, vùng Long Hồ nối vào đất Gia Định,
vùng Mỹ Tho nối vào Gia Định, vùng An Giang nối vào Long Hồ (Vĩnh Long). Lúc Hà
Tiên quá suy sụp, năm 1805 (đời Gia Long) dinh Vĩnh Trấn (Vĩnh Long) cai quản
từ hữu ngạn Tiền Giang đến Rạch Giá, Cà Mau, tức Vịnh Xiêm la để rồi năm 1810
trả lại cho trấn Hà Tiên như cũ.
Từ ngàn xưa, dân Việt học được kinh nghiệm về định
cư: miền rừng núi bao giờ cũng bất lợi, ít đất thịt, nhiều sỏi đá, nhứt là bịnh
rét rừng (sơn lam chướng khí) nguy hại có thể gây nạn diệt chủng. Nhà cửa nên
cất nơi đồng bằng, nhưng đất phải cao ráo, gần sông rạch càng tốt, tránh nơi
nước đọng ao tù. "Sông sâu nước chảy" là cuộc đất lý tưởng về phong
thủy (tài lợi dồi dào) nhưng trong thực tế là ngừa được bịnh rét, giao thông
thuận lợi, có nước để làm ruộng, có nước để uống, nếu là nơi nước mặn gần biển
thì trên giồng cao vẫn đào giếng được.
Năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh đặt hai
huyện đầu tiên, tình hình khẩn hoang được mô tả như sau:
- Đất đai mở rộng 1000 dặm, dân số được hơn 40000 hộ,
chiêu mộ lưu dân từ Bố Chánh châu trở về Nam đến ở khắp nơi, mọi người phân
chiếm ruộng đất, chuẩn định thuế đinh điền và lập hộ tịch đinh điền. Từ đó con
cháu người Tàu ở nơi Trấn Biên thì lập thành xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn thì
lập thành xã Minh Hương, rồi ghép vào sổ hộ tịch.
Nhóm di thần nhà Minh đến ở cù lao Phố và vùng Mỹ
Tho gồm 3000 người khi tiên khởi. Hai mươi năm sau, con cái của họ lớn lần. Một
số người Trung Hoa khác lần hồi đến làm ăn buôn bán, rồi định cư luôn. Ta thấy
còn lại trên ba chục ngàn gia đình Việt Nam gồm có:
- Những người lập nghiệp từ trước ở Mô Xoài (Bà Rịa).
- Những người từ Bố Chánh (Quảng Bình) trở vào đến
lập nghiệp. Số người này sống rải rác từ Bà Rịa đến cù lao Phố (Biên Hòa), vùng
Sài Gòn, Mỹ Tho. Địa danh Trấn Biên bao gồm một vùng rộng rãi từ ranh Bình
Thuận đến tận Nhà Bè. Phiên Trấn bao gồm Tân Bình đến phía Cần Giuộc, Cần Đước,
Tân An. Phủ Gia Định thuở ấy ăn đến tận vùng Cái Bè (tả ngạn Tiền Giang) sau
này là châu Định Viễn. Đây là những lưu dân. Nhưng nên chú ý số người "có
vật lực" từ miền Trung đến. Không vốn liếng thì không làm ruộng được,
người có chút ít vốn nếu chịu mang vào "đất mới" sẽ dễ trở thành điền
chủ, phú hào.
Lỵ sở thường đặt ở những nơi quan trọng, dân đông,
kinh tế dồi dào, thuận lợi cho việc thương mãi và là vị trí có giá trị chiến
lược quân sự. ở lưu vực sông Đồng Nai và Cửu Long, dân ta thiết lập được:
Vùng cù lao Phố: nòng cốt của Biên
Hòa
Đây là vị trí xứng danh ải địa đầu (Trấn Biên) với
đường bộ đường thủy nối liền về miền Trung, đường bộ lên Cao Miên và đường thủy
ăn xuống Sài Gòn. Nhóm dân Trung Hoa theo chân Trần Thắng Tài gây cơ sở lớn ở
cù lao Phố, chọn vị trí thuận lợi, sát mé sông. Năm năm sau khi định cư, chùa
Quan Đế dựng lên.
Trần Thắng Tài chiêu nạp được người
buôn nước Tàu, xây dựng đường phố, lầu quá đôi từng rực rỡ trên bờ sông, liên
lạc năm dặm và phân hoạch ra ba nhai lộ, nhai lớn giữa phố lát đá trắng, nhai
ngang lát đá ong, nhai nhỏ lát đá xanh, đường rộng, bằng phẳng, người buôn tụ
tập đông đúc, tàu biển, ghe sông đến đậu chen lấn nhau, còn những nhà buôn to ở
đây thì nhiều hơn hết, lập thành một đại đô hội.
"Đại Phố" bấy giờ là đệ nhứt
thương cảng ở miền Nam, phồn thịnh nhờ lý do sau đây:
- Việc thương mãi tổ chức khéo léo, Trần Thượng Xuyên
chiêu tập người buôn nước Tàu đến kiến thiết, đây là bọn thương buôn chuyên
nghiệp, có vốn to và giàu kinh nghiệm, đến sau chớ không phải là người đi theo
Trần Thượng Xuyên trong đợt tiên phong (số người đi đầu gồm đa số là quân sĩ,
tức là nông dân nghèo, không vốn).
-
Sông sâu có
chỗ thuận lợi cho tàu biển đậu (đây là vực sâu gần đền thờ ông Nguyễn Hữu
Cảnh).
- Việc tồn trữ và phân phối hàng hóa được điều hành
hợp lý. Nhà lầu, phố xá bên các nhai lộ lát đá là kho hàng và cũng là nơi nghỉ
giải trí của chủ tàu và thủy thủ. Tàu chạy buồm gặp gió thuận thì mới đến hoặc
đi được. "Xưa nay thuyền buôn đến hạ neo xong là lên bờ thuê phố ở, rồi
đến nhà chủ mua hàng, lại đấy kê khai những hàng hóa trong thuyền và khuân cất
lên, thương lượng giá cả, chủ mua hàng định giá mua bao tất cả hàng hóa tốt xấu
không bỏ sót lại thứ gì. Đến ngày trương buồm trở về gọi là "hồi
đường", chủ thuyền có yêu cầu mua giúp vật gì thì người chủ buôn ấy cũng
chiếu y ước đơn mua dùm chở đến trước kỳ giao hẹn, hai bên chủ khách chiếu tính
hóa đơn thanh toán rồi cùng nhau đờn ca vui chơi, đã được nước ngọt tắm rửa
sạch sẽ lại không lo sự trùng hà ăn lủng ván thuyền, khi về lại chở đầy thứ
hàng khác rất là thuận lợi".
Chưa thấy tài liệu cụ thể về các sản phẩm mua bán
lúc ấy, nhưng ta đoán là thương gia Huê kièu nắm độc quyền về xuất nhập cảng từ
khi bắt đầu khẩn hoang, ngoài những sản phẩm đất Đồng Nai như gạo, cá khô, còn
một số sản phẩm từ Cao Miên đem xuống: các loại thảo dược, ngà voi. Sản phẩm
nhập cảng gồm tơ lụa, vải bô, dược phẩm cho đến những xa xí phẩm. Người Tàu
thích dùng đồ bên Tàu: gạch ngói, đá xây cột chùa, nhang đèn, giấy tiền vàng
bạc. Họ cưới vợ Việt Nam, bày ra những thói ăn xài, phung phí vào dịp Tết.
Những địa điểm định cư lúc ban đầu là
vùng Bà Rịa, Đồng Môn, Long Khánh, Tân Uyên, những cánh đồng ở hai bên bờ sông
Đồng Nai gần cù lao Phố. Đất Trấn Biên lúc bấy giờ ăn đến Thủ Đức, Giồng Ông
Tố, vùng Thủ Thiêm, Nhà Bè; phía Tây thì ăn qua vùng Thủ Dầu Một, Lái Thiêu.
Vùng Bến Nghé Sài Gòn: nòng cốt của Gia Định
Đây là vùng đất giồng ở sông Sài Gòn, rạch Thị Nghè
lên Hốc Môn, Gò Vấp; vùng Chợ Lớn ngày nay ăn xuống Bình Điền, Bình Chánh; Gò
Đen, nối liền đến Cần Đước, Cần Giuộc, những giồng thuận lợi để làm ruộng và
làm rẩy. Nếu vùng cù lao Phố được ưu thế là có nước ngọt quanh năm, thì vùng
Sài Gòn lại bị ảnh hưởng nước mặn từ biển tràn vào, giồng cao ráo, đào giếng có
thể gặp mạch nước ngọt, phần còn lại là đất quá thấp.
Vùng Sài Gòn là Prei Nokor (chùa Cây
Mai được gọi là Vat Prei Nokor) nằm trên giồng, phía Chợ Lớn ngày nay. Năm
1739, đồn Dinh đóng ở thôn Tân Mỹ, có tài liệu ghi là Tân Thuận, phải chăng vì
quân sĩ muốn ở gần bờ sông lớn (gần Nhà Bè) để dễ di chuyển và kiểm soát an
ninh? Thoạt tiên từ cù lao Phố đến Bến Nghé — Sài Gòn chỉ dùng đường thủy, chợ
Nhà Bè thành hình, ứng dụng vào nhu cầu như một chợ nổi ở giữa ngã ba. Hanh
Thông xã (Gò Vấp) trở thành đơn vị hành chánh từ năm 1698, Phú Thọ năm 1747,
Tân Sơn Nhứt năm 1749. Ngay từ năm 1698, người Hoa kiều lập xã Minh Hương ở
vùng Sài Gòn, nơi đây họ cũng nắm việc thương mãi. Năm 1770, sử chép chuyện ông
Tăng Nn đánh cọp tại chợ Tân Kiểng (Tân Cảnh), năm 1774 chùa Giác Lâm dựng lên,
trên gò đất cao ráo (do người Minh Hương là Lý Thụy Long quyên tiền), chùa Kim
Chương lập năm 1775. Phú Lâm, vùng Bình Điền là đất giồng. Nhưng nơi thuận tiện
cho việc canh tác phải kể là vùng Cần Giuộc, Cần Đước. "Gạo Cần Đước nước
Đồng Nai" nổi danh là ngon và trong mát. Vùng ven biển Nam kỳ (trừ ra rừng
Sác — Cần Giờ và rừng Đước mũi Cà Mau) còn nhiều đất rất tốt. Bên kia Cần Đước
là Gò Công với nhiều giồng và đất phù sa ở bờ Cửa Đại, Ba Lai (trở thành vựa
lúa quan trọng đời Gia Long).
Đất đã tốt lại ở ven biển, lưu dân có thể đi ghe
bầu từ miền Trung vào vàm mà lập nghiệp, ngoài huê lợi ruộng nương còn huê lợi
cá tôm. Đánh lưới ngoài biển vốn là sở trường của dân Việt. Làm ruộng ở những
nơi xa lỵ sở thì dễ trốn thuế, tha hồ chọn lựa đất tốt. Nhờ đường biển, việc
liên lạc về quê xứ miền Trung được thuận lợi.
Trấn Biên và Phiên Trấn khi mới khẩn hoang tuy đất
không tốt bằng phía Cửu Long nhưng vẫn là phì nhiêu so với vùng Bình Thuận. Vì
ở gần lỵ sở, gần thương cảng nên lúa gạo bán có giá. Về mặt an ninh vì xa sông
Tiền sông Hậu nên khỏi sợ nạn chinh chiến khi chúa Nguyễn và Xiêm La gây hấn.
Vùng Ba Giồng: nòng cốt của Định Tường
Sông Cửu Long khác hơn sông Đồng Nai và
sông Vàm Cỏ. Hằng năm, Cửu Long có nơi nước lụt tràn bờ. Đất giồng ven bờ sông,
đất cù lao ở Cửu Long khác hơn mấy gò ở gần Đồng Nai. Vùng Cửu Long đất thấp,
đào xuống vài lớp xuổng là gặp nước, việc trồng cây ăn trái lại dễ dàng, khỏi
tưới. Múc nước giếng, hay gánh nước từ mé rạch lên nhà, lên rẫy lại ít tốn
công. Bờ Cửu Long thường có bãi bùn, bồi đắp nhanh chóng, đất cù lao lan ra
trong vài năm là thấy cuộc biển dâu. Việc vận tải, giao thông dùng ghe xuồng
thay vì dùng xe bò hoặc đi bộ, khiêng gánh. Kỹ thuật cày bừa cùng là ngày tháng
cấy hái phải thay đổi cho thích ứng với hoàn cảnh mới.
Dương Ngạn Địch "đem binh lính ghe thuyền chạy
vào cửa Soi Rạp và Đại Tiểu hải khẩu rồi lên đồn trú ở xứ Mỹ Tho". Đây là
cuộc định cư có sắp đặt, "xá sai Văn Trinh và tướng thần lại Văn Chiêu đưa
dụ văn sang Cao Miên bảo Thu Vương chia đất để cho bọn Dương Ngạn Địch ở. Tháng
5, Văn Trinh dẫn cả binh biền Long Môn và đưa ghe thuyền đến đóng dinh trại ở
địa phương Mỹ Tho rồi dựng nhà cửa, tụ tập người Kinh, người Thượng (người
Miên) kết thành chòm xóm", "sau này mới lập dinh trấn, đều là tùy
thời dời đổi, hoặc hướng Nam, hoặc hướng Bắc, hoặc đem tới, hoặc rút lui cũng
chẳng ngoài địa cuộc ấy".
Trên 1000 binh sĩ của Dương Ngạn Địch làm ăn tại
đâu?
Họ không rời khỏi "địa cuộc"
tốt chọn lựa lúc ban đầu như tài liệu trên cho biết. Chúng ta có thể xác nhận
là giồng Cai Yến ăn đến vùng Ba Giồng, khởi đầu là Tân Hiệp (nay còn gọi là
giồng Trấn Định) đến Thuộc Nhiêu, Cai Lậy, giữa Tiền giang và Đồng Tháp Mười.
Lúc mới khẩn hoang, hai lỵ sở chính là Biên Hòa và
Phiên An ở gần nhau phía Đồng Nai. Các quan thì muốn cho dân chúng phân tán ra
chiếm cứ đất phía Tây Nam nên đặt quy chế rộng rãi, không câu thúc. Về nguyên
tắc, người khẩn hoang ở Vũng Gù (Tân An, sông Vàm Cỏ) hoặc Mỹ Tho, đều là dân
của hai huyện Phước Long và Tân Bình. Để khỏi chuyên chở đường xa khi đóng thuế
bằng lúa và bằng tiền mặt, họ có thể nạp tại các kho thuế ở địa phương, vừa
thuận lợi cho dân, cho các quan cũng khỏi lo sợ nạn thất thâu. Một số người làm
nghề rừng, nghề biển hưởng quy chế riêng khỏi lập thôn ấp, chỉ cần đôi người
thay mặt đứng ra chịu trách nhiệm để kết họp thành trang trại, man, thuộc, nậu.
Họ sống định cư hoặc lưu động, với người cai trại hoặc người bộ trưởng, người
đầu nậu cầm đầu.
Chín kho thâu thuế (cửu khố trường) dành cho các
trại, các nậu, mang tên sau đây (đặt ra từ năm 1741):
Ba kho Tân Thạnh, Cảnh Dương, Thiên Mụ, làm chỗ cho
dinh Trấn Biên trưng thâu tô thuế để nạp tải về Kinh, đều ở phía bắc Hậu giang
tức là sông Cát, phía đông cù lao Phố.
Kho Tam Lạch (Tam Lịch) ở vùng Mỹ Tho (theo cha
Jean de Jésus thì Tam Lạch là nơi mà quân Đông Sơn khởi sự xưng danh tánh), ta
hiểu là vùng Ba Giồng.
Kho Bả Canh ở vùng Cao Lãnh ngày nay.
Kho Gian Thảo ở cách phía nam thành Gia
Định 4 dặm rưỡi, sau sửa lại gọi là kho Bốn Trấn.
Kho Hoàng Lạp ở
huyện Phước Long (Biên Hòa). Phải chăng kho này dùng để thâu sáp ong và lâm sản
do thợ rừng phía biên giới Việt Miên đóng góp?
Kho Quy An và Quy Hóa ở đâu? Có nên suy luận là
vùng An Hóa ở cửa Đại ngày nay, lấy hai tiếng sau chót nhập lại? Nguyễn Khoa
Thuyên ghi rằng ở Quy An có hơn 100 thôn, tên Quy An được nhắc tới theo thứ tự
sau Tam Lạch và Tân Bình. Bả Canh được Nguyễn Khoa Thuyên ghi lại như là một
trại, cùng với hai trại khác là Ba Lai và Rạch Kiến.
Trên bản đồ, ta thấy có đến 4 kho tập trung ở cù
lao Phố và Bến Nghé để thuận đường chở chuyên về kinh đô Huế và các tỉnh miền
Trung khi chúa Nguyễn còn nắm chủ quyền. Mấy kho kia ở Ba Giồng (Tam Lạch), Cao
Lãnh (Bả Canh), Qui An có lẽ gần một vàm sông nhánh của Cửu Long, hoặc Ba Lai,
hoặc cửa Đại.
Đời vua Hiển Tôn (1691—1725), lập phủ trị ở phía
bắc chợ. Năm 1772 lập Trường Đồn đạo, năm 1779, lấy phần đất nằm giữa trấn
Biên, Phiên trấn và Long Hồ đặt làm Trường Đồn dinh có Lưu thủ, Ký lục và Cai
bộ coi việc quân sự, hành chánh, thuế vụ và bãi bỏ các kho trên. Trường Đồn
dinh đóng ở giồng Cai Yến (giồng này bắt đầu từ vùng Khánh Hậu thuộc Tân An
ngày nay), rồi lại đổi tên là Trấn Định, đóng ở Tân Hiệp. Hai tiếng Định Tường
chỉ xuất hiện từ năm Gia Long thứ 7 (1808).
Vùng Long Hồ: nòng cốt của Vĩnh Long, An Giang
Kiểm soát sông Tiền, sông Hậu là vấn đề mà các chúa
Nguyễn quan tâm nhứt, về mặt quân sự và về canh tác. Muốn dùng binh lên Cao
miên, phải cho chiến thuyền đi ngược dòng Tiền giang để đến Ba Nam rồi Nam
Vang. Tiền giang là sông nhiều nhánh, gần vàm biển mỗi nhánh khá rộng với bờ
đất phù sa cao ráo, thuận lợi để trồng đậu, trồng khoai, đặc biệt là trồng dâu
nuôi tằm, trồng cau, trồng trầu, trồng dừa, các loại cây ăn trái. Đất còn lại
là ruộng tốt. Đây là cuộc đất lý tưởng "sông sâu nước chảy". Thoạt
tiên, hai tiếng Long Hồ phát xuất từ tả ngạn Tiền giang. Năm 1732 chúa Nguyễn
sai quan khổn súy Gia Định chia phần đất của Gia Định (sau này là của Định
Tường) lập châu Định Viễn, dựng dinh Long Hồ tại Cái Bè, gọi là Cái Bè dinh.
Năm 1756 và 1757, cuộc Nam tiến hoàn tất về mặt
chính trị. Trước mặt dinh Cái Bè — ở vàm rạch Cái Bè phì nhiêu, bên cạnh rạch
Cái Thia nhiều phù sa — là những cù lao lớn giữa các sông Ba Lai, Hàm Luông và
Cổ Chiên, chưa kể đến mấy cù lao tuy nhỏ nhưng quan trọng ở giữa Tiền giang.
Bên kia Tiền giang là nơi tập trung nhiều sốc Miên, vùng Trà Vinh. Có thể là
trước khi sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam, lưu dân đã đến làm ăn rải rác nhưng
cuộc khẩn hoang được xúc tiến quy mô hơn từ khi trở thành lãnh thổ Việt Nam,
danh chánh ngôn thuận. Hai địa danh cù lao Bảo, cù lao Minh xuất hiện sau này,
xứng danh là trái châu của Cửu Long.
Phía cù lao Bảo có tám giồng, phía cù lao Minh có
11 giồng. Đặc điểm của những giồng này là chịu ảnh hưởng nước lớn nước ròng do
thủy triều, nhưng không bao giờ bị ngập vào mùa lụt của sông Cửu Long.
Nguyễn Cư Trinh và Trương Phúc Du xin dời dinh Long
Hồ từ Cái Bè qua đất Tầm Bào, tức là vùng chợ Vĩnh Long ngày nay, đồng thời đặt
những đồn ở Tây Ninh, Hồng Ngự, cù lao Giêng, Sa Đéc, Châu Đốc.
Dinh Long Hồ kiểm soát Tiền giang và
hai bên bờ Hậu giang. Đồng thời dinh này cũng bao trùm luôn vùng biên Vịnh Xiêm
La với Long Xuyên đạo (Cà Mau), Kiên Giang đạo (Rạch Giá). Riêng về vùng Ba
Thắc (Sóc Trăng) nơi người Miên sống quá tập trung thì việc cai trị vẫn thuộc
về họ.
Dụng ý của chúa Nguyễn là dùng nơi
này để khống chế Cao Miên. Sông
Cửu Long là biên giới
Việt Nam ở miền ba biên giới.
Năm 1779, chúa Nguyễn duyệt xem bản đồ,
nâng vùng Mỹ Tho làm dinh (Tường Đồn dinh) đồng thời cũng thử bày một chuyến
phiêu lưu: dời dinh Long Hồ đến cù lao Hoằng Trấn, ở giữa Hậu giang.
"Đương thời có người bàn rằng địa thế Hậu giang rộng lớn, rừng núi mù mịt,
vùng Ba Thắc, Cần Thơ, Trà Vinh có nhiều sốc của Cao Miên mà cách xa dinh Long
Hồ, nên đặt một đai trấn để khống chế, mộ dân đến khai khẩn ruộng đất".
Dinh Long Hồ dời đến Hoằng Trấn năm trước là năm sau (1780) lại lui về chỗ cũ
(tức là vùng chợ Vĩnh Long), đổi tên là Vĩnh Trấn dinh.
Kinh nghiệm cho thấy rằng con đường từ Hậu giang
lên Cao Miên quá xa, không thuận bằng đường Tiền giang, phía Vĩnh Long. Cù lao
Hoằng Trấn ở Hậu giang được khai thác sớm, còn mang tên là cù lao Tân Dinh, gợi
lại hình ảnh của dinh Long Hồ ngày trước. Giữa Tiền giang và Hậu giang, có
s>n nhiều sông rạch lớn nhỏ liền lạc nhau lại còn nhiều giồng đất tốt, quanh
năm nước ngọt, mùa nước lụt không ngập (vùng Sa Đéc). Những cù lao trên sông
Tiền, sông Hậu đều đáng giá, nhiều cù lao vừa rộng vừa dài, đất biền chung
quanh cù lao rất màu mỡ, năng xuất cao: cù lao Dung, cù lao Trâu, cù lao Dài,
cù lao Giêng, cù lao Mây, cồn Bình Thủy, cù lao Năng Gù. So với sông Vũng Gù
(Vàm Cỏ Tây) luôn cả sông Đồng Nai thì Tiền giang và Hậu giang đất tốt hơn, khí
hậu khá lành. Dân cư còn thưa thớt, đòi hỏi nhiều đợt lưu dân đến khai thác.
Duy có điều bất lợi là xa Gia Định, người Miên sống tập trung tại nhiều vùng
lớn rộng có thể khuấy rối an ninh; vùng Thất Sơn chưa thám hiểm được, lại còn
cánh đồng bát ngát (Rạch Giá, Cần Thơ) nằm giữa hữu ngạn Hậu giang và vịnh Xiêm
la. Nước Xiêm đang hồi hăng sức, có thể đột nhập miền biên giới — một biên giới
chưa rõ rệt, khó định cư vì nước ngập quá sâu, không thích hợp với lối cày cấy
đương thời (đồng Châu Đốc, Láng Linh, Tháp Mười).
Những chuyến đi về "tẩu quốc và phục
quốc" của vua Gia Long được thực hiện dễ dàng là nhờ ngài am hiểu địa thế
của vùng đất rộng ấy hơn quân Tây Sơn. Nào là sông Mân Thít nối ngang Ba Kè tới
vùng Trà Ôn, nơi nhiều người Miên sống tập trung. Nào vùng Nước Xoáy tấn thối
dễ dàng, lại còn vùng Cần Thơ với rạch Cần Thơ ăn thông qua sông Cái Bè rồi
sông Cái Lớn với vùng U Minh. Sông Gành Hào, sông Ông Đốc ở tận mũi Cà Mau.
Thời thạnh trị của họ Mạc quá phù du vì không đủ dân và không đủ quân để kiểm
soát một vùng Hậu giang quá rộng mà trên danh nghĩa thì họ Mạc được chúa Nguyễn
giao cho cai quản.
Sơ kết thành quả: Thương cảng Sài Gòn thành hình và
phát triển
Người Hoa kiều nắm nội và ngoại thương ngay từ buổi
đầu, họ lại có thế lực quân sự. ở cù lao Phố, Trần Thắng Tài sống thuận hòa với
chúa Nguyễn, năm 1700, ông cùng quân sĩ tùy tùng tham gia trận đánh quyết định,
chiến thắng tại Nam Vang. Con Trần Thắng Tài là Trần Đại Định cưới con gái Mạc
Cửu, tức là em gái của Mạc Thiên Tứ (vợ Mạc Cửu là người Việt Nam, quê ở Đồng
Môn, thuộc Biên Hòa), về sau Trần Đại Định vì bị hiểu lầm nên buồn tủi, chết
trong ngục. Dương Ngạn Địch chết vì phó tướng là Hoàng Tấn làm phản, Hoàng Tấn
lại bị quân sĩ Việt Nam trừng trị. Họ Mạc ở Hà Tiên được chúa Nguyễn cho hưởng
quy chế tự trị. Dòng họ này trung thành với chúa Nguyễn nhưng lại bị Xiêm Vương
là Phi Nhã Tân quấy rối (ông vua Xiêm này gốc người Triều Châu). Một viên tướng
Triều Châu tên là Trần Liên đã đem binh qua đốt phá Hà Tiên, quyết sanh tử với
Mạc Thiên Tử. Hai tên cướp Triều Châu khác là Hoắc Nhiên và Trần Thái cũng gây
khá nhiều rắc rối cho họ Mạc ở Hà Tiên.
Có người cho rằng người Trung Hoa hải ngoài thường
tự tôn, ôm ấp giấc mơ làm bá chủ một cõi. Nếu có thật vậy, thì những giấc mơ ấy
không bao giờ thực hiện được ở đất Đồng Nai, ít ra là về mặt chánh trị và quân
sự. Chỉ một lần hồi năm 1747 khi có thương gia người Phước Kiến là Lý Văn Quang
đến cư ngụ tại cù lao Phố, nhân thấy việc phòng bị lơ là nên cấu kết với hơn
300 bè đảng, xưng là đại vương. Cuộc khởi loạn bị dập tắt, Lý Văn Quang và đồng
bọn bị áp giải về Phước Kiến (bấy giờ, ta ngại rắc rối về ngoại giao với nhà
Thanh).
Năm 1772, chúa Nguyễn suy yếu, Trương Phúc Loan
lộng quyền nhưng quân sĩ Đàng Trong vẫn còn mạnh, 10000 quân ở dinh Bình
Khương, Bình Thuận cùng 300 chiến thuyền hợp với quân ở dinh Long Hồ kéo lên
Cao Miên đánh thắng một trận lớn để cứu vãn tình thế nguy ngập ở Hà Tiên, cứu
Mạc Thiên Tứ khi quân Xiêm chiếm cứ thành này;
Tình thế ở Đàng Trong trở nên bi đát khi anh em Tây
Sơn khởi nghĩa. Tháng hai năm 1776, Nguyễn Lữ léo vào đất Gia Định. Tháng năm
năm ấy, Nguyễn Lữ rút lui sau khi cướp lấy lúa kho, chở hơn 200 thuyền chạy về
Quy Nhơn. Con số này giúp chúng ta thấy phần nào thành quả của việc khẩn hoang
ở Đồng Nai và Cửu Long.
Một viên cai bộ ở phủ Gia Định là Hiến đức hầu
Nguyễn Khoa Thuyên báo cáo lại những con số cụ thể về lực lượng quân sự và tình
hình chánh trị, kinh tế. Sau đây là vài chi tiết về xứ Đồng Nai:
-
Huyện Phước Long
(vùng Trấn Biên) có hơn 200 thôn, dân số 8000 người, lệ thuế ruộng hơn 2000
hộc.
Các thuộc Cảnh Dương, Thiên Mụ, Hoàng Lạp có phỏng
40 thôn nậu, dân số 1000 người phải nạp thuế.
Thuộc Ô Tất gồm phỏng 30 nậu, dân số ước 500.
-
Huyện Tân Bình
có hơn 350 thôn, số dân hơn 15000 dinh, thuế ruộng hơn 3000 hộc.
Quy An có hơn 100 thôn, số dân 3000
đinh, ruộng hơn 5000 thửa.
Tam Lạch có hơn 100 thôn, số dân 4000 đinh, ruộng
hơn 5000 thửa.
Các trại Bả Canh, Ba Lai, Rạch Kiến, có
100 thôn, dân 4000 đinh, ruộng hơn 4000 thửa.
- Châu Định Viễn có lối 350 thôn, dân 7000 đinh,
ruộng 7000 thửa.
Nhìn con số trên, ta thấy Cửu Khố (còn gọi 9 trường
biệt nạp), dành cho vùng đất ở xa Trấn Biên và Phiên Trấn (sau này là Trấn
Định, trở thành Mỹ Tho), gồm các thuộc:
Cảnh Dương, Thiên Mụ, Hoàng Lạp, Ô Tất (đóng thuế
về Phước Long).
Tam Lạch, Quy An, Bả Canh, Ba Lai, Rạch Kiến (đóng
thuế về huyện Tân Bình, vùng Sài Gòn).
Tài liệu của Nguyễn Khoa Thuyên cũng
nêu rõ quân số, các nơi trú quân của chúa Nguyễn. Nhiều thủ ngự đặt ở Tiền giang
và Hậu giang gần vàm rạch mà ta tin rằng ở vùng phụ cận có thôn xóm khá sung
túc: vàm Ông Chưởng, Tân Châu, chợ Thủ, Sa Đéc, Vũng Liêm, Láng Thé, Lấp Vò,
Trà Ôn, Cần Chung (Cần Chong nay là Tiểu Cần), cù lao Tân Dinh, Bắc Trăng
(thuộc Trà Vinh).
Thành tích này khá lớn lao:
Những vùng đất phù sa ven sông rạch, những cù lao
thuận lợi cho việc canh tác cổ truyền (ruộng cày, mỗi năm một mùa gặt) đều có
người chú ý đến, không bỏ sót. Đồng bằng Cửu Long hơn đồng bằng Đồng Nai rõ rệt
về mặt canh tác, sản xuất lúa gạo, với nhiều triển vọng tươi sáng hơn.
Trước 1776, thương cảng lớn nhất của miền Nam là cù
lao Phố.
Năm 1776 và 1777 quân Tây Sơn tràn
vào Gia Định, đánh cù lao Phố
"chiếm dỡ lấy phòng ốc, gạch đá, tài vật chở về Quy
Nhơn".
Nông Nại Đại Phố tức là thương cảng cù lao Phố suy
sụp luôn, thương gia Hoa kiều bèn kéo nhau xuống vùng Chợ Lớn ngày nay để lập
chợ Sài Gòn, sát với chợ Tân Kiểng thành hình từ trước 1770.
Thương cảng Sài Gòn (nên hiểu là Chợ Lớn ngày nay)
thành hình và phát triển nhanh từ năm 1778. "Từ khi Tây Sơn nổi lên, quan
quân hội cả ở trấn Phiên An, thuyền buôn cũng dời đậu ở sông Tân Bình (sông Sài
Gòn)". Nhưng 4 năm sau, năm 1782, Nguyễn Nhạc tới 18 thôn Vườn Trầu, bị
phục kích thua thảm bại, hộ giá Ngạn của Tây Sơn tử trận. Nhạc nhận ra bọn phục
kích là đạo binh Hòa Nghĩa gồm nhiều người Tàu theo giúp Nguyễn ánh. "Nhạc
bèn giận lây, phàm người Tàu không kể mới cũ đều giết cả hơn 10000 người. Từ
Bến Nghé đến sông Sài Gòn, tử thi quăng bỏ xuống sông làm nước không chảy được
nữa. Cách 2, 3 tháng người ta không dám ăn cá tôm dưới sông. Còn như sô, lụa,
chè, thuốc, hương, giấy, nhất thiết các đồ Tàu mà nhà ai đã dùng cũng đều đem
quăng xuống sông, chẳng ai dám lấy. Qua năm sau, thứ trà xấu một cân giá bán
lên đến 8 quan, 1 cây kim bán 1 quan tiền, còn các loại vật khác cũng đều cao
giá, nhân dân cực kỳ khổ sở".
Ngoài việc trả thù riêng người Tàu, Nguyễn Nhạc còn
có dụng tâm tiêu diệt đầu não kinh tế của miền Nam, nơi chúa Nguyễn nắm được
nhân tâm từ lâu.
Suốt thời gian tẩu quốc và phục quốc, Sài
Gòn được xem là kinh đô của Nguyễn ánh (1779—1801).
Sài Gòn được ưu thế là gần vùng Mỹ Tho và Long Hồ.
Việc chuyên chở lúa gạo và sản phẩm từ Tiền giang tuy khó khăn nhưng lúc bấy
giờ kinh rạch vẫn tương đối thuận lợi cho loại ghe có sức trọng tải nhẹ. Nhìn
trên bản đồ, ta thấy sông rạch chằng chịt; vào mùa mưa nước sông tràn đầy,
nhưng mùa nắng thì nhiều khúc không lưu thông được, hoặc lưu thông khó khăn
phải sang qua ghe nhỏ, kéo bằng sức người hoặc sức trâu, sông rạch lại quanh
co, không đủ nhân công để vét. Công trình đào kinh khởi đầu với sáng kiến của
Nguyễn Cửu Vân để cố gắng nối liền sông Vũ Gù (Vàm Cỏ Tây) qua sông Mỹ Tho tức
là Vàm Cỏ Tây qua Tiền giang, sau lại đào sâu thêm. Tuy nhiên, vì có giáp nước
khiến phù sa hai đầu dồn vào nên bị cạn, thuyền to phải chờ khi nước lớn mới
qua lại được. Đã có tạm đường thông thương từ Mỹ Tho qua Vũng Gù. Vũng Gù thông
qua Vàm Cỏ Đông đến Bến Lức, theo đường nước đến Ba Cụm rồi theo sông Bình Điền
đến Chợ Lớn. Năm 1772, Nguyễn Cửu Đàm (con của Nguyễn Cửu Vân) đào kinh Ruột
Ngựa, nối liền Rạch Cát đến kinh Lò Gốm mà trước kia ghe thuyền không qua lại
được, chỉ có "một đường nước đọng móng trâu". Phía Gò Công, Cần Giuộc
cũng có đường thủy lên Rạch Cát. Phía Hậu giang, khi tranh chấp bằng quân sự
với Tây Sơn, Nguyễn ánh vẫn tấn thối theo đường sông từ Sài Gòn Gia Định đến
tận Sa Đéc, Cần Thơ, Cà Mau, Rạch Giá.
Dời đến Sài Gòn thì thể thức phân phối và tích trữ
hàng hóa không được thuận lợi như lúc ở cù lao Phố: "Khi thuyền cặp bến,
không có chủ lớn bao trữ nên phải gánh đến các chợ bán lẻ linh tinh, kịp khi
muốn mua thổ hóa đem về, thì đi tìm đông hỏi tây rất nhọc sức. Lại có bọn thổ
côn giả dạng làm người giàu có nói dối, mua xong rồi tìm nơi trốn tránh, nếu
mất số vốn một ít thì còn gắng chịu mà về, thảng hoặc mất vốn quá nhiều thì
phải cầm ghe lấy tiền ở đến mùa đông để truy tầm bọn ấy, làm cho kẻ viễn thương
ngày càng cực khổ".
Tệ đoan xảy ra vì địa bàn hoạt động của Sài Gòn
rộng hơn cù lao Phố, nhưng chỉ là lúc giao thời. Về sau, cũng chính thương gia
Huê kiều đứng ra tổ chức hệ thống mua bán hoàn hảo hơn.
ở vàm Hậu giang, từ lâu người Miên sống tập trung
tại vùng Ba Thắc (Sóc Trăng) trên đất giồng cao ráo, làm ruộng khéo léo, gạo
nổi tiếng là ngon. Thay vì chở lên Sài Gòn, thương gia địa phương đứng ra chịu
mối với các ghe buôn từ nước ngoài đến. Một thương cảng thành hình từ xưa,
phỏng đoán là ở vùng Bãi Xàu (Mỹ Xuyên ngày nay) nơi sông Ba Xuyên ăn thông ra
Hậu giang. Theo nhựt ký của cố đạo Levavasseur vào năm 1768, thì thương cảng
này mang tên là Bassac thành lập ở mé sông, nơi đất thấp với nhà lợp lá. ở đây
dùng tiền quan (quan 600 đồng của Việt Nam); một đồng bạc Con ó trị giá 5 quan
tức là 3000 đồng. Chợ bán gạo, nhiều loại trái cây, rau, gà vịt, heo. Phải chờ
nước lớn ghe thuyền mới vào được. Thuyền chủ toàn là Trung Hoa, dân ở chợ đa số
là người Trung Hoa, quan cai trị là người Cao Miên. Thuyền buôn đều của người
Trung Hoa, đậu san sát từ 100 đến 150 chiếc để mua gạo và mua đường. Không hiểu
họ đem tới đây bán những món gì.
Nên nhắc đến thương cảng Hà Tiên mà các thương gia
ngoại quốc thường đề cập tới, được phồn thịnh một thời nhờ xuất cảng sản phẩm
của Cao Miên phần lớn, khi Mạc Cửu và Mạc Thiên Tử còn hưng thời.
Việc tổng động viên năm 1789
Cuộc tranh chấp bằng võ lực giữa Tây Sơn và Nguyễn
ánh làm nguy hại cho nông nghiệp. Nói chung thì quân Tây Sơn không thâu phục
được nhân tâm, trừ một trường hợp là cuộc chiến thắng quân Xiêm ở rạch Gầm,
Xoài Hột vào năm 1874. Quân Xiêm do hai tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương với lực
lượng hùng hậu kéo đến nhưng Trịnh Hoài Đức, người viết sử thiên vị rõ rệt về
phe Nguyễn ánh cũng đã thú nhận: "Binh Tiêm đến đâu đều cướp bóc khó bề
hạn chế nên vua (Nguyễn ánh) lấy làm lo. Đã vậy mà binh Tiêm lại kiêu hãnh,
lòng dân bất phục". ở trấn Vĩnh Thanh, trong lúc Tây Sơn vào chiếm cứ thì
dân chúng "đều chôn cất của cải không dám phơi bày ra, cho nên bọn cường
đạo không cướp lấy được vật gì". "Chợ phố lớn Mỹ Tho, nhà ngói cột
chàm, đình cao chùa rộng, ghe thuyền ở các ngả sông biển đến đậu đông đúc làm
một đại đô hội rất phồn hoa huyên náo. Từ khi Tây Sơn chiếm cứ, đổi làm chiến
trường, đốt phá gần hết, từ năm 1788 trở lại đây, người ta lần trở về, tuy nói
trù mật nhưng đối với lúc xưa chưa được phân nửa".
Chánh sách của Tây Sơn ở miền Nam là
phá căn cứ địa, chận các đường thủy từ Sài Gòn, Cần Giờ đến vùng vàm sông Cửu
Long, chận các vị trí chiến lược nối Tiền giang qua Hậu giang, Hậu giang đến
vịnh Xiêm La, từ vùng Long Xuyên (Cà Mau) ra Phú Quốc, qua Xiêm. Thủy quân của
Tây Sơn đồn trú hoặc tuần tiểu tới lui vùng Băng Cung, Ba Thắc, Phú Quốc, vàm
sông Mân Thít, Trà Ôn, Sa Đéc, sông Ba Lai. Khi chiếm đóng, chính sách kinh tế
và việc tổ chức hành chính thay đổi như thế nào? Nguyễn Huệ chịu trách nhiệm từ
Huế ra Bắc phần. Nguyễn Lữ, phò mã Trương Văn Đa, lưu thủ Hóa ở đất Gia Định
khong biểu dương được tài năng gì lạ ngoài những hàng động quân sự.
Quân Tây Sơn bị cô lập ở đất Gia Định vì những lý
do sau đây:
- Dân khẩn hoang mang ơn các chúa Nguyễn, họ được khá
giả hơn lúc ở miền Trung, đất tốt còn nhiều, chưa cần một chánh sách điền địa mới,
hoặc một sự thay trào đổi chúa.
- Quân Tây Sơn không thâu phục được người Huê kiều
(đốt chợ cù lao Phố, đốt chợ Sài Gòn, Chợ Lớn, phá chợ Mỹ Tho), là hậu thuẫn
kinh tế cho Nguyễn ánh.
- Người Cao Miên ở Trà Ôn, người Đồ Bà (Chà Châu
giang) đều có cảm tình và tích cực ủng hộ Nguyễn ánh, nhờ đường lối chính trị
mềm dẽo. Lúc bấy giờ quân Tây Sơn nặng lo những vấn đề ở Bắc hà (cựu thần nhà
Lê) và còn lo đối phó với quân nhà Thanh. Quân Tây Sơn đánh giá quá thấp sức
chịu đựng của Nguyễn ánh, nhứt là chuyện Nguyễn ánh cầu viện với nước Pháp.
Pháp quốc lúc bấy giờ đang nuôi nhiều tham vọng, việc tổ chức quân đội của Pháp
đạt kỹ thuật cao, với hải quân mạnh và võ khí tốt. Hành động của Bá Đa Lộc tuy
phiêu lưu nhưng gây nhiều hậu quả trầm trọng. Tháng 9 năm 1788, chiến thuyền và
sĩ quan Pháp đến trong khi Nguyễn Huệ lo ứng phó với Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long.
Tháng 8 năm 1788, Nguyễn ánh thâu phục thành Gia
Định. Tại Gia Định năm ấy lập ra kho Bốn Trấn làm kho chung cho cả bốn trấn
Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh và Định Tường để thâu trữ thuế khóa, chi cấp
bổng hướng. Tháng sáu năm 1789, Nguyễn ánh đưa ra chánh sách rõ rệt, lấy việc
tăng gia sản xuất làm trọng, đặt ra các điền toán gồm 12 người (trong đó có
Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tùng Châu, Hoàng Minh Khánh) đi khắp bốn
dinh Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, Trấn Định để đốc xuất dân chăm làm việc
ruộng. Ai không làm ruộng phải đi lính. Ai làm ruộng đất tốt được 100 thúng
lúa, hoặc làm ruộng đất xấu được 70 thúng lúa trở lên thì được tưởng thưởng,
nếu là phủ binh (binh lính phục vụ tại các công sở) được miễn một năm khỏi làm
việc quan (làm xâu). Những người dân lậu (không vô sổ bộ) có thể làm ruộng dưới
quyền chăm sóc của các quan điền toán, xem như là lính, nếu thiếu vốn thì được
vay trước, sau sẽ trả.
Vào tháng 10 năm 1890, ngài đặt thêm sở
Đồn Điền nhằm khuyến khích quân sĩ tại ngũ tích cực cày cấy, bấy lâu vì chiến
tranh nhiều vùng đất phải bỏ hoang. Binh sĩ thuộc dinh Trung quân và quân các
vệ thuyền đến khẩn ruộng tại Tháo Mộc Câu (sông Vàm Cỏ) gọi là trại Đồn Điền,
nhà nước cấp ngưu canh điền khí và lúa giống, đậu, bắp giống, hễ cắt hái xong
rồi đem nạp vào kho, chánh cơ Nguyễn Bình coi việc ấy.
Các quan địa phương phải lập đội đồn điền, mỗi năm
một người trong đồn điền nạp 6 hộc lúa, ai mộ được 10 người trở lên cho làm
quản trại, trừ tên trong sổ làng (khỏi đi lính).
Về mặt quân sự, ngài sai lựa quân chiến tâm, tức là
quân tinh nhuệ, hết lòng đánh giặc, tập luyện kỹ càng được cấp lương và tiền
rất hậu.
Để tích trữ thêm lúa gạo phòng khi hành quân tái
chiếm các thành ở miền Trung, ngài đặt ra lúa thị túc, thị nạp, tức là thứ thuế
phụ thu (ngoài thuế điền).
- Năm 1792, mỗi người nộp thuế thị túc từ 1 đến 5
phương.
- Năm 1799, vùng Bình Định, Phú Yên mỗi mẫu ruộng nộp
17 thăng gạo.
- Năm 1800 ở Gia Định, mỗi người nạp 2 phương, người
già tàn tật nộp phân nửa. Ruộng một mẫu nộp một phương gạo; một phương gạo bấy
giờ trị giá 7 tiền 30 đồng. Những năm dùng binh, số thuế và số thị túc phụ thu
vẫn không đủ để chi tiêu, nhà nước thu trước thuế năm tới. Về thuế ruộng, mỗi năm
nhà vua thâu hai kỳ.
Nhà nước giữ độc quyền mua những hóa hạng liên hệ
tới nhu cầu quân sự như kẽm, sắt, đồ đồng, diêm, lưu hoàng. Năm 1791, đặt thêm
lệ về việc khẩn hoang: sau khi khẩn, 3 năm mới thâu thuế, ai muốn khẩn thì nộp
đơn trong thời hạn ngắn là 20 ngày, quá thời gian ấy, đất hoang sẽ giao cho
quân sĩ cày cấy, dân không được giành nữa.
Lúa gạo đất Gia Định tích cực góp phần
vào việc phản công của Nguyễn ánh. năm 1795 và 1796, chở tiền gạo ở Gia Định ra
trữ tại thành Diên Khánh. Năm 1799 lúc ngài ra Quy Nhơn, quân lính lại chở thêm
quân lương, "chẳng hề thiếu thốn". Năm 1802, sử chép là Gia Định đói
lắm, ngài sai quan trấn phát gạo kho cho dân mượn, cùng ra lịnh giảm thuế ruộng
cho tỉnh Gia Định. Phải chăng vì lúa gạo dùng vào việc quân quá nhiều?
Tháng 2/1790, Nguyễn ánh cho xây thành Sài Gòn,
theo hình bát quái (còn có tên là Quy Thành) kiểu thành Vauban của Pháp (do
Olivier de Puymanel vẽ kiểu và coi xây cất). Đây là Gia Định kinh, Nguyễn ánh
xem như kinh đô của mình, với thái độ tự tin. Từ thành này có đắp quan lộ lên
Biên Hòa, và quan lộ xuống Trấn Định (Mỹ Tho) đến Cai Lậy, đường rộng 6 tầm,
hai bên đường có trồng cây mù u và cây mít là thứ cây thổ nghi.
Nguyễn ánh tự tin là phải. Bấy giờ lúa
gạo Gia Định có nhiều, quân sĩ đang thừa thắng, một số sĩ quan Pháp lại trực
tiếp giúp đỡ. Ngài ra lịnh tấn công Quy Nhơn lần thứ nhất (1790). Nguyễn Huệ
băng hà, lại có cuộc tấn công lần thứ hai, lần thứ ba để rồi năm 1801, đến Huế.
Về sau, năm 1814, vua Gia Long còn nhắc nhở:
"Gia Định là nơi trung hưng, ngày xưa chỉ có một đám đất và một toán quân
mà khôi phục đất cũ". Nên nói thêm rằng đó là "đám đất" tuy diện
tích nhỏ hẹp nhưng tốt, gồm đất giồng và đất cù lao của Đồng Nai và Cửu Long,
và toán quân không quá đông đảo nhưng gồm toàn những nông phu đã chịu cực khẩn
hoang, đến khi đi lính cầm gươm rồi mà còn phải cày cấy, phải đóng thuế. Đó là
hình ảnh của Võ Tánh với 10000 quân ở vựa lúa Gò Công xin theo chân ngài.
Nguyễn ánh vĩnh viễn rời đất Đồng Nai để về Huế đô,
nhưng đất Đồng Nai, Gia Định vẫn còn giữ vai trò cũ: vai trò vựa lúa, vai trò
tiền đồn của nước Việt. Vua Cao Miên và vua Xiêm càng thèm thuồng vùng đất phì
nhiêu này.
Những năm thái bình đời Gia Long
Gia Long xưng Hoàng đế ở Huế, vùng Gia
Định dứt nạn binh đao trong khoảng thời gian ngắn, nhưng là khá dài so với thời
chúa Nguyễn và các trào vua kế tiếp. Từ Bình Thuận trở vào, về mặt hành chánh
đặt ra Gia Định thành với quan Tổng trấn cầm đầu, nắm khá nhiều quyền hạn, lãnh
coi các việc binh dân, xâu thuế và hình phạt của năm trấn: Phiên An, Biên Hòa,
Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Lại coi luôn trấn Bình Thuận về mặt quân sự.
Dân số lần hồi đông đúc, các tổng trước kia đa số đều thăng làm huyện, huyện
thăng làm phủ.
Việc phồn thịnh của thương cảng Sài Gòn và lỵ sở
của các trấn được ghi khá đầy đủ qua Gia Định thành Thông chí do Trịnh Hoài
Đức, người đương thời biên soạn. Đường giao thông vận tải nắm ưu thế vẫn là
đường thủy. Du khách Hoa Kỳ là John White năm 1819 có đến Sài Gòn, ghi lại
trong quyển sổ tay như sau:
- Thành lũy Sài Gòn xây bằng đá ong, kế bên một cơ
thủy trại, gần đó là xóm nhà của dân cư gồm những lều lụp xụp, thấp hẹp. Xóm
buôn bán ở về hướng Đông. Khi đức Gia Long dẹp yên giặc Tây Sơn thì dân chúng
tụ về thành rất đông. Họ sửa sang nhà cửa lại mới, một phần lớn các gia đình
này dồn về hướng Tây của thành lũy nhà vua".... "Thời buổi ấy, dọc
theo hai bên bờ sông và bờ kinh rạch có vài chỗ đã được cẩn đá hay xây gạch kỹ
càng, chạy nối dài non ngàn thước tây. Về công lộ, có đường đã lót đá nguyên
miếng lớn dễ coi, nhưng phần nhiều vẫn quanh co uốn khúc và không được săn sóc
tu bổ nên không được sạch".
Về nhân số thì thành Sài Gòn phỏng độ lối:
Năm 1822 "lại có một thú y sĩ qủ danh là ông
Finlayson tháp tùng phái đoàn Crawfurd cũng có đến viếng Sài Gòn. Finlayson
viết: Sài Gòn gồm hai thành phố, mỗi cái đều rộng lớn bằng kinh đô nước Xiêm
La, ấy là:
Nên hiểu Pingeh là Bến Nghé (Sài Gòn
ngày nay), còn Sài Gòn là Chợ Lớn ngày nay.
Mức sản xuất lúa gạo lúc bấy giờ gia tăng như thế
nào?
Chúng ta không có con số cụ thể. Chỉ biết là năm
1804, vua Gia Long sai các quan địa phương trữ lúa thuế vào kho cho nhiều. Kho
Đồn Điền của Gia Định thành dựng năm 1805 gồm hai dãy kho ngói, mỗi dãy gồm sáu
gian, trữ số lúa đồn điền để làm số lưu trữ, còn dư thì trữ theo kho ở các
trấn.
Năm 1804, nước Lữ Tống (Phi Luật Tân)
đói, xin đong gạo Gia Định, vua cho đong 500000 cân gạo, năm 1817 vùng Long Hồ,
Sa Đéc đủ sức bán cho Cao Miên, nhân nạn đói đến 10000 hộc lúa. Năm 1816, có
lịnh cấm thuyền buôn không được chở lúa gạo ra nước ngoài. Đường thủy cũng được
tu chỉnh lại, nhằm chuyên chở lúa gạo từ sông Cửu Long lên Sài Gòn: năm 1819,
sửa lại cho rộng và cho sâu con kinh nối liền từ Vũng Gù (Tân An) đến rạch Mỹ
Tho mà Nguyễn Cửu Vân đã cho đào từ năm 1705, dùng non 10000 dân phu trong trấn
Định Tường. Đào xong, vua đặt tên là Bảo Định Hà.
Cũng năm 1819, sai Huỳnh Công Lý đốc xuất dân phu
đào con kinh nối liền từ cầu Bà Thuông (Thị Thông) đến kinh Ruột Ngựa (kinh
Ruột Ngựa đào từ năm 1772), vua đặt tên là An Thông Hà vừa rộng, vừa sâu, hai
bên bờ để đất trống, đưa sản phẩm từ Tiền giang lên Sài Gòn "dòng sông sâu
rộng, ghe thuyền đậu dài 10 dặm, theo hai con nước lên, nước ròng, thuyền bè
qua lại chèo chống ca hát, ngày đêm tấp nập, làm chỗ đô hội lưu thông khắp ngả,
thật là tiện lợi".
Hương binh được bãi cho về cày ruộng (1810). Lúc
chiến tranh, nhiều cường hào lợi dụng thời cơ, chiếm đất của dân nên vua định
lệ quân cấp công điền công thổ (1804), và công điền công thổ không được bán vì
bất cứ lý do gì. Ai làm ruộng ẩn lậu, không khai báo để đóng thuế thì có thể
mất đất, đất giao cho người tố giác.
Vấn đề cho vay được đặt ra, trên nguyên tắc một vốn
một lời (tức bất quá bổn), người cho vay trái phép và con nợ lường gạt đều có
tội. Từ năm 1806, khi mất mùa vì thiên tai, hạn hán, lụt lội thì có lệ là chủ
ruộng phải khai báo trước khi gặt để được miễn thuế. Khai báo gian hoặc quan
lại mà giấu không chịu khai báo thì tội đồng nhau. Khi thâu thuế có người đáng
tin cậy ngồi coi, đề phòng nạn người coi kho làm khó dân, chê lúa xấu tốt, đong
ít đong nhiều để ăn hối lộ.
Trịnh Hoài Đức ghi chép rằng người
địa phương ít dùng những địa danh về hành chánh. Họ dùng tên của "những lỵ
sở hoặc chỗ nhóm họp đông lớn, hoặc chỗ địa đầu" mà gọi đại khái, tổng
quát.
Trong dân gian gọi trấn Biên Hòa là Đồng Nai Bà
Rịa, trấn Phiên An là Bến Nghé Sài Gòn, trấn Định Tường là Vĩnh Gù Mỹ Tho, trấn
Vĩnh Thanh là Long Hồ Sa Đéc, trấn Hà Tiên là Cà Mau Rạch Giá.
Trong một trấn tại sao chỉ chọn lựa hai vị trí, và
tại sao lựa vị trí này mà không lựa vị trí khác? Dân gian nói thành thói quen
ắt có lý do riêng. Theo chúng tôi nghĩ đó là họ muốn xác nhận nơi làm ăn sung
túc, "làm ăn" có nghĩa là mua bán, cày cấy.
Sài Gòn là thành phố của người Trung Hoa dựng lên
lúc ban đầu, nặng về bán sỉ, trong khi thành phố Bến Nghé do người Việt xây
dựng về sau, nặng về bán lẻ và là khu hành chính. Vũng Gù tức là chợ Tân An
ngày nay, tuy không có chợ lớn nhưng đáng chú ý nhờ khẩn hoang lâu đời, đất khá
tốt. Sa Đéc nằm trong trấn Vĩnh Thanh, là nơi sung túc dân cư trù mật, sống nhờ
huê lợi ruộng tốt và vườn cây ăn trái. Trấn Hà Tiên, với lỵ sở nổi danh là đẹp
nhưng nghèo, không thể sản xuất đủ lúa gạo, cá mắm, chỉ có vùng chung quanh chợ
Cà Mau và chợ Rạch Giá là dễ đánh lưới và làm ruộng dễ trúng mùa, tàu buồm Hải
Nam ra vào chở cá khô, gạo.
Gia Định thành Thông chí (trong mục
Cương Vực Chí) đã nêu rõ danh sách các huyện, tổng, thôn ở toàn cõi Gia Định
thành hồi đời Gia Long. Vùng nào tập trung nhiều làng xã trên diện tích nhỏ thì
nhứt định là đất tốt, khẩn hoang có kết quả. Vùng nào có quá ít làng xã trên
diện tích quá rộng thì đất xấu. Nguyên tắc lập làng xã là có người, tức là dân
bộ. Dân bộ phải nhiều đến mức nào đó (thường là 10 người) mới lập được một
làng.
Mục Cương Vực Chí giúp ta thấy hình ảnh khá rõ rệt
về tình hình khẩn hoang lúc bấy giờ. Một thí dụ cụ thể là vùng Kiến Hòa ngày
nay (tức là khái quát vùng cù lao Bảo và cù lao Minh của Bến Tre thời Pháp
thuộc) tuy diện tích nhỏ nhưng là một huyện, lấy tên là huyện Tân An với hai
tổng Tân Minh 72 thôn và An Bảo 63 thôn. Riêng tổng Hòa Bình (vùng Gò Công, Chợ
Gạo và An Hóa) có đến 86 thôn, không kém vùng đông dân Sài Gòn, Chợ Lớn.
Trong khi ấy, một huyện ở vùng khó khẩn
hoang với diện tích to rộng chỉ có 37 thôn: huyện Vĩnh Định, bao gồm phía hữu
ngạn Hậu giang, từ biên giới Châu Đốc đến vàm Ba Thắc ở biển Nam Hải và chưa
phân ra thành tổng như ở miệt trên;
Một nơi khác, đất phèn và nước mặn là mũi Cà Mau
(nay là An Xuyên và một phần của Bạc Liêu) chỉ có 40 xã thôn. Vùng Rạch Giá
(Kiên Giang ngày nay, trừ Hà Tiên) gồm một huyện với 2 tổng, tổng thứ nhứt là
Kiên Định có 7 thôn, tổng thứ nhì là Thanh Giang có 4 thôn. Trong số này lại có
những nậu, những thuộc, tức là xã thôn chưa thành hình đầy đủ.
Đồng ruộng ở Sài Gòn gồm dân số đông đúc, lúa bán
cao giá, hoa màu phụ dễ khai thác: Hóc Môn, Bà Điểm, Gò Vấp, hoặc phía Phú Lâm,
Bình Tiên, Bình Tây, Bình Đông.
Những con số trên chỉ ghi những thôn xã do người
Việt Nam thành lập. Phía Hậu giang, ruộng nương chưa đến đổi ít oi, dân số
không quá thưa thớt, chỉ vì phần Cương Vực Chí không ghi lại nhân số, diện tích
các sốc Cao Miên, tập trung ở vùng Trà Vinh, Rạch Giá, Bạc Liêu, Cần Thơ, Sóc
Trăng.
Riêng về vùng gần chợ Hà Tiên ghi 6
phố, sở của người Tàu, 26 sốc Cao Miên và 19 xã thôn Việt Nam (trong số này có
12 thôn ở đảo Phú Quốc).
"Huyện Kiến Hòa đất ruộng phì nhiêu, mênh mông
bát ngát. Nhiều người lo việc canh nông làm gốc, trong nhà có chứa vựa lúa gạo
đầy dẩy". Mục Phong Tục Chí của Trịnh Hoài Đức ca ngợi trường hợp huyện
Kiến Hòa (trấn Định Tường). Định Tường lúc bấy giờ khá rộng rãi, huyện Kiến Hòa
nói trên bao gồm trọn vùng Gò Công, vùng Chợ Gạo, luôn cả vùng đất giữa sông Ba
Lai và Cửa Đại (tức là An Hóa ngày
nay). Vùng Gò Công nổi danh đất tốt, gạo ngon. Đất ở bờ Cửa Tiểu và Cửa Đại là
phù sa cao ráo. Nói riêng về từng trấn, Định Tường (với Gò Công làm nòng cốt)
là vựa lúa quan trọng nhất của xứ Gia Định.
Về đất ruộng, ở nơi có núi đồi và có đồng bằng như
miền Trung, theo lệ từ lâu, cứ phân chia ra sơn điền và thảo điền. Sơn điền có
năng xuất kém, thảo điền năng xuất cao, vì vậy mà trong việc quy định thuế
điền, luôn luôn thảo điền chịu thuế cao hơn.
ở vùng đồng bằng Cửu Long, để tiện việc
thuế khóa, nơi nào đất mới trưng khẩn thì khai là sơn điền (mặc dầu không có
núi) để chịu thuế nhẹ, vài năm sau khi đất đã thành thục (trở thành đất thuộc)
thì nâng lên làm thảo điền.
Ruộng ở đồng bằng Đồng Nai và Cửu Long chia ra hai
loại, đứng về mặt kỹ thuật cày bừa mà xét (sự phân biệt này qua thời Pháp thuộc
vẫn còn):
Ruộng đất cày thường là tương đối cao, chờ mưa mới
cày, thường là khai thác lâu năm, nếu không cày thì mặt đất quá cằn cỗi thiếu
chất màu mỡ, cày để trộn đất lên.
Vùng Phiên An, Biên Hòa gồm loại ruộng cày.
Ruộng đất phát là đất thấp, còn mới, ít khai thác,
mặt đất còn nhiều cỏ và phân, nếu cày thì đất phèn phía dưới lại trồi lên làm
hư lúa (Trịnh Hoài Đức ghi là "trạch điền" để chỉ loại đất phát này).
Muốn làm ruộng đất phát, khi sa mưa, nước lên cỡ ba
tấc tây thì phát cỏ
(Trịnh Hoài Đức dùng chữ trảm phạt,
nhưng không nói rõ là phát bằng thứ dụng cụ gì). Theo ý kiến chúng tôi, nông
dân thời ấy dùng cây phãng mà người Miên đã dùng từ trước. Phãng giống như cây
mã tấu, cán phãng uốn lại theo góc thước thợ, lưỡi phãng dài cỡ bảy, tám tấc
tây. Người phát cứ đứng nghiêng mình mà chém, dùng cây cù nèo gạt cỏ qua một
bên rồi chém tiếp. Phát cỏ xong xuôi, dùng cây bừa cào thứ to mà dọn cho đất
trống trải, sau đó là cấy với cây nọc (đất không cày nếu dùng tay mà cấy thì
không tài nào khoét lỗ để nhét cây mạ được).
Ruộng đất phát (trạch điền) ở Vĩnh Thanh một hộc
giống thâu được 300 hộc, trong khi ruộng cày ở Phiên An, Biên Hòa một hộc lúa
giống chỉ đem lại 100 hộc.
Giống lúa sạ (lên cao theo nước lụt) tuyệt nhiên
không thấy nhắc tới. Lúc bấy giờ, việc mua bán, liên lạc với Cao Miên cũng khá
thường xuyên. Lúa sạ có nhiều ở Cao Miên, tại sao ta không cho du nhập để giải
quyết việc trồng tỉa ở phần đất rộng mênh mông phía Đồng Tháp Mười và phía Châu
Đốc? Theo thiển ý chúng tôi, bấy giờ đất giồng ở bờ sông còn nhiều, chưa cần
khai thác quá xa tận vùng Châu Đốc và Đồng Tháp. Vả lại, lúa sạ không ngon cơm,
bán thấp giá trên thị trường.
Trong Gia Định thành Thông Chí, không lời lẽ nào đề
cập đến lối canh tác một năm hai mùa ruộng (khi người Pháp chiếm nước ta hồi
cuối thế kỷ 19, ở Nam kỳ vẫn chưa làm một năm hai mùa). Ruộng hai mùa đòi hỏi
đất cao ráo, để có thể đắp bờ mà giữ nước hoặt tát nước vào ruộng cạn. Đắp bờ
và tát nước đòi hỏi nhân công, các thửa ruộng phải liền lạc, gần nhau. Người
nông phu lúc bấy giờ vì đất còn tốt và rộng nên chưa nghĩ đến cách khai thác
thâm canh ấy. Lúc rảnh rỗi, họ trồng đậu, bắp khao dễ sinh lợi và ít tốn công
hơn.
Doãn Uẩn từng là thự án sát tỉnh Vĩnh Long vào năm
1833 (sau làm đến Tổng đốc An Hà) ghi lại vài chi tiết về cách làm ruộng:
"Việc trồng lúa thì cứ phát rạp lau sậy, bừa cỏ hai ba lần rồi cấy, không
phí sức nhiều. Như đã cấy rồi thì không cần trông nom tới, cũng khỏi phải lo
nước hạn. Vào những tháng 7, 8, 9 lục tục cày cấy, đến những tháng 11, tháng
chạp mới lần lượt gặt hái, rồi gom nhóm lại để ngay ngoài ruộng, tới ra giêng
lối tháng 2, tháng 3 mới cho trâu đạp lấy lúa hột". "Cổ nhân nói:
Xuân canh, hạ vân, thu thâu, đông tàng xét ra không thể hoàn toàn đúng với mọi
vùng, hoặc thổ ngơi không điều hợp, thổ tục thì theo thói quen mà làm, hoặc giả
khí hậu có sớm có tối khác nhau, riêng tôi cũng chưa thấu đạt được vậy. Cũng
như nói về hoa quả, tại nhiều tỉnh dưa đều đại khái chín vào mùa hạ, mà Nam Kỳ
lại chín vào đông xuân. Tại Bắc kỳ, sen nở mùa hạ, mà Kinh kỳ (Huế) lại trỗ
bông vào giữa thời gian giao mùa đông xuân, còn Nam kỳ thì bốn mùa sen đều có
hoa cả".
Về phong tục ở miền Nam lúc bấy giờ,
Trịnh Hoài Đức ghi lại khá nhiều chi tiết, xin lược kê vài đoạn, chứng tỏ việc
khẩn hoang đem lại mức sống sung túc: "ở Gia Định, có khách đến nhà đầu
tiên gia chủ dâng trầu cau, sau dâng tiếp cơm bánh, tiếp đãi trọng hậu, không
kể người thân sơ, quen lạ, tông tích ở đâu, ắt đều thâu nạp khoản đãi, cho nên
người đi chơi không cần đem tiền gạo theo, mà lại có nhiều người lậu xâu, trốn
thuế đi đến xứ này ẩn núp, bởi vì có chỗ dung dưỡng vậy". "Đất Gia
Định nhiều sông, kinh, cù lao, bãi cát nên trong 10 người đã có 9 người biết
nghề bơi lội, chèo thuyền, lại ưa ăn mắm, ngày ăn ba bữa cơm mà ít khi ăn
cháo". Lại có thói đùa cợt, bằng cách thách đố nhau ăn hoặc uống thật
nhiều. Doãn Uẩn chép: "Cũng có kẻ nghèo phải đi ăn xin, nhưng mỗi tháng họ
chỉ đi xin một lần cũng đủ sống rồi. Họ thường tựu nhau nơi đình miếu, mỗi
người đều có mùng màn riêng. Trộm cắp cũng ít xảy ra, trâu thì có chuồng nhốt
ngoài đồng". Họ rất thích ca hát, không ngày nào là không có múa hát.
Người Tàu còn khai thác ruộng muối ở vùng biển Sóc
Trăng (Ba Thắc). Biên Hòa nổi danh với nghề trồng mía, làm đường. Rừng Tây Ninh
sản xuất nhiều gỗ tốt, đặc biệt là dầu rái để trét ghe, làm đuốc.
Nhu Cầu Xác Định Vùng Biên Giới
Việt Miên
Đời Gia Long, vấn đề biên giới ở Gia Định thành
được tạm ổn định. Các hải đảo quan trọng đều có người Việt đến khai thác. Tại
đảo Côn Lôn lúa, bắp, khoai, đậu tuy không đủ dùng nhưng dân ở đảo kết đoàn làm
binh sĩ, gồm 3 đội, khai thác hải sản, trồng cau. Giặc cướp Mã Lai chỉ đến
khuấy rối tạm thời. Đảo Phú Quốc phía vịnh Xiêm La được bố trí phòng thủ cẩn
thận, dân Phú Quốc đã từng hết lòng ủng hộ lúc Gia Long tẩu quốc, gồm 12 thôn
xã và thuộc. Hòn Sơn Rái có dân, lập thành một thôn.
Riêng về Hà Tiên thì không còn quan
trọng, từ khi bị giặc Xiêm đốt phá năm 1771. Hậu duệ của họ Mạc tuy được Gia
Long chiếu cố nhưng thiếu tài kinh bang tế thế, vả lại, trọng tâm việc thương
mãi đã nghiêng hẳn về phía Sài Gòn, Đà Nẵng; việc mua bán với Cao Miên thì đã
có Sa Đéc, Cái Bè. Vua Gia Long cho các tàu buôn và ghe buôn ở hạt Hà Tiên được
miễn thuế (1810), đồng thời di chuyển một số quan lại, viên chức ở bốn trấn miền
trên đến tăng cường cho trấn Hà Tiên, gia tăng binh sĩ để lo việc tuần phòng
giặc biển. Năm sau (1811) vua cho Trương Phước Giáo và Bùi Đức Mân đến Hà Tiên
để tu chỉnh thành phố, chiêu dụ lưu dân: người Trung Hoa, người Cao Miên,
ngườiChà (gọi là chà Châu Giang), đều có dành khu vực cư trú riêng, khá phân
minh. Tuy nhiên, thương cảng Hà Tiên không sao hưng thịnh được như trước.
Vua Gia Long đặt quan bảo hộ ở Cao Miên, nhưng như
đã nói, đối thủ của dân Việt Nam vẫn là vua Xiêm với chính sách hung hăng đang
tìm cách mở rộng biên giới. Từ năm 1795, Xiêm chiếm cứ luôn vùng Battambang và
Siemrap của Cao Miên. Năm 1814, lấn luôn vùng Mélouprey và Stungtreng thuộc tả
ngạn sông Cửu Long, thọc sâu giữa lãnh thổ Lào và Miên. Vua Xiêm còn có tham
vọng "Nam tiến" xuống bán đảo Mã Lai.
Về mặt nội an, từ lúc tẩu quốc, Gia Long nắm được
tình thế đối với các vùng tập trung sốc Miên. Năm 1780, người Miên ở Trà Vinh
làm loạn, nhưng tướng Đỗ Thanh Nhân dẹp được với chiến thuật khá tinh vi. Năm
1757, nhờ lãnh tụ Miên là Nguyễn Văn Tồn theo chúa Nguyễn nên vùng Trà Ôn sống
yên lành, chẳng có mầm mống phản loạn. Người Miên trở thành dân binh giữ an ninh,
đóng đồn tại địa phương, họ hưởng chế độ tự trị khá rộng rãi, nhờ đó mà
"những chỗ gò hoang đất trống đã được khai khẩn thành ruộng vườn trồng
tỉa". Vua Gia Long cũng ra lịnh cho quân và dân trong đất Gia Định trả lại
những phần ruộng đất chiếm của người Cao Miên và không tán thành việc dùng
người Miên làm đầy tớ (1816).
Việc bảo vệ biên giới Việt Miên
Địa thế Châu Đốc, Hà Tiên không kém Bắc thành. Vua
Gia Long đã quan niệm rõ rệt như thế. Bắc thành để ngăn ngừa nạn xâm lăng của
Trung Hoa; Hà Tiên, Châu Đốc để ngăn ngừa giặc Xiêm và giặc Cao Miên.
Giữa ta và Cao Miên, biên giới có phần giáp vào
trấn Phiên An và Đồng Tháp Mười, nhưng con đường chiến lược bấy lâu vẫn là sông
Cửu Long, cụ thể là Tiền giang, nơi đối phương có thể từ Nam Vang đổ xuống
nhanh chóng rồi thọc vào Định Tường. Về phía vịnh Xiêm La, còn Rạch Giá, Hà
Tiên ở sát mé biển.
Đồn lũy ở Hà Tiên và Châu Đốc đã có từ
lâu, kể cả đồn Tân Châu, đồn Sa Đéc.
Lằn ranh biên giới giữa ta và Cao
Miên khi Cao Miên dâng đất Tầm Phong Long là vùng người Miên gọi là Méat Chruk
(tức là mõ của con heo, ta âm lại là Ngọc Luật, Mật Luật), đại khái lấy sông
Châu Đốc làm ranh giới. Đồn Châu Đốc ở phía tây sông Châu Đốc, thủ sở phủ Mật
Luật Cao Miên ở bờ phía đông sông Châu Đốc, ấy là địa đầu quan ải trấn Vĩnh Thanh
và nước Cao Miên. Vua Gia Long đặt tên vùng Châu Đốc là Châu Đốc Tân Cương, đặt
chức Quản đạo. Từ đồn Châu Đốc đến vịnh Xiêm La, đường ranh giới quá mơ hồ: Vàm
sông Châu Đốc (ngược về phía bắc) tiếp đến vùng Thất Sơn và rạch Giang Thành.
Năm thứ 14 (1815), Gia Long ra lịnh cho trấn thủ Vĩnh Thanh là Lưu Phước Tường
đem dân binh trong trấn hạt 3000 người để xây đồn, chung quanh có hào thông với
sông cái, xây vào tháng chạp. Ngài giải thích với vua Cao Miên rằng đắp đồn
Châu Đốc là để giữ yên trấn Hà Tiên, làm nơi tiếp ứng cho thành Nam Vang. Ngài
muốn nói đến việc quân Xiêm sẽ can thiệp vào Cao Miên. Ngài ra lịnh xây đồn cho
nhanh kẻo bận rộn đến việc cày cấy của đám người đi làm xâu. Đồn Châu Đốc vừa
xây xong, vua Gia Long xem địa đồ, nêu ý kiến: "Xứ này nếu mở đường thủy
thông với Hà Tiên thời nông thương đều lợi cả, ngày sau dân ở càng đông, đất mở
càng rộng, sẽ thành một trấn to". Nhưng Nguyễn Văn Nhân tâu can nên ngài
bỏ ý kiến ấy.
Tuy nhiên đó chỉ
là bỏ tạm thời. Ngài muốn lập một trấn mới, tách ra khỏi trấn Vĩnh Thanh quá
dài (trấn Vĩnh Thanh ăn từ biên giới Cao Miên đến biển Nam Hải). Ngài muốn cho
lưu dân quy tụ để mở đất. Một người Tàu làm quan cho ta bên Cao Miên tên là
Diệp Hội được gọi về, bấy lâu Diệp Hội được tiếng là mẫn cán "xử việc gì dân
cũng bằng lòng". Diệp Hội được cử làm Cơi phủ Châu Đốc, khiến chiêu tập
người ta, người Thổ và người Tàu vào đó cho đông, hễ có biết nghề trồng cây,
nuôi súc vật, buôn bán hay làm nghề gốm, cho tùy nghề nghiệp làm ăn, người nào
thiếu vốn thì nhà nước cho vay. Lại truyền dụ quan Tổng trấn Gia Định rằng: dân
mới phủ tập, nên dạy làm các việc lợi ích khiến dân được an cư lạc nghiệp, chờ
các việc thành rồi sẽ tâu lên.
Vua Gia Long hiểu rõ tình hình vùng
biên giới Châu Đốc; xứ này có đồi núi, chăn nuôi súc vật dễ dàng; từ xưa, người
Miên giỏi về nghề làm đồ gốm, nên thử cải tiến lại. Rất tiết là đất ở vùng Thất
Sơn quá xấu, chỉ có thể làm nồi, cà ràn, gạch ngói, chớ không làm tô chén được.
Việc quy dân lập ấp lúc bấy giờ cũng khó vì dân Việt thưa thớt; ở phía nam, gần
Cần Thơ và gần Vĩnh Long còn nhiều đất tốt chưa khẩn hết, đi làm ăn ở tận biên
giới Châu Đốc là chuyện phiêu lưu. Người Tàu, người Cao Miên với nghề làm đồ
gốm, nghề chăn nuôi, trồng cây được nhắc tới là phải.
Trước khi muốn khơi động sinh hoạt kinh tế cho vùng
Châu Đốc, ngài ra lịnh cho Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu) đào con kinh sau
này gọi là Thoại Hà (gọi nôm na là kinh Núi Sập) trong năm 1817, vào tháng 11,
dùng 1500 dân xâu gồm người Việt và người Cao Miên, đào hơn một tháng mới xong.
Đây là con đường mà trước kia dân gian thường đi, nhưng chật hẹp, nay đào nới
rộng thêm. Thoại Hà đã có sẵn ở khúc đầu và đoạn chót, chỉ vét lại phần giữ để
nối liền từ Hậu giang qua Rạch Giá bên bờ vịnh Xiêm La (ngọn của Rạch Giá là
rạch Sốc Suông, địa danh Miên, sử ghi là Khe Song). Mục đích trước tiên của
việc đào kinh vẫn là quân sự. Ngài nghĩ: chỗ ấy gần Chân Lạp, địa thế rậm rạp
lắm, đàng thủy đi qua Kiên Giang thì lắm bùn và cỏ. Ngài ra lịnh cắm dân không
được chặt cây trên núi Sập, nơi con kinh này đi ngang qua, chắc vì muốn giữ
phong thủy.
Nhưng việc đào kinh nối liền Châu Đốc qua Hà Tiên ở
biên giới vẫn là mối bận tâm của ngài. Kinh Thoại Hà đào xong ở phía Nam cũng
như con kinh Vĩnh Tế sắp đào ở phía Bắc vẫn nhằm mục đích đưa thủy quân của ta
từ Hậu giang ra vịnh Xiêm La thật nhanh, để giữ Kiên Giang và chợ Hà Tiên, ngừa
quân Xiêm đem binh đến thình lình. Khi vỗ về và động viên dân trong trấn Vĩnh
Thanh, ngài nói thẳng là "công trình đào sông ấy (nối Châu Đốc qua Hà
Tiên) rất khó. Việc nhà nước và cách phòng giữ bờ cõi quan hệ rất lớn. Bọn
ngươi tuy là khó nhọc một lần mà ích lợi cho muôn đời về sau, phải bảo nhau
biết, chớ nên sợ nhọc". Trước khi đào kinh, ngài cũng trấn an sứ giả
của Cao Miên.
Kinh Vĩnh Tế đào năm năm mới xong, ngưng rồi lại
tiếp tục. Có đoạn dễ đào vì nhằm nơi đất ruộng, sình lầy (khúc kinh này qua
vùng Bến Đổi), nhưng có khúc ở đất cứng, có đá, sát chân núi. Mùa nắng phải
ngưng lại vì thiếu nước uống cho dân phu. Vua Minh Mạng tiếp tục công trình do
Gia Long đề xướng. Lê Văn Duyệt huy động đến 55000 dân công, gồm người Việt ở
Vĩnh Thanh, Định Tường và người Miên ở đồn Uy Viễn (Trà Ôn do Nguyễn Văn Tồn
cầm đầu).
Mãi đến nay, dân gian còn nhắc lại những khó khăn
khi đào con kinh này, lớp thì chết vì bịnh, lớp thì trốn về dọc đường bị sấu ăn
thịt. Nói đến kinh Vĩnh Tế, vua Minh Mạng không che giấu mục đích quân sự:
"Đức Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta (Gia Long) mưu sâu, nghĩ xa, chú ý
việc ngoại biên...". Việc ấy (việc đào kinh) không lợi gì cho Chân Lạp.
Những thành quả đầu tiên
Nên nhớ trấn Vĩnh Thanh đời Gia Long và đầu Minh
Mạng bao gồm các tỉnh thời Pháp thuộc: Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc,
Sóc Trăng, Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ.
Nói chung thì phía Nam đã có dân cư,
đất không bị ảnh hưởng ngập lụt hằng năm của sông Cửu Long và Hậu Giang, phía
Bắc thì quá thưa thớt, trừ vùng Sa Đéc, Tân Châu. Vùng ngày nay thuộc Cần Thơ
(Phong Dinh), Long Xuyên, Châu Đốc chưa có người Việt đến định cư nhiều. Tại
Cần Thơ, Ô Môn, Thốt Nốt đất khá cao và tốt, dân ta đến lập thôn xóm, nhưng
người Miên còn chen chúc gần đấy. Hữu ngạn Hậu giang, phía biên giới hầu như
không người ở, trừ mấy cù lao trên sông. Đây là vùng bị ngập lụt quá sâu, cấy
lúa không được, ai siêng năng thì chỉ có thể chọn vài giồng đất nhỏ, vài gò ở
ven sông hay giữa đồng mà làm ruộng kiểu "móc lõm" tức là theo hình
thức "da beo", nhưng lối làm ăn này quá phiêu lưu, khi nước sông lên
quá mức bình thường là bị lụt, hoặc mùa màng bị chim chuột cắn hại, đầu hôm sớm
mai.
Kinh Vĩnh Tế đào
chưa xon glà Thoại Ngọc Hầu cho phép dân lập làng với quy chế rộng rãi, từ cù
lao Năng Gù đến Bình Thiên theo sông Hậu, và dọc theo bờ kinh Vĩnh Tế, từ Châu
Đốc đến Thất Sơn. Người khẩn đất cứ dâng đơn, Thoại Ngọc Hầu lúc bấy giờ được
trọn quyền ở biên giới (với chức vụ Khâm sai thống chế, án thủ Châu Đốc đồn,
lãnh bảo hộ Cao Miên quốc ấn, kiêm quản Hà Tiên trấn biên vụ), phê vào đơn rồi
đóng ấn son "Bảo hộ Cao Miên quốc chi dương" là xong. Tờ đơn được
đóng dấu này có giá trị như tờ bằng khoán. Dọc theo kinh Vĩnh Tế, nhiều người
thử làm ruộng trên phần đất phía Nam, bờ kinh đắp cao, dễ cất nhà. Kinh rút bớt
nước, lại thuận lợi giao thông. Một số lưu dân đến mấy vùng đất cao ở chân đồi,
chân núi phía Thất Sơn mà canh tác. Rải rác trên bờ kinh, quân sĩ xây nhiều đồn
bão nhỏ, giữ an ninh, lại còn đường lộ đắp từ bờ kinh chạy vòng quanh, liền lạc
nhau (gọi là xa lộ). Để tiện việc di chuyển và để khi mùa lụt nước ruộng rút
nhanh, người khẩn hoang lúc bấy giờ nghĩ ra sáng kiến đào nhiều con kinh ngắn
(gọi là cựa gà) đổ ra kinh Vĩnh Tế, bên phần đất mới khẩn để thăm ruộng hoặc
chở lúa từ ruộng về nhà dễ dàng hơn. Lịnh của triều đình cấm ngặt không được
khẩn vào phần đất hiện có người Cao Miên làm chủ. Núi Sam, gần Châu Đốc nối
liền vào chợ với con lộ đắp đất. Làng Vĩnh Tế thành lập (gọi là Vĩnh Tế Sơn
thôn, làng ở núi Vĩnh Tế tức là núi Sam). Thoạt Ngọc Hầu tỏ ra xứng đáng, làm
đúng lời dụ mà vua Minh Mạng đưa ra vào năm thứ hai (1821) "Châu Đốc là
một vùng xung yếu, nhà ngươi phải khéo léo trong mọi trường hợp, trấn an phủ dụ
nhân dân địa phương. Trước hết phải chiêu mộ dân buôn, xây dựng xóm làng, làm
cho đinh số hộ khẩu ngày càng tăng, ruộng đất ngày càng được khai khẩn
thêm". Thoại Ngọc Hầu mất năm 1829, thống chế Nguyễn Văn Tuyên thay thế,
rồi năm 1832 người lãnh bảo hộ Chân Lạp, giữ đồn Châu Đốc là Ngô Bá Nhân. Tính
đến năm Minh Mạng thứ 19 (1838), dọc theo kinh Vĩnh Tế qua phía Thất Sơn, các
thôn sau đây thành hình, lần hồi dân chúng xin khẩn thêm đất, đa số là vu đậu
thổ, tức là đất làm
9í
rẫy:
- Vĩnh Tế Sơn thôn (từ Châu Đốc vào)
- Thân Nhơn thôn (giữa An Qủ và Vĩnh Bảo)
- Vĩnh Bảo thôn (giữa Thân Nhơn và Long Thạnh)
- Long Thạnh thôn (giữa Vĩnh Bảo và Vĩnh Nguơn)
- Toàn Thạnh thôn (giữa Nhơn Hòa và An Thạnh)
- Vĩnh Gia thôn (giữa Vĩnh Điền và Vĩnh Thông)
- Vĩnh Lạc thôn (giáp với An Nông)...
Từ biển Nam Hải trở lên Châu Đốc, tức là hữu ngạn
sông Hậu giang có vài khu vực đáng kể không chịu ảnh hưởng nước lụt. Vùng Ba
Thắc, Sóc Trăng đã có người Miên khai khẩn từ lâu rồi. Phía Sóc Trăng từ đời
Gia Long thấy ghi làng Tân An (rạch Cần Thơ), làng Thới An (Ô Môn), làng Thới
Thuận, Tân Thuận Đông (vùng Thốt Nốt), làng Bình Đức ở rạch Long Xuyên, làng
Bình Lâm ở Năng Gù. Làng này cách làng kia hàng chục cây số, nằm trên các vùng
đất gò, đất giồng. Các thôn xóm này đều bám sát vào bờ Hậu giang. Cù lao ngoài bờ
sông cái thì phì nhiêu hơn: ven cù lao là đất cao ráo, thích hợp để trồng
khoai, trồng đậu. Nhìn các bản đồ kèm theo đơn xin khẩn đất đời Minh Mạng ở
vùng này, ta thấy đa số đồng bào khẩn theo lối móc lõm, ở ngọn, ở ngay ngả ba
rạch. Đông đúc nhất là vùng Năng Gù, Chắc Cà Đao, đất khẩn liên ranh nhau. Tiếp
giáp vào phần đất làm ruộng làm rẫy là đất lâm (ở vùng mé sông là rừng tre,
thanh trúc lâm). Vì là bờ sông cái nên chim cò bay tới lui, đáp xuống bãi sông,
tre chịu được ngập lụt hằng năm mà không chết. Ta có thể đoán rằng mực nước ở
đồng ruộng vùng Cần Thơ, Thốt Nốt, Ô Môn hồi đời Minh Mạng tương đối cao hơn
bây giờ. Vào mùa lụt (bấy giờ chưa có nhiều kinh đào đổ nước ra vịnh Xiêm La
như sau khi người Pháp đến).
Rạch Cần Thơ nổi danh là phì nhiêu, đất
tốt, không bị ngập. Vùng Cái Răng trở thành làng vào đời Minh Mạng rồi phát
triển thêm. Năm Minh Mạng thứ 15 (1834), làng Thường Thạnh của Cái Răng tăng
thêm dân cư, tách ra một làng mới lấy tên là Trường Thạnh.
Rạch Bò ót được dân khẩn hoang chú ý.
Rạch Cái Côn đã có làng từ đời Gia Long (làng Phú
Mỹ), ấy thế mà năm Minh Mạng thứ 19 (1838) còn đến năm khoảnh rừng rậm hoang
vu. Làng Bình Mỹ cũng thành lập từ đời Minh Mạng, ăn tới rạch Cái Dầu. Vùng
Thốt Nốt, đời Gia Long chỉ có làng Thới Thuận, qua Minh Mạng thêm các làng Tân
Thuận Đông, Vĩnh Trinh.
Những làng vừa kể trên trở thành phần đất của các
tổng mới lập: Châu Phú, Định Thành, Định Phước, thuộc huyện Tây Xuyên (có nghĩa
là bờ phía Tây của Hậu Giang). Từ Cần Thơ trở xuống thuộc về huyện Vĩnh Định
với các tổng Định Thới, Định An, Định Khánh. Phía Sa Đéc, vùng Cái Tàu Thượng,
Cái Tàu Hạ, Nha Mân và những cù lao trên Tiền giang đã đông đúc dân cư từ đời
Gia Long. Đời Minh Mạng còn lưu lại vài văn kiện xác nhận việc xúc tiến khẩn
hoang ở huyện Vĩnh An, với nhiều đơn xin khẩn đất:
- Năm Minh Mạng thứ 12, khẩn thêm ở các thôn Tân
Dương, Tân Đông, Tân Phú Đông, Phú Mỹ, Tân Hòa, Tân Quý, Tân Thuận.
- Năm Minh Mạng thứ 19 và 20, khẩn thêm
ở các tổng An Thới, An Thạnh, An Mỹ, An Trường, những vùng Nha Mân, cù lao Tòng
Sơn, rạch Cái
Vồn được chú ý nhứt.
Từ đời Minh Mạng về sau, phần đất phì
nhiêu, nhiều huê lợi của An giang vẫn là phía Tiền giang với Sa Đéc và các vùng
phụ cận.
Việc lập làng — Sự phân chia điền địa
Vua Minh Mạng đặc biệt khuyến khích việc lập ấp ở vùng
Châu Đốc. Năm 1830, thành thần trấn Gia Định tâu: Hạt Châu Đốc là vùng biên
cương mới mẻ, ruộng đất chưa được khai khẩn hết, xin triển hoãn việc thâu thuế.
Vua phán: "Đó là vùng biên giới quan trọng của quốc gia, trẫm muốn vì nhân
dân mà gìn giữ cho nên phải đặc biệt chú ý tới việc cai trị. Đó chính là kế
hoạch biên phòng. Còn vấn đề thuế khóa đinh điền, đâu phải là việc cần tính
toán trước". Rồi ngài cho miễn thuế ba năm. Ba năm sau, thành thần Gia
Định tâu xin thâu thuế. Ngài ra lịnh: "Những xóm làng tân lập được miễn
thuế thêm ba năm nữa. Riêng thuế thân, thuế điền thổ được hoãn thêm một năm
nữa". Một tài liệu khác cho biết thêm con số: đồn Châu Đốc mới lập được 41
xã, thôn, phường; dân đinh chỉ mới được hơn 800 người. Nhưng năm sau (1831),
Tổng trấn Gia Định thành lại tâu với lời lẽ bi quan: "Đồn Châu Đốc xã dân
mới thiết lập, địa thế ruộng đất khó khai khẩn". Vua cho bộ Hộ biết:
"Đồn ấy là nơi địa đầu quan yếu, ta đã từng xuống chỉ chiêu tập dân buôn
bán, cho vay tiền gạo để lập ấp khẩn điền, quây quần sinh sống. Đó là ý niệm
quan trọng của ta trong việc củng cố vùng ngoại biên cương. Nhất sơ việc khai
khẩn còn khó khăn nên đã được triển hạn nhiều lần. Năm ngoái đây, quan trấn
thành đã có lời xin, lần thứ hai trẫm đã khoan miễn cho ba năm tiền dung (tiền
xâu) cùng dịch vụ, và đã phán bảo phải dùng nhiều phương pháp để chiêu dụ thu
nạp, để cho đồng áng ngày càng mở mang, sinh sống dồi dào, đã hơn một năm nay
mà vẫn chưa thấy thi thố phát triển điều gì, liền vội cho là vì tình trạng khó
khăn. Đó phải chăng là lối làm việc tắc trách cho xong chuyện? Nay truyền chỉ
cho thành thần (quan trấn Gia Định) phải nghiêm sức các công chức của đồn phải
tất tâm thi thố, hầu làm cho đất rộng đông dân, hạn đúng ba năm phải có đủ hồ
sơ về triều đình khen thưởng, không thể đổ cho là tại tình hình khó khăn mãi
được".
Vua quan tâm đến vấn đề biên giới Châu Đốc, và tiên
đoán những rắc rối sắp xảy ra giữa Việt Nam và Xiêm La, không riêng ở mặt trận
Cao Miên mà còn ở cả mặt trận Lào. Ngài muốn quy dân gần như vô điều kiện, miễn
thuế hai đợt.
Hai năm sau, cuối năm 1833, quân Xiêm tràn qua.
Làng ấp ở vùng kinh Vĩnh Tế và Thất Sơn lúc bấy giờ
thành lập với quy chế dễ dãi, như trường hợp làng Phú Cường, tách ra từ làng An
Nông. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), vào tháng 3, Trương Văn Nghĩa đứng đơn, xin
khẩn vùng đất hoang từ núi Chân Tầm Lon tới núi Trà Béc, bấy lâu thuộc làng An
Nông. Lúc đầu, Trương Văn Nghĩa và đồng bọn 11 người đến khai phá, sau chiêu mộ
thêm được 4 người nữa, đã có nền tảng để lập làng mới lấy tên là Phú Cường. Cả bọn
xin đến năm thứ 17 (1836) sẽ đóng đủ thuế, khi mộ được thêm dân và lập hộ. Đơn
được phú hồi cho Tuy Biên phủ để tra khám và chuẩn cho vào tháng 11, năm Minh
Mạng thứ 15 (1834). Qua văn kiện trên, ta thấy việc cứu xét kéo dài từ 1831,
khi Trương Văn Nghĩa khẩn đất, xin sẽ lập bộ và đóng thuế; quan địa phương thâu
đơn, chờ đến ba năm sau mới chánh thức chấp nhận. Trong thời gian chờ đợi, bọn
người khẩn hoang tha hồ làm ăn, khỏi đóng thuế, khỏi khai báo gì cả.
Làng Trường Thạnh tách ra từ làng Thường Thạnh,
rạch Cái Răng (Cần Thơ) lập vào năm Minh Mạng thứ 15 (1834) do hai người đứng
đơn. Làng tân lập này gồm 8 người dân có tên trong bộ làng Thường Thạnh, 8
người dân lậu và một niên lão 67 tuổi. Họ chịu đóng thuế 5 khoảnh đất, hạng sơn
điền (thuế nhẹ). Đây là vùng có an ninh, đất tương đối tốt, cách xa Châu Đốc
hàng trăm cây số ngàn, nên không thấy ghi những điều khoản dễ dãi dành cho vùng
biên giới.
Sử thường nhắc tới việc cho phép tù nhân đi khẩn
hoang. Chúng tôi gặp tài liệu về một hộ thợ săn, tập trung thợ săn thú rừng,
gọi là "Thuộc Tỉnh Biệt Nạp Lạp Hộ" được hưởng quy chế của một làng,
nhưng không có đất đai. Cầm đầu là Hộ trưởng tên Nguyễn Văn Luật, người ở kinh
Vĩnh Tế, 55 tuổi. Hộ trưởng phải chịu trách nhiệm về thuế vụ cho 7 người do ông
ta bảo lãnh, thuế đóng bằng ngà voi, 150 mỗi năm. Gia nhập hộ thợ săn, có mọt
người quê ở Cái Thia (Định Tường), 1 người ở vùng Chợ Gạo (Định Tường), đặc
biệt là 1 người quê ở Vĩnh Tế can tội đồng lõa ăn cướp, đang bị phát vãng (lưu
đày) lên Trấn Tây (Cao Miên) để làm đồn điền binh.
Về sự phân chia đất sai, đặc biệt là
vùng Thốt Nốt, nhiều điền chủ khẩn đất rộng tới 26, 28 hoặc 60 mẫu, trong khi
tính trung bình mỗi phần đất của dân khẩn hoang là 2 hoặc 3 mẫu. ở đất tốt mé
sông Cái hoặc cù lao, việc phân khoảnh nhỏ bé hơn, trung bình từ 1 đến 2 mẫu.
Mãi đến năm Minh Mạng thứ 19 (1839) tỉnh An Giang
vẫn còn được triều đình nâng đỡ so với các tỉnh khác. Tỉnh thần dâng bộ sổ, ghi
rõ số dân đinh, vì dân đinh có phần tăng, nên xin tăng thêm ngạch lính giản.
Vua xuống dụ rằng: Hạt ấy lâu nay mong được dìu dắt dạy dỗ, hộ khẩu mỗi năm một
tăng, nay lại nhân được thái bình nên cùng với dân nghỉ ngơi, khiến cho cùng lo
việc cày cấy, đào giếng mà an nghiệp, để dân chúng ngày càng thêm đông đảo,
thịnh vượng, hà tất phải xin thêm ngạch lính giản làm chi. ý vua muốn nói tới
việc xâm lăng của Xiêm mà vùng Châu Đốc hứng chịu hậu quả nặng nề nhất, trong
thời gian vừa qua...
Vài vấn đề nội an: Loạn Lê Văn Khôi. Các vùng người
Miên đông đảo
Tháng 7 năm 1832, Tả quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia
Định thành mất. Vì có thù hằn lâu đời với Tả quân, vua Minh Mạng thừa cơ hội
này đưa toán vệ binh Minh Nghĩa về Quảng Ngãi. Sau khi chôn cất Tả quân xong,
vua Minh Mạng còn ra lịnh đưa cơ An Thuận về Kinh. Tháng 10 năm ấy, Gia Định
thành không còn là đơn vị quan trọng nữa. Vua bãi bỏ chế độ Tổng trấn, tất cả
đổi là tỉnh, trực thuộc vào triều đình Huế. Tháng 11 năm ấy, vua cho nguyên
Tổng đốc tỉnh Sơn Tây là Lê Đại Cương làm Tổng đốc An Hà kiêm lãnh ấn Bảo hộ
Chân Lạp.
Việc thuyên chuyển một viên chức từ Sơn Tây vào Nam
không là điều lạ nếu ta biết rõ chính sách của vua Minh Mạng là triệt hạ uy thế
và nhân tâm mà Tả quân Lê Văn Duyệt đã gây được ở kinh Vĩnh Tế do ngài đốc xuất
đào ra trong hoàn cảnh khó khăn. Tỉnh An Giang chánh thức thành hình với hai phủ
Tuy Biên và Tân Thành, năm 1835 lấy thêm đất Ba Thắc lập thành phủ Ba Xuyên. An
Giang chiếm trọn miền hữu ngạn của Hậu giang, phía Bắc thì gồm luôn vùng Vĩnh
an (Sa Đéc) cắt ra khỏi trấn Vĩnh Thanh lúc trước.
Lê Văn Khôi nổi loạn, thành công nhanh chóng trong
đợt đầu, chiếm lần hồi 6 tỉnh, nhưng giữ không được lâu. Dân chúng tuy mến một
công đức Tả quân Lê Văn Duyệt, nhưng cá nhân Lê Văn Khôi không đủ uy tín. Hơn
nữa ngày qua tháng lại, dân chúng thấy Lê Văn Khôi không tin vào dân trong
nước, lại còn trực tiếp hoặc gián tiếp làm việc cõng rắn cắn gà nhà.
Lê Văn Khôi có chút ít tinh thần tiến bộ, chống lại
chế độ tập quyền hà khắc của vua Minh Mạng? Một tài liệu cho biết là khi được
hỏi về ruộng nương và tình hình an ninh tại các tỉnh, tỉnh thần Vĩnh Long tâu
rằng: "Trước đây bọn giặc (Lê Văn Khôi) chiếm cứ tỉnh thành, các thôn ấp
đều bị chúng đốt phá rồi chúng còn chiếu theo nóc nhà dân, đem tiền trong kho
ra tán cấp đến hơn một ngàn quan, nay dân tình nguyện y số đem nạp lại".
Vua ra lịnh miễn cho. Việc lấy tiền trong kho chia đều cho dân, lúc đang xảy
ra, chắc là được dân hoan nghinh. Và dân đem nộp lại cho quan khi bọn phản loạn
bị dẹp, chưa chắc vì tình nguyện, vì sợ đúng hơn.
Loạn Lê Văn Khôi chỉ là một trong những
mối lo sợ của vua Minh Mạng, vì lúc bấy giờ ở Bắc kỳ loạn lạc nổi lên với cường
độ đáng kể, lý do chánh là nạn đói kém, là quan lại tham nhũng. Nhưng cuộc khởi
loạn Lê Văn Khôi tạo cơ hội cho quân Xiêm đánh ta trong đó có mặt trận Lào,
riêng mặt trận An
Giang là quan trọng
hơn cả.
Từ lâu, vua chúa nhà Nguyễn lo lắng về
các vùng người Miên định cư tập trung, nhiều nhứt là ở địa phận trấn Vĩnh Thanh
ngày xưa:
- Vùng Trà Ôn được yên ổn nhờ có Nguyễn Văn Tồn (một
người Miên hữu công, trong thời gian phục quốc, được mang họ Việt Nam) nắm được
nhân tâm. Nguyễn Văn Tồn chết, con là Nguyễn Văn Vị được trưng dụng và có ra
tận Huế đô bái kiến vua.
-
Vùng Lạc Hóa
(Cầu Kè, Tiểu Cần). Năm 1835 đặt ra xã thôn, tùy theo sốc lớn nhỏ, quan đến tận
nơi khám xét, để định rõ thuế khóa.
- Vùng Ba Thắc (Sóc Trăng, Kế Sách). Vua Gia Long khi
còn ở đất Gia Định thì cho người Miên ở địa phương lập đồn điền mỗi năm nạp lúa
sưu thuế. Năm 1792, Nặc ấn ở Xiêm về, vua đem đất ấy cho lại; năm 1835, các
quan lại người Miên ở địa phương yêu cầu ta giúp đỡ, vua Minh Mạng cho người
Miên hưởng chế độ tự trị rộng rãi với quan phủ coi việc nội an, mãi đến khi
người Pháp đánh nước ta, quan phủ vẫn là người Miên.
- Vùng Ô Môn (phía bắc Cần Thơ) là nơi người Miên tập
trung đáng kể. Về sau, họ phân tán, rút về phía hậu bối, xa bờ Hậu giang (Đại
Nam Nhứt thống chí ghi là "thổ huyện Ô Môn").
-
Vùng chợ Hà
Tiên, rạch Gianh Thành, vùng Thất Sơn là những trung tâm gần biên giới, nơi mà
vấn đề an ninh không được toàn hảo, mặc dầu triều đình đã chú ý từ đời Gia
Long, Hà Tiên đất nhiều phèn, quá xấu, trừ vài lõm nhỏ ở sườn đồi mà người
Trung Hoa đến làm rẫy, người Việt đến đánh cá ven biển. Vị trí chợ Hà Tiên tuy
"tốt" về phong thủy, trên lý thuyết, nhưng quân Xiêm đánh chiếm chớp
nhoáng. Người Miên ở Thất Sơn và ở Hà Tiên thường liên lạc với họ, hễ cơ hội
đến là nổi loạn, vào cuối đời Minh Mạng. Năm 1835, theo lịnh nhà vua, tuần phủ
Trần Chấn lập đồn điền ở núi Đá
Dựng (chữ gọi là Châu Nham) sát biên giới, binh sĩ vừa cày
ruộng, vừa luyện tập.
Chánh sách của vua Minh Mạng đối với người Miên
(luôn cả người Lào, người Mường...) là "nhứt thị đồng nhân" (xem tất
cả cùng là người), nghe qua thì như là dân chủ, nhưng thực chất là muốn bắt
buộc các sắc dân phải theo luân lý, theo cách tổ chức thôn xóm, cúng tế của
Việt Nam và Tàu, lại buộc lấy họ (như họ Sơn, Thạch, Kim, Kiên...)
Biến cố quân sự ở An Giang và ở Cao Miên
Tháng 6, Lê Văn Khôi nổi loạn thì tháng 11 quân
Xiêm đem binh đánh nước ta (1833), bề ngoài như để cứu Lê Văn Khôi nhưng bên
trong là quân Xiêm chọn lựa đúng thời cơ để thủ lợi. Quân sĩ ta lúc bấy giờ bị
tiêu hao và bị cầm chân khá nhiều, một số vào trong thành Phiên An theo Lê Văn
Khôi, một số thì bao quanh chờ cơ hội tái chiếm.
Trong đợt tấn công đầu tiên, quân Xiêm làm chủ tình
thế, tướng Xiêm chỉ huy cuộc hành quân cấp tốc này là tay có tài, tên là Phi
Nhã Chất Tri (sử gia Tây phương gọi là tướng Bodin, Phi Nhã chỉ là chức tước).
Tháng 11 năm 1833, Hà Tiên mất, tháng 12 thành Nam Vang rồi đến đồn Châu Đốc
cũng mất theo.
Nhưng vua Minh Mạng bình tĩnh đối phó, bố trí cẩn
thận và giữ bí mật. Quân Xiêm thừa thắng, từ Ba Nam cho chiến thuyền đổ xuống
theo Tiền giang. Đây là con đường chiến lược vô cùng quan trọng, nếu cứ tiến
thêm thì đến Sa Đéc, rạch Gầm, Định Tường, thọc vào trung tâm miền Nam, nơi nhà
cửa đông đúc, nhiều tài nguyên.
Quân ta liền phản công. Tại Tiền giang, nơi Vàm
Thuận (sử ghi là Thuận Cảng, Thuận Phiếm cửa của Vàm Nao phía Tiền giang) ta
chiến thắng. Giặc phải dừng lại rồi tạm rút lui về Ba Nam với dụng ý đánh theo
đường bộ đến
Tây Ninh, nhưng mặt
trận này không mở ra được.
Vài mươi ngày sau, qua tháng giêng năm 1834, thủy
quân Xiêm lại theo đường cũ, đến vùng mà chúng đã thu hôm nọ để quyết chiếm yết
hầu Tiền giang, đến Vàm Thuận không thấy gì xảy ra, chúng thử tiến thêm đến
rạch Củ Hủ (vùng chợ Thủ). Khi ấy, giặc nhân lúc nước xuống, theo bờ sông phóng
hỏa đốt bè, ngăn trở thủy quân ta rồi chúng lại sấn tới đánh, Quản vệ Phạm Hữu
Tâm đốc binh đánh từ giờ Dần đến giờ Tỵ, quân giặc chết nhiều, thây chồng nhau,
giặc liền lui. Đây là trận đánh kéo dài từ ba bốn giờ khuya đến chín mười giờ
trưa, giặc chết nhiều, thây chồng lên nhau. Trận này khiến ta nhớ tới trận rạch
Gầm ở dưới Mỹ Tho vào năm 1784 Nguyễn Huệ đã thắng quân Xiêm. Từ Vàm Thuận đến
chợ Thủ thuộc huyện Đông Xuyên, tỉnh An Giang, bao nhiêu tàn phá diễn ra. Nhưng
quân ta lại thừa thắng thâu phục đồn Châu Đốc, thâu phục thành Hà Tiên rồi
chiếm thành Nam Vang từ tay quân Xiêm.
Giặc Xiêm đồng thời cũng đánh ta theo
mặt Quảng Trị và Nghệ An trên đất Lào, nhưng bị chặn lại.
Ta rượt theo đến vùng Biển Hồ (Tonlé Sap) tận căn
cứ địa của quân Xiêm. Cũng năm 1834 này, vào tháng tư, Trương Minh Giảng (bấy
giờ là Tổng đốc An Giang, Hà Tiên) từ Nam Vang trở về ra lịnh tu bổ đồn Châu
Đốc, rồi nghĩ đến việc dời tỉnh lỵ Hà Tiên qua phía Giang Thành (xa bờ biển, dễ
phòng thủ hơn). Vừa lúc ấy, lại hay tin quân Xiêm cũng do Phi Nhã Chất Tri cầm
đầu đang kéo qua Cao Miên với lực lượng là 5000 quân. Quân ta đến nơi trấn áp,
đóng đồn tại Vũng Xà Năng (Kompong Chnang).
Năm thứ 16 (1835), vua Minh Mạng cho đổi đồn An Man
ở Nam Vang làm thành Trấn Tây, định chế độ cai trị, đứng đầu là một vị tướng
quân, hai vị tham táng, quan lãnh binh, quan đồn điền. Việc này chỉ gây thêm
mệt nhọc cho quân dân ta. Từ năm trước, nước Chân Lạp bị đói kém đến đổi có
người phải ăn các thứ tấm cám nên phải xuất ra từ các kho hai tỉnh Định Tường
và
Vĩnh Long chở lên Cao Miên một vạn
vuông gạo để phát chẩn cho dân khỏi xiêu tán.
Chánh sách đồn điền được ban hành ở Trấn Tây, người
đi đồn điền gồm tù phạm của Nam kỳ lục tỉnh. Ai trốn về thì bị tập nã gắt gao.
Theo lời Trương Minh Giảng năm 1839 thì ở Trấn Tây, dân tâu của Việt chiêu tập
thành lập được 25 xã thôn, với 470 dân binh, 340 mẫu điều, theo quy chế thì ba
năm sau mới đóng thuế. ở Trấn Tây, người Tàu cư ngụ khá đông, số người có sản
nghiệp là 220, xin thành lập 5 bang.
Năm 1837, Trương Minh Giảng mở rộng
thêm ảnh hưởng, lấn sát vùng mà người Xiêm chiếm đóng ở Biển Hồ. Biển Hồ (Tonlé
Sap) được gọi là Hồ Hải (vì hình dáng có eo giống như cái bầu đựng rượu). Đây
là khu vực nhiều huê lợi. Trương Minh Giảng xin lập ba phủ Hải Đông, Hải Tây và
Sơn Định ở phía đông, phía tây Biển Hồ và ở núi Đậu Khấu (dãy Cardamomes), đồng
thời lập đồn điền, tập lính, trử lương, cho người Việt và người Miên đến khẩn
hoang, tìm cách dạy tiếng Việt, dạy chữ cho người địa phương để việc cai trị
được dễ dàng.
Một ngàn người Xiêm trốn khỏi vùng quân Xiêm kiểm
soát để theo ta năm 1837; năm 1839 dân Miên ở vùng Battambang do Xiêm kiểm soát
cũng trốn về, tạo thêm nhiều gánh nặng cho quan quân đến bảo hộ, như cấp phát
gạo muốn cho họ. Nhưng một số người Miên thích nếp sống lưu động. Vua Minh Mạng
bắt buộc họ phải có gia cư để dễ lập số bộ. Lính Miên thì chia nhau cày ruộng,
phân nửa ở tại ngũ, phân nửa về quê, mỗi năm chỉ tập trung đầy đủ vào tháng
mười, mùa nắng. Lúa gạo sản xuất ở Cao Miên lúc bấy giờ không đủ cung cấp cho
việc binh, vua Minh Mạng hiểu thị cho dân sáu tỉnh Nam kỳ: Ai nạp lúa xay gạo
để làm quân nhu lên thành Trấn Tây thì được thưởng phẩm hàm, miễn thuế thân,
miễn đi lính và làm xâu, ai cấp 2500 hộc lúa thì được thưởng chánh cửu phẩm.
Cuối đời Minh Mạng (1840) xảy ra cuộc tranh tài
giữa Phi Nhã Chất Tri và Trương Minh Giảng. Nếu từ lâu Trương Minh Giảng thắng
thì phen này lần hồi lâm vào thế yếu. Nhân tâm ở Cao Miên lúc bấy giờ rất bất
lợi, loạn lạc nổi lên đối phó không kịp, phần lớn do các quan của ta cai trị
không công bình lại thêm tham nhũng.
Việc đóng quân ở Cao Miên có thể tạm tổng kết như
sau:
- Về chánh sách, vua chúa phong kiến Việt Nam cũng
như Xiêm là cứ luôn luôn mở mang bờ cõi. Đất Cao Miên là nơi tranh chấp. Đánh
qua Cao Miên, đưa các quan cai trị là phiêu lưu, nhưng thử hỏi nếu không làm
việc ấy để cho Xiêm chiếm đóng ở Cao Miên sát Châu Đốc, Hà Tiên, sát Tây Ninh,
liệu lãnh thổ ta có được yên ổn, vẹn toàn? Đây là cuộc tấn công để phòng ngự.
- Về quân sự, khi nào quân Xiêm tiến vào lãnh thổ của
ta thì họ thua. Hễ nắm vững đường thủy chiến lược từ Nam Vang đến Tân Châu là
ta thắng. Cứ điểm quan trọng nhứt là Ba Nam (Ba Cầu Nam) trên sông Tiền giang.
Ngược lại, khi nào quân ta phiêu lưu đến vùng Biển Hồ, sát căn cứ của quân Xiêm
La là ta bị khó khăn, nếu không nói là thua. Nguyễn Công Trứ từng dẹp giặc Nồng
Văn Vân ở Bắc kỳ đã dâng sớ và so sánh: So với sự thế đảng giặc Nồng Văn Vân
thời việc dẹp yên giặc Thổ (Cao Miên) này hơi khó mà chậm... Nay, giặc Thổ dậy
khắp nơi, trong chỗ hoang mảng, trông bốn mặt đều là tre gai rậm rạp, nước sâu
bùn lầy, không phải như cây lớn, núi cao có thể đốn phá tìm đường đi băng
được... Huống chi đường đem lương từ Trấn Tây (Nam Vang) đến chỗ quân thứ, một
lần đi tám ngày đường mà chỉ đủ ăn một tháng... Chúng tôi trộm nghĩ trước phải
đánh được giặc Xiêm rồi sau đó giặc Thổ mới dẹp yên được.
Tình hình năm 1840 thật bi đát. Cũng theo lời tâu
trên của Nguyễn Công Trứ, thời bấy giờ từ An Giang đến Trấn Tây, từ An Giang
đến Hà Tiên, quân giặc đóng đồn cả.
- Về chính trị, có sự kỳ thị rõ rệt, nhưng nặng
nhứt là vì lý do văn hóa. Người Cao Miên chịu ảnh hưởng văn hóa ấn độ với những
tập tục địa phương, thích sống rày đây mai đó. Vì còn tàn tích mẫu hệ, việc
cưới gã của người Miên hơi khó hiểu, không giống người Việt theo phụ hệ, vì vậy
bị hiểu là loạn luân. Cách mặc, cách ăn (ăn bốc, mặc sà rong) của người Miên
không hợp với cảm quan của nho sĩ Việt, cùng là tục lệ hỏa thiêu. Ngay đến đạo
Phật, người Miên theo hình thức Tiểu Thừa, nghĩa là khác với cách tụng niệm, cách
ăn uống của chùa theo Đại Thừa. Và quyền hạn của giai cấp tăng lữ ở Cao Miên
cũng khá rộng. Quan lại Cao Miên, dưới thời đô hộ của vua Minh Mạng phải mặc
áo, đội mão như quan lại Việt Nam. Từ việc tuyển chọn quan lại, cách thu thuế,
nói chung công việc hành chánh ở Cao Miên ngày xưa rất khác với Việt Nam. Doãn
Uẩn viết trong Trấn Tây Kỷ Lược: Họ cũng chưa biết đạo dựng nước, ta chỉ còn
mong ở sau này ngày càng củng cố mở rộng thêm chánh thể duy tân dần, chắc sẽ
không còn phác lậu như trước nữa vậy.
Trong khi ấy, giới bình dân Việt Nam và người Miên
sống chung đụng nhau dễ dàng. Lúc canh tác, bắt cá, chế biến thức ăn, ta cũng
bắt chước vài kỹ thuật của người Miên; việc người Việt cưới vợ Miên không phải
là không có.
Lập địa bộ năm Minh Mạng thứ 17 (1836)
Đây là lần đầu tiên mà ở đất Gia Định lập địa bộ
với quy mô lớn, lưu lại bằng chứng cụ thể. Mỗi thôn vẽ bản đồ các sở đất, loại
đất, diện tích, ranh giới bốn phía, ghi tên chủ điền. Lịnh vua ban ra vào tháng
2, phái đoàn này do Trương Đăng Quế cầm đầu, với Nguyễn Kim Bảng, cả hai đều
sung chức Kinh lược đại sứ (nhưng Nguyễn Kim Bảng mang bịnh, Trấn tây đại tướng
là Trương Minh Giảng thay thế). Trương Đăng Quế là Binh bộ Thượng thư, Nguyễn
Kim Bảng là Lại bộ Thượng thư. Hai vị Phó sứ là Tôn Thất Bạch và Nguyễn Khắc
Trí. Tháng 7 năm ấy, phái đoàn trở về, công tác hoàn thành. Vua ban thưởng và
xuống dụ cho nội các: Trương Đăng Quế là người công bằng vô tư nên việc làm đến
chỗ thành tựu, đúng như mệnh lệnh của trẫm, tuy không thể sánh với việc đi dẹp
biên cương, mở rộng bờ cõi được phân minh, so với việc mở đất đai cho rộng biên
giới có khác gì?
Sử chép tiếp: Sau đó 6 tỉnh Nam kỳ
không phải tăng thuế ruộng mà tiền tài vẫn bội thu. Thuế điền thổ Nam kỳ được
định lại, sau khi đạc điền. Kết quả là tăng thuế cho công quỹ, nhưng người khẩn
đất chịu thiệt thòi nhiều là không được giữ ruộng đất ẩn lậu như trước.
Năm 1836 rồi 1839, vua Minh Mạng quy định về thể lệ
thưởng phạt dành cho các viên chức địa phương, đất khẩn thêm thì thưởng, bỏ
hoang thì phạt. Hậu quả đi tới đâu? Việc đạc điền có lẽ đã làm cho dân khẩn
hoang mất hào hứng phần nào, vì thuế vụ. Năm 1837, liền sau khi đạc điền và ban
hành lệ khen thưởng, theo báo cáo của "các tỉnh Hà Tiên, Vĩnh Long, Định
Tường thì con số khẩn thêm không được bao nhiêu, riêng tỉnh Biên Hòa lại càng
thấy vắng vẻ. Đến như Gia Định An Giang tới nay vẫn còn chưa tâu báo... Làm
việc không đứng đắn như vậy thiệt nên trị tội xứng đáng... Hãy dặn Tổng đốc,
Tuần phủ, Bố chánh, án sát mấy nơi ấy nhắc nhở các phủ huyện sở tại hãy hết
lòng khuyến khích, làm cho nông dân vui vẻ quay về việc nông, đem những ruộng
đất hoang phế trong hạt mà khai khẩn cho hết".
Vua Minh Mạng mất, để lại gánh nặng ở phía biên
giới Việt Miên. Loạn lạc đã phát khởi ngay từ khi cuộc chinh phạt của tướng
Trương Minh Giảng đang diễn ra tại phía Biển Hồ, tuy rằng về hình thức là dẹp
xong nhưng mầm mống còn đó. Người Miên cư ngụ trên lãnh thổ Việt Nam dường như
sẵn sàng hưởng ứng, chống đối quan lại địa phương khi ở Cao Miên phong trào lên
cao. Quân Xiêm lại khéo phao tin tuyên truyền. Người Cao Miên lúc bấy giờ ở Nam
kỳ lại bực dọc với chính sách "nhứt thị đồng nhơn" của vua Minh Mạng,
bắt buộc họ phải lấy tên, lấy họ như người Việt để đồng hóa. Lại còn chủ trương
cải cách tổ chức nông thôn cổ truyền của sốc Miên khiến họ mất quyền tự trị.
Vùng biên giới Hà Tiên, An Giang bắt đầu xáo trộn khi vào năm 1838, tên Gi —
làm chức An phủ cho ta — cấu kết với người Xiêm. Năm sau, viên quản cơ người
Miên ở An Giang là Hàn Biện cùng đồng bọn làm phản rồi bỏ đi, một số đông lính
Miên cũng chạy theo chúng như rồi một số quay trở lại. Vua truyền lịnh tha tội
những người biết hối cải. Năm 1840, tình hình thêm bi đát: người Miên ở Tịnh
Biên (An Giang) nổi loạn khiến quan tri phủ bỏ trốn, loạn quân kéo về phía biên
giới Hà Tiên đánh đồn Châu Nham (Đá Dựng), quan binh nhiều kẻ bị hại. Tháng 10
năm ấy, giặc từ Thất Sơn gồm hơn 2000 người kéo qua tận Kiên Giang, phá chợ
Rạch Giá, đắp đồn ở hai bên bờ rạch này; vùng Xà Tón (Tri Tôn) cũng bị khuấy
động. Năm Thiệu Trị nguyên niên, tất cả các vùng người Miên sống đông đúc đều
nổi loạn, quan quân vô cùng vất vả. Ba khu vực quan trọng nhứt là:
-
Vùng Trà vinh
(nay là Vĩnh Bình) bao gồm các khu vực rộng lớn từ Tiền giang qua Hậu giang
(Trà Vinh, Cầu Kè, Tiểu Cần, Cầu Chong), sử gọi là vùng Lạc Hóa. Cuộc khởi loạn
dai dẳng và có quy mô kéo dài từ tháng 3 đến tháng 10 năm 1841, người cầm đầu
là Lâm Sâm (còn đọc Lâm Sum, người địa phương gọi là Xà Na Xom hoặc Xà Xom, tức
là viên tướng tên Xom). Thủ đoạn xách động là dùng bùa ngãi, do các tên thày
bùa đưa ra rồi loan tin thất thiệt: Ai không theo chúng sẽ bị Trời Phật hại, ai
theo thì được cứu thoát, võ khí là đao mác, chà gạc, phãng kéo cổ thẳng (trở
thành cây mã tấu). Thoạt tiên loạn quân chiếm Trà Vinh (đồn Nguyệt Lãng của
ta). Giặc lại lôi cuốn được mấy sốc Miên ở rạch Cần Chong (nay là Tiểu Cần)
xuống đến Bắc Trang ra đến mé sông Hậu giang, vùng Trà Điêu. Có lúc giặc thắng
thế, chiếm giữ một vùng dài hơn 30 cây số, gồm toàn sốc Miên. Trận gay go nhất
xảy ra ở vùng Trà Tử (nay gọi là Hiếu Tử), bố chánh Trần Tuyênvà tri huyện
Huỳnh Hữu Quang đều tử trận. Số loạn quân lên đến bảy tám ngàn, ngoài Lâm Sum
còn tên tổng Cộng (chắc là cai tổng tên Cộng) và một tên tự xưng là phó mã Đội.
Tham dự cuộc tảo thanh ở vùng Lạc Hóa, gồm có tổng đốc Bùi Công Huyên, tham
tánh thành Trấn Tây là Nguyễn Tấn Lâm và Nguyễn Công Trứ cũng rút về nước tiếp
tay, ngoài ra còn có tướng Nguyễn Tri Phương. Nguyễn Tri Phương dời binh tiến
đánh, tuy phá tan được luôn, nhưng chỗ này tan rã thì chỗ kia quy tụ, cứ đánh
phía đông, giữ phía tây, không thể nào diệt hết được. Khi Trương Minh Giảng rút
lui về An Giang, ta được thêm 3000 quân sĩ đến tiếp ứng ở mặt trận Lạc Hóa.
Trong đám loạn quân đầu thú, có cả người Việt và người Tàu. Phải chăng là những
người Việt trước kia theo Lê Văn Khôi, nay trốn lánh?
-
Vùng Sóc
Trăng, trung tâm cuộc khởi loạn là Ba Xuyên, Trà Tâm, từ tháng ba cũng năm tân
sửu. Thoạt tiên giặc bị phân tán rồi tập trung tại Sóc Đâm đóng đồn mà chống
cự. Tháng 11, quân của Nguyễn Tấn Lâm và Nguyễn Tri Phương đánh hai mặt giáp
lại. Giặc tan, vua Thiệu Trị cho Nguyễn Tấn Lâm ở lại Ba Xuyên dẹp đám tàn quân
và lập an ninh. Theo truyền thuyết, lãnh tụ loạn quân ở đây là Xa Ne Tia.
- Vùng Thất Sơn, Vĩnh Tế. Nếu Trà Vinh và Sóc Trăng
nối liền nhau (bên này và bên kia sông Hậu Giang), dân đông, kinh tế phì nhiêu,
người Miên sống tập trung thì vùng Thất Sơn lại là nơi mà người Miên dễ tấn
thối và khuấy động, với hàng chục ngọn đồi lớn nhỏ, nhiều thung lũng, dân cư
thuần nhứt lại ở sát biên giới Cao Miên. Năm nguyên niên, giặc tụ tập tại Lẹt
Đẹt, quân ta dẹp tan rồi đánh luôn tới Cần Sư. Phía Tịnh Biên cũng có loạn vài ngàn
tên, nhưng dẹp được. Nguyễn Tri Phương đến núi Tượng để đánh loạn quân. ở hai
huyện Hà Dương và Hà Nm, tình hình khuấy động. Hà Dương gồm vùng núi Cấm, núi
Tượng; Hà Nm gồm các làng dọc theo biên giới bên kinh Vĩnh Tế. Sở dĩ loạn quân
dám kiêu ngạo vì bên kia biên giới, Phi Nhã Chất Tri "đem quân Xiêm đến
dựng đồn lũy ở bờ sông Vĩnh Tế rồi qua lại gây sự với những đồn bảo của quân
ta. Quan binh bèn chia đường đi tiễu trừ, giết và làm bị thương rất đông, chiếm
lấy được bảy đồn, hai bên bờ sông Vĩnh Tế một loạt được dẹp yên. Bọn giặc ở
trong các đồn ở núi Cấm, núi Tượng nghe tin bèn chạy trốn. Quân Xiêm gặp sự
thất bại tan rã ấy muốn tăng thêm binh và chiến thuyền để trở lại một lần nữa
giúp dân Miên gây sự, vừa lúc ấy nước họ có việc nên ngưng.
Nhưng tình hình ở Cao Miên, Thất Sơn và
kinh Vĩnh Tế chỉ là tạm thời lắng đọng. Năm sau, cuộc xâm lăng đại quy mô lại
diễn ra. Nếu lần trước chiến sự xảy ra tại Tiền giang, từ Vàm Thuận đến Chợ Thủ
thì lần này mặt trận chánh lại diễn ra ở vùng Thất Sơn và kinh Vĩnh Tế.
Ngăn chận giặc Xiêm năm 1842
Trong khi nội loạn xảy ra ở Lạc Hóa (Trà Vinh) thì
tình hình trên Cao Miên rất tồi tệ, vua Thiệu Trị đồng ý với các đại thần là
nên rút quân về An Giang, thật khéo và lặng lẽ. Voi đem về không tiện thì làm
thịt cho quân sĩ ăn, những người Việt trước kia gồm đa số là tù phạm lên Cao
Miên làm ăn thì lựa chỗ mà cho ở lại. Tháng 9 năm 1841, quân sĩ ta rút về An
Giang. Khi về đến nơi, tướng Trương Minh Giảng mất vì bịnh, nhưng lý do chánh
là vì
buồn giận triều đình. Quân Xiêm không
bỏ lỡ cơ hội, mở ngay cuộc xâm lăng vào lãnh thổ Việt Nam. Lần này sự bố trí
của Xiêm khá chu đáo, chiến thuật thay đổi hẳn. Lại còn một yếu tố đáng chú ý:
yếu tố chính trị. Đó là những người Việt đa số là tù phạm bị đày làm đồn điền.
Khi mới lên ngôi, vua Thiệu Trị đã nghĩ tới số phận của họ. "Nhưng trong
xứ Trấn Tây, giặc Thổ chưa yên mà những tên tù phạm khi trước can án phát quân
hiện đương sai phái ở đó, phải đợi khi yên giặc rồi sẽ nghỉ". Bấy giờ ở
Nam Vang có người con trai tự xưng là con của hoàng tử Cảnh, lấy hiệu là Hoàng
Tôn (có nghĩa là cháu nội vua Gia Long) đang tụ tập một số đông gồm Xiêm, Lào,
Hán (Việt Nam), Thổ, những đứa trốn tội cũng theo nhiều lắm. Phải chăng trong
số tù nhân bị phát quân lên Cao Miên, đời Minh Mạng, gồm nhiều người can tội
dính líu xa gần tới cuộc khởi loạn của Lê Văn Khôi, ở Sài Gòn và các tỉnh?
Đưa kẻ tự xưng là Hoàng Tôn về nước chỉ là một
trong những lý do của quân Xiêm; hành động chính trị này không gây được xúc
động tâm lý đáng kể. Dù sao đi nữa, ta cũng thấy Phi Nhã Chất Tri là kẻ tinh tế
và đa mưu.
Tháng giêng năm 1842, chiến thuyền Xiêm đến vùng
đảo Phú Quốc, tấn công để dò xét. Nguyễn Công Trứ, người đã từng dẹp giặc Tàu Ô
ở vịnh Hạ Long thử trổ tài, nhưng bị "sóng gió ngăn trở".
Bọn Hoàng Tôn đưa 5000 người đến Sách Sô, thành
phần toàn người Xiêm và Lào (người Xiêm có thói bắt dân vùng bị chiếm làm nô
lệ, làm lính). Sách Sô là vị trí quan trọng ở giữa Tiền giang và Hậu giang.
Tướng Nguyễn Tri Phương nhận định rằng Tiền giang là con sông quan trọng ăn
thông giữa trung tâm An Giang, Vĩnh Long và Định Tường, xin đem binh thuyền bố
trí sẵn.
Việc xảy ra nhằm lúc vua Thiệu Trị đang
ra Hà Nội để nhận lễ thụ phong của sứ Tàu.
Tháng 2 quân Xiêm lại tăng cường hải
quân, đến gần Cần Vọt (Quảng
Biên, Kampot), ta bố trí giữa tại cửa
Hà Tiên (Kim Dữ). Rồi binh thuyền của Xiêm kéo tới Bạch Mã (Kép) đông đảo hơn
với ý định chiếm Lư Khê (Rạch Vược, phía nam Hà Tiên, bờ biển) và chiếm Tô Môn
(cửa Đông Hồ, bên cạnh núi Tô Châu) để bao vây Hà Tiên. Xiêm kéo mấy vạn binh
tràn vùng kinh Vĩnh Tế, ta chống đỡ không kịp. Cánh quân chánh của Xiêm đánh từ
bờ biển vịnh Xiêm La qua theo đường Hà Tiên, chớ không từ Nam Vang mà thọc
xuống theo sông Tiền giang như mấy lần trước. Trước nguy cơ ấy, vua Thiệu Trị
cho quân lực từ Huế kéo vào tăng cường, cùng với lính thú từ Quảng Nam, Quảng
Ngãi. Đợt tấn công đầu tiên của quân Xiêm bị chận lại, ở khắp các mặt trận Vĩnh
Tế, Tiền giang và Hậu giang. Nhưng quân Xiêm chưa rút lui, cho củng cố thành
lũy, chiếm trọn vùng núi Cô Tô (Tô Sơn, thuộc dãy Thất Sơn). Tháng năm năm ấy,
ta kéo vào chiếm lại khu Cô Tô mà quân Xiêm vừa xây dựng trên lãnh thổ của ta.
Đây là nơi người Miên sống tập trung từ lâu đời. Binh ta gồm năm đạo, mỗi đạo
1000 quân, đem súng lớn đặt tại Tri Tôn (Xà Tón) mà bắn phá lũy giặc. Nguyễn
Tri Phương đem đại binh đến núi Cô Tô, giặc tan, một số đông ra đầu thú gồm
người Tàu và người Miên có đến số ngàn. Vua Thiệu Trị sai Nguyễn Công Trứ điều
động việc lập ấp, khuyến khích khẩn ruộng. Nhưng ta tin rằng việc làm này không
đi tới đâu cả, đất ở chân núi từ lâu đã được người Miên canh tác, họa chăng các
quan của ta chỉ lo chỉnh đốn an ninh trong các sốc Miên.
Rồi ta kéo quân lên phía Nam Vang, truy nã. Tháng 7
năm 1845, giặc Miên lại đến bờ kinh Vĩnh Tế tại làng Vĩnh Điền, phá rồi Trường
Lũy (Trường Lũy là bức trường thành mà ta dựng lên, trồng tre gai, xa xa có đồn
nhỏ dọc theo kinh Vĩnh Tế, khi Pháp đến còn di tích này). Nhưng giặc bị đánh
lui.
Năm 1845, ta thắng vài trận đáng kể. Đến lượt
Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn thi tài với Phi Nhã Chất Tri. Ta tiến đến Vũng
Long (Kompong Luông). Cao Miên nhìn nhận sự bảo hộ song phương của Xiêm và Việt
Nam.
Thành lập các đồn điền chiến lược
Hậu quả những năm loạn lạc ở vùng An
Giang, Trà Vinh, Ba Xuyên, Hà Tiên như thế nào? Chắc là trầm trọng lắm. Hễ loạn
lạc là đốt nhà cướp của, bộ sổ mất mát, quan lại tham nhũng, cường hào thổ mục
tha hồ húng hiếp dân. ở những vùng người Miên sống tập trung, việc bình định
chỉ có nghĩa là gìn giữ được an ninh. Mầm mống bất mãn vẫn còn. Vua Thiệu Trị
mất năm 1847, ngài gánh tất cả những hậu quả của vua Minh Mạng để lại. Tình thế
không suy sụp là nhờ tướng tài, giàu kinh nghiệm chiến trường và quân sĩ hết
lòng. Doãn Uẩn dựng chùa Tây An ở núi Sam năm 1847 là việc có nhiều ý nghĩa đối
với nhân tâm thời bấy giờ và nhứt là đối với cá nhân một nho sĩ hăng hái nhưng
thấm mệt.
Công tác khẩn hoang ngưng trệ, nếu không nói là bị
đổ vỡ phần nào ở Hậu giang. năm Thiệu Trị thứ ba (1843), đào thêm con kinh nối
liền Tiền giang (từ Tân Châu) đến thủ Châu Giang phía Hậu giang. Kinh này ngắn
nhằm mục đích quân sự để chiến thuyền đi nhanh từ Tân Châu đến vịnh Xiêm La khi
hữu sự, qua kinh Vĩnh Tế. Dân phu từ hai tỉnh Vĩnh Long và An Giang tập trung
lại. Đợt đầu đào dở dang rồi ngưng, số dịch lại coi việc đào kinh đã bức hiếp
khiến dân phu bất mãn, trốn né rất nhiều. Sau mùa gặt, dân phu lại được huy
động lần thứ nhì. Một tài liệu của phủ Hoằng Đạo tỉnh Vĩnh Long (Bến Tre, cù
lao Bảo) cho biết dân phu phủ này đi đào kinh Vĩnh An gồm 8 đội, mỗi đội 50
người, có viên phó tổng hoặc lý dịch coi sóc. Mỗi đội mang theo 10 cây cuốc, 10
cây mai, phãng, rìu, cây mù u, gàu nước, gióng, gánh, ky, mỗi thứ 30 cái, lại
còn dây tre dài hơn 1 trượng. Viên chức ở tỉnh tới địa điểm đào kinh từ trước
để cất trại cho dân phu ở. Cứ 15 ngày thay đổi một lần cho dân nghỉ ngơi. Kinh
đào xong vào tháng 4 năm 1844, đặt tên là Long An Hà.
Nội loạn vừa dẹp xong, tổng đốc An Hà là Nguyễn Tri
Phương và Tuần phủ An Giang là Doãn Uẩn điều trần ba biệc (1844):
- Xin lượng bớt
các điều lệ thanh tra.
- Xin tước trừ ngạch hư trong bộ sổ dân.
- Xin tha các hạng thuế thiếu lâu nay.
Mấy điều trên chứng tỏ dân An Giang, đặc biệt là
vùng kinh Vĩnh Tế xiêu tán quá nhiều, lắm người đến nơi khác làm ăn, kẻ ở lại
bám đất thì đành chịu trực tiếp ảnh hưởng chiến tranh. Các sở đồn điền ở Biên
Hòa, Định Tường được khả quan hơn, giao lại cho dân địa phương cày mà nạp thuế
làm ruộng công (trở thành công điền cho dân mướn), lính khai thác đồn điền thì
triệt về tỉnh, lo việc khác. ở Tây Ninh, giáp biên giới Miên, cũng xúc tiến lập
đồn điền từ năm 1843.
Vua Tự Đức lên ngôi, gánh bao nhiêu hậu quả. Trương
Quốc Dụng dâng sớ tâu: "Tài lực trong dân, soi với năm trước mười phần kém
đến năm sáu mà các quan địa phương thường hay trau dồi tiếng tốt, hỏi số dân
thì tâu rằng tăng, hỏi mùa màng thời tâu rằng được, chỉ muốn cho mình được
tiếng khen". Vua Tự Đức răn các quan đã dụng tâm làm nặng nhẹ, bắt lính
đòi thuế, lo hối lộ quan trên, góp tiền kẻ dưới. Đời Minh Mạng, Thiệu Trị đã
xảy ra nội loạn rồi. Vua Tự Đức cố đề phòng nhưng khó cứu vãn, nhứt là đối với
miền Bắc và miền Trung nơi đói kém thường xảy ra. Lại còn nạn ngoại xâm của
thực dân Pháp mà ngài không tiên đoán nổi mức trầm trọng.
Tháng giêng năm 1850, cho Nguyễn Tri Phương là
Thượng thơ bộ Công làm Kinh lược đại sứ Nam kỳ. Nguyễn Tri Phương giữ chức vụ này
đến cuối năm 1858 để rồi trở về Kinh, lo đối phó với thực dân Pháp.
Nguyễn Tri Phương am hiểu tình hình các
tỉnh Tiền giang, Hậu giang, luôn cả Cao Miên từ hồi Thiệu Trị. Ông đã đặt chân
đến những nơi hẻo lánh và nguy hiểm nhứt như Thất Sơn, Vĩnh Tế, Trà Vinh, Ba
Xuyên. Tóm lại, những vùng mà người Miên sống tập trung.
Năm 1853, vua Tự Đức cho phép lập đồn điền, lập ấp
ở xứ Nam kỳ theo lời tâu của đình thần. Tại sao có việc lập đồn điền này? Từ
trước đã có chánh sách đồn điền rồi. Nhưng lần này đưa ra cấp bách nhằm đối phó
kịp thời với tình hình điêu tán ở vùng biên giới và Hậu giang. Nguyễn Tri
Phương nói thẳng mục đích: "Đất Nam kỳ liền với giặc Miên, dân xiêu tán
nhiều. Nay mượn điều chiêu mộ để dụ dân về đốc việc khai khẩn để nuôi dân ăn,
thật là một cách quan yếu để giữ giặc và yên dân đó".
Lập đồn điền và lập ấp là hình thức tổ
chức nhằm phục vụ chiến lược lớn: giữ giặc và yên dân. Nội dung tóm tắt như
sau:
- Thành phần: dân ở khắp Lục tỉnh Nam kỳ cùng các
tỉnh từ Bình Thuận trở ra phía Bắc, theo nguyên tắc tình nguyện.
-
Địa điểm thành
lập: ở hai tỉnh An Giang và Hà Tiên còn dư thì cho qua vùng kinh Vĩnh Tế, Tịnh
Biên, hoặc Ba Xuyên.
- Hình thức tổ chức: có hai hình thức, lập đồn điền
và lập ấp.
Mộ dân lập đồn điền
Dân sống tập trung làm lính đồn điền, đây là hình
thức bán quân sự.
Ai mộ được 50 người thì tổ chức thành một đội,
người mộ được làm suất đội. Về sau, khi cày cấy có kết quả, đội này cải ra
thành một ấp, viên suất đội mặc nhiên trở thành ấp trưởng, theo quy chế dân sự.
Ai mộ được 500 người thời tổ chức thành một cơ (gồm
10 đội), người mộ được bổ nhiệm làm chánh đội thí sai phó quản cơ, khi đất trở
nên thành thuộc, cơ này trở thành một tổng, người đứng mộ trở thành cai tổng,
theo quy chế dân sự.
Mộ dân lập ấp
Dân trong ấp sống theo quy chế dân sự,
không bị câu thúc nhiều. Con số tối thiểu để lập một ấp là 10 người, đủ số ấy
mới được chọn đất mà khai khẩn, lập bộ. Nên hiểu đây là 10 người dân cam kết
chịu thuế, lần hồi ấp này quy tụ thêm một số lưu dân, bọn này không cần vô bộ,
cứ sống theo quy chế dân lậu. Khi ruộng đất thành thuộc, dân đông hơn thì nâng
lên thành một làng.
Người Tàu cũng có thể đầu mộ, lập ấp.
Có lệ khen thưởng những người mộ dân lập ấp: được
30 người thì tha xâu thuế trọn đời, 50 người thời thưởng chánh cửu phẩm, 100
người thời thưởng chánh bát phẩm. Nên nhớ là muốn mộ dân thì phải có vốn lớn để
nuôi dân, cho vay làm mùa trong mấy năm đầu (vay tiền và vay lúa ăn). Các ông
bá hộ, tức là chủ nợ (đồng thời cũng là ân nhân) khi chết thì trở thành tiền
hiền, thờ trong đình làng. Đây là nội dung lời tâu đặc biệt của Nguyễn Tri
Phương:
- Người Cao Miên ở các sốc thuộc Ba Xuyên và Tịnh
Biên mới quy tụ về theo ta (sau các biến loạn đời Thiệu Trị) đáng lý thì phải
đem phân tán khắp nơi, nhưng ta lại cho họ trở về quê quán, nếu tiếp tục sống
như thế họ sẽ có cơ hội để làm loạn như trước. Bởi vậy dân khắp Nam kỳ lục tỉnh
nếu muốn ứng mộ qua Tịnh Biên, Ba Xuyên để lập ấp thì cứ cho, nhưng họ phải
sống trong các tổng đã thành lập rồi (nhưng nay thì đã xiêu tán, dân không còn
đủ số).
-
Tù phạm ở Lục
tỉnh, ai mộ được một đội hoặc một thôn (50 người) thời cho làng chúng nó bảo
kiết, sẽ tha tội rồi đưa đến vùng kinh Vĩnh Tế (thuộc tỉnh An Giang) hoặc vùng
rạch Giang Thành (tỉnh Hà Tiên) để cày ruộng, tùy theo công việc kết quả tới
đâu, hạnh kiểm ra sao sẽ liệu định mà giải quyết.
Qua lời tâu của Nguyễn Tri Phương, ta thấy có dụng
ý cho tù phạm đoái công chuộc tội vì vùng Vĩnh Tế và Giang Thành là nơi khó
khai khẩn, lại ở sát biên giới, nguy hiểm hơn các vùng khác.
Năm sau, 1854, sáng kiến của Nguyễn Tri Phương gặp
nhiều sự khen chê của các quan, thấu tai vua. Nguyễn Tri Phương tâu về việc ích
lợi của chánh sách nói trên và nhìn nhận rằng: "Tôi xét việc đồn điền vẫn
lợi nước lợi dân mà không lợi cho Tổng, Lý. Vậy nên Tổng, Lý đặt điều để phỉnh
dân, những người nói bất tiện đó chẳng qua bị chúng phỉnh mà thôi".
Tổng, Lý tức là cai tổng và lý trưởng,
họ chống đối vì chính sách này khiến cho dân trong làng trong tổng có thể qua
vùng đất khác mà làm ăn. Làng tổng của họ trở nên thưa thớt, thiếu người đóng
thuế và làm xâu. Hoặc những phần đất hoang trong làng trong tổng sẽ bị cắt ra
để trở thành một làng, một ấp khác, địa bàn hoạt động và số dân mà họ cai trị
bấy lâu nay bị thâu hẹp lại.
Nhân dịp ấy Nguyễn Tri Phương báo cáo kết quả đầu
tiên sau một năm: lập được 21 cơ đồn điền và phỏng chừng 100 làng. Đồng thời
Nguyễn Tri Phương cũng xin khen thưởng những địa phương mà việc khẩn hoang thâu
kết quả tốt.
Một trăm làng (ấp) nói trên quy tụ 10500 người. Năm
1866, nha Dinh điền xứ An Giang, Hà Tiên và vùng có nhiều người Miên ở Vĩnh
Long (Lạc Hóa). Đồng thời với các tỉnh nói trên, những tỉnh còn lại ở Nam kỳ
cũng tổ chức đồn điền để khẩn hoang; đáng chú ý nhất là đồn điền ở Gia Thuận,
huyện Tân Hòa (Gò Công) thuộc tỉnh Gia Định do Trương Định cầm đầu. Lực lượng
bán quân sự của đồn điền trợ giúp đắc lực cho quân sĩ triều đình khi giữ thành
Chí Hòa và còn tham gia các cuộc khởi nghĩa về sau.
Những chi tiết cụ thể
Lập đồn điền là chánh sách tốt, tuy
nhiên người dân chịu khá nhiều hy sinh, cực nhọc? Họ bị cưỡng bách, như trường
hợp đám dân nghèo ở làng Tân Niên Tây (nay thuộc Gò Công). Họ là dân lậu, hương
chức làng tống khứ họ qua Gia thuận để gia nhập đồn điền. Nhưng vài ngày sau,
họ bỏ trốn, qua cư ngụ tại làng Kiểng Phước. Để cho dân số trong đồn điền khỏi
bị hao hụt, viên đội của đồn điền Gia Thuận là Bùi Văn Cẩm báo cáo lên, và quan
huyện cho phép viên đội này truy nã bọn dân vừa trốn, gồm 5 người. Dầu sao đi
nữa, làm dân lậu trong một làng có nếp sinh hoạt thuần thục vẫn khỏe thân hơn
là bị bắt đi nơi khác để làm đồn điền. Trường hợp nói trên xảy ra vào năm Tự
Đức thứ 11 (1858). Người dân có phản ứng vì khi bận rộn cày cấy thì làm sao họ
có thể diễn tập về quân sự như quan trên mong muốn? Vả lại cày cấy ở đất hoang
đòi hỏi nhiều công phu hơn ở vùng đất thành thuộc, tốn công nhiều nhưng huê lợi
không thu được bao nhiêu, trong những năm đầu tiên.
Vì nhu cầu gìn giữ biên giới, tổng đốc
An Hà (An Giang, Hà Tiên) là Cao Hữu Dực đã đưa nhiều kế hoạch thúc ép dân, đến
đỗi các quan ở Nội các phải can thiệp. Năm Tự Đức thứ 7 (1854), một năm sau khi
ban hành quy chế đồn điền, Trương Đăng Quế, Trương Văn Uyển và Võ Đức Nhu bái
yết vua, nhắc lại việc làm và những yêu sách của Cao Hữu Dực, rồi đi đến một
kết luận mà nhà vua đã đồng ý: Phải mộ người và tập luyện lần lần thì việc làm
mới có kết quả. Cứ chờ ba năm rồi hãy hay. Nhà vua hiểu rằng các quan địa
phương thấu rõ hoàn cảnh và có xin nhiều việc vấn đề đồn điền. Tóm lại, phải
cho dân sống dễ dàng, góp công từ từ. Không cần con số quá đông. Cao Hữu Dực
xin việc chế quân phục (dân đồn điền khi thao diễn có sắc phục riêng) và việc
thao diễn thường xuyên. Hai việc ấy không cần kíp lắm. Nên làm sổ sách để ghi
số lưu dân, dân lậu, từ từ gom thành đội để khai khẩn cho hợp với hoàn cảnh.
Sau 3 năm chuẩn bị thì hai điều trên (sắc phục và thao diễn) mới làm được.
Cũng năm 1854, ta có một tài liệu về việc lập đồn
điền. Đây là một đội (50 người dân lậu) xin khẩn 2 khoảnh đất tổng cộng là 200
mẫu của làng Thường Thạnh (nay là Cái Răng, Cần Thơ). Đội trưởng Nguyễn Văn Tấn
đứng đơn, có thôn trưởng, hương thôn và dịch mục ký tên. Thôn trưởng làng giáp
ranh (làng Như Lăng) ký vào để xác nhận vấn đề ranh giới, viên cai tổng cũng ký
vào. Đơn này được quan Tổng đốc An Hà phê.
Đồn điền nói trên thu hút dân của làng
Thường Thạnh và cắt đất làng này bớt ra đến 200 mẫu. Ta hiểu tại sao việc lập
đồn điền thường bị các làng có đất tốt chống đối, nếu là cắt đất xấu ở nơi nước
mặn đồng chua thì chẳng ai tranh cản làm chi.
Năm Tự Đức thứ 9 (1856), có một tài liệu theo đó
các ấp trưởng của 9 ấp (Thanh Thiện, An Mỹ, Phú Hữu, Vĩnh Lộc, Phú Thạnh, Mỹ
Thành, Vĩnh Thới, Phú Mỹ, Phú Khai) họp cùng đội trưởng và bốn ông bá hộ cùng
đi tu khám điền địa để đo đạc rồi khai vào sổ bộ. Chẳng hiểu ngày nay các ấp
nói trên nằm trong địa phương nào, nhưng ta thấy sự phối hợp giữa ấp trưởng
(đội đồn điền) và vai trò các ông bá hộ giúp vốn.
Chúng tôi thử xác nhận vị trí của vài đồn điền
thành lập dưới thời Tự Đức. Việc làm này khó khăn vì một số đồn điền lần hồi
trở thành làng xã, một số khác về sau bị thực dân Pháp giải tán.
- Vùng Tân Châu còn tài liệu liên quan đến ông Đội
Chín Tài ở Vịnh Đồn, theo đó vào những năm 1853 và 1856, ông được viên chỉ huy
bảo Tân Châu cho làm ấp trưởng, rồi tác đắc cử ấp trưởng. Năm 1860, ông được
cấp cho một "vi bằng cấp sự" để đi mộ lính ở thôn Phú Lâm. Ông Đội
Chín Tài sau thăng chức hiệp quản, trong đội binh Giang Nghĩa.
-
Dọc theo kinh
Vĩnh Tế, những làng mạc thành lập từ đời Minh Mạng và Thiệu Trị ắt đã tiêu
điều, lúc quân Xiêm tràn tới và chiếm đồn Châu Đốc. Trung tâm quy tụ lưu dân
được nói nhiều nhất trong vùng này đời Tự Đức là Tịnh Biên và bờ kinh Vĩnh Tế.
Nhưng ở đây, như Nguyễn Tri Phương quy định "họ phải sống trong các tổng
đã thành lập rồi" tức là bổ sung vào các làng cũ, có ranh giới, có bộ
đinh, bộ điền từ đời Minh Mạng để tránh việc lấn vào ruộng đất người Miên.
Riêng về các đội do tù phạm lập ra, đưa về Giang Thành hoặc Vĩnh Tế thì không
thấy dấu vết cụ thể, ngày nay tìm lại cũng quá khó khăn vì người địa phương nếu
là con cháu của tù phạm thì cũng che giấu, hoặc không biết rõ việc này (và chính
ông cha của họ cũng che giấu lai lịch,
vì thể diện đối với các làng khác).
Tu sĩ Đoàn Minh Huyên, sau này là Giáo chủ của Phật
giáo Bửu Sơn Kỳ Hương đã đến vùng Tịnh Biên, tại Thới Sơn để lập trại ruộng,
quan địa phương không ưa thích nhưng ta không thấy tài liệu nào nói đến việc
ngăn cản, chứng tỏ khẩn hoang ở vùng biên giới đời Tự Đức là công tác được
khuyến khích.
-
Người Chàm
sống tập trung ở Châu Giang (ngang Châu Đốc) tổ chức lại thành từng đội, có
quan hiệp quản cầm đầu.
- Tại vùng Trà Vinh (Lạc Hóa) nơi người Miên từng gây
náo động hồi đầu đời Thiệu Trị, Nguyễn Tri Phương đã lập đồn điền ở vùng Cầu
Ngang, Trà Cú ước vài ngàn dân, một người Miên là Thạch In được làm hiệp quản
đồn điền (khi Pháp đến ông này ra làm cai tổng). Tại ngả ba Trà Cú, có ông đội
Mười Nhơn.
- Tại vùng Mỹ Tho, Nguyễn Tri Phương lập đồn điền ở
miền Xoài Tư.
- Tại vùng Ba Xuyên, việc lập ấp, lập đồn điền phát
triển nên lập thêm một huyện mới ở Nhu Gia, năm Tự Đức thứ 13 (1860).
Nói chung các đồn điền chiến lược, các ấp nói trên
được thiết lập xen kẽ vào vùng có người Miên cư ngụ tập trung. Vì vậy mà ngày
nay du khách phải ngạc nhiên khi gặp những xóm đông đúc người Việt Nam, với nếp
sống thuần thục, ở nơi chung quanh toàn là sốc Miên, nhứt là ở Trà Vinh, Thất
Sơn, ở vùng Sóc Trăng.
Việc lập ấp, lập đồn
điền xúc tiến trong vòng non 6 năm là thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định.
Tuy nhiên, sau khi cắt ba tỉnh miền Đông cho Pháp, năm 1864, vua Tự Đức chuẩn
cho Trần Hoán làm tuần phủ Hà Tiên kiêm sung chức Dinh điền ở An Giang, Hà Tiên,
Vĩnh Long: kết quả chắc là mong manh vì thực dân lại đánh vào ba tỉnh miền Tây
năm 1867.
Đồng thời với quy chế lập ấp và lập đồn
điền năm 1835, vua Tự Đức định lệ người cày mướn ruộng: Gặp năm mất mùa, nếu
nhà nước miễn thuế cho chủ điền theo tỷ lệ nào thì chủ điền phải theo tỷ lệ ấy
mà bớt lúa ruộng cho tá điền. Đây là việc làm có chút ít tiến bộ.
Năm 1850, khi được sung Nam kỳ kinh lược sứ, Nguyễn
Tri Phương chú ý đến nạn cho vay nặng lời. Từ lâu, theo lệ triều đình thì cho
vay riêng tư hoặc cầm cố tài vật, bất luận là năm tháng lâu mau thì chỉ lấy một
vốn một lời mà thôi, mỗi tháng tiền lời không quá 3 phân, ai trái lịnh thì bị
phạt 40 roi. Lời dạy của Hình Bộ nói rất kỹ: như mượn một lượng bạc, cứ mỗi
tháng 3 phân mà lấy lời, kéo dài tới 33 tháng thì bạc lời đã đầy một lượng tức
là ngang với số vốn rồi. Như con nợ không trả tiền lời đều đặn, trả kéo dài năm
mười năm thì cũng giữ nguyên tắc "một vốn một lời" là dứt nợ. Nguyễn
Tri Phương nhắc lại nguyên tắc không quá 3 phân mỗi tháng. "Gần đây, nghe
Gia Định tỉnh có phú hộ cho vay, phần nhiều trái lịnh cấm cho nên con nợ không
thể trả, thường bị chủ nợ làm khổ. Người lính (mang nợ) không yên trong cơ ngũ,
mà dân sống không yên cho nên có người sinh tâm phải ăn trộm, chớ không phải
nhứt thiết vì tham. Cổ nhân thường nói: cho vay tiền không bằng cho vay đức
(trái tài bất như trái đức), nên giảm thuế, bớt tô. Triều đình thường ra kế an
dân, sao người ta lại tham để làm hại nhau? Bởi vậy bản chức thể đức ý của
triều đình, lấy an dân làm nhiệm vụ, đã sức cho phủ huyện bảo cho người phóng
trái: trừ người từ trước đã trả được ít nhiều, còn kỳ dư là bất lực, hãy hoản
cho họ một năm để cho họ an cư sinh sống, chậm việc thúc bách đòi nợ họ".
Mấy nét trên đây giúp soi sáng một khía cạnh quan
trọng của việc lập ấp di dân: các ông bá hộ đứng ra đỡ đầu đều thủ lợi quá
đáng. Lời kêu gọi của Nguyễn Tri Phương chắc ít được lưu ý. Nguyễn Tri Phương
khuyên các chủ điền (cũng là bá hộ, là chủ nợ) nên giảm địa tô. Điều này lại
càng khó được hưởng ứng vì luật pháp không hề quy định rõ rệt, cứ để cho người
chủ đất thao túng.
Năm Tự Đức thứ 13 (1860) là năm bi đát. Tháng
giêng, quân sĩ Cao Miên gây sự đánh vào An Giang và Hà Tiên, nhưng ta đuổi được
(quân Cao Miên qua chiếm vùng Thất Sơn). Tướng Nguyễn Tri Phương được phái vào
Nam để lo chiếm lại thành Sài Gòn, sau khi nguyên soái Pháp (Page) đưa ra một
dự thảo hòa ước rất ngặt nghèo cho ta.
Tổng đốc Vĩnh Long Trương Văn Uyển truyền cho dân
dũng trong đồn điền, trong ấp phải thao diễn tại tỉnh, các đồn ở trong làng canh
phòng cẩn mật, dân trong ấp phải chăm lo việc nông, các nhà phú hộ thì tích trữ
lúa thóc để bán cho nông dân hoặc cho vay, ai bán hết thì bị phạt nặng. Mặt
khác, phải ngừa gian thương chở lúa gạo bán ra vùng giặc. Đất không được bỏ
hoang, lúa phải tích trữ để dân khỏi bị khốn trong lúc "thanh hoàng bất
tiếp" (lúa bắt đầu chín, chưa gặt ăn được).
Làng Xóm, Điền Đất Và Người Dân
Thời Đàng Cựu
Trước khi người Pháp đến, đất Nam kỳ đã
là nơi việc cai trị tổ chức thành nền nếp khá minh bạch. Người Pháp nghiên cứu
kỹ lưỡng, sửa đổi hoặc noi theo phần nào để áp dụng có lợi cho việc thực dân.
Những tài liệu sau đây phần lớn rút từ "Những bài giảng về cách cai trị thời
đàng cựu" do viên tham biện nhiều kinh nghiệm là J.B. Eliacin Luro đem dạy
tại trường Hậu Bổ Sài Gòn vào năm 1875. Luro từng là sĩ quan tham gia đánh
chiếm và bình định xứ Nam kỳ. Thời ấy, tài liệu tuy bị mất mát nhưng còn khá
nhiều, vài viên chức thời đàng cựu đã giúp Luro biên soạn, đặc biệt là ông Trần
Nguơn Vị (bát phẩm cựu trào, tục danh ông Hạp) làm việc cho Pháp thăng lần đến
Đốc phủ sứ. Theo quy chế đàng cựu (thời Tự Đức) ở mỗi tỉnh có năm phòng: phòng
Lại, phòng Hộ, phòng Lễ... Ông Hạp là viên chức đứng đầu một phòng, tương đương
với chức vụ trưởng ty ngày nay. Mỗi công văn đều lần lượt do thơ lại thảo ra,
trình cho ông Hạp, ông Hạp trình cho viên kinh lịch hoặc thông phán xem kỹ
trước khi trình lên quan Tổng đốc. Ông Hạp Trần Nguơn Vị là người vùng Lấp Vò
(Long Xuyên) nên trưng ra nhiều tài liệu về vùng này.
Về địa bộ năm Minh Mạng thứ mười bảy
Như đã nói, ở Nam kỳ đây là lần duy
nhất triều đình tổ chức việc đo đạc do Trương Đăng Quế cầm đầu, cùng với một số
viên chức chuyên môn từ kinh đô vào. Nên phân biệt địa bộ và điền bộ:
- Địa bộ ghi rõ từng khoảnh đất: diện tích, loại đất,
ranh giới tứ cận, tên người chủ.
- Điền bộ, gọi nôm na là bộ điền, chỉ ghi tên người
chủ đất, diện tích, loại đất, đặc biệt là số thuế phải đóng.
Địa bộ nặng về chi tiết liên quan đến tên họ chủ
đất, ranh giới, diện tích mà không ghi số thuế hàng năm trong khi điền bộ chỉ
chú trọng vào thuế má: thuế ấy ai phải trả?
Năm Minh Mạng thứ 17, mỗi làng phải lập
một địa bộ gồm 3 bổn giống nhau.
- Bổn Giáp, gởi về Hộ Bộ ở Kinh đô.
- Bổn ất, giữ tại tỉnh, nơi văn phòng quan Bố chánh.
Từ đó về sau, mỗi khi mua bán đất, nhà nước lấy địa
bộ Minh Mạng này ra điều chỉnh.
Xin đơn cử làm thí dụ bổn địa bộ Minh Mạng của thôn
Tân Bình, thuộc Tân Phú tổng, Đông Xuyên huyện, Tân Thành phủ, tức vùng Lấp Vò,
thuộc tỉnh An Giang.
Hương chức gồm Thôn trưởng, Hương thân,
Hương hào đứng tên lập ra, có Cai tổng và Phó tổng "Thừa nhận thiệt".
Sau đó là viên Tri huyện "Thừa duyệt
thiệt".
Các viên chức của tỉnh (tỉnh phái) cũng ký vào,
theo thứ tự:
- Thơ lại của án sát sứ ty "Thừa
cứu"
- Thông phán của Bố chánh sứ ty "Thừa tỷ"
- Quan Bố chánh và quan án sát của tỉnh An Giang
"Thừa hạch thiệt"
Các viên chức từ Kinh đô đến (Kinh phái) ký vào
theo thứ tự:
- Thơ lại của Tào chánh ty, thuộc Bộ Công "Thừa
Cứu"
- Viên ngoại lang của Bộ Lễ "Thừa tỷ"
- Chủ sự của Bộ Binh "Thừa phúc cứu"
Tổng cộng các hạng điền thổ trong làng Tân Bình là
208 mẫu.
Trong số này, ruộng canh tác gồm 88
mẫu: 19 mẫu thảo điền và 69 mẫu sơn điền.
Đất ruộng đổi thành vườn cau, có gia cư: 11 mẫu.
Đất ruộng đổi thành vườn chuối, tre, có gia cư: 13
mẫu.
Đất trồng dâu và trồng mía: 10 mẫu.
Đất trước kia trồng dâu, nay trồng đậu, khoai: 17
mẫu.
Đất trồng tre: 30 mẫu.
Đất trồng lá dừa nước: 30 mẫu.
Đất trước kia trồng dâu, nay đổi thành đất lập chợ
phố: 5 mẫu.
Ngoài ra còn đất gò quá cao, đất làm nghĩa địa, đất
bỏ hoang không đo đạc diện tích.
Về sự phân khoảnh đất ruộng, 19 mẫu
thảo điền đã kê khai chia làm ba sở:
5 mẫu, 8 mẫu, 6 mẫu.
Về sơn điền, chia ra 4 sở: 18, 17, 12 và 20 mẫu.
Địa bộ của làng chỉ có tên họ năm bảy ông điền chủ
mà thôi.
Khu đất dành để cất chợ là 5 mẫu, do hai người đứng
tên làm chủ. Cuối bổn địa bộ, hương chức làng cam kết không khai thêm bớt, nếu
sai lạc hoặc còn đất ẩn lậu mà không khai thì chịu tội.
Về điền bộ, (tức là bộ ghi thuế điền) trước sau chỉ
lập ra có bốn lần từ hồi nhà Nguyễn tới khi thực dân Pháp đến, gọi là Đại Tu
Điền Bộ, làm chuẩn để thêm bớt vào những năm sau.
Bốn lần ấy là:
Cũng làng Tân Bình (Lấp Vó) nói trên, so với địa bộ
Minh Mạng hồi 12 năm về trước, có sự thay đổi rõ rệt: đất ruộng chịu thuế đã
giảm về diện tích trong khi các loại đất trồng đậu, khoai và trồng tre vẫn như
cũ. Trong địa bộ Minh Mạng không ghi đất công điền, nhưng trong điền bộ sau này
ghi rõ các sở công điền. Có lẽ diện tích sút giảm vì dân qua các làng khác làm
ăn, hoặc có sự ẩn lậu diện tích để trốn thuế. Đây là một làng thuộc tỉnh An
Giang, thành lập từ đời Gia Long nên dân lậu rút bớt qua các làng tân lập,
khiến các chủ điền vì sợ đóng thuế không nổi nên hiến cho làng để làm công
điền; một số đất khác thì lần hồi canh tác rồi cũng bỏ hoang.
Đất thiệt trưng, tổng cộng 165 mẫu
trong đó "điền" (đất làm ruộng) là 58 mẫu và "thổ" (các
loại trồng tỉa khác) là 106 mẫu.
Thảo điền gồm một sở công điền 5 mẫu và
10 mẫu tư điền khác chia làm hai sở.
Sơn điền gồm 42 mẫu, trong đó công điền ba sở, tư
điền hai sở. Đáng chú ý là có một sở 12 mẫu do Mai Văn Ngọc làm chủ, ông này vì
can án theo ngụy (phải chăng là theo ngụy Khôi) nên đất bị tịch biên đem vào
công điền.
Ngoài số đất ruộng nói trên, những phần
đất trồng tre, trồng dâu, trồng khoai đậu không thay đổi mấy.
Trong làng Tân Bình, bộ điền ghi 18 mẫu liệt vào
loại "hoang phế" (vì dân đã thất lạc) từ năm Thiệu Trị thứ 5, bỏ
hoang dưới 5 năm.
Lại còn 28 mẫu ghi vào loại "cửu
kinh hoang phế" tức là bỏ hoang lâu hơn. Một số đất lần hồi trở thành xấu,
lúc trước canh tác được nhưng về sau đất chai lần, sanh ra sỏi (loại đá ong).
Lại còn vài mẫu đất phù sa mới bồi, ghi vào bộ. Một số người khẩn đất trước kia
bỏ xứ mà đi, không biết lý do, đất trở thành công điền. Lại có người chết không
có con cháu thừa tự nên đất cũng trở thành công điền.
Về thuế đất, năm Tự Đức nguyên niên,
thấy ghi rõ trong bộ như sau:
Thảo điền, mỗi mẫu thâu tô túc 26
thăng, thập vật tiền là 3 tiền.
Sơn điền, mỗi mẫu tô túc 23 thăng, thập
vật tiền là 3 tiền.
Tang căn thổ (đất trồng dâu), mỗi mẫu 2
quan.
Viên lang thổ (đất lập vườn cau), mỗi
mẫu 1 quan 4 tiền.
Vu đậu thổ (đất trồng khoai đậu), mỗi
mẫu 8 tiền.
Thổ trạch, mỗi mẫu 8 tiền.
Thanh trúc thổ (đất trồng tre), mỗi mẫu 4 tiền.
Dà diệp thổ (đất trồng lá dừa nước), mỗi mẫu 4
tiền.
Biểu thuế trên đây tính theo lệ đã ban hành từ năm
Minh Mạng thứ 17.
Lập làng mới
Đời Tự Đức, ở Nam kỳ Lục tỉnh, nhà nước khuyến
khích lập làng để thúc đẩy khẩn hoang, thâu thêm thuế đinh và thuế điền. Việc
lập làng được hưởng ứng, bất kể dân giàu hay dân nghèo.
- Người giàu (thường là bá hộ) được dịp ban ơn bố đức
cho dân đi khẩn đất. Trong giai đoạn đầu, người khẩn đất cần vốn liếng để sắm
nhà cửa, ghe xuồng, nông cụ, quần áo, gạo để ăn, tiền để xài. Ông bá hộ cho vay
tiền, vay lúa với mức lời rất nặng, trên 50 phần trăm mỗi năm. Ngoài ra, nếu
ông bá hộ trực tiếp khẩn đất thì có thể canh tác với nhân công mướn rẻ, đó là
những người bạn làm ruộng ăn lương hàng năm, khi rảnh việc cày cấy gặt hái thì
chủ bắt chèo ghe, sửa nhà, đắp bờ, đào mương vườn. Bạn làm công luôn luôn mượn
tiền trước với tiền lời rất nặng, lắm khi vì đau yếu hay cờ bạc, vợ và con phải
làm việc thay thế để trừ nợ.
- Người nghèo không gia cư, đã túng thiếu đổ nợ ở các
làng cũ nếu có chí thì đi nơi khác xin lập làng mới, chịu khó làm ăn thì có thể
trở thành điền chủ nhỏ, được làm hương chức. Trong nhiều trường hợp, người đi
lập làng thường lôi kéo theo nào là bạn thân, nào là bà con xa, bà con gần để
trong việc làm ăn hàng ngày họ sống trong bầu không khí thân mật và tin cậy
hơn.
Đơn xin lập làng làm ra hai bổn, dâng lên quan Bố
chánh. Trong đơn ghi rõ:
- Ranh giới tứ cận
của làng mới lập.
-
Tên những
người gia trưởng (điền hộ).
-
Ranh giới các
sở đất xin khẩn, tên chủ đất, diện tích, loại đất gì (sơn điền, thảo điền hoặc
vu đậu).
-
Nêu rõ tên
làng mới (xin đặt tên).
-
Xin miễn thuế,
miễn sưu và miễn lính trong ba năm.
- Ghi tên những người dân bộ (bộ đinh) để bảo đảm có
số thuế tối thiểu trong tương lai.
Quan Bố chánh nhận đơn, chỉ cần biết rõ ranh giới
làng mới và tên tuổi của dân lập làng (gồm dân đã từng đứng bộ trong làng khác
và dân lậu) rồi phê vào mấy chữ: "Phú hồi sở tại phủ viên khám biện".
Khi nhận được lịnh, quan phủ bèn đến
tận nơi với vài nhân viên (lại lệ), đòi hương chức các làng kế cận, luôn cả
viên cai tổng để xác nhận rằng làng mới xin lập không lấn ranh vào những làng
đã có ở bốn phía và chẳng ai ngăn cản. Dân xin lập làng phải có mặt để xác nhận
chịu khẩn và chịu đóng thuế, sở đất của người này không lấn ranh vào sở của
người kia. Dân lậu xin lập làng cũng đến để được điều tra xem có tội trạng,
tiền án, hoặc có giả mạo tên tuổi không. Quan phủ cho đo diện tích để biết lần
đo trước của dân làng có chính xác chăng (dư hoặc thiếu), xem ranh giới từng sở
đất, tên người chủ, loại sơn điền, thảo điền hoặc đất trồng dâu, trồng khoai
đậu... Luôn dịp ấy, quan phủ nhìn nhận cho người xin lập làng làm chức thôn
trưởng, cấp cho con dấu nhỏ, hình chữ nhựt, theo nguyên tắc con dấu phải làm
bằng cây (vì vậy gọi là mộc ký, hoặc nói gọn là con mộc). Đồng thời quan phủ
cho phép làng cũ hủy bỏ tên những người dân đã di chuyển để ghi vào bộ sổ của
làng mới lập.
Quan phủ soạn tờ phúc bẩm, trình với quan Bố chánh
việc mình đã làm, kèm theo bản đồ tổng quát của làng tân lập, vị trí các sở
đất, loại đất, tên người xin khẩn, diện tích. Trên bản đồ thường vẽ hình cây
lâm vồ, chòm tre, lung bàu hoặc hình chùa miễu để làm chuẩn. Thôn trưởng ở mấy
làng giáp ranh đồng ký vào.
Tờ phúc bẩm này được quan phủ dâng cho quan Bố
chánh, làm hai bổn. Khi nhận được, quan Bố chánh phê "trình biện";
chuyển lên quan Tổng đốc thì được phê "chiếu biện" khi chấp thuận.
Một bổn có lời phê trên đây lại gởi trả xuống cho
quan phủ hoặc quan huyện. Lập tức, quan phủ hoặc quan huyện đến làng tân lập
nọ, lần thứ nhì, để làm tờ khám án (Luro dịch là jugement procès verbal). Trong
tờ này ghi là đã đến nơi, gọi các viên cai tổng, thôn trưởng kế cận đến để xác
nhận, rồi kê khai các sở đất, diện tích, loại đất, tên người khẩn như trong tờ
phúc bẩm. Bên dưới là chữ ký của thôn trưởng, hương thân, của dân làng tân lập
cùng các ông cai tổng sở tại và lân cận.
Tóm lại, việc lập làng chia ra ba giai đoạn:
- Quan phủ hoặc quan huyện đến nơi làm tờ phúc bẩm
- Khi được quan Tổng đốc đồng ý, quan phủ trở lại
làng, làm tờ khám án
Trường hợp làng Châu Quới tân lập, tách
ra từ làng Châu Phú (nay là vùng chợ Châu Đốc) lúc mới làm đơn xin chỉ có 7
người dân đứng tên (2 người dân có bộ cũ, 5 người dân lậu), đất khẩn các loại
tổng cộng 66 mẫu (trong đó chỉ có 2 mẫu thảo điền và 3 mẫu sơn điền) giúp ta
thấy rõ tình trạng làng xóm lúc bấy giờ, quan trên tỏ ra dễ dãi, những người
đứng tên là tiểu điền chủ, sau này sẽ quy tụ thêm dân đến làm công hoặc làm tá
điền cho họ.
Nói chung, hương chức làng (hương dịch)
chia ra làm 2 hạng: "các chức lớn" và "các chức nhỏ". Các
chức nhỏ là người thi hành, đi gặp dân để truyền lịnh của các chức lớn. Muốn
được hương chức cần có điều kiện tuy đơn giản nhưng gắt gao: phải cư ngụ trong
làng, có hằng sản hoặc uy tín lớn (thí dụ như người nghèo nhưng ông cha ngày
xưa làm quan hoặc đã sáng lập làng). Lúc ban đầu chỉ đặt ra thôn trưởng (xã
trưởng) và hương thân (theo Luro, chức hương thân do Nguyễn Tri Phương bày ra).
Lần hồi khi làng đông dân, thuế má dồi dào thì cử thêm ấp trưởng, cai tuần,
trùm cả, thủ hộ, biện lại, biện đình. Hương chức lớn thì có thêm hương hào,
hương sư, hương chánh, hương lễ...
Nhiều người cho rằng hương chức làng là tổ chức dân
chủ. Đó là nói quá đáng, nếu không sai lạc: tổ chức phong kiến, của phe đảng
thì đúng hơn. Khi thiếu một người hương chức thì mấy người sáng lập làng hoặc
những người đang làm hương chức bèn nhóm lại rồi cử người trong nhóm, trong
phe. Dân nghèo không hằng sản, tức là không điền đất hoặc không vốn liếng to để
làm nghề mua bán thì chỉ được quyền đứng ngoài xa mà nhìn, hoặc là nấu nước pha
trà cho các ông hương chức uống khi họ bầu cử lẫn nhau. Vua chúa ngày xưa nhắc
nhở đến dân, "dân vi quý" hoặc gọi tổng quát là bá tánh. Nhìn qua bộ
điền hoặc địa bộ của làng, ta thấy tên họ của những người dân mà thời phong
kiến đề cập tới: đó là những điền chủ lớn nhỏ, những ông bá hộ. Dân lậu, không
tên trong bộ, không được nhìn nhận là dân.
Việc khẩn đất
Lần hồi, khi Gia Long bắt đầu cai trị thì việc khẩn
hoang không còn quá dễ dãi như lúc mới bắt đầu Nam tiến. Nhà nước kiểm soát kỹ
lưỡng việc khẩn đất, nhằm mục đích thâu thuế. Đời Tự Đức, trên nguyên tắc thì
đất hoang (hoang nhàn) ai làm đơn xin khẩn trước là người đó được.
Hễ đất bỏ hoang, không đóng thuế là đem
cho người khác trưng khẩn để nhà nước khỏi bị mất thuế.
Đất tạm bỏ hoang, trong trường hợp chủ đất chết,
không con, thân nhân chưa hay biết thì giao tạm cho người khác, chờ có người
đến nhìn nhận.
Không đóng thuế, đất có thể bị mất.
Muốn đóng thuế, phải đăng vào địa bộ. Muốn đăng vào địa bộ thì phải làm đơn
theo thủ tục.
Nhà nước luôn luôn thúc giục dân khẩn đất, ghi vào
địa bộ và đóng thuế để khỏi bị tranh cản về sau, nhứt là trường hợp đất tốt ở
nơi đông dân cư, gần đường giao thông tiện lợi.
Nhiều sự trừng phạt đích đáng dành cho kẻ ẩn giấu
diện tích, canh tác lậu.
Năm Gia Long thứ 9, theo lệ thì khi gặp đất canh
tác lậu thuế (đất không xin ghi vào bộ), kể tố giác được hưởng phần đất ấy, xin
ghi vào bộ để làm chủ, tức là hưởng công lao khẩn hoang của kẻ đi trước. Nếu
người tố giác không muốn khẩn thì đất vẫn còn là của chủ cũ, chủ cũ phải lập
tức hợp thức hóa.
Nếu là vùng đất tốt, tên Giáp khai 5 mẫu nhưng
trong thực tế cày cấy đến 8 mẫu, người tố giác có thể xin trưng khẩn 3 mẫu
thặng dư.
Lệ năm Minh Mạng thứ 15, sửa đổi chút ít: kẻ nào
canh tác trên phần đất ruộng hơn diện tích đã khai trong bộ thì bị phạt, tiền
phạt đem thưởng cho kẻ tố giác (đất lậu ấy không bị tịch thâu).
Nếu khẩn một khoảnh đất riêng rẽ, hoàn
toàn trốn thuế từ lâu thì đất bị tịch thu, giao cho kẻ nào chịu đến canh tác và
chịu đóng thuế.
Lệ năm Tự Đức nguyên niên đặt ra: hễ đất mới khẩn
mà chưa làm ruộng, chủ hoàn toàn trốn thuế thì giao cho người tố giác làm chủ,
ghi vào bộ. Nếu đất trước đó có canh tác, có đóng thuế nhưng trải qua một thời
kỳ bỏ hoang lâu hay mau, chủ trở lại canh tác mà không chịu đóng thuế thì chủ
đất bị phạt
3 quan mỗi mẫu, đất không bị tịch thâu.
Tóm lại, đời Tự Đức đất chỉ bị tịch thâu giao cho người khác khi là đất hoang,
mới khai khẩn. Kẻ bị tố giác phải chịu đóng thuế năm trước và những hình phạt
bằng roi cho kẻ khai gian diện tích.
Luật lệ khẩn đất ngày xưa định như sau:
- Đất đã ghi vào bộ, biết rõ ranh giới và diện tích
mà bỏ hoang vô thừa nhận thì dân làng cứ làm đơn xin phục khẩn, quan Bố chánh
có trọn quyền định đoạt. Đất mới bỏ hoang dưới 5 năm, được miễn một năm thuế
điền, đất bỏ hoang quá lâu (cửu kinh hoang phế), miễn 3 năm.
-
Chủ đất chết,
không con thừa tự thì làng cho người khác tới lãnh, ghi tên vào bộ (diện tích
đã biết rõ rồi).
- Nếu muốn khẩn nới rộng thêm một sở đất đã vô bộ từ
trước, chủ đất cứ làm đơn, quan trên sẽ chấp nhận sau khi khám xét (trường hợp
tăng trưng).
-
Nếu là sở đất
to, ở vùng hoang nhàn chưa ai khai khẩn thì theo thủ tục khá phức tạp, giống
như thủ tục xin lập một làng mới:
* Làm đơn dâng lên quan Bố chánh để xin khẩn, kèm
theo bản đồ sơ sài, ghi tứ cận ranh giới. Quan Bố chánh sẽ phú hồi cho quan
huyện sở tại khám xét.
* Quan huyện gọi hương chức làng và những người chủ
đất giáp ranh đến, khám xét lại, mục đích chánh là đề phòng trường hợp lấn vào
phần đất mà người khác đang khai khẩn nhưng chưa xin vô bộ kịp, rồi lập tờ phúc
bẩm, chờ quan Bố chánh duyệt xem.
* Quan huyện cho viên chức tới lập tờ án khám, xác
nhận cấp đất.
Trên thực tế, thủ tục khẩn đất quá khó khăn. Ngày
xưa đường giao thông bất lợi, dân ở vùng Sóc Trăng phải vượt đường xa, đến tận
chợ Châu Đốc để dâng đơn lên quan Bố chánh, hơn trăm cây số. Lại còn bao nhiêu
sở phí linh tinh: lo lót cho lính lệ, cho các viên chức và quan huyện đi làm
phúc bẩm và án khám, lo lót cho hương chức làng. Người dân nghèo thiếu vốn
liếng để giao thiệp và lo hối lộ thì chẳng bao giờ làm chủ đất được. Lương bổng
của các quan rất ít oi; đứng về pháp lý và luân lý Khổng Mạnh, các quan lớn nhỏ
được phép tha hồ nhận tiền hối lộ (gọi là lộc). Làm chuyện ích lợi cho dân, dân
đền ơn thì cứ hưởng một cách thoải mái, lương tâm chẳng ray rứt!
Chủ điền, chủ nợ và tá điền
Dân trong làng phải ghi vào bộ để chịu thuế; dân có
nghĩa là đàn ông, con trai. Tất cả dân, làm bất cứ nghề gì cũng phải ghi. Trên
nguyên tắc thì vậy nhưng ở làng có rất nhiều người không ghi tên vào bộ đinh.
Họ là dân lậu. Rốt cuộc, chỉ những người điền chủ mới ghi tên, chịu thuế. Luro
giải thích: Hương chức làng đã qua mặt Triều đình và Triều đình làm ngơ vì nếu
áp dụng luật lệ quá gắt gao, một số đông dân làng sẽ bỏ trốn vì đóng thuế không
nổi, chi bằng cứ chấp nhận một số ít dân đóng thuế mà làng xóm tồn tại, việc
ruộng nương được điều hòa.
Dân lậu là ai? Là tá điền, tức là những
người không đủ thế lực, không đủ vốn khẩn đất, họ mướn lại đất của chủ điền.
Là tá điền, khi mướn đất họ phải làm tờ tá điền
(gọi tắt là tờ tá) tức là tờ mướn đất để làm ruộng. Mỗi mùa, họ đong cho điền
chủ một số lúa gọi nôm na là lúa ruộng (chữ nho gọi là "tá túc"), lúa
mướn đất. Nên phân biệt với "tô túc" là số lúa mà chủ điền đóng cho
nhà nước trong thuế bằng hiện vật, cộng với một số tiền mặt.
Thời phong kiến (luôn cả đến thời Pháp thuộc) giữa
chủ điền và tá điền không có quy định nào rõ rệt do nhà nước đưa ra về số lúa
ruộng (tá túc) mà tá điền phải đóng cho chủ điền, theo tỷ lệ hoặc giá biểu nào
cả. Tá điền chỉ biết trông cậy vào lòng nhân đạo của chủ điền mà thôi. Luân lý
Khổng Mạnh thường nhắc đến hai tiếng "tích đức", là nhắm vào chủ điền
trong việc đối xử với tá điền, giới tá điền dầu có lòng tốt thì cũng chẳng có
ai dưới tay để mà ban bố.
Về pháp lý, tờ tá (tờ mướn đất) là văn kiện do chủ
điền và tá điền tự ý ký kết. Nếu tá điền vi phạm điều giao kết thì chủ điền tố
cáo, nhờ quan làng xử. Năm nào tá điền trả không nổi thì chủ điền giữ giấy ấy
lại, xem như là giấy nợ hợp pháp.
Một số hương chức và thân hào tuy không
đứng bộ, không làm chủ sở đất nào trong làng nhưng lại có ưu thế đối với đất
gọi là công điền, do làng làm chủ (nhưng hương chức làng không được tự ý bán,
trong bất cứ trường hợp hoặc vì lý do nào). Họ đứng ra mướn đất công điền với
giá rẻ rồi cho dân mướn lại với giá cao hơn, họ đóng vai trung gian mà ăn lời.
Trên lý thuyết thì sự thành lập công điền nhằm mục đích giúp cho công quỹ của
làng thâu thêm lúa và tiền để dùng vào công ích, đồng thời giúp một số tá điền
có đất làm ruộng. Nhưng người tá điền chẳng được hưởng ân huệ gì cả.
Người chủ điền thời xưa được quyền hưởng
"lộc" do tá điền đền ơn cho, vì chủ điền đã giúp tá điền có đất mà
cày, có nơi cất nhà, có chỗ vay mượn lúc đau ốm. Khi vay, con nợ phải mang ơn;
chủ điền là ông vua nho nhỏ trong đất đai của họ, tá điền đóng vai thần dân của
tiểu giang sơn. Chủ điền bắt buộc tá điền làm "công nhựt", tức là làm
thí công, mỗi năm vài ba ngày, (tùy theo lòng nhân đức của mỗi chủ điền) lúc có
đám giỗ, lúc chủ điền gả con, ăn mừng tuổi thọ ngũ tuần, lục tuần. Đặc biệt là
trước ngày Tết, tá điền phải đến làm cỏ vườn, bửa củi, xay lúa, chèo ghe. Ngoài
số lúa ruộng ghi trong giấy mướn đất, tá điền còn góp một số hiện vật gọi là
"công lễ", thì dụ như vài lít rượu nếp thứ ngon, một thúng nếp trắng,
một cặp vịt vào dịp đám giỗ trong gia đình chủ điền hoặc ngày Tết, theo kiểu
chư hầu cống sứ cho thiên tử. Đáp lại, nhiều chủ điền tỏ ra rộng lượng, bố thí
và tích đức cho con cháu mình bằng cách đốt bỏ giấy nợ của tá điền, loại giấy
nợ không thanh toán nổi từ mấy năm trước vì mất mùa hoặc đau yếu.
Thân phận đàn ông làm tá điền gẫm lại còn khỏe hơn
đàn bà. Đàn bà trong gia đình nghèo lo lắng cực nhọc, trong ngoài: gặt lúa, cấy
lúa, bửa củi, nuôi heo gà, xay lúa giã gạo, lại còn nuôi con. Con trẻ lớn lên
đôi khi trở thành một thứ động sản mà cha mẹ đem cầm cố cho người khác để chăn
trâu, khi nào dứt nợ hoặc đủ tiền chuộc thì mới được về nhà.
Về mức sống cụ thể của chủ điền, chúng tôi không
sưu tầm được tài liệu để so sánh, hoặc trường hợp tiêu biểu. Trong tài liệu của
Luro, có sao lục lại tờ chia gia tài của một chủ điền ở Tân Thành phủ, Vĩnh
Phước thôn, tỉnh An Giang tức là địa phận Sa Đéc đất ruộng phì nhiêu. Ông điền
chủ này kê khai tài sản để chia cho con cái:
- 10 đôi xuyến bằng vàng (tử kim)
- 4 bộ ngũ sự (chưn đèn, lư hương...)
- 50 đính bạc, mỗi đính 10 lượng, tức là 500 lượng
bạc.
- 1000 đồng bạc "điểu ngân" (bạc con ó Mễ
Tây Cơ)
và một số nợ mà người khác chưa trả
cho ông.
Ông điền chủ nói trên làm tờ chia gia tài vào năm
Minh Mạng thứ 20 (1839), để lại một nhà ngói ba căn, chẳng hiểu ngoài nghề làm
điền chủ, cho tá điền vay, ông còn buôn bán gì khác chăng?
Về giá đất, có vài tài liệu như sau, lẽ
dĩ nhiên giá thay đổi tùy theo địa phương, tùy loại đất hoặc vị trí gần xa
đường giao thông, chợ phố.
- Đất tốt (thảo điền) ở Định Tường: 10 mẫu, 9 sào, 8
thước trị giá 1682 quan, bán đứt, năm Thiệu Trị thứ 7.
- Đất hơi xấu (sơn điền) ở Phú Mỹ thôn (vùng Thị
Nghè), Gia Định: 5 mẫu, 6 cao, 7 thước, cố vô thời hạn (mại lai thục) với giá
650 quan, khi có tiền cứ chuộc lại đúng số tiền trên không ăn lời, năm Tự Đức
thứ 5.
- Đất ở Long Thành (Biên Hòa) loại sơn điền: 2 mẫu, 3
sào cầm với giá 190 quan, hẹn 3 năm thì chuộc lại, trả vốn và lời theo luật
định (3 phân), năm Tự Đức thứ 5.
Về lúa ruộng (nay gọi là địa tô, xưa
gọi là tá túc) ở làng Nhơn Ngãi, tổng Dương Hòa Trung, tỉnh Vĩnh Long: 10 mẫu
đất cho tá điền mướn với giá là 50 phương lúa, hẹn tháng 2 âm lịch năm sau, khi
làm mùa xong phải đong cho chủ điền. Thuế điền thì do chủ điền đóng, năm Tự Đức
thứ 4.
Về lúa ruộng ở làng Vĩnh Điền, phủ Tịnh Biên, tỉnh
Châu Đốc: mướn sơn điền 10 mẫu trong 10, mỗi năm 500 quan tiền mặt hoặc thay
vào đó, đong lúa hột (húc tử) 500 giạ. Tá điền phải đong lúa hoặc trả tiền vào
tháng 2 âm lịch, sau khi làm mùa. Chủ điền chịu đóng thuế điền cho nhà nước,
nếu trong thời gian trên tá điền không canh tác hết, còn đất bỏ hoang phế thì
khi giao trả đất cho chủ điền, phải làm cỏ cho sạch, năm Qủ Dậu (1873) khi
người Pháp vừa xâm chiếm nước ta.
Về việc mướn trâu của chủ điền để cày và kéo lúa, ở
làng Mỹ Trà (Cao
Lãnh): mướn một con trâu đực 6 tuổi, một con trâu cái 5
tuổi, mỗi năm trả 80 giạ, vào năm Bính Ngọ (đời Thiệu Trị, 1846). Nếu trâu đau
thì cho chủ biết kịp thời, phòng khi trâu chết có chứng cớ.
Bán trâu ở làng Tân Sơn (Vĩnh Long): một con đực 5
tuổi, một con cái 4 tuổi và một con nghé chưa đủ 1 tuổi với giá 400 quan, năm
Giáp Tuất (1874) khi người Pháp đã qua xứ ta.
Tài liệu nói trên chỉ là giấy tờ, trên thực tế chắc
có khác. Lại còn vài tài liệu về giấy nợ, nhưng chỉ ghi là ăn 3 phân lời theo
luật định (trong thực tế, theo Luro, việc cho vay lúa ăn làm mùa tính lời 50
phần trăm trong vòng năm ba tháng). Lại còn vài chủ điền bắt ép tá điền phải
vay mặc dầu tá điền đã đủ ăn, nếu không vay nợ thì chủ điền không cho mướn đất
ruộng.
Người có đất thì ít khi nào chịu bán đứng vì còn
bận bịu về tình cảm, về thể diện với xóm làng. Hơn nữa, còn chữ hiếu. Ông bà để
đất lại, con cháu phải gìn giữ cho bằng được, nhiều khi mồ mả ông bà còn nằm
trong ấy. Bởi vậy, túng tiền thì đem đất mà cầm hoặc cố; cầm thì phải chịu lời,
trong khi cố thì không chịu tiền lời. Lắm khi vì cần tiền nhiều và nhắm sức
mình khó trả, chủ đất đem cố trong thời hạn 10 hoặc 20 năm (lệ quy định quá 30
năm, con nợ không được quyền chuộc lại). Trong suốt thời gian đất bị cầm hoặc
cố, thường là người chủ nợ hưởng lợi, đem đất ấy cho người khác canh tác mà
thâu lúa ruộng.
Việc cầm cố thường xảy ra, nhứt là đối với người có
đứng bộ vài sở đất. Họ không dám vay nợ quá nhiều, vì vay nhiều thì chẳng cách
nào trả nổi. Vay bạc (không có đất cầm hoặc cố) thường chịu lời hơn 50 phần
trăm mỗi năm; dầu cho tiết kiệm và mùa màng thâu hoạch ở mức trung bình, huê
lợi ruộng nương chỉ đem lời độ 20 phần trăm mà thôi.
Cách đo lường thời đàng cựu
Đời Tự Đức, đơn vị để đo là một thước, còn gọi là
thước quan, lấy tiêu chuẩn là 22 đồng tiền đời Gia Long sắp liền nhau; phỏng
định tương đối chính xác là 526 ly (tức là hơn 5 tấc 2, tính theo mét).
Một thước quan chia ra 10 tấc, 1 tấc 10 phân.
Để đo diện tích ruộng đất, lệ xưa định một mẫu là
diện tích của một hình vuông mỗi góc 150 thước quan; tính ra mẫu tây (hectare)
là 62 ares, 2521. Theo cố đạo Tabert thì một mẫu thời đàng cựu to hơn, là 73
ares, 0890.
Một mẫu chia ra 10 sào.
Một sào chia ra 15 thước, còn gọi là cao.
Người thời xưa quan niệm đơn giản rằng
mẫu là sở đất hình vuông; sào là sở đất hình chữ nhật với bề ngang là 15 thước,
bề dài là 150 thước.
Người Pháp ra nghị định ngày 3/10/1865 để thống
nhứt việc đo đạc, họ quy định đại khái 2 mẫu ta ngày xưa là một mẫu tây
(hectare). Như vậy có sự sai biệt, thật ra, hai mẫu ta là 125 ares tức là to
hơn một mẫu tây.
Một mẫu tây chia ra 100 sào tây (100 ares).
Về đong lường, trên nguyên tắc thì dùng hộc để đong
lúa, dùng vuông để đong gạo.
Một hộc chia ra 26 thăng, một thăng là
10 hiệp, một hiệp là 10 thược. Một hộc tính ra 71 lít, 905, đem cân nặng cỡ một
tạ.
Một vuông chia ra 13 thăng (phân nửa của hộc) tính
ra nhằm 35 lít, 953.
Một hộc lúa khi xay ra thì được một vuông gạo, tính
đổ đồng.
Trong thực tế, khi mua bán đổi chác,
người dân thường đong lúa gạo bằng vuông, gọi nôm na là "giạ".
Người
Pháp quy định một vuông là 40 lít, lúc ban đầu còn thâu thuế điền bằng lúa và
một số tiền mặt theo lệ đằng cựu. Một vuông nâng lên là 40 lít thay vì non 36
lít như thời xưa, có lợi cho nhà nước thực dân hơn, dễ tính toán, với con số
tròn trịa là 40 lít.
Sơn Nam
Nghĩa Quân Thất Trận Và Nông Dân
Mất Ruộng
Thực dân Pháp gây xáo trộn toàn diện cho việc khẩn hoang ở
miền Nam, mạng sống người dân không được bảo đảm, nói chi đến mùa màng, đất
ruộng. Thực dân không dung túng hạng dân lậu như hồi cựu trào. Đất ruộng cũng
thay đổi chủ. Giới quan lại, nho sĩ bị phân hóa, một số ít theo thực dân Pháp
nhưng chỉ được chúng xài lúc ban đầu, vắt chanh rồi bỏ vỏ. Một số khác thì giữ
thái độ tùy thời, tự biện hộ là minh triết bảo thân. Nhưng ở miền Nam, thực dân
đưa ra miếng mồi khá ngon là khẩn đất, cơ hội tốt cho ông nhiêu, cậu ấm trở
thành điền chủ để rồi rảnh rang uống rượu ngâm thơ, công kích vu vơ, chán đời
lúc về già. Một số đông cố ý lẩn tránh, không hưởng bất cứ ân huệ nào của tân
trào, sống nghèo với nghề dạy trẻ, hốt thuốc, coi quẻ diệc, dạy đờn ca, về thôn
xóm mà vui với điền viên, mơ đời Nghiêu Thuấn, biết vinh biết nhục, tuy nhiên
sinh kế khó khăn khiến cho các ông phải lâm vào cảnh "chỉ nhện lăng nhăng,
cò vướng cánh; bãi lau lẩn bẩn, cá quên sông". Nho sĩ dùng võ lực kháng
Pháp nổi danh là Thủ khoa Huân, đáng danh chí sĩ; chiến sĩ văn hóa là ông Đồ
Chiểu. Liều mạng đến mức gàn là ông Cử Trị, ông Nhiêu Phang. Thiên hộ Dương là
điền chủ. Trương Định coi việc đồn điền, cũng là điền chủ. Nguyễn Trung Trực là
nông dân, dân chài (anh chài Lịch).
Thoạt tiên, thực dân lúng túng, chưa tìm ra thể
thức cai trị thích hợp: Việt Nam là dân có trình độ văn hóa khá cao và có nét
độc đáo khác hơn các thuộc địa "da đen" ở Phi Châu. Thực dân cố ý
dùng chánh sách:
-
Đồng hóa về
mặt hành chánh để dễ cai trị, sửa đổi lề lối làm việc cùng là cách soạn thảo
công văn, cách thâu thuế, dự trù thuế, cách giam giữ, cách đấu thầu, tức là sắp
đặt bộ máy hành chánh quan liêu mới thay cho những thủ tục quan liêu cũ.
- Bảo vệ những tệ đoan phong kiến, gọi cho ra vẻ sang
trọng là bảo vệ văn hóa dân tộc: Duy trì hủ tục ở thôn quê, đình làng xôi thịt,
các ông hương chức làng vẫn tha hồ bầu cử lẫn nhau trong phe phái, duy trì chế
độ bắt dân làm xâu, "xá bẩm" các quan to quan nhỏ. Tham biện chủ tỉnh
Pháp được gọi là quan Lớn trong công văn, với lời lẽ sợ sệt của người dân thời
đàng cựu (trăm lạy quan Lớn, xuống phước cho con dân nhờ). Không quy định giá
biểu mướn ruộng, chủ điền muốn cho mướn giá nào tùy theo lòng nhân đạo. Nhưng
điểm đáng chú ý hơn hết trong lúc đàn áp các phong trào chống đối là dùng luật
bổn xứ tức là luật Gia Long, với những biện pháp vô nhân đạo: tra tấn công
khai, kẻ tòng phạm bị kết tội như chánh phạm, tru di tam tộc (bắt vợ con, cha
mẹ của tội nhân). Quan Thống đốc được đón rước theo nghi lễ ngày xưa dành cho
vua hoặc cho quan kinh lược với bàn hương án.
Ba nhân vật đắc lực nhứt
Lúc đánh chiếm và bình định xứ Nam kỳ Lục tỉnh,
thực dân đã may mắn gặp được ba tên tay sai độc ác mà chúng dung túng lúc ban
đầu. Đành rằng nếu kẻ này không làm Việt gian đắc lực thì còn kẻ khác, nhưng
phải nhìn nhận rằng chính vì bọn này mà phong trào kháng Pháp bị suy giảm
nhiều. Đó là Lãnh binh Tấn, Tổng đốc Phương, Tổng đốc Lộc.
Khi Pháp đánh thành Sài Gòn (1859), cả
ba đều còn trẻ: Lộc 20 tuổi, Phương 18 tuổi, Tấn 22 tuổi.
Lãnh binh Huỳnh Công Tấn
Trước là tay chân của Trương Định
chống Pháp ở Gò Công, bị Pháp bắt
cung khai mọi việc và lập công lớn là
dẫn quân Pháp bao vây "Đám lá tối trời" để giết chủ cũ. Tấn cũng tham
gia trận bao vây đảo Phú Quốc để nhìn mặt và bắt Nguyễn Trung Trực. Nói chung
thì Tấn không nuôi tham vọng lớn, chỉ có khả năng giới hạn, Pháp xài Tấn để gìn
giữ vùng Gò Công và Bến Tre là nơi Tấn từng lui tới nhiều, am hiểu nhân dân và
địa thế. Tấn lãnh trách nhiệm dọ thám, theo dõi những người kháng Pháp, lợi
dụng địa vị để bắt bớ người này tha lỏng người kia, lẽ dĩ nhiên là vì tư lợi.
Tấn làm giàu nhờ tổ chức sòng bạc, chiếm đất, bắt dân làm xâu phục vụ cho việc
làm ăn riêng tư. Quan Tham biện (người Pháp) ở địa phương chán ngán lối làm
việc luông tuồng và thất nhân tâm vì Tấn lấn quyền. Thực dân phong cho chức
lãnh binh của lính mã tà, tức là chức vụ quân sự cao nhứt trong một tỉnh thời
đàng cựu. Về sau, thực dân không phong chức này cho ai nữa vì ở thuộc địa,
quyền chỉ huy quân sự nằm trong tay người Pháp, chẳng qua là sự khích lệ lúc
ban đầu để Tấn hăng hái hoạt động. Tấn là người thất học, quê mùa nên ngây thơ
đến mức dám chê bai, tố cáo đến quan Giám đốc Nội vụ lề lối cai trị của quan
Tham biện Pháp ở hạt Bến Tre: "bởi quan Tham biện chúng tôi xưa là quan
coi binh chưa từng biết việc dân cho nên ra việc quan, làm thì làm bậy, nói thì
chẳng thông lý sự bằng dường như kẻ ngu si dốt nát". Tấn lại lập công, tố
cao: "Chúng tôi nghe bà con hai cậu (con Phan Thanh Giản) những người làm
giặc trốn ở trong làng Bảo Thạnh nhiều lắm". Quan Giám đốc Nội vụ
(directeur de líintérieur) phẫn nộ, trách mắng và tìm cách đổi Tấn về miền Đông
Nam kỳ, nhưng Tấn lại được chút tín nhiệm nhờ qua Cần Giuộc bắt phó Đốc binh
đàng cựu là Bùi Duy Nhứt đang hoạt động chống Pháp với danh nghĩa Tham biện
toàn hạt (bắt năm 1869). Thời kỳ bắt giết bừa bãi đã qua, Pháp muốn chiêu an và
Tấn lọt vào "mê hồn trận". Pháp cho một tay sai khác là huyện Vĩnh tố
cáo Tấn về tội lạm quyền, Tấn tự bào chữa bằng cách tố lại sự lạm quyền của
huyện Vĩnh. Sau cùng, Tấn chết năm 37 tuổi, vì bịnh, trong chiếc ghe hầu trên
đường Gò Công Sài Gòn.
Tổng
đốc Đỗ Hữu Phương
Sanh quán ở Chợ Đũi, Pháp chiếm Sài Gòn, Phương
trốn lánh lên Bà Điểm chờ thời. Khi thành Chí Hòa thất thủ, nhờ cai tổng Phước
ở Bình Điền dẫn ra trình diện với Francis Garnier bấy giờ, làm Tham biện hạt
Chợ Lớn. Lãnh phận sự dọ thám và kêu gọi những người khởi nghĩa ra hàng. Về mặt
quân sự, Phương rất khôn ngoan, chỉ tham gia vài trận đánh cho Pháp tin cậy:
trận đánh Ba Điểm, lúc bấy giờ lọt vào tay cậu Hai Quyền (con Trương Định) vào
tháng 7/1866, vài ngày sau, truy nã tới Bến Lức. Tháng 11/1867 cùng Tôn Thọ
Tường đi Bến Tre để chiêu dụ hai cậu trai con ông Phan Thanh Giản; tháng 6/1868
xuống Rạch Giá dẹp loạn Nguyễn Trung Trực, tàu mắc cạn, nghĩa quân đóng đồn ở
Sóc Suông (gần chợ Rạch Giá) chống cự mãnh liệt, Phương và bọn mã tà gần 200
người đã hết đạn nhưng vẫn cố thủ để chờ viện binh. Tháng 7/1868 được làm Đốc
phủ sứ ở Vĩnh Long, góp phần truy nã nghĩa quân khi tên phó tổng ác độc ở Vũng
Liêm bị giết.
Năm 1878, qua Pháp dự hội chợ Quốc Tế,
năm 1881 gia nhập Pháp tịch, và lại qua Pháp chơi, thăm các con đang du học,
hai lần vào những năm 1884 và 1889. Là một trong những người đề xướng việc
thành lập trường Nữ trung học ở Sài Gòn. Xin chép vài chi tiết liên quan đến
việc đàn áp của Phương để chứng minh rằng tuy lọt vào tay Pháp nhưng ở vùng Chợ
Lớn, phong trào chống Pháp vẫn mạnh:
- Bắt quản Thiện và quản Việt ở Lò Gốm.
- Năm 1866, có cuộc khởi loạn ở vùng Chợ Lớn (nên
hiểu là tỉnh Chợ Lớn), Nguyễn Văn Hoan bị bắt. Năm 1867, xảy ra nhiều vụ ám sát
cũng ở Chợ Lớn, Pháp gọi Phương đến để cho thêm tài liệu và điều tra.
- Năm 1871 và 1875, có khởi nghĩa ở Phước Lộc (Cần
Giuộc), Phương ra công dọ thám.
- Năm 1873, Phương
trình cho thực dân danh sách một số lãnh tụ kháng Pháp, sắp khởi loạn ở các
tỉnh miền Tây. Cuộc khởi loạn này do Trần Tuân điều khiển từ Khánh Hòa.
-
Năm 1879, tố
giác kịp thời âm mưu khởi loạn của nhóm Thiên Địa Hội ở Sóc Trăng.
- Năm 1881, cùng với một cha sở ở Lương Hòa (Tân An)
kịp thời tố giác âm mưu khởi loạn ở Long Hưng, Lộc Thành và ở vùng Thất Sơn.
-
Năm 1878, điều
khiển việc sửa con kinh Nước Mặn, bắt dân ở tổng Lộc Thành Hạ làm xâu, dân vùng
này nổi tiếng là cứng đầu.
Nhiệm vụ quan trọng của Phương vẫn là dọ thám vùng
Chợ Lớn, Cần Giuộc và Tân An. Về mặt chánh quyền, trước tiên làm hộ trưởng (bấy
giờ, thành phố Chợ Lớn chia ra làm 20 hộ); năm 1868 Phương trình cho thực dân
danh sách những người đáng tin cậy có thể làm chức hội tề. Năm 1872, được chỉ
định làm hội viên Hội đồng thành phố Chợ Lớn. Năm 1879, làm phụ tá cho Xã Tây
Chợ Lớn. Như ta biết, Chợ Lớn là nơi tập trung thương gia Huê kiều, Phương
không bỏ qua cơ hội để làm giàu, giải quyết mọi "áp—phe" giùm cho
thương gia, đãi tiệc viên chức Pháp, làm trung gian lo hối lộ. Nhờ vậy mà làm
giàu nhanh chóng, uy thế lên cao đến mức quan Toàn quyền Paul Doumer khi vào
Nam còn ghé nhà Phương ăn uống, có lẽ nhờ dịp này mà được quan Toàn quyền cho
khẩn trưng sở đất ruộng lớn đến 2223 mẫu tây. Trong lúc dọ thám, Phương tỏ ra
khéo léo, tránh gây thù oán công khai, nhờ đó mà so với Lãnh binh Tấn và Tổng
đốc Lộc, bề ngoài thấy như là Phương hiền lành, cứu người này, bảo lãnh người
kia.
Nhưng trời bất dung gian đảng, Phương
bị mất tín nhiệm vì đã bảo lãnh, xin chứa chấp để theo dõi Thủ khoa Huân trong
nhà. Suốt khoảng 3 năm (sau khi bị đày ở Cayenne rồi được ân xá), Thủ khoa Huân
biết lợi dụng hoàn cảnh để liên lạc với những Huê kiều theo Thiên Địa Hội ở Chợ
Lớn và tới lui vùng Tân An để cổ súy, tổ chức cuộc kháng Pháp. Chuyện vỡ lỡ ra,
tưởng chừng Phương mang họa. Bấy lâu ngoài Thủ khoa Huân, Phương đã từng bảo
lãnh nhiều người mà thực dân Pháp không tin cậy cho lắm. Kẻ thù của Phương là
Tổng đốc Lộc thừa dịp này làm núng, đưa điều kiện là giam lỏng Phương trước khi
dẹp loạn Thủ khoa Huân. Nhưng rốt cuộc, Phương vẫn ung dung, càng mau giàu thêm
và được thang Tổng đốc — nên hiểu là Tổng đốc hàm — vì theo quy chế quan lại
bản xứ do thực dân ở Nam kỳ bày ra, chỉ đến ngạch đốc phủ sứ là hết.
Tổng đốc Trần Bá Lộc
Đây là tay sai đắc lực số một, vượt hẳn hai nhân
vật trên: háo thắng, ham địa vị, ưa tàn sát theo lối phong kiến. Khi Pháp chiếm
thành Mỹ Tho, Lộc sốt sắng tìm cơ hội bèn tản cư với chiếc ghe chở đầy tiền kẽm
(tiền của ai?), đến trình diện với Cha Marc, bấy giờ cha sở này kiêm luôn chức
tham biện. Năm 1861, ngay sau khi xin việc, Lộc được cấp cho căn nhà lá, gia
nhập lính mã tà rồi lập công lên cai, lên đội. Ngoài thời giờ làm lính, Lộc còn
lãnh trách nhiệm giữ kho lúa cho nhà nước và được quan tham biện cho ân huệ là
đem cơm dư của lính về nhà mà nuôi heo. Nhờ hăng hái điềm chỉ và bắn giết, năm
1865 làm huyện, ngồi tại Cái Bè để canh chừng vùng Đồng Tháp. Cái Bè là vị trí
chiến lược trên Tiền giang, có thể đi thẳng lên Cao Miên. Bấy giờ một số quan
lại đàng cựu gom về Bình Cách, Thuộc Nhiêu, Cai Lậy, lập đồn để liên lạc với
Thiên Hộ Dương trong bưng. Lộc đánh quân sĩ đàng cựu ra khỏi Cai Lậy rồi cuộc
tấn công đại quy mô của Pháp diễn ra, Lộc đóng vai trò quan trọng, đánh từ Cần
Lố để nối với mấy cánh quân khác đánh từ đồn Hữu (phía Bến Lức) và đồn Tiền
(phía Cai Lậy). Năm 1867, thăng làm phủ rồi năm sau góp công đánh đuổi và bắt
sống Tổng binh Bút khi ông này đánh vào toán quân Pháp trú đóng tại Sa Đéc (đình
làng Tân Qủ Đông). Lộc coi huyện Tân Thành (Sa Đéc), sau được gọi về Cái Bè,
thăng đốc phủ sứ (15/8/1868). Bấy giờ ở Rạch Giá, Nguyễn Trung Trực khởi nghĩa,
tỉnh lỵ này bị tái chiếm, Nguyễn Trung Trực chạy ra đảo Phú Quốc. Pháp kéo binh
bao vây đảo. Lộc dùng thủ đoạn cố hữu là bắt giết thân nhân những người trong
cuộc. Nguyễn Trung Trực phải ra mặt để cứu sống những người bị bắt làm con tin.
Lộc lãnh trách nhiệm điều tra rồi trình cho Pháp danh sách 170 người liên can
với Nguyễn Trung Trực.
Từ 1868 tới 1871, Lộc góp phần giảy vây đồn Cái Bè,
bấy giờ bị bốn ông Long, Thận, Rộng, Đước tấn công (bốn ông này đều bị Lộc
giết). Rồi đến vụ tham biện Vĩnh Long là Salicetti bị giết khi đến Vũng Liêm
đàn áp cuộc khởi loạn: Lộc đụng với nghĩa quân ở Láng Thé, gồm đa số là người
Miên, cuộc chiến khá sôi nổi, nhiều phen tưởng chừng Lộc thua trận nhưng sau
rốt nhờ khí giới tốt nên thắng.
Năm 1875, lại nổ lực dẹp cuộc khởi nghĩa của Thủ
khoa Huân, có Phủ Đức tiếp tay để chận phía cửa Tiểu (đề phòng Thủ khoa Huân
trốn theo đường biển). Lộc ruồng vùng còn lại, Thủ khoa Huân bị bắt gần Chợ
Gạo. Trận này Pháp giao trọn quyến bắn giết nên lính của Lộc ruồng các lùm bụi,
đến mức nai, chồn, cọp chạy tán loạn vào xóm.
Năm 1878, dẹp cuộc khởi loạn của Ong và Khả; hai vị
này toan đánh thình lình chợ Mỹ Tho. Năm 1883, đàn áp cuộc khởi nghĩa của người
Miên ở Trà Béc (Cao Miên).
Ở miền Trung bấy giờ Mai Xuân Thưởng
nổi lên, Pháp dẹp không nổi nên nhờ bàn tay gian ác của Lộc. Lộc mộ 1050 lính
mã tà, đem về thành Ô Ma (Sài Gòn) tập dượt rồi đến chiến trường thi hành thủ
đoạn bắt thân nhân của Mai Xuân Thưởng và của những người theo quân khởi nghĩa.
Lộc tỏ ra hách dịch, làm việc lấn quyền các sĩ quan Pháp ở địa phương. Lúc hành
quân, Lộc dùng con dấu "Thuận Khánh Tổng đốc", tức là Tổng đốc của
hai tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa. Khi xong việc, về Cái Bè vẫn thích dùng con dấu
ấy. Lộc lại đề nghị với Pháp tách hai tỉnh này ra khỏi Trung kỳ, nhập vào Nam
kỳ vì chính quân sĩ Nam kỳ (tức là của Lộc) đã ra tay dẹp loạn, nhưng đề nghị
này khó thi hành!
Về già, Lộc đau ung thư bao tử nhưng
vẫn hăng hái ra tài "kinh bang tế thế". Loạn lạc không còn, Lộc ra
tay chỉnh trang vùng Cái Bè. Học được phép đo đạc nên đem áp dụng, phóng mấy
con lộ ở chợ này. Lộc lại xin bắt dân xâu để đào kinh trong vùng Đồng Tháp, ban
đầu đào thử (kinh bề ngang rộng 3 mét), nhưng lại bắt dân xâu đợt nhì nới rộng
ra 10 mét, nối liền từ Bà Bèo tới Rạch Ruộng (1897) gọi là kinh Tổng đốc Lộc
(thực dân cho phép đặt tên). Lộc trở thành người điền chủ lớn nhứt của tỉnh Mỹ
Tho khi mua lại cù lao Năm Thôn và đất ở cù lao Rồng.
Tóm lại, Lộc đóng vai tích cực trong
việc đàn áp các phong trào Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực, Thủ khoa Huân,
Mai Xuân Thưởng. Pháp dung túng cho Lộc làm những việc dã man, vô nhân đạo mà
chúng không muốn làm, sợ mang tiếng xấu về chúng. Nhưng được chim thì treo ná,
thực dân lần hồi tỏ ra lạnh nhạt đối với kẻ đã quá sốt sắng với nhiệm vụ — lỗi
thời. Pháp cho người nói xấu công khai rằng chức Tổng đốc của Lộc là bất hợp
lệ, chỉ dùng ở Trung kỳ chớ không dùng ở xứ thuộc địa, do đó phải sửa lại là
"Tổng đốc hàm" (honoraire). Lại còn chức vụ Khâm sai mà Lộc đã tự
phong khi in thiệp chúc Tết năm 1888. Lộc cho rằng Khâm sai là chức vụ hợp
pháp, vì ông ta thừa lịnh quan Thống đốc Nam kỳ ra ngoài Trung dẹp giặc, nhưng
có người tố cáo rằng Lộc tự xưng Khâm sai của triều đình Huế, với dụng ý làm
loạn về sau.
Lộc thích đánh giặc với đạo quân riêng lúc ban đầu
gồm hơn 100 người nhưng về già, thực dân chỉ để cho 5 người lính hầu mà thôi.
Một chi tiết đáng chú ý là vào năm 1868, Lộc đã đi
"bắt quân làm ngụy ở phía Trà Đư" đem về Châu Đốc nộp cho quan tham
biện. Đây là những người thuộc nhóm Bửu Sơn Kỳ Hương ở Thất Sơn.
Lời phê của các quan tham biện giúp
chúng ta hiểu rõ thái độ của thực dân. Đại khái, họ biết Lộc tàn ác nhưng họ xài
trong thủ đoạn dùntg người và luật lệ bổn xứ để đàn áp người bổn xứ: "Một
viên chức quá kỹ lưỡng, quá tận tâm trong vài trường hợp", "không cẩn
thận trong việc dùng phương tiện, nhưng lại đạt mục đích chắc chắn". Lộc
sanh tật uống rượu, tánh tình thay đổi rõ rệt. Ba năm trước khi chết, Lộc được
viên tham biện Mỹ Tho phê như sau: "Người ta có thể phàn nàn lão già này
về những hành động ác độc lúc trước đã trở thành chuyện huyễn hoặc, khó tin,
nhưng tôi cho là trong hàng ngũ viên chức bổn xứ hiện nay khó tìm được một
người biết kính bề trên, dám tận tụy với chính nghĩa của nước Pháp bằng ông
ta".
Tình trạng xáo trộn về gia cư, tài sản
Trong giai đoạn khá dài, dân chúng chịu cảnh ly
tán, kẻ lương thiện có thể bị vạ lây. Chỉ cần bị tình nghi là bị tù, bị đày ra
Côn Nôn hoặc Đại Hải (đảo Bourbon) hoặc qua tận Mỹ Châu, ở thuộc địa Pháp nổi
danh ma thiêng nước độc: xứ Cayenne (gọi là Cai Danh quận). Hoặc qua tận đảo
Antilles sát Nam Mỹ Châu, hoặc qua nhà tù ở Toulon.
Ngoài chuyện nhắm mắt cho bọn Việt gian bắt giết,
tống tiền và hăm họa, thực dân còn ngang nhiên phán quyết những bản án hành
chánh (jugement administratif) theo đó, tham biện chủ tỉnh được quyền đề nghị
bỏ tù, đày ra Côn Đảo hoặc các lãnh thổ ngoại thuộc Pháp những người chỉ bị
tình nghi, vu cáo là làm loạn nhưng chưa tìm được bằng chứng gì cụ thể. Thống
đốc Nam kỳ hoặc Giám đốc Nội vụ (directeur de líIntérieur, lúc đầu dịch ra chữ
Nho là Lại Bộ thượng thơ), xét lại rồi chuẩn y. Một dịp cho bọn Việt gian địa
phương tha hồ báo cáo để giựt ruộng vườn nhà cửa.
Thoạt tiên, bọn tham biện chủ tỉnh bắt
bớ tù đày quá nhiều, đến mức ba tháng sau (23/11/1868), đô đốc Ohier gởi văn
thư khiển trách viên tham biện hạt Vĩnh Long đã lạm dụng. Ngày 9/3/1875,
Duperré ra lịnh dứt khoát rằng tài sản của những người bị lên án phản loạn đều
bị tịch thâu, tiền bán tài sản này dùng trợ cấp cho gia đình bọn lính mã tà tử
trận lúc đi ruồng bố. Nhưng năm sau, ngày 25/8/1876 lại có lịnh: tài sản của
bọn phiến loạn đem bán ra, thay vì đem thưởng cho kẻ tố giác thì lại thuộc về
nhà nước; nhà nước tùy trường hợp mà thưởng riêng. Trong thực tế, ruộng đất do
con của Trương
Định làm chủ đã bị bán đấu giá từ năm
1869, nhưng không ai ra mua. Kinh nghiệm vụ khởi loạn Thủ khoa Huân cho thực
dân biết rằng một số không ít hương chức hội tề làm việc cho Pháp đã tán trợ
trực tiếp hoặc gián tiếp những người làm loạn. Do đó, đô đốc Nam kỳ ký nghị
định số 123 ngày 20/5/1875 quy định từ rày về sau làng nào làm loạn hoặc đồng
lõa với loạn quân thì bị xóa tên, giải tán, sáp nhập qua làng lân cận, tài sản
của hương chức hội tề bị tịch thâu, hương chức hội tề bị quản thúc ở tỉnh xa.
Nghị định ngày 25/5/1881 ban hành quy chế thổ trước (indigénat) theo đó tham
biện chủ tỉnh được quyền xét xử bỏ tù trong vài trường hợp, khỏi cần đưa qua
tòa án (gọi nôm na là ở tù bố, tức là ở tù theo lịnh của tòa Bố, lúc Pháp mới
qua, có quan Bố chánh như thời đàng cựu, nhưng là quan Bố người Pháp). Bộ Thuộc
địa tán thành việc bắt giam một số đông người mà không cần truy tố ra tòa, để
đề phòng cuộc khởi loạn mà thực dân được tin là sắp bùng nổ ở Mỹ Tho vào năm
1883, cho đó là áp dụng quy chế thổ trước. Đồng thời, Bộ cũng cho phép thống
đốc Nam kỳ được quyền câu lưu trong thời hạn nhứt định những phần tử bị tình
nghi, và ân xá họ khi nào thấy thuận lợi (5/9/1884).
Đối với người Tàu, Bộ Thuộc địa tán thành biện pháp
mà Thống đốc Nam kỳ áp dụng để trừng phạt những người theo Thiên Địa Hội ở Sóc
Trăng (1/9/1882) theo đó nạn nhân bị trục xuất về Tàu, tịch thâu tài sản. Bang
Triều Châu ở Sóc Trăng phải xuất tiền trả lương cho bọn lính mã tà do nhà nước
tuyển thêm để giữ an ninh trong tỉnh, đồng thời Bang này phải chịu phạt nếu
trong hàng ngũ Thiên Địa Hội lại có người trong Bang gia nhập.
Việc kháng Pháp ở Nam kỳ Lục tỉnh khá rầm rộ, thực
dân và tay sai đã dẫm nát những vùng gần tỉnh lỵ đến tận thôn xóm hẻo lánh. Dân
chúng hăng hái vì bấy giờ triều đình Huế hãy còn. Họ đặt hy vọng vào sự can
thiệp của triều đình. Đi theo Pháp thì sợ về sau sẽ bị trừng trị. Việc Pháp
chiếm ba tỉnh miền Đông với hiệp ước 1862 không làm cho dân chúng tuyệt vọng.
Họ sẵn sàng tản cư qua ba tỉnh miền Tây. Ngay sau hiệp ước 1862, trong bức thư
trả lời cho nguyên soái Bonard đề mùng 6 tháng 8 âm lịch năm Tự Đức thứ 15, ông
Phan Thanh Giản tỏ thái độ đứng đắn về việc giải giới những người còn cầm khí
giới ở ba tỉnh miền Đông. Những người này được ông Phan gọi là dân mộ nghĩa (mộ
nghĩa nhân); ông viện cớ là "già nua và bất tài" nên chưa thể nào
thực thi chuyện tước khí giới đám dân mộ nghĩa ấy được. Việc ấy, nhà cầm quyền
Pháp ở ba tỉnh miền Đông cứ ra lịnh kêu gọi những người quản suất quân nghĩa
dõng.
Sau khi mất ba tỉnh miền Tây, dân chúng vẫn tiếp
tục chiến đấu. Dân ở nông thôn dời chỗ nhiều lần, xa sanh quán, họ hàng thất
lạc, thay tên đổi họ để khỏi bị tập nã. So với cõi Bắc kỳ và Trung kỳ, làng mạc
miền Nam bị phá tán nhiều hơn, ngoài mục đích bình định, thực dân còn nhằm hủy
hoại văn hóa; thành lũy bị san bằng trăm phần trăm tại Sài Gòn cũng như ở các
tỉnh, gia phả không còn, người có căn cư trở thành lưu dân, đất ruộng đổi chủ.
Sau khi hạ thành Chí Hòa, thực dân muốn giữ các tổ chức đồn điền như cũ để việc
sản xuất lúa gạo không bị đình trệ và việc cai trị ít bị xáo trộn. Nhưng đến
ngày 22/8/1861, lại giải tán vì đồn điền là cơ sở chống đối mạnh mẽ.
Vài thí dụ điển hình
Vào cuối năm 1868, đô đốc Ohier ba hành quyết định
số 473 ra giải thưởng cho những ai bắt nộp những lãnh tụ kháng Pháp gồm 11
người với giá 1000 quan mỗi người: cậu Hai Quyền (con Trương Định) bấy giờ cỡ
25 tuổi; Hàn Lâm Phu; Tổng binh Thành; ấp Quyền (phó của Trương Định); Nguyên
soái Thân (người đã đánh đồn Mỹ Tho); Tổng binh Hinh; Tổng binh Cách; cậu Tư,
cậu Năm (hai con của Phan Thanh Giản), Tổng binh Thành (gốc ở Thất Sơn, trước
đấy có ở Rạch Giá); phó Nguyên soái Dương (vượt ngục Mỹ Tho năm 1867, hiện đang
ở Ba Động).
Tổng binh Thành mà thực dân hài rõ gốc
ở Thất Sơn chính là nhân vật quan trọng thuộc giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương (đức
Cố Quản).
Hàn lâm Phu, không rõ là ai (trong
nguyên văn không bỏ dấu).
Và 2 người với giá 500 quan: Đốc binh
Sắc, Đề đốc Đạo (trước đấy, Đạo ở Mỹ Tho).
Quyết định nói rõ là lính hoặc viên chức bổn xứ hữu
công có thể lên cấp bực, ngoài tiền thưởng. Các viên cai tổng, hương chức hội
tề nếu có hành động cản ngăn việc truy tầm, không sốt sắng tập nã sẽ bị trừng
phạt theo luật đàng cựu (lois annamites). Vào dịp khởi nghĩa Thủ khoa Huân,
thực dân Pháp cố ý phá tan cơ sở nông thôn đến tận gốc rễ, khủng bố luôn những
ai sống dưới sự cai trị của chúng nhưng còn thái độ úp mở. Cả một vùng rộng lớn
từ Tân An, từ vùng Chợ Gạo đến sát chợ Mỹ Tho, dài theo Tiền giang phía rạch
Gầm đều chịu họa lây. Đồng bào nhân dĩ Mỹ Tho, Chợ Gạo đã hết lòng ủng hộ cuộc
khởi nghĩa này với sự tán trợ của hương chức hội tề.
Chủ tỉnh Mỹ Tho được quan Thống đốc cho xuất ra
6550 quan để trả những chi phí về cuộc hành quân chống Thủ khoa Huân là 4481
quan, tiền còn lại thì dành trợ cấp cho vợ bọn lính tử trận. Nhưng thực dân
không mất gì cả, lại có lời cho ngân sách khi ra lịnh phạt những người đã tham
gia khởi nghĩa nhưng không ra đầu thú và trình diện kịp thời, phạt bằng tiền
theo quyết định của Thống đốc Nam kỳ ngày 5/7/1875. Và Thống đốc Nam kỳ cũng
trừng phạt 47 làng trong tỉnh Mỹ Tho đã gián tiếp hoặc trực tiếp ủng hộ Thủ
khoa Huân (quyết định ngày 5/7/1875) tổng số là 53700 quan, lẽ dĩ nhiên, hương
chức làng gánh chịu và dân làng phải chia sớt để khỏi bị rắc rối.
Lúc hành quân và truy nã, thực dân còn tịch thâu
được 1515 quan, Hương chức hội tề ở hai làng Song Thạnh và Bình Dương đã góp
cho quân khởi nghĩa 387 đồng (trị giá 2147 quan) là tiền do làng thâu thuế
được; nhà nước ra lịnh bồi thường bằng cách tịch thâu và bán tài sản của hai vị
hương chức hội tề làng Song Thạnh có tham gia khởi nghĩa (đã bị giết), số tiền
còn lại thì một ông hương chức hội tề làng Song Thạnh và 5 ông ở làng Bình
Dương phải bồi thường cho đủ, các người này lẽ dĩ nhiên là bị cách chức.
Vào tháng 9, cũng năm 1875, Thống đốc Nam kỳ ra
quyết định phạt
hương chức làng Mỹ Đức, tỉnh Châu Đốc về tội cho phép một
người "phản loạn" từ Mõ Cày (Bến Tre) đến trú ngụ mà không bắt buộc
kẻ lạ mặt phải xuất trình giấy của địa phương cũ cho phép thay đổi nơi cư trú.
Nhóm người muốn "tạo lập đời" theo quan
niệm tôn giáo tụ họp lần hồi đến Thất Sơn hẻo lánh, có cọp beo nhưng xa khu vực
thực dân kiểm soát, lại được ưu thế là gần biên giới Việt Miên. Tuy nhiên,
những làng tân tạo này vẫn bị thực dân đến quấy rối: vùng An Định ở núi Tượng
bị phá xóm, đốt chùa về tội lập Hội kín.
Đầu năm 1872, vùng rạch Cái Tàu (ven
rừng U Minh Hạ) tuy là thưa thớt, nghèo nàn, làng xóm chưa thành nền nếp nhưng
hai anh em Đỗ Thừa Luông và Đỗ Thừa Tự đã khởi nghĩa, giết được lính mã tà. Đỗ
Thừa Tự có lần ẩn lánh ngoài khơi vịnh Xiêm La, tận hòn Sơn Rái nơi thảo am của
thầy Đước: người tu hành ở cheo leo ngoài biển khơi vẫn nặng lòng vì nước. Về
sau, hai anh em họ Đỗ bị bắt và xử tử, nghĩa quân thì bị đày. Tham biện Rạch
Giá xử họ trong phiên tòa gọi là "tòa án bổn xứ", chính ông ta làm
Chánh án. Tên chủ tỉnh Benoist nổi danh là tàn ác (và thích khảo cứu) đã
"nhân danh dân chúng nước Pháp" mà buộc tội và tuyên án đúng
"luật An Nam" theo đó "người làm loạn bị xử trảm, kể luôn những
bọn đồng lõa, không cần phân biệt tội nặng nhẹ giữa chánh phạm và tòng
phạm". Tuy nhiên, viên chủ tỉnh cho ân giảm đổi án tử hình ra 20 năm lưu
đày (trường hợp Phạm Tấn Trì). Một can phạm cũng trong vụ khởi nghĩa này là Võ
Văn Trước, người làng Đông Thái bị xử lưu đày chung thân.
Nay hãy còn nhiều danh tánh can phạm do thực dân xử
theo biện pháp cao hứng, tùy theo sự tố cáo với tang chứng mơ hồ. Họ là chiến
sĩ vô danh, đa số bị lưu đày từ thanh niên đến kẻ già nua, từ kẻ thất học đến
kẻ đậu tú tài, ngụ ở làng mạc vùng Mỹ Tho, Tây Ninh, Bà Rịa, Cao Lãnh, Tân An,
Cần Thơ, Sóc Trăng, Sa Đéc, Gò Công, Thủ Dầu Một, Long Xuyên, Vĩnh Long, Châu
Đốc, Bến Tre. Thân nhân của họ nhờ các quan địa phương chuyển đơn kêu nài.
Trường hợp ông Võ Văn Tòng từng làm đội quản (lãnh bằng cấp
để khởi nghĩa) bị bắt vào cuối năm 1864, vừa bị đày ra Côn Nôn một tháng là
chết bịnh; ấy thế mà 15 năm sau, vì gia đình chưa hay tin nên con là Võ Văn
Toán lại làm đơn xin ân xá vì cha đã thọ án được 15 năm rồi! Trường hợp của ông
tú tài Trần Văn Trà bị đày qua Cayenne, vợ làm đơn xin ân xá, xin giảm án quá
nhiều lần mà không được chấp thuận, mặc dầu có tri phủ Tôn Thọ Tường đứng ra
làm tờ bảo lãnh với quan trên: "Như ông còn hồ nghi sự gì thì xin khi tha
nó ra rồi dạy nó phải ở tại Sài Gòn sau nó còn làm sự gì quấy quá thì tôi cũng
xin chịu tội chung với nó".
Vụ ông Quản Hớn giết phủ Ca ở Hóc Môn được xử tại
Gia Định vào 12/9/1885 gồm 37 người lãnh án, trong đó 14 người bị lên án tử
hình. Cũng năm 1885 này, ở Cao Miên phong trào chống Pháp lên cao.
Người Miên ở Hà Tiên và người Việt hợp tác nhau
đánh Pháp vài trận, quân khởi nghĩa gom đến trăm người ở vùng Mũi Nai (chợ Hà
Tiên) và Rạch Vược, Ba Hòn.
Vấn đề lưu dân ở Sài Gòn
Sự
khủng bố ở thôn quê khiến nhiều người mất công ăn việc làm, kéo lên Sài Gòn,
Chợ Lớn và vùng ngoại ô nhưng họ chưa thích ứng được với hoàn cảnh sinh sống
mới. Do đó, thực dân gặp nhiều khó khăn trước phong trào mà chúng gọi là
"lưu manh, du côn" Sài Gòn. Từ năm 1864, đô đốc Lagrandière ra quyết định
bắt buộc những người Việt cư trú ở Sài Gòn phải ghi tên vào bộ vì nhiều vụ cướp
bóc (?) xảy ra từ lâu, hạn 8 ngày không đến làng để khai lý lịch và ghi tên vào
bộ thì bị phạt từ 5 đến 10 quan và ở tù từ 8 ngày đến hai tháng. Non hai tháng
sau có lịnh nghiêm nhặt hơn: xét bắt những người Việt hiện đang cư trú chung
quanh thành Sài Gòn cũ và vùng rạch Thị Nghè, luôn cả người Tàu; ai có giấy tờ
của làng cũ thì bị đuổi trở về, ai không căn cư, chẳng làng xã nào nhìn nhận
thì bị nhốt để chờ ngày đày ra Côn Đảo hoặc đảo Bourbon. Thực dân đề phòng gắt
gao vì được tin sắp có khởi nghĩa tại Sài Gòn. Mãi đến năm 1875, vùng ngoại ô
Sài Gòn vẫn chưa yên tịnh, một tay sai đắc lực của thực dân từng điềm chỉ những
người cầm đầu khởi loạn lại bị giết bỏ xác gần chùa ở ranh giới ba làng Tân
Thới, Bình Hưng và Bình Hưng Đông; thống đốc Nam kỳ ra lịnh phạt hương chức hội
tề ba làng nói trên về tội không phát giác kịp thời và giấu nhẹm; tiền phạt
cộng chung là 1000 quan, trong đó 500 quan xuất ra trợ cấp cho gia đình nạn
nhân. Đến năm 1887, quan tham biện hạt thứ 20 (sau đổi lại là tỉnh Bình Hòa rồi
đổi là tỉnh Gia Định) báo cáo tỉ mỉ hơn, nhận định rằng thành phần bọn bất hảo
gồm nào thợ thất nghiệp, lao công Việt và Tàu, bọn đánh xe ngựa, bọn làm bồi
cho Tây đang thất nghiệp, đông đảo nhứt là bọn lưu dân từ khắp các tỉnh Nam kỳ
tựu về tìm phương kế sinh sống. Bọn này thường tỏ ra ngạo mạn, bất phục tùng
luật pháp. Vì có lịnh không cho áp dụng quy chế thổ trước tại quận Gia Định nên
viên chức không còn khả năng trừng trị họ. Họ cứ ung dung làm điều sai quấy, hễ
bị bắt là 24 giờ sau họ được thả ra, theo luật định. Năm 1899, tình hình ở tỉnh
Gia Định và ngoại ô Sài Gòn thêm bi đát hơn. Du đãng tụ tập ở Bà Điểm Bà Quẹo
để lộng hành, chỉ huy bọn nài ngựa ở trường đua, cầm đầu bọn ăn trộm ở Hòa
Hưng; hương chức làng Hòa Hưng không dám hó hé. Én cướp đánh tại làng Bình Sơn,
trên sông Sài Gòn, có tên cướp xăm mấy chữ "anh hùng nhứt xứ". Tổng
đốc Phương nhận định rằng từ năm 1895 việc du côn ngày càng thêm, hiệp với bọn
Thiên Địa Hội mà hà hiếp dân sự, ai giận ai thì mướn nó đánh phá, muốn được cử
làm hội đồng, cai tổng thì mướn du côn coi chừng, ai không bỏ thăm cho phe thì
chận đánh, ở nhà quê, du côn lại nhà giàu mượn tiền 50, 30 đồng, ai thưa với
làng thì nó đốt nhà, mượn không bao giờ trả, chẳng ai dám tố cáo. Bọn du côn
hăm he hương chức làng rằng nếu bắt chúng, sau khi ở tù về, chúng giết chết.
Bắt thì tòa theo luật Lang Sa không cầm tù lâu. Bởi vậy, chẳng ai dám bắt, trở
về tụi nó sẽ dữ hơn. Nếu tòa phạt năm bảy ngày, cả bọn góp tiền mướn thày kiện
lãnh ra. Tổng đốc Phương yêu cầu đày bọn du côn đi làm xâu vào dịp mở đường xe
lửa Lang Bian, du côn thứ dữ thì phạt một năm tù, thứ vừa thì phạt sáu tháng,
làng xã phải kê khai tên tuổi bọn du côn trong làng.
Năm 1901, bọn du côn đánh nhau giữa ban
ngày, cách tòa Bố Gia Định có 500 thước, đánh nhau mà không bao giờ thưa gởi
tới cò bót. Tại sòng bạc ở Gò Vấp, lính mã tà phải xin lỗi bọn du côn chứa bạc
vì đã trót đến xét bắt. Mỗi xứ đều có anh hùng riêng, đường Monceaux, vùng Đất
Hộ, Phú Nhuận, vùng Bình Hòa, vùng Gò Vấp. Nổi danh nhứt là bọn Ba Thiên và Sáu
Thắm, chúng hẹn nhau đến Lăng Cha Cả hoặc ngả tư Phú Nhuận mà so tài, theo luật
giang hồ. Du côn ở Đất Hộ mà quan cầu thì bị du côn Phú Nhuận hành hung. Bên
trong vấn đề trừng phạt bọn du côn là cuộc tranh chấp về quyền hành giữa các
tham biện chủ tỉnh và các cơ quan tư pháp vào năm 1901—1902. Nha Tư pháp Đông
Dương muốn áp dụng luật pháp, chống những bản án hành chánh mà tham biện các
tỉnh bấy lâu đã lạm dụng để đày ra Côn Đảo những kẻ mà quan làng không thích,
mặc dầu không bằng cớ. Các viên chức hành chánh thì cho là nếu căn cứ vào luật
pháp thì làm sao bắt bọn du côn được? Điển hình nhứt là lập luận của tham biện
tỉnh Gia Định bảo rằng dân thuộc địa chỉ sợ sức mạnh của người Pháp mà thôi, không
nên đối xử bình đẳng vì dân du côn xem việc ở tù sướng hơn là sống ở ngoài đời.
Và làm sao trưng được bằng cớ cụ thể để buộc tội, khi bọn du côn ăn thề, kết
nghĩa với nhau trong quán rượu chớ không ghi trên giấy trắng mực đen.
Phong trào gọi là "du côn Sài
Gòn" vào đầu thế kỷ gồm những thành phần như sau:
-
Bọn bất lương,
đâm thuê chém mướn, không lý tưởng gì cả.
-
Một số người
theo Thiên Địa Hội muốn tạo khu vực ảnh hưởng riêng để làm ăn, nắm độc quyền về
bến xe, chứa cờ bạc.
- Một số nông dân mất cơ sở làm ăn ở thôn quê, lên
thành phố nhưng chưa thích ứng được với hoàn cảnh mới, họ vẫn giữ óc tự tôn cho
rằng xã hội nông nghiệp đàng cựu đẹp hơn xã hội mà người Tây phương đặt trên
đầu dân ta. Họ có tinh thần chống Pháp.
Mãi đến đệ nhứt thế chiến, "anh
chị" ở Sài Gòn Chợ Lớn còn là đề tài lưu truyền trong dân gian. Những áng
thơ bình dân, những người mù nói thơ đờn độc huyền vẫn ca ngợi Năm Tỵ, Sáu Nhỏ,
Sáu Trọng hoặc tiết tháo của thày Thông Chánh, cậu Hai Miên mặc dầu thực dân
tìm cách ngăn cấm.
Bến Nghé Sài Gòn trong sanh hoạt mới
Trong khi vùng ngoại ô Sài Gòn chưa bình định xong
thì thực dân chánh thức cho phép tàu ngoại quốc vào thương cảng Sài Gòn mua bán
(22/2/1860). Năm 1860, có 246 chiếc tàu máy và thuyền buồm của các nước Nu Châu
và của Trung Hoa tổng cộng sức trọng tải là 63299 tonneaux, đã ăn 53939
tonneaux gạo trị giá khoảng 5184000 quan và các sản phẩm linh tinh khác trị giá
một triệu quan. Đồng thời hàng hóa nhập cảng vào Sài Gòn trị giá ước lượng một
triệu quan, cộng thêm 500 000 quan á phiện để tiêu thụ trong xư.
Đây là năm mđầu mà thương cảng mở cửa, xuất cảng
hơi nhiều vì gạo từ năm trước còn ứ đọng lại, thành Sài Gòn mất nên ghe bầu từ
ngoài Trung không vào ăn gạo như trước được. Năm 1861, mức xuất cảng gạo sụt,
năm 1862 lại sụt hơn vì ảnh hưởng cuộc khởi nghĩa của Trương Định ở vựa lúa
quan trọng miền Nam lúc bấy giờ là Gò Công. Nhưng năm 1862 lại xuất cảng thêm 1
200 000 quan cá khô của Cao Miên, do thương cảng Sài Gòn.
Ba loại gạo mà giới xuất cảng chuộng nhứt là gạo Gò
Công, rồi đến gạo Vĩnh Long; gạo sản xuất từ Sóc Trăng, vùng Bãi Xào (gạo Ba
Thắt) thì được giá trên thị trường Trung Hoa hơn.
Ngày 16/6/1865 đô đốc Roze cho phép thành lập ũ ban
nghiên cứu phát triển Canh Nông và Kỹ nghệ ở Nam kỳ, bốn tháng sau ủy ban ra
tạp chí chuyên môn, dành nhiên cứu các loại sản phẩm nông nghiệp và kỹ nghệ mà
Nam kỳ có thể phát triển trong tương lai, nhằm giúp đường hướng cho bọn thực
dân làm ăn.
Ngoài ra, nhiều tờ Công báo cũng ra đời từ 1862,
1865, đáng chú ý là bọn thực dân ở Sài Gòn chia phe nhóm, ra báo Pháp ngữ công
kích lẫn nhau như "Líindépendant de Saigon, Ere Nouvelle..." và công
kích luôn chính sánh của Thống đốc. Tờ Gia Định Báo ra vào tháng 4/1865 bằng
chữ quốc ngữ nhằm mục đích phổ biến thông cáo, nghị định đến các làng các tổng.
Năm 1865, dân đinh trong bộ ở 3 tỉnh miền Đông là
35 778 người, năm 1866 được 39369 người, một phần do sự đăng bộ của đám dân ậu,
một phần là những người chạy giặc trở về trình diện để bảo vệ đất đai ruộng
vườn cho khỏi mất. Năm 1867, Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây, nhờ đó mà dân số
Nam kỳ được thêm khoảng 477000 người (kể cả nam phụ lão ấu), diện tích ruộng
đất tăng thêm khỏang 123000 mẫu tây và nhiều huê lợi khác chừng ba triệu quan.
Năm 1883, đường xe lửa Sài Gòn Mỹ Tho
bắt đầu hoạt động, hãng Tàu chạy sông ra đời vào 1883, gọi nôm na là tàu Mỹ
(xuất phát từ Mỹ Tho, rồi từ đó nối về Sài Gòn bằng xe lửa) hoặc tàu Nam Vang
vì chạy tới kinh đô chùa Tháp.
Thoạt tiên, để thử phát triển các giống lúa, thảo
mộc và gia súc, thực dân cho lập nông trại làm thí điểm do nhà nước tài trợ tại
khu đất Ô Ma ăn lên đồng Tập Trận rộng hơn 50 mẫu, trồng một mẫu lúa giống đem
từ Miến Điện nhưng thất bại, còn dư là để cho cỏ mọc, thử nuôi ngựa giống. Cũng
năm 1885, Ũ ban thành lập "Viện Bảo tàng thuộc địa" hoạt động lai
rai, thu lượm những mảnh tượng đá xưa, sưu tập cây cỏ ngoài Côn Đảo, trồng cây
kỹ nghệ và vài trăm loại thảo dược đem về từ Thượng Hải. Riêng về cây cà phê,
từ năm 1873, Thống đốc Nam kỳ khuyến khích, trợ cấp cho những người Pháp thử
trồng tỉa.
Dưới mắt một số thực dân và sĩ quan hải quân Pháp
thì vùng Sài Gòn (không kể vùng Chợ Lớn ngày nay) giống như quê hương của họ ở
xứ Normandie, họ khen ngợi vùng Chợ Quán và vùng Gò Vấp, nơi dân Việt định cư
lâu đời, có vườn tược, mỗi nhà đều có hàng rào bằng cây tươi, với đường xá quanh
co nối liền xóm nhỏ, bên đường là cây cổ thụ che mát.
Thực dân nghĩ đến việc thiết kế thành phố, và trong
việc "làm đẹp" thành phố, họ cố ý làm cho đất Sài Gòn mất vẻ cổ kính
mà dân Việt đã tạo được từ 170 năm qua. Nhà và đất có bằng khoán, cứ đóng thuế
thổ cư rồi đều mặc nhiên bị truất hữu theo quyết định của đô đốc, chỉ huy quân
lực khiêm chức thống đốc ký ngày 20/2/1862. Đất chia từng lô bán bằng bạc con ó
(không nhận trả bằng tiền kẽm), tất cả nhà cửa, vườn tược trên lô đất đều bị
bán luôn. Nếu chủ đất đấu không kịp giá thì có thể xin bồi thường với người đấu
giá được, muốn khiếu nại phải xuất trình toa vé xác nhận sở phí cất nhà trước
kia, nếu có.
Luật lệ tàn ác này khiến nhiều gia đình cố cựu ở
vùng Sài Gòn phải mất nhà, mất đất vì họ không đủ tiền để đấu giá cho kịp bọn
thực dân và bọn cường hào đang có tiền, chưa nói tới một số đông người đã chạy
giặc không dám về trình diện. Để cho những người mất đất tạm thỏa mãn, nhà nước
ra quyết định ngày 6/5/1862 dành vùng đất giữa kinh Tàu Hũ, rạch Ong Bé và rạch
Ong Lớn cho những người bị mất đất phía Sài Gòn và khuyên những người chủ đất ở
vùng Rạch Ong nên khiếu nại trong vòng 30 ngày: những người mất đất ở Sài Gòn
lại trở thành kẻ thù của người mất đất ở Rạch Ong. Ngày 2/2/1863, để xẻ đường
lộ và phòng kinh đào ở vùng Sài Gòn, thực dân ra lịnh ai có mồ mả của thân nhân
phải hốt cốt trong vòng 15 ngày.
Phía Chí Hòa, Hòa Hưng, Phú Thọ xưa kia
là làng xóm trù mật mà dân đã tản cư từ khi Nguyễn Tri Phương cho đắp thành Chí
Hòa (ăn từ Chí Hòa đến tận Bà Quẹo). Phần đất này lại chia ra từng lô từ 20 mẫu
đến 35 mẫu, bán hoặc cho mướn dài hạn, chỉ dành riêng cho người Pháp mà thôi.
Vùng bên kia sông, thuộc Khánh Hội và Thủ Thiêm
cũng phân lô, bán từ năm 1861. Mấy chợ nhỏ ở mé sông Sài Gòn ngày xưa bị dẹp
bỏ, dành cất phố xá và công sở. Quyết định ngày 12/8/1864 cho phép cất một nhà
chợ ở đầu cầu Ông Lãnh, công việc không trôi chảy như ý muốn, mãi đến tháng
6/1874 chợ này mới cất xong. Một số đất tốt được cấp vô điều kiện cho thân hào
nhân sĩ hữu công vào năm 1873 để cất nhà. Tháng 8/1880, cho đấu giá đất thổ cư
Chợ Lớn và Bình Tây, đa số người mua được là Huê kiều và ấn kiều.
Thể thức mà người Pháp dùng bấy giờ là cho đấu thầu
mọi dịch vụ, quan lại tha hồ tham nhũng và thương gia giỏi chạy áp phe thì làm
giàu nhanh chóng.
Thương gia Pháp và Đức kiều tha hồ làm mưa làm gió,
nào là đấu giá xây cất đồn bót, dinh thự ở Quy Nhơn, ở Bắc kỳ, Hải Phòng, cung
cấp mùng mền cho bọn lính sơn đá, đèn thắp ngoài đường, thức ăn cho lính, cho
tù, cho bệnh viện, nhứt là cung cấp vôi, xi măng, cây, ván, gạch. Người Trung
Hoa nhiều thế lực nhứt là Wang Tai. Lại còn nhiều dịch vụ đấu thầu khác mà
người Trung Hoa chiếm ưu thế: khi chiếm ba tỉnh miền Tây vừa xong, công ty Hoa
kiều Ban Hop nắm độc quyền về bán á phiện ở ba tỉnh này (28/8/1867). Và số tiền
kẽm thu thuế của dân cũng được Hoa kiều đấu giá mua lại: Công ty Tang Keng Sing
và Ban Hop mua 90000 quan tiền kẽm ở kho bạc Sa Đéc (1868), mua luôn 120000
quan ở Mõ Cày, 25000 quan ở Mỹ Tho. Hoa chi góp chợ, bến đò ở Sài Gòn và các
tỉnh thường lọt vào tay người ấn.
Từ 1861, riêng vùng Chợ Lớn, Pháp cho đấu thầu hoa
chi sòng bạc, quy định là mười sòng, cuối năm ấy lại áp dụng cho vùng Sài Gòn,
năm sau (1862) cho toàn ba tỉnh miền Đông. Người Trung Hoa rành về tổ chức sòng
bạc nên nắm độc quyền khai thác. Người Trung Hoa được ưu đãi, vì đã giúp đắc
lực để xuất cảng lúa gạo và phân phối các sản phẩm nhập cảng. Không nên chê
trách dân Nam kỳ thuở ấy không biết nắm độc quyền to lớn này, ta nên thấy rõ
vấn đề: người Trung Hoa đã tạo lập hệ thống buôn bán từ khi mới khẩn hoang, lập
chợ cù lao Phố, chợ Sài Gòn. Dầu cho người Việt muốn tranh thương thì cũng
chẳng tài nào làm nổi. Huê kiều ở Chợ Lớn dính líu với các nhóm tài phiệt ở Tân
Gia Ba. Và những Huê kiều chuyên mua lúa gạo ở
Tân Gia Ba đến Chợ Lớn lại được phép thành lập một bang
riêng, với ít nhiều tánh chất tự trị. Người Huê kiều có vốn lớn đem từ ngoại
quốc sang mà tung khắp hang cùng ngõ hẻm. Để cờ bạc, thưởng thức nhan sắc của
ca nhi, họ được phép thành lập nhà "xẹc" riêng để giải trí, bàn chuyện
đầu cơ, chuyện lo hối lộ với bọn Pháp hoặc là buôn lậu. Hàng chục nhà
"xẹc" khác trở thành nơi tụ tập riêng của từng tổ hợp: nào của người
Phước Kiến, của Nhóm thương gia Huê kiều ở Tân Gia Ba, Thương gia chuyên mua
bán lúa gạo, Nhóm thương gia chuyên mua lúa gạo Quảng Đông, Thương gia Huê kiều
ở Chợ Lớn hoặc Thương gia Huê kiều ở Chợ Lớn thuộc quốc tịch Anh... Họ cất
chành trữ lúa, mỗi nhóm giữ quyền lợi riêng, hoặc lập nhà máy xay lúa, mua ghe
chài.
Luật lệ về công thổ
Danh từ công thổ chỉ những loại đất còn
hoang, hoặc có chủ khai khẩn rồi bỏ phế trở thành vô thừa nhận. Ngày trước, đất
là của Vua. Người Pháp đến, xác nhận ruộng đất là của Thuộc địa, mặc nhiên nhà
nước làm chủ tất cả đất đai trong toàn cõi thuộc địa, muốn là sở hữu chủ phải
có sự chấp nhận về mặt pháp lý của Thống đốc Nam kỳ, ở tỉnh thì chủ tỉnh là
người được ủy quyền của quan Thống đốc trong phạm vi nhỏ.
Nhiều nghị định liên tiếp ra đời rồi điều chỉnh lại
vì sự thi hành không trôi chảy như ý. Đại khái, nghị định 30/3/1865 và 29/12/1871
định rằng nhà nước sẽ đo đạc, điều tra về đất đai để lần hồi cho dân khẩn.
Những điền chủ cũ có ghi tên trong địa bộ hồi đời Tự Đức phải trình diện để
khiếu nại trong vòng 3 tháng để từ ngày dán yết thị tại địa phương và đăng trên
Công báo, quá thời hạn trên thì đất ấy thuộc về nhà nước, xem là công thổ. Nhà
nước bán theo giá thuận mãi với giá là 10 quan mỗi mẫu tây. Riêng những ngừười
hữu công với nhà nước, đất có thể cấp không.
Người dính líu đến việc chống Pháp,
trong điều kiện ấy làm sao dám trình diện? Một số đất có chủ lại trở thành công
thổ. Những người không dính dấp gì tới quốc sự cũng bị thiệt thòi quyền lợi, họ
tiếp tục đệ đơn khiếu nại mặc dầu thời gian ba tháng niêm yết đã trôi qua. Họ
không biết chữ, hương chức làng lắm khi giấu giếm bảng yết thị đó để thủ lợi,
hoặc người chủ đất tản cư qua vùng khác, khi hay biết thì về quá trễ (châu tri
của Giám đốc Nội vụ ngày 7/5/1879). Trong tờ phúc trình lên Hội đồng quản hạt
đề ngày 11/10/1881 của Giám đốc Nội vụ thì cách chức khẩn đất hiện hữu quá rắc
rối. Trước kia, thời đàng cựu hễ ghi tên vào bộ điền, đóng thuế là làm chủ đất.
Theo luật mới, khi khẩn trưng 10 mẫu đất xong, muốn làm chủ thiệt thọ thì phải
mua với giá 10 quan mỗi mẫu và nộp bản đồ (gọi nôm na là bông đồ) đo đạc chính
xác theo phương pháp mới và được quan Thống đốc chuẩn phê. Như vậy là bất lợi
cho dân và cho nhà nước, nhà nước thiếu nhân viên chuyên về khám đạc (gọi nôm
na là họa đồ, kinh lý) để đi khắp các tỉnh các làng; tiền vốn vẽ bản đồ, tiền
in tờ bằng khoán lại cao hơn giá bán 10 quan mỗi mẫu. Nghị định năm 1878 cho
phép dân khẩn đất được miễn thuế bốn năm đầu tiên nên người nghèo vào đơn xin
trưng khẩn quá nhiều. Nay cứ đặt ra điều kiện dễ dãi, hễ ghi tên vào bộ điền,
chịu đóng thuế là coi như đã làm chủ, nhưng người khẩn đất chỉ được miễn thuế
trong năm đầu mà thôi, năm sau phải đóng đủ. Tờ phúc trình này cũng khuyến cáo
các tham biện chủ tỉnh không nên cấp những lô đất to hơn 20 mẫu, đề phòng nảy
sinh ra giai cấp đại điền chủ.
Năm 1885, nhìn chung là ít ai chịu khẩn
đất với diện tích rộng hơn 20 mẫu (đa số dân nghèo đều làm đơn xin trưng khẩn
dưới 10 mẫu) vì sợ đóng thuế không nỗi. Kẻ nào xin khẩn sở đất to là nhắm vào
đất tốt để đầu cơ, bán lại. Từ năm 1882 đến 1885 số đất được dân xin khẩn là
9055 mẫu.
Về công điền, tên tham biện Nicolai đã làm tờ phúc
trình dứt khoát để tước đoạt không cho hương chức làng hưởng quyền hạn rộng như
xưa. Nicolai trình bày:
- Theo nghị định 29/10/1871 và 22/8/1882 hễ phần
đất nào không ghi vào địa bộ với sở hữu chủ rõ rệt thì phải theo quy chế đất
công thổ. Trước khi người Pháp đến, hương chức làng có quyền đối với đất hoang
trong địa phận họ cai trị, quan Bố chánh chỉ can thiệp khi đất ấy đã có người
canh tác nhưng người ấy không đóng thuế hoặc đóng thuế ít so với diện tích.
Hương chức làng ngày xưa được quyền gọi dân tới khẩn, bắt buộc họ làm đơn, vẽ
bản đồ sơ sài rồi chịu thuế.
Nicolai nhắc lại những nguyên tắc của nghị định
1871:
-
Đất hoan, chưa
vô bộ, chỉ có quan Thống đốc Nam kỳ mới được phép cho trưng khẩn, bán hoặc đổi.
- Chỉ có tham biện chủ tỉnh, thừa ủy quyền của Thống
đốc Nam kỳ mới được phép quy định ranh giới công thổ.
- Đất nào có chủ thời đàng cựu, nhưng sau ba tháng
truyền rao trên Công báo mà chủ không nhìn nhận, hoặc thiếu bằng cớ cần trưng
ra khi nhìn nhận, thì sẽ không được tranh chấp nữa và trở thành công thổ. Tóm
lại, công thổ (đất hoang, vô chủ trong địa phận mỗi làng) không phải là đất của
làng, dẫu là về mặt tinh thần, tượng trưng. Hương chức không có quyền cấp đất
hoang, hoặc cho dân tạm khẩn hoặc cày cấy tạm. Quyền ấy là của tham biện chủ
tỉnh, thay mặt cho nhà nước. Bấy lâu vì chưa hiểu nguyên tắc ấy, nhiều nơi
hương chức còn tự ý cấp đất hoang. Quan Toàn quyền Đông Dương đã ký nghị định
2/1/1892 để ngăn cản tình trạng trên.
Với sự quy định ấy, thôn xóm chỉ còn tự
trị về mặt hình thức mà thôi, vì trong thực chất, hương chức làng chẳng còn
quyền hạn gì đối với đất đai bỏ hoang cả. Ngay đến sở đất gọi là công điền của
làng, phải được nhà nước thừa nhận thì mới là hợp pháp.
Tình hình các tỉnh dưới mắt người Pháp
Tài liệu vào thời người Pháp mới đến tuy dồi dào
nhưng phiến diện, chỉ là sự nhận xét và báo cáo chủ quan của vài viên chức nặng
óc thực dân. Xin lược kê đôi ba tài liệu, gọi là chỉ dẫn mà thôi:
— Báo cáo của Paul Vial, Giám đốc Nội vụ vào tháng
9/1865: tỉnh Mỹ Tho ở vào ải địa đầu (Vĩnh Long, bấy giờ thuộc quyền triều đình
Huế) chia ra bốn hạt tham biện, mỗi hạt do người Pháp trực tiếp trông coi, dân
làng đã tự động chống quân làm loạn. Tháng rồi, 4 lãnh tụ trước kia theo Trương
Định bị bắt và giết ở phía Gò Công, do người bổn xứ giết (nên hiểu là bọn theo
Pháp như lãnh binh Tấn).
So với năm rồi, diện tích làm ruộng tăng thêm 50
phần trăm. Dân ở Sài Gòn và Biên Hòa tăng thêm, đó là dân hồi cư. Tỉnh Biên Hòa
được khả quan từ khi lập đồn Bảo Chánh, một số dân miền Thượng giúp đỡ Pháp để
chận loạn quân từ Bình Thuận đột nhập. Người Thượng theo Pháp vì dư đảng của
Trương Định đối xử vụng về với họ.
Tỉnh Sài Gòn (Gia Định) không còn loạn quân nhưng
bọn cướp còn đánh phá ghe thuyền di chuyển lẻ tẻ. Có chừng 20000 ghe thuyền lớn
nhỏ chở chuyên hàng hóa, phân nửa số này di chuyển thường trực. Vial đề nghị
cho tàu máy đi tuần theo sông rạch, mỗi tàu chỉ cần 2 người Pháp, 6 tên lính mã
tà là đủ. Trước kia, chợ quan trọng ở nơi xa, nước cạn, vì vậy bọn giặc Tàu Ô
khó khuấy rối, bây giờ cũng vì nước cạn mà tàu máy khó tới (phải chăng muốn ám
chỉ vùng Ba Cụm lừng danh). Gần sông Vàm Cỏ (có lẽ Vàm Cỏ Tây) còn một nhóm 7
người Tagal và một số loạn quân ẩn náu, trước sau gì chúng cũng bị dẹp (đây là
lính Tagal từ Phi Luật Tân qua đánh ta lúc trước). Vial nhận định rằng quan lại
thời đàng cựu hống hách với dân; nạn nhân của chế độ cũ là những điền chủ và
thương gia giàu có. Hai hạng này được Pháp chú ý trọng dụng. Vial khen ngợi họ
hăng hái hoạt động và có óc thực tế, họ sẽ giúp người Pháp thâu phục nhân tâm.
á phiện đem cho nhà nước hoa chi 1 200
000 quan mỗi năm. Vial cho rằng người bổn xứ đã hút trước khi Pháp đến, á phiện
không hại gì cả, nếu hút có độ lượng. Đề nghị nên tiếp tục cho hút vì dân Trung
Hoa hút khá nhiều nhưng vẫn giữ được đức tánh cố hữu là hăng hái, siêng năng.
Hoa chi sòng bạc thâu được 400 000 quan vào năm rồi
nhưng gây xáo trộn ở làng xóm. Hương chức làng vì mê cờ bạc nên ăn cắp công quỹ
và ăn hối lộ. Nông phu đánh bài, trẻ con cũng vậy, sanh nạn trộm cắp. Đề nghị
dẹp hoa chi cờ bạc, nếu cần thì chỉ cho phép mở sòng bạc tại Sài Gòn mà thôi.
Về thuế bến thì tàu Pháp và tàu Tây Ban Nha hưởng
ưu tiên khỏi đóng. Đề nghị nên bỏ thuế này cho tàu buôn bán các nước khác, để
thương cảnh thêm tấp nập.
Gạo tăng giá 5 lần lúc hơn trước, nhờ xuất cảng
được.
Ruộng làm nhiều vì lúa bán cao giá.
Ruộng canh tác lậu thuế quá nhiều, có đến phân nửa diện tích trốn thuế. Vài năm
nữa, nếu đo đạc xong, thuế điền sẽ thâu được gần bằng hai mà khỏi cần tăng giá
biểu thuế. Vial cho rằng giá biểu thuế điền còn quá thấp.
Số dân công làm xâu trị giá 1 triệu quan mỗi năm.
Với số bạc mặt tương đương, chưa chắc mướn được nhân công để đào kinh, đắp lộ
như người Pháp đã làm (đây là việc cưỡng bách làm xâu thời đàng cựu mà người
Pháp duy trì).
Giá đường, non 1 quan 1 kí lô. Dầu
phộng, 60 quan 1 tạ dầu, dầu dừa 8 quan 10 lít, cau khô bán qua Trung Hoa (?)
từ 60 đến 80 quan mỗi tạ...
Điền chủ bổn xứ cho tá điền vay ăn lời từ 5 đến 10
phân mỗi tháng, tá điền phải chịu điều kiện là dùng hoa màu thu hoạc được để
thế chân. Thông lệ là tháng 7 dương lịch năm tới là trả điền vay, tới tháng 1
dương lịch năm tới là trả gấp đôi. Vial nhận xét thêm về mức sống và trình độ
văn minh của dân Nam kỳ: khá cao, sang trọng, mỗi chợ đều có đủ thứ nghề, nào
là dệt chiếu, nào trại mộc, lò đặt rượu, nhà dệt, lò nhuộm. Trại hòm hoạt động
mạnh, hòm (quan tài) hạng thường nbán 30 quan, mỗi năm sản xuất từ 20 đến 20
ngàn cái tức là trong 3 tỉnh miền đông Nam kỳ xài 1 000 000 quan về hòm, người
Việt chú trọng đến cái hòm của mình từ khi còn sống.
Về tiền tệ, Vial nêu vài chi tiết đáng chú ý:
Một quan tiền kẽm gồm 600 đồng, ăn 1 quan tiền
Pháp.
Một quan tiền kẽm đời các vua sau này cân nặng từ 1
kí lô 10 đến 1 kí lô 1, trong khi tiền kẽm đời Gia Long cân nặng hơn: từ 1 kí
lô 20 đến 1 kí lô 25. Trong quan tiền kẽm thông dụng, có khoảng 5/7 là tiền đời
Gia Long.
Bạc nén, mỗi nén nặng 374 g (10 lượng) nhà nước
nhận khi thâu thuế với giá là 74 quan 61, nhưng bạc nén đem ra chợ đổi được từ
95 đến 100 quan tiền ta, hoặc từ 16 đến 20 đồng bạc con ó.
Một nén vàng, mà Vial cho là ít khi thấy xài, cân
nặng khoảng 336 g, dân xài với giá từ 1400 đến 1500 quan, kho bạc nhà nước nhận
xài với giá chính thức là 1050 quan.
Đồng bạc con ó lúc đầu khó xài trong dân gian, một
đồng con ó đổi 3 quan mà thôi, phổ biến rất chậm. ở thôn quê chưa thấy xài.
Thời ấy vì xài nhiều thứ tiền khác nhau nên có nạn đầu cơ tùy theo mùa, có thể
đem lợi cho bọn người chuyên đổi tiền.
— Báo cáo của Paul Vial ngày 17/9/1867: giúp thấy
sơ qua tình hình 3 tỉnh miền tây vừa bị Pháp chiếm từ 20/6 tức là non 3 tháng
trước. Mục đích của viên Giám đốc Nội vụ này là tìm hiểu nguyện vọng, giải
thích cho dân hiểu thiện chí của người Pháp. Mặt khác, thử nghiên cứu cách thức
thâu thuế điền bằng tiền mặt, thay vì thâu bằng lúa như thời đàng cựu.
Theo Vial, lúc trước ở 3 tỉnh miền
Tây có từ 4 đến 5000 lính đàng cựu, nay chỉ cần tuyển chọn 900 người là đủ dùng
vào việc trị an (bớt tốn công quỹ để nuôi lính). Nên tuyển chọn lính mã tà
trong gia đình dân có bộ (khá giả), được bảo đảm hơn là lựa trong đám lưu dân.
Vial xuống tàu ngày 31/8/1867 (từ Mỹ Tho) với 25 lính mã tà từ Gò Công gởi qua
tăng cường cho Trà Vinh, trước đó có 50 lính mã tà đã đến Trà Vinh rồi. Tới Bến
Tre, Vial còn thấy di tích của dinh phủ Hoằng Trị thời đàng cựu đã bị bắn sập
từ 1862, quan tham biện làm việc trong căn nhà lá, tiếp tay với tham biện là
hai quan huyện: một là cựu cai tổng ở Gò Vấp, một là tay phú hộ ở Gò Công. Tham
biện Bến Tre lúc bấy giờ là Champeaux. Theo ý kiến Champeaux thì dân Bến Tre
sẵn sàng đóng thuế bằng tiền. Champeaux thắc mắc về sự hiện diện của một số
quan lại cựu trào đang cư ngụ dưỡng già tại Bến Tre, xem như là những phần tử
có hại cho an ninh (chắc ám chỉ những người ở Ba Tri như ông Đồ Chiểu?) Tàu đến
vàm rạch Cầu Ngang. Cách chỗ tàu đậu chừng 4000 thước, quân sĩ đang giao chiến
với loạn quân, lát sau, Pháp tái chiếm Cầu Ngang. Đêm đến, Vial ngủ tại Cầu
Ngang, được biết rằng tất cả dân làng đều theo bọn phiến loạn. Từ ngày 28/8,
tại làng Tân Lập, dân nổi loạn giết một thư kỳ và 3 lính mã tà. Một tốp Cao Miên
chừng 200 người tới xin quy thuận và điềm chỉ bọn cầm đầu phản loạn gồm chừng
54 tên nhưng bọn này đã trốn mất. Đến Vĩnh Long, bấy giờ dân đang còn lo sợ,
chợ Vĩnh Long có đường sá lót bằng gạch vụn. Chợ Sa Đéc rộng rãi và náo nhiệt.
Viên tham biện Sa Đéc mách cho Vial biết: huyện Phong Phú (Ô Môn, Cần Thơ) ở
quá xa, cần lập tại đó một hạt tham biện. Phong Phú là vùng giàu có nhưng chưa
kiểm soát được. Vial đi từ Sa Đéc qua Rạch Giá theo rạch Lấp Vò, ở chặng đầu,
thấy dân đông, sung túc. Ra Hậu giang, đến Đông Xuyên (tức là Long Xuyên ngày
nay), thấy cù lao trên sông có nhiều rẫy mía khá tốt. Vial tiếp tục hành trình
qua Rạch Giá theo kinh Núi Sập (Thoại Hà), kinh nhiều cỏ, tàu khó chạy vì chân
vịt tàu thường bị vướng, muỗi quá nhiều, không thấy nhà cửa ở hai bờ kinh. Sáng
ngày 9/9 đến Rạch Giá, khúc gần chợ, bề ngang rạch chừng 30 đến 40 thước, hai
bên đầy nhà cửa và ghe xuồng. Nước chảy mạnh, tại vàm biển ngoài những ghe cỡ
nhỏ còn có một chiếc goélette (Vial muốn nói loại tàu buồm Hải Nam?) trọng tải chừng
80 tonneaux của người Tàu ở Kampot đến đậu từ 3, 4 tháng rồi, chờ khi thuận gió
sẽ rời bến.
Vàm Rạch Giá cạn, vì vậy đã cho cắm mấy hàng nọc
dài ra biển để hướng dẫn cho tàu khỏi rướn lên bãi bùn. Quân sĩ và tham biện
Rạch Giá ngụ trong đồn cũ thời cựu trào, tu bổ khéo léo, mỗi góc đồn chừng 80
mét (đồn này không đầy một năm sau là bị Nguyễn Trung Trực đốt rụi). Tư thất
tham biện lợp lá, còn tốt. Dinh tham biện ở hữu ngạn Rạch Giá, trên giồng cao,
nhiều cát, gần đấy có xóm nhà và vườn cây ăn trái. Thời cựu trào, người Tàu ở
đây có quyền hạn nhiều (ít nhiều tự trị) phỏng định chừng 800 người, khó tin
cậy, đề nghị tăng cường cho Rạch Giá vài người lính Pháp.
Mấy ông cai tổng ở Cà Mau (bấy giờ, Cà
Mau thuộc về hạt tham biện Rạch Giá) đang gom mấy khẩu thần công thời cựu trào
đem về đồn. Tại Cà Mau, có 20 lính mã tà nhưng xin thêm 120 lính nữa để tăng
cường. Hạt Rạch Giá ruộng ít, dân ít, nếu bắt thêm 100 lính thì dân chịu không
kham, không như ở Sa Đéc và Vĩnh Long nơi dân đông hơn. Người Cao Miên ở Rạch Giá
đông gần bằng người Việt Nam, có nuôi bò nhưng không phải nuôi để ăn thịt. Vial
muốn cho lính và viên chức Pháp ở Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Rạch Giá được
ăn thịt bò đầy đủ.
Trở về Đông Xuyên (Long Xuyên) để xuồng Ba Xuyên,
từ vàm rạch Ba Xuyên đến chợ Sóc Trăng tốn 10 giờ vì nước cạn. Tàu chạy được
một khoảng, khoảng còn lại phải đi ghe. Trên đường tới Sóc Trăng có nhà thờ
Công giáo nhỏ, chợ Sóc Trăng nhiều gạo, gạo ngon và bán thật rẻ, nhiều ghe từ
Vĩnh Long, Sa Đéc, Mỹ Tho, Chợ Lớn đến mua. Lính mã tà ở Sóc Trăng gồm một số ở
Hóc Môn đổi tới nên khi gặp ông phủ Trần Tử Ca (cùng đi với Vial) thì họ quá
mừng, họ nhớ nhà, tới đây 25 người, đã chết 3 người. Sáu năm về trước, người
Miên Sóc Trăng đã nổi loạn chống cựu trào, từ đó về sau họ thù hằn người Việt.
Ông phủ U là người Miên hợp tác với Pháp. Lúc ở Sóc Trăng, Vial được tin gởi về
cho biết lính mã tà ở Cà Mau vừa bắt được bá hộ Chương, người cầm đầu phản loạn
bấy lâu. Chuyến về, Vial được phủ Trực cho biết: có con rạch đi tắt từ Mỹ Tho
đến Trà Vinh, đó là rạch Lách Cần Thay (nay là Chợ Lách). Vial cho biết: các
tham biện mà ông ta gặp đều đồng ý là nên giải tán hẳn các đồn điền đàng cựu,
đất ruộng thì giao trả lại cho làng cũ vì đa số dân đồn điền theo phe làm loạn
trong thời gian qua. ở tỉnh Sài Gòn (Gia Định), việc giải tán đồn điền đã thi
hành có kết quả từ 1861.
Hình ảnh miền quê dưới mắt một người Việt
Năm 1894 ông Dương Tế Mỹ làm chức kinh
lịch (lettré, một chức vụ khong quan trọng chuyên phiên dịch những giấy tờ chữ
Nôm, chữ Nho ra quốc ngữ) gởi về Nam kỳ Soái phủ một tờ trình, góp vài ý kiến
để cải cách xã hội, đề tháng 10/1894. Bấy giờ, Dương Tế Mỹ đã nghỉ việc, cư ngụ
tại làng Minh Đức, tỉnh Trà Vinh. Xem qua, ta hiểu phần nào bộ mặt của miền quê
hồi cuối thế kỷ 19. ý kiến của ông Mỹ có thể tóm tắt như sau:
- Nạn đánh me lan tràn, người Huê kiều làm chủ sòng
mà thủ lợi, việc đánh me được nhà nước hợp thức hóa để thâu hoa chi. Vì cờ bạc
mà sanh nạn trộm cắp, con nít 12 tuổi cũng biết đánh me. Đề nghị nhà nước ta
nên kiểm soát nghề nghiệp và lý lịch của dân cho kỹ hơn.
-
Bọn làm bồi
cho Tây sống lưu động, là bọn du đảng nguy hiểm. Nên nhốt bọn chúng
- Nên mở mang tiểu công nghệ cho dân có thêm công ăn
việc làm, nên phát triển trồng bông vải.
-
Yêu cầu nhà
nước đừng đánh thuế rượu đế (rượu nếp nấu theo phương pháp cổ truyền). Người
Tàu chịu đóng thuế, đặt rượu nếp bán lại cho dân, mấy nhà máy rượu ấy bỏ hèm:
hèm là thứ mà dân ta dùng nuôi heo rất tốt. Để bù vào thuế rượu, nhà nước có
thể tăng thuế thân hoặc thuế điền. Hồi đàng cựu, ai muốn nấu rượu thì cứ tha
hồ, nhờ đó mà dân nhậu thưởng thức nhiều thứ rượu nếp với hương vị độc đáo khác
nhau, chẳng khác nào rượu nho bên Pháp gồm nhiều loại. Người Hoa kiều nắm độc
quyền lập nhà máy đặt rượu nên dân chỉ thưởng thức có một thứ rượu mà thôi. Hễ
được tự do đặt rượu dân có thể tìm thứ rượu ngon theo sở thích mà uống. Nếu nhà
nước bỏ thuế rượu, sẽ có chừng 15 phần trăm dân chúng được nhờ, họ xay nếp đặt
rượu bán, lấy hèm để nuôi thêm heo; do đó, giá thịt heo sẽ rẻ.
- Có đến 3/4 dân chúng mang tật cờ bạc.
- Mấy ông cai tổng ở Trà Vinh đã thật sự trở thành
tai họa lớn cho dân. Mỗi lần bầu cử cai tổng, nhiều người dám tốn 1000 hoặc
2000 đồng để lo hối lộ với quan trên hoặc bày tiệc mua chuộc cảm tình trước.
Tuy tốn kém lớn nhưng trong năm đầu tiên, các ông lấy được vốn và thêm lời,
tiền thâu vô phỏng định từ 2500 đến 3000 đồng với chi tiết như sau:
* Nhận lễ vật của dân và của làng vào dịp Tết: 120
đồng.
* Nhận lễ vật của dân vào ngày mùng 5 tháng 5: 120
đồng.
*
Nhận của hương
chức làng, mỗi tháng khi hương chức đến hầu là 80 đồng.
* Nhận hối lộ của hương chức khi làng lập bộ thuế
đinh và thuế điền, khai thêm khai bớt cho nhẹ thuế: 300 đồng.
* Cho chứa cờ bạc, mỗi tháng thâu 50 đồng.
* Én hối lộ rải rác khi đi thăm các làng: 200 đồng.
*
Bắt dân làm
công nhựt, tức là làm xâu cho cá nhân: làm ruộng, phát cỏ vườn, đào mương vườn,
chèo ghe thí công.
* Én hối lộ khi xử kiện, 700 đồng một năm. Ai lo tiền
nhiều là thắng kiện.
* Chứa chấp bọn ăn trộm, chia tiền bạc với chúng.
* Cướp đoạt ruộng đất của dân để cho mướn lại.
lại.
* Ai muốn làm đám giỗ phải làm đơn, muốn được phép
phải lo tiền.
*
Bọn tay sai
của cai tổng (biện, người chạy giấy) tha hồ tống tiền hương chức, hưởng huê
hồng riêng là 17 phần trăm. Bọn này trở nên giàu có.
* Vài viên cai tổng có từ 10 đến 15 bà vợ, tất cả đều
do các ông trợ cấp.
* Cai tổng thường lạm quyền, khám xét thơ từ của dân
hoặc tờ trát của quan trên gởi về làng.
- Đề nghị cho các ông cai tổng đổi vùng để bớt
những tệ đoan nói trên...
Mười phần thế nào cũng có tám chín hoặc
hơn nữa. Đây là tiếng nói của một viên chức thân Pháp, tuy còn máu phong kiến
nhưng bất mãn, vì thực dân đã tỏ ra "phong kiến hơn phong kiến" với
hình thức giả hiệu tự do, bình đẳng, bác ái. Đáng chú ý là chuyện cướp đoạt
ruộng đất.
Trường hợp một vụ người Việt cướp đất của người
Việt
Tài liệu rút từ bản báo cáo của đốc phủ sứ Trần Tử
Ca, đề ngày 29/11/1869 (hai năm sau khi mất ba tỉnh miền Tây), xảy ra ở tỉnh
Vĩnh Long. Phủ Ca là người tận tụy với người Pháp, về sau bị giết ở Hóc Môn, ấy
thế mà vẫn bất bình và can thiệp không được. Người bị tố cáo là cai tổng Nguyễn
Văn Dõng thuộc tổng Bình Chánh, huyện Vĩnh Trị, tỉnh Vĩnh Long (Vũng Liêm), năm
trước loạn quân còn hăng hái hoạt động. Phủ Trực được thực dân tinh cậy giao
cho huyện này.
Tổng Dõng xin với phủ Trực cho mộ 30 người để làm
lính giữ trật tự trong vùng, nhưng lại dùng số người này để phục dịch việc
riêng tư.
Bấy giờ phủ Trực cho khai con kinh tại Bưng Trường,
hai bên bờ đất tốt, phát cỏ rồi cấy là xong, khỏi cày. Phủ Trực truyền cho dân
lậu ở các làng cứ đến đó mà khẩn đất, sau ba năm thì nộp thuế, lập làng mới,
giống như thời đàng cựu. Dân lậu kéo đến làm ruộng, lập được 3 tổng, tính hơn
20 làng (mỗi làng 10 tên dân, khẩn ruộng 20 mẫu). Một số dân khác cũng tới con
kinh này vì đất ở quê quán quá xấu, họ làm ruộng thêm, lấy huê lợi đem về đóng
thuế ruộng ở quê quán.
Vì là cơ hội để khẩn đất nên số lính mà tổng Dõng
đã mộ trước kia bèn trốn tới kinh này làm ruộng, gia nhập vào các làng mới lập.
Tổng Dõng kêu nài, phủ Trực lần sau chỉ cấp cho 5 người tùng giả, do dân làng
nạp (tùng giả là người sai vặt, cận vệ của cai tổng hoặc hương chức làng, theo
quy chế xưa, có ăn lương tượng trưng).
Tổng Dõng quá khôn, nhân cơ hội này làm đơn đến
tham biện chủ tỉnh, xin khẩn riêng đất hoang 20 mẫu (tức là diện tích quy định
cho một làng), phần đất này giáp Bình Thắng thôn (Đông), Bình Thọ thôn (Tây),
Thạnh Mỹ thôn (Nam), Long Khánh thôn (Bắc). Đơn được chấp thuận, phủ Trực đã
chỉ rõ ranh giới phần đất như trên cho tổng Dõng biết.
Vì mẹ chết nên phủ Trực nghỉ phép ba tháng, thừa cơ
hội ấy, tổng Dõng trở thành vua một cõi, từ sở đất vừa được phép khai khẩn ông
ta lấn ranh qua thôn Bình Thắng phía Đông, lấn 150 mẫu dành cho bà con bên vợ
làm.
Tổng Dõng bèn dâng đơn lên quan phó
tham biện mà tố cáo: Vì có đào kinh mới nên dân đã bỏ làng do ông vừa lập mà
đi, xin quan trên ra lịnh cho dân trở về làng cũ. Quan phó tham biện chấp thuận
và cho Dõng một tờ trát để đuổi dân. Dân mới làm ruộng đang lúc bắt mạ (gieo
mạ) nên do dự, không chịu về, Dõng bắt họ mà đóng trăng (một thứ gông làm bằng
ván khoét) và đánh đập.
Đỗ Hữu Phương (sau này là tổng đốc Phương) bấy giờ
là đốc phủ sứ ở tại chợ Vĩnh Long lo việc dẹp loạn, bèn thâu lại lịnh đuổi ấy
giao cho phủ Trực vừa mãn thời gian nghỉ phép, trở lại nhiệm sở. Bấy giờ dân
làng Bình Thắng giáp ranh đất của Dõng lại đâm đơn tố cáo Dõng về tội lấn đất
làng họ. Phủ Trực đòi Dõng tới, nhưng Dõng lánh mặt rồi đi thẳng lên tỉnh mà tố
cáo phủ Trực với phó tham biện.
Trở về, tổng Dõng khoe với dân rằng phó
tham biện dạy làng Bình Thắng phải thường cho ông ta mỗi công đất là 8 giạ lúa
và 8 quan tiền; ruộng 1638 công (tức là non 150 mẫu mà Dõng đã lấn ranh) bồi
thường với giá 10944 quan, năm sau đất tốt hơn, phải bồi thường đến 13680 quan.
Bấy giờ (có lẽ phủ Trực làm hậu thuẫn bên trong vì
khi cho đào kinh, ông ta đã có tham vọng chiếm đất), dân làng Bình Thắng tố cáo
Dõng 13 khoản, làng Long Hội tố cáo 27 khoảng, làng An Hội tố cáo 21 khoản.
Quan tham biện giao cho phủ Ca xét xử. Phủ Ca đến huyện Vĩnh Trị, hai làng khác
tố cáo thêm. Và khi đến làng Bình Thắng lại nhận đơn tố cáo khác. Tổng Dõng
không chịu đến để giáp mặt với làng. Phủ Ca đành đến Mân Thít (nguyên văn ghi
là Mơn Thích) gặp tổng Dõng.
Cuộc điều tra của phủ Ca cho thấy rõ tổng Dõng phạm
vào các tội:
Chiếm làng Bình Thắng 150 mẫu, chiếm của làng Bình
Thọ hơn 100 mẫu. Dõng còn mượn tiền bạc, lúa gạo của làng và của dân 512 quan
mà không trả. Nhưng tham biện Vĩnh Long chỉ cho phép phủ Ca xử vụ chiếm đất
làng Bình Thắng mà thôi, các khoản khác đều bỏ qua. Phủ Ca đề nghị tịch thâu
cây súng riêng của Dõng, đày Dõng lên Sài Gòn hoặc Trảng Bàng một năm "để
sửa mình". Phủ Ca cho biết thêm là Dõng lợi dụng những người "theo
nghịch" mà Dõng tha tội cho, sau khi thông dâm với mẹ của tội nhân, và bắt
tội nhân làm đày tớ riêng. Lại còn bắt dân làm đày tớ riêng cho vợ bé, bắt
hương chức làng đóng thuế cho phần đất của anh vợ. Ai muốn được cử hương thân,
hương hào phải lo hối lộ mỗi người 5 quan, bằng không thì đánh 40 hoặc 50 roi,
và nhiều khoản khác.
Sự việc kết thúc ra sao? Ai phải ai quấy? Điều chắc
chắn là bọn theo Pháp thời bấy giờ giành giựt quyền lợi, ăn thua nhau và dựa
vào những gốc to là bọn Pháp. Bọn Pháp sử dụng dân bản xứ trong việc trừ nội
loạn và đồng thời cũng thích ăn hối lộ. Chỉ tội cho người dân chịu oan khổ, nào
quan tây, quan ta, tốn công khẩn hoang; luật lệ, nghị định của các quan Thống
đốc chỉ là hình thức.
Điển hình một vụ người Pháp lập tiểu
quốc ở cù lao Năm Thôn: công ty Taillefer
Trước khi chiếm ba tỉnh miền Tây, nhà nước đã kêu
gọi người Pháp nên mua đất ruộng vì là dịch vụ có lời nhanh chóng, thí dụ như
ruộng ở làng Bình Lập (Tân An) vào 1865 mỗi mẫu (ha) đem lại lợi tức 140 quan
mỗi năm, nhưng bán chỉ có 100 quan mỗi mẫu. Thực dân tiên đoán: gạo xuất cảng
dễ và cao giá nên nhứt định giá ruộng sẽ tăng lên. Khi trước mỗi mẫu đem lại
lợi tức từ 30 đến 40 quan, nhưng từ khi hương cảng Sài Gòn mở cho tàu buôn
ngoại quốc vào, giá gạo tăng gấp bốn lần hồi đàng cựu.
Một trong những người Pháp lạc quan, táo bạo nhứt
trong vụ làm ăn về ruộng đất là Taillefer. Vốn là sĩ quan hải quân, từng tham
gia chiến trận. Ông ta xin phép nghỉ không ăn lương, dành thời giờ mà khai thác
nông nghiệp. Cha của Taillefer làm dân biểu bên Pháp, nhà giàu, có vườn nho.
Vào cuối 1864, Taillefer đệ trình với viên Tổng tham mưu quân đội viễn chinh ở
Sài Gòn một dự án. Bấy giờ là giai đoạn quân sự nên nhà binh nắm rất nhiều
quyền hạn. Taillefer muốn dẫn thủy nhập điền để làm ruộng mỗi năm hai mùa, nhờ
đó mà mức sản xuất lúa gạo sẽ tăng gấp đôi. Kinh Bảo Định (nối từ chợ Tân An
đến chợ Mỹ Tho, Vàm Cỏ Tây đến Tiền Giang) có thể chọn làm
địa điểm, kế hoạch tiến hành như sau:
- Đắp đập chận hai đầu kinh này, lấy nước ngọt tát
lên ruộng, dùng 3 máy chạy bằng hơi nước (mỗi máy 50 mã lực); chạy mỗi ngày 12
giờ là tát được 486000 thước khối.
-
Mỗi mẫu tây
chỉ cần 1000 thước khối nước là đủ làm ruộng. Nếu trừ hao nước bốc hơi là 10
phần trăm, cứ 10 ngày, máy chạy 1 lần là đủ. Ai có đất hai bên bờ kinh thì cứ
đào mương mà hứng nước vào ruộng, trả lại cho công ty mỗi mẫu và mỗi mùa lúa là
100 quan.
- Việc tát nước vào mùa nắng giúp mỗi năm làm được
hai mùa, nước dưới rạch tát lên có sẵn phù sa là thứ phân quá tốt, dân khỏi tốn
tiền mua phân bón ruộng. Lần hồi sẽ khai thác thêm, áp dụng cách tát nước bằng
máy này khắp cánh đồng bao la giữa Cao Miên và Sài Gòn!
Thoạt tiên, kế hoạch được chú ý, nhà cầm quyền nhờ
các viên tham biện tìm thử ở Trảng Bàng, Tây Ninh hoặc Mỹ Tho một sở đất liền
lạc rộng khoảng 1000 mẫu để thực thi, nhưng tìm không ra.
Kế hoạch đẹp đẽ trên giấy tờ bị dẹp
qua. Nhưng Taillefer không thối chí. Khoảng 1866, lại lập một công ty lấy tên
là công ty Trồng Tỉa và Dẫn Thủy ở Nam kỳ, hoạt động chừng 5 năm là phá sản
luôn, gây bao nhiêu thắc mắc cho nhà nước. Taillefer muốn lập một tiểu quốc ở
cù lao Năm Thôn (Mỹ Tho) trên Tiền giang mà ông ta chiếm trọn, (ngoài ra, còn
khẩn đất ở Tân An 189 mẫu đất, lập một đồn điền khác).
Đất ở Tân An và ở cù lao Năm Thôn mà Taillefer
trưng khẩn không phải là đất hoang, nhưng là giựt của dân.
Vốn của công ty là 300 000 quan.
Cù lao Năm Thôn là vùng trù phú nhứt
nhì của sông Tiền giang, khai khẩn từ hồi chúa Nguyễn, nổi danh nhờ huê lợi
ruộng, trồng cau dừa, trồng dâu nuôi tằm. Trước khi thực dân đến, đã lập xong 5
thôn (vì vậy mà gọi là Năm Thôn). Cù lao bỏ hoang vì dân chạy giặc (nên nhớ đây
là vùng sát bên Cái Bè, nơi Tổng đốc Lộc trấn đóng). Mãi đến 6 năm sau, chỉ có
8 gia đình trở về xin lãnh phần đất mà trước kia họ làm chủ, viên tham biện cho
phép. Số đất được dân nhìn nhận trở lại có 36 mẫu mà thôi.
Taillefer đến, thoạt tiên trưng khẩn một lô 300 mẫu
tây, nhà nước cấp cho bằng khoán. Rồi xin khẩn trọn cù lao nhưng nhà nước đưa
ra giá quá cao nên việc không xong. Khi làm bá chủ phần lớn cù lau này (trong
thực tế là chiếm trọn), Taillefer đến gặp số người đã hồi cư, họ hứa sẵn sàng
bán đất cho y (36 mẫu vừa kể trên) sau khi họ có bằng khoán. Tạm thời, họ sẵn
sàng mượn tiền của công ty để làm ăn. Lẽ dĩ nhiên công ty hài lòng, muốn làm
ruộng mà thiếu dân thì sao thực hiện được. Điều đáng chú ý là trước khi cấp cho
Taillefer lô đất to này, nhà nước đã niêm yết suốt ba tháng trong tỉnh Mỹ Tho
nhưng mấy người chủ đất cũ chẳng ai ra tranh cản (không dám tranh cản thì đúng
hơn).
Taillefer trở nên hống hách, công khai
tuyên bố rằng cù lao này thuộc trọn quyền sở hữu của y, dân ở trên cù lao bị
đối xử như tá điền, như cu—li. Lại còn quả quyết rằng nhà nước không được quyền
lập lại làng xóm như thời đàng cựu, vì lập làng là phải bớt ra mộ số đất để làm
công điền.
Việc bóc lột bắt đầu. Trước tiên, lập một nhà máy
xay lúa. Để có đủ lúa cung cấp cho nhà máy hoạt động, y bèn mua lúa đứng (lúc
lúa gần chín) của dân trên cù lao, với giá rẻ. Đây là hình thức cho vay gọi là
"cho bạc lúa". Lại còn cho vay bạc ăn lời với tỷ lệ lời cao, không
thua mấy ông điền chủ thời đàng cựu (50 phân một năm). Và cho vay cắt cổ: một
người nọ vay nợ 250 quan, phải trả vốn và lời trong 5 tháng với tiền lời 50
phần trăm. Đồng thời con nợ phải ký giấy để cố miếng đất trị giá 1000 quan,
không trả được số bạc nói trên thì phải chịu mất đất.
Taillefer còn mơ ước viễn vông là loại bỏ trung
gian Huê kiều trong việc mua lúa. Y cho người đem tiền đến các chợ phụ cận mua
lúa về, với triển vọng là sẽ mua ghe chài mà chở lên Sài Gòn, bán thẳng ra
ngoại quốc sau khi xay tại cù lao. Từ cù lao Năm Thôn, y dòm ngó qua Sóc Trăng,
toan cạnh tranh mua lúa ở Hậu giang và lập chành trữ lúa, lại yêu cầu quan tham
biện Sóc Trăng cho bắt dân địa phương làm xâu để cất chành lúa tại chỗ thí công
cho y, nhưng đơn bị bác bỏ.
Y nhập cảng thẳng từ bên Pháp một số nồi niêu,
soong chảo, vải bô, khăn mu soa, luôn cả rượu chát (do gia đình bên Pháp sản
xuất) để bắt buộc dân trong cù lao mua lại hoặc đổi lúa mà họ canh tác được.
Đây là bắt chước người Hoa kiều dùng hàng hóa đổi lúa, nhưng hàng hóa của y đổi
lại không có giá trị thực tiễn đối với dân.
Thấy việc làm ruộng không được khả quan như dự
định, bèn đặt kế hoạch trồng cây va—ni để chế bột thơm gia vị, trồng bông vải,
trồng dâu nuôi tằm, trồng mía.
Hằng ngày, áp dụng chế độ cai trị
riêng: sáng và chiều, cho đánh trống, các gia trưởng trong đám tá điền phải tập
họp để điểm danh, như ở trại lính. Dân trên cù lao chỉ phải đóng địa tô cho y
và khỏi đóng thuế cho bất cứ ai cả. Khi gặp chuyện thắc mắc, y viết giấy đòi
dân tới văn phòng mà khoát nạt, tự xưng là "ông quan ba", ai làm sái
quấy cứ phạt tiền và phạt vài chục roi, như quan thời đàng cựu.
Đến năm 1868, theo lời y, dân thêm đông đảo, già
trẻ bé lớn chừng 1200 người. Y cho lập hai làng, canh tác chừng 250 mẫu, những
làng này không được quyền có đất công điền.
Nhưng việc gì phải đến lại đến. Vào năm 1868, mùa
màng thất bát, đa số dân trên cù lao trốn qua đất liền mà ở để giựt nợ; những
người lãnh tiền để mua lúa cung cấp cho nhà máy xay cũng biệt tích.
Y làm đơn thưa với tham biện và tòa án Mỹ Tho, nhờ
xét xử bọn giựt nợ và bọn không chịu đong lúa ruộng. Trong thời gian khai thác
cù lao, y tỏ ra hách dịch, khinh thường bọn quan lại người Pháp ở địa phương
nên đây là dịp tốt để họ trả thù: những con nợ đều được xử trắng án, vì y đã ăn
lời quá cao hơn luật định. Y làm đơn thưa với Thống đốc Nam kỳ, nhưng viên chức
đi điều tra bèn tố cáo ngược lại. Y tự biện hộ rằng cho vay nặng lời là để bù
trừ những vụ giựt nợ. Y ăn hiền ở lành, vì nếu ác độc thì đã bị dân nổi loạn
giết rồi! Y khoe khoang đã phát thuốc thí, giúp dân chúng bớt bịnh hoạn. Theo
y, phải dùng biện pháp mạnh đối với dân bổn xứ vì họ là bất hảo.
Sau cuộc điều tra, nhà cầm quyền cho phép lập trở
lại trên cù lao 5 làng như trước, với công điền. Taillefer nổi giận cho rằng
người "An Nam" nhờ y giúp đỡ lập nghiệp, nay lại muốn đuổi y ra khỏi
cù lao thay vì mang ơn.
Rốt cuộc công ty phá sản, vì nhà nước
thực dân không muốn dung túng trường hợp lập tiểu quốc mà tư nhân kinh doanh
nắm trọn quyền về quân sự, hành chánh và tư pháp. Về nhân tâm, chính Taillefer
cũng nhìn nhận là có một số tá điền giựt nợ rồi trốn đi làm ăn cướp hoặc theo
phiến loạn.
Người vui mừng nhứt khi thấy công ty phá sản là
tổng đốc Lộc. Lộc thèm thuồng cù lao phì nhiêu này từ lâu nhưng không dám tranh
giành. Lộc liền mua đấu giá phần đất của Taillefer khẩn (dân ở cù lao thời đàng
cựu phải chịu mất đất luôn). Lộc chết, giao lại cho con là Trần Bá Thọ, và Thọ
lại tự tử vì khai thác lỗ lã lúc sau này trên cù lao.
Khái
Quát Về Việc Khai Khẩn Thời Pháp Thuộc Ở Nam Kỳ
Sau đây vài con số, gọi là để chỉ dẫn
lúc người Pháp cai trị đến cuối năm 1929, rút phần lớn từ tài liệu do viên chức
Pháp soạn ra. Lúc bấy giờ, việc thống kê đã tương đối chính xác, ranh giới các
tỉnh đã cố định, chỉ trừ giai đoạn sơ khởi. Tuy nhiên, có nhiều việc ghi trên
giấy tờ, trên nghị định nhưng không áp dụng đúng mức hoặc bị méo mó (trường hợp
những nghị định cho khẩn đất, trường hợp Nhà Băng Canh nông cho vay), hoặc
những báo cáo chánh thức căn cứ vào tài liệu do hương chức thời xưa sưu tầm về
dân số, sản lượng.
-
Dân số vào năm
1873: 1 500 000 người.
Đất đã khai thác: 600.000 mẫu tây làm ruộng và
90.000 mẫu tây vườn tược, hoa màu phụ (dừa, cau, thuốc, mía, bắp...)
-
Dân số vào năm
1929: 4.500.000 người (tăng gấp ba lần).
Đất đã khai thác: 2.440.000 mẫu tây làm ruộng và
170.000 mẫu trồng bắp, mía, dừa, thuốc, đậu... (trong số này kể luôn 87.000 mẫu
trồng cây cao su). Ngoài ra, còn vườn cây ăn trái từ 12.000 đến 15.000 mẫu.
Như vậy riêng về ruộng nương, diện tích
tăng gấp 4 lần, sau khoảng 60 năm thực dân cai trị.
- Đường giao thông vào năm 1929:
Quốc lộ (gọi là lộ Đông Dương): 1.013 km
Liên tỉnh lộ: 1.083 km
Tỉnh lộ 1.728 km
Tổng cộng: 3.824 km, ngoài ra còn 3.243
km hương lộ xấu và nhỏ, lắm khi mùa mưa không dùng được.
- Kinh đào (kinh xáng múc hoặc đào tay): 1.664 km
Miền Đông Nam kỳ đất cao, nhiều rừng, là khu vực đa
canh. Miền Tây Nam là khu vực độc canh.
Đất miền Đông đại khái chia ra 150.000
mẫu làm ruộng, hơn 80.000 mẫu trồng cao su, 7.5000 mẫu trồng mía, 800 mẫu vườn
tược, đậu, thuốc (trong tỉnh Gia Định), 600 mẫu trồng gòn ở Thủ Dầu Một, 450
mẫu trồng cà phê (trong đó 300 mẫu ở Thủ Dầu Một), lại còn vài vườn tiêu ở Bà
Rịa.
Đất miền Tây Nam dành ưu tiên cho ruộng lúa, chiếm
khoảng 2.400.000 mẫu trong tổng số đất có trồng tỉa của miền này là 2.460.000
mẫu, tức là 97 % diện tích trồng trọt, ngoài ra nên kể thêm khoảng 20.000 mẫu
vườn cây ăn trái.
Ruộng lúa miền Tây Nam đứng hàng đầu, chiếm 92 %
diện tích trồng tỉa của Nam kỳ, và là 37 % diện tích của toàn lãnh thổ Nam kỳ.
Mức sản xuất ước định như sau:
Mùa 1924—1925: 22.270.000 quintaux
Mùa 1925—1246: 19.900.000
Mùa 1926—1927:
Mùa 1927—1928:
28.239.500
Mùa 1928—1929: 21.500.000
Tính đổ đồng, mỗi người ăn từ 175 đến
219 kg mỗi năm, ngoài ra còn dùng để nấu rượu, nuôi gia súc. Số dư đem xuất
cảng. Lúc trước Miến Điện là nước xuất cảng lúa đứng đầu thế giới nhưng từ năm
1925, Nam kỳ lại dẫn đầu. Gạo Nam kỳ kém phẩm chất hơn gạo Miến Điện vì quá
nát, nhiều tấm.
Về cao su, tuy phát triển mạnh nhưng chỉ có 1,9 %
của tổng số sản xuất trên thế giới.
Năng xuất lúa còn kém, đất tốt thâu hoạc 1.600 kg
lúa mỗi mẫu, đất trung bình và đất xấu từ 400 kg đến 600 kg, thua xa các nước
khác. Lúc bấy giờ, ở các tỉnh miền Hậu giang chưa biết phân hóa học là gì.
Ảnh hưởng của kinh đào
Trước khi Pháp đến, những vùng thuận
lợi có sông rạch đều làm ruộng rồi. Trong thời cai trị của người Pháp, có thêm
hai việc lớn:
- Đào kinh thêm ở những nơi có thể làm ruộng được,
tạo đường giao thông chuyên chở, rút bớt nước lụt, rút bớt phèn.
-
Vài giống lúa
sạ được canh tác có kết quả ở những nơi mực nước lụt quá cao là loại lúa thường
(lúa cấy) không sống nổi.
Việc đào kinh cứ gia tăng từ năm 1880:
1880—1890 đào 2.110.000 thước khối đất. Năm 1890,
diện tích ruộng là 932.000 mẫu, tăng 169.000 mẫu, so với thời đàng cựu.
1890—1900 đào 8.106.000 thước khối. Năm
1900, diện tích ruộng là 1.212.000 mẫu, tăng 280.000 mẫu so với năm 1890.
1900—1910 đào 27.491.000 thước khối đất. Năm 1910,
diện tích canh tác là 1.542.000 mẫu, so với năm 1900, tăng 331.000 mẫu.
1910—1920 đào 66.104.000 thước khối
đất. Năm 1920, diện tích canh tác là 1.953.000 mẫu, tức gia tăng 410.000 mẫu so
với năm 1910.
1920—1930 đào 72.042.000 thước khối. Diện tích canh
tác năm 1930 là 2.452.000 mẫu, so với năm 1920, tăng thêm 499.000 mẫu.
Nhìn qua thì thập niên đầu (1880—1890) đến thập
niên chót, số thước khối đất phải đào để khẩn thêm một mẫu ruộng là 12 thước khối,
rồi tăng lên đến 28, đến 83, rồi phải 161, đến mức 144 thước khối.
Như vậy có nghĩa là trong tổng quát,
càng ngày việc đào kinh càng tốn kém hơn. Năm 1890, muốn khai thác một mẫu đất
mới, chỉ cần đào 12 thước khối. Năm 1930, muốn khai thác thêm một mẫu đất phải
đào đến 144 thước khối, hơn 10 lần.
Hiện tượng trên đây có thể giải thích:
- Trước khi người Pháp đào kinh xáng đã có một số đất
ruộng khá tốt, có năng xuất cao sẵn rồi, không đào thêm một thước khối đất nào
nữa thì cũng có dư lúa để bán ra ngoài.
- Diện tích đất hoang chỉ có giới hạn, càng đào kinh
thì diện tích ấy càng thu hẹp lại.
- Tới mức chót, có đào thêm kinh nơi đất quá xấu thì
diện tích ruộng canh tác cũng không tăng bao nhiêu. Người khẩn đất không thích
đến, làm ăn thưa thớt, không như trong đợt đầu tiên đào kinh qua vùng đất tốt.
Hơn nữa, việc sản xuất lúa gạo đòi hỏi nhiều yếu tố
khác, ngoài yếu tố thuần túy kỹ thuật: vay mượn vốn để làm mùa, quy chế cho
trưng khẩn, giá cả trên thị trường quốc tế.
Tính đến năm 1930 thì những tỉnh có đất phù sa tốt
như Bến Tre, Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Mỹ Tho, Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ,
Sóc Trăng đã khai thác xong, kể luôn những phần đất giồng ở Long Xuyên, Châu
Đốc, Tân An, Sa Đéc. Trong các tỉnh này chỉ còn lại chừng 150.000 mẫu đất chưa
trồng tỉa ở vùng Đồng Tháp, vùng Láng Linh và phụ cận tỉnh lỵ Hà Tiên là nơi
đất quá phèn.
Từ năm 1880, các tỉnh trù phú như Bến Tre, Chợ Lớn,
Gia Định, Gò Công, Mỹ Tho, Trà Vinh, Vĩnh Long đã khai thác xong trên diện tích
hơn phân nửa diện tích canh tác vào năm 1929, tức là ở các tỉnh nói trên việc
khẩn hoang xúc tiến rất chậm, trong khoảng 50 năm người Pháp cai trị chỉ tăng
chừng 40 %.
Cũng từ năm 1880, các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên,
Tân An, Hà Tiên, Sa Đéc tính đến năm 1929, tăng thêm 3/4 so với diện tích canh
tác cũ, đối với các tỉnh Sóc Trăng, Cần Thơ thì tăng 2/3.
Khi mới chiếm cứ, thực dân chỉ chú
trọng vào phần đất tốt, đông dân, có sẵn đường giao thông ở miền Tiền giang.
Các tỉnh này xem như giải quyết xong từ năm 1910 tổng số là 651.000 mẫu, đến
năm 1930 tổng số là 705.000 mẫu.
Từ năm 1910 trở về sau, thực dân mới chú ý các tỉnh
ở xa, hoặc đất xấu hơn thuộc Châu Đốc, Long Xuyên, Tân An, Sa Đéc, phía Đồng
Tháp. Diện tích đã canh tác ở các tỉnh nói trên cộng lại như sau:
1910 241.000 mẫu
1920 399.999 mẫu
1930 534.000 mẫu
Các tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng cũng phát triển từ
năm 1910 về sau:
Cần Thơ
1910 132.000 mẫu
1920 202.000 mẫu
1930 205.000 mẫu
Sóc Trăng
1910 176.000 mẫu
1920 188.000 mẫu
1930 212.000 mẫu
Việc đào kinh đã thúc đẩy công tác khai khẩn ở hai
tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng từ năm 1890 đến 1920. Riêng về tỉnh Cần Thơ, khoảng
1900 đến 1920, có hơn 350 km kinh đào thêm nối qua Rạch Giá và Sóc Trăng.
Lúa sạ giúp khai thác phần đất bấy lâu
bỏ hoang, nhờ đó mà Châu Đốc có thêm 90.000 mẫu, Long Xuyên 47.000 mẫu (năm 1929).
Trường hợp đặc biệt ở Bạc Liêu, Rạch Giá
Đây là khu vực nhờ đào thêm kinh mà diện tích canh
tác gia tăng với những con số hùng biện nhứt. Đời Tự Đức, ít ai chịu tới làm
ăn, lý do chánh là đất quá phèn, đường giao thông chuyên chở khó khăn và quá xa
Sài Gòn. Hầu hết mấy con sông lớn vùng này đều đổ ngược qua phía vịnh Xiêm La.
Mãi đến năm 1897 (trường hợp Bạc Liêu) và năm 1916
(trường hợp Rạch Giá) mới có đường xe nối liền với Sài Gòn, trong khi đường xe
lửa Sài Gòn, Mỹ Tho đã có từ năm 1883. Việc đào kinh xáng giúp các vùng Bạc
Liêu và Rạch Giá bán lúa nhanh và có giá hơn trước, đồng thời đất ráo phèn,
nước bớt sâu dễ cày cấy hơn. Diện tích canh tác của hai tỉnh này gia tăng như
sau:
1880 20.000 mẫu
1890 83.000 mẫu
1900 136.000 mẫu
1910 265.000 mẫu
1920 405.000 mẫu
1930 600.000 mẫu
Ruộng hai tỉnh này chiếm 1/4 trong tổng
số diện tích làm ruộng của toàn cõi Nam kỳ.
Ngay khi vừa đào xong những con kinh đầu tiên, dân
tứ xứ tới cất nhà, làm ruộng mà nhà nước khỏi cần giúp đỡ về vốn liếng, gia
súc, hoặc cây lá gì cả. Họ đến cánh đồng bao la giữa Hậu giang và vịnh Xiêm La,
mạnh ai nấy chiếm, nấy cấm ranh. Chỉ trong 3 năm (1927—1930) họ tự động chiếm
17.000 mẫu. Việc chiếm hữu này xảy ra:
- Do những nông dân nghèo ở các tỉnh miền trên đến
lập nghiệp. Họ muốn làm chủ phần đất tương đối đầy đủ để nuôi sống gia đình.
- Do những người đem vốn lớn từ các tỉnh khác đến, họ
mướn dân địa phương cắm ranh, khẩn hoang đợt đầu tiên cho họ rồi họ gom lại,
trở thành đại điền chủ.
Rồi tình trạng hỗn loạn, tranh chấp, tham nhũng lại
xảy ra. Nhiều người có uy thế, nhìn xa và rành luật lệ đã nộp đơn tại Sài Gòn
xin trưng khẩn, vì trên bản đồ những phần đất này vô chủ. Khi thấy đất khai
thác xong, bắt đầu có huê lợi thì họ đến địa phương để tranh chấp với những
người thật sự khai khẩn (nhưng không có giấy tờ).
Nhà nước phàn nàn rằng dân đã tự động
chiếm đất công thổ, không có cách gì ngăn được. Nhưng một số thân hào nhân sĩ,
hội đồng, cai tổng hoặc đại điền chủ ở những tỉnh khác thì lại vui mừng vì rốt
cuộc, những vùng đất này rơi vào tay họ. Một số người Pháp cũng lợi dụng tình
thế để lập đồn điền. Nhà nước lại xúc tiến việc đạc điền, để ghi vào bộ và đánh
thuế. Dân địa phương nổi lên tranh chấp, ngăn cản những kẻ chiếm đoạt đang mướn
chuyên viên đến đo đạc. Hoặc dân địa phương dùng khí giới bén mà ngăn chận
những người tự xưng là "chủ đất hợp pháp" đến đòi thâu lúa ruộng.
Hoặc họ tự đứng đơn tập thể, kéo nhau đến Tòa bố (tòa Hành chánh tỉnh) để ngồi
lì, hoặc tự vệ một cách tuyệt vọng.
Luật lệ về trưng khẩn
Nhiều luật lệ về trưng khẩn đất ruộng ra đời, ban
đầu thể thức dễ dãi, lần hồi thì siết lại thêm khó khăn. Xin lược kê những nghị
định căn bản, với nét chánh:
- Những nghị định năm 1864, 1871 và 22/8//1882:
ngoại trừ những đất đã canh tác rồi hoặc đất thổ cư (đặc biệt là đất thổ cư ở
Sài Gòn, Chợ Lớn) thì đất công thổ cho trưng khẩn không, tức là không bán lại
bằng tiền. Muốn khẩn thì làm đơn, ghi diện tích, ranh giới, rồi đóng thuế.
Những nghị định trên không nêu điều kiện là bắt buột người trưng khẩn phải khai
thác, không được bỏ đất hoang (về sau, nghị định 15/10/1890 bổ túc chi tiết
này). Tham biện chủ tỉnh được quyền cho trưng khẩn những sở đất nhỏ dưới 20 mẫu
(nghị định 9/6/1886 rút lại còn 10 mẫu).
- Nghị định 15/10/1890 bắt buộc phải canh tác trong
thời gian là 5 năm cho xong và định rằng nhà nước có quyền lấy lại đất khi có
nhu cầu công ích (đào kinh, đắp lộ...)
-
Nghị định
10/5/1893 định rằng đất trưng khẩn không được ăn dài theo mé kinh, mé sông rạch
quá 1/4 của chu vi sở đất (tránh trường hợp người tham, chỉ khẩn đất phía mặt
tiền kinh rạch, đất mặt tiền thì luôn luôn có giá hơn đất ở hậu bối).
- Nghị định 27/1/1896 quy định những lố đất đã xin
tạm khẩn mà người thừa kế không nhận làm chủ, trường hợp đất quá xấu, thì phải
hoàn trả lại để nhà nước ấp cho kẻ khác.
- Nghị định 13/10/1910 lần đầu tiên quy định đất công
thổ được tư nhân trưng khẩn phải bán theo giá thuận mãi, đặc biệt là đất trồng
cao su. Nhà nước chánh thức bán đất công thổ cho dân.
Nghị định của phủ toàn quyền ngày 27/12/1913 và của
Thống đốc Nam kỳ ngày 11/11/1914 định rằng đất ruộng chỉ cấp với điều kiện là
đem đấu giá công khai hoặc theo thể thức thuận mãi. Không bao giờ cấp cho không
(khỏi mua) những sở đất trên 300 mẫu như trước kia đã làm. Việc trưng khẩn đất
trên 1.000 mẫu phải do phủ Toàn quyền Đông Dương cho phép.
- Nghị định của phủ Toàn quyền ngày 26/11/1918 bổ túc
nghị định 27/12/1913: những người trong một gia đình chỉ có thể xin cấp cho
không (khỏi mua) một lần dứt khoát tối đa là 300 mẫu mà thôi. Chỉ có thể xin
cấp cho không một lần thứ nhì là 300 mẫu, nếu đã canh tác xong ít nhất là 4/5
của sở đất cấp cho không lần trước. Và đương sự không được quyền xin cấp cho
không một lần thứ ba.
-
Nghị định
4/10/1928 quy định chặt chẽ việc khẩn đất, tuyệt đối cấm không được chiếm đất
công thổ theo kiểu tiền trảm hậu tấu, làm ruộng rồi sau đó mới khai xin vào bộ.
Cũng vì nghị định này mà số người xuống Rạch Giá, Bạc Liêu để lập nghiệp phải
giảm bớt, họ chẳng còn cơ hội khai khẩn nơi nào họ thích, dành quyền ưu tiên
như trước kia.
- Nghị định 25/6/1930 quy định những vùng còn cho
phép và những vùng không còn cho phép trưng khẩn. Đại khái, sau khi áp dụng
nghị định này thì chỉ có khoảng 150.000 mẫu ở Bạc Liêu và 80.000 mẫu ở Rạch Giá
là còn được phép cho trưng khẩn mà thôi, lẽ dĩ nhiên, chỉ còn loại đất phèn,
đất nước mặc quá thấp và xấu, thiếu kinh thoát thủy.
Hậu quả của những nghị định trên là tạo ra một thực
tế bi đát. Người Pháp cho rằng họ cố ý phát triển chế độ tiểu điền chủ mà thôi
nhưng trong thực tế, đại điền chủ lại phát triển.
Luật định rằng những phần đất 10 mẫu mà tham biện
chủ tỉnh có quyền cấp phát (gọi nôm na là đất công nghiệp) không được phép bán
trong thời gian tạm khẩn, chỉ 3 năm sau khi chánh thức làm sở hữu chủ, chủ đất
mới được bán cho người khác. Nhưng thực dân lại cố ý dung túng việc cho vay
nặng lời, khiến người tiểu điền chủ không đủ vốn canh tác mang nợ, vốn lời
chồng chất đến mức giao phần đất công nghiệp của mình cho kẻ khác để trừ nợ.
Một số viên chức thực dân đã bào chữa
cho rằng chế độ đại điền chủ ở Nam kỳ, đặc biệt là ở các tỉnh miền Tây lần hồi tự
nó suy sụp: về lâu về dài, không còn đất trống để khẩn thêm và gia đình người
đại điền chủ lại đông con, đất chia ra mãi đến đời cháu nội thì chỉ còn là từng
mảnh nhỏ!
Nhà nước có tổ chức những nhà băng
Canh nông nhưng trong thực tế chỉ một số nhỏ điền chủ vay được, họ đem về cho
tá điền vay lại với tiền lời cao hơn. Người Chà Chetty cũng cho vay với tiền
lời theo luật định (năm 1930, phỏng định họ cho điền chủ Nam kỳ vay khoảng 30
triệu đồng) nhưng người được vay phải chịu tiền lời cao, trên giấy tờ ghi đã
nhận một ngàn đồng mà thật sự chỉ nhận có 900.
Điền chủ cỡ nhỏ, luôn cả điền chủ cỡ lớn thường
thích vay bạc lúa (lấy bạc lúa) của thương gia Hoa kiều vì thủ tục giấy tờ gần
như không có, lấy tiền rồi đến mùa thì đong lúa trả lại. Thương gia Huê kiều đưa
tiền ra mua lúa khi chưa tới mùa, với giá rất thấp so với giá thị trường lúc
gặt hái. Họ thâu lợi nhiều nhưng họ khéo đối xử với chủ điền. Tùy giá thị
trường do họ tiên đoán, tùy sản nghiệp của ông điền chủ (con nợ), tùy sự tín
nhiệm trong quá khứ mà họ cho vay nhiều hay ít. Nét đặc biệt là trong việc cho
vay này là nếu con nợ giựt thì họ không cho vay nữa, gần như chẳng khi nào họ
truy tố hoặc nhờ pháp luật tịch thu đất đai. Trường hợp vay tiền của Chà Chetty
hoặc của nhà băng Canh nông thì trái ngược lại: ăn lời rất ít nhưng khi thất
hẹn thì đất đai bị tịch ký.
Về địa tô (lúa ruộng) thì giống như
thời đàng cựu, thực dân Pháp không đưa ra luật lệ nào cả, chủ điền cứ thỏa
thuận với tá điền. Giá biểu địa tô cao thấp tùy theo đất tốt xấu, tùy theo
"lòng nhân đạo" của chủ điền. Nhưng ta có thể nắm lấy nguyên tắc: chủ
điền đã tính toán thật kỹ để đến khi lúa chín, bằng mọi cách, họ thâu 80 % sản
lượng mà tá điền gặt hái được. Tá điền chỉ còn đủ lúa để mua sắm quần áo, ăn
chơi trong mấy ngày Tết, ra giêng là bắt đầu vay nợ mới. Nhiều chủ điền tỏ ra
nhân đạo, thâu địa tô rất thấp nhưng bắt buộc tá điền phải vay thêm tiền mặt và
lúa để ăn với tỷ lệ lời quá cao.
Xin miễn đề cập đến việc tổ chức cho
vay của nhà nước vì bấy giờ trong thực tế, người điền chủ bực trung không hưởng
gì ráo. Cũng như xin bỏ qua việc khuyến nông, việc nghiên cứ về kỹ thuật trồng
tỉa, cùng cách tổ chức quan sát khí tượng mà trên báo cáo về mặt chính quyền
thì rất "tiến bộ", đầy đủ. Vào năm 1930, chừng 30 máy cày trong vòng
thí nghiệm ở các điền của người Pháp. Lưỡi cày, vòng gặt, nọc cấy, cây bừa cào,
cách thức trị định trâu bò nếu được cải tiến chút ít so với thời Tự Đức thì
hoàn toàn do người Việt bày ra mà thôi.
Trong tổng số đất đai trồng tỉa ở Nam kỳ là
2.700.000 mẫu, người Việt đứng tên làm chủ được chừng 2.400.000 mẫu, tức là 8/9
diện tích. Trong đất đai trồng tỉa, nên chia ra:
-
Đất trồng cao
su: 80.000 mẫu của người Pháp, người Việt chỉ có 5.300 mẫu.
- Đất làm ruộng: người Pháp đứng bộ 243.000 mẫu tức
là hơn 1/10 diện tích tổng quất trồng lúa, con số này kể luôn đất của người
Việt nhập Pháp tịch; người Pháp chánh gốc đứng bộ khoảng 150.000 mẫu.
Các bảng thống kê nêu con số hơi khác nhau về chi
tiết, nhưng đại để các tỉnh Rạch Giá, Bạc Liêu, Cần Thơ là nơi tập trung đại
điền chủ vì là đất mới.
Vựa lúa miền Nam thành hình trong hoàn cảnh mới
Đời Gia Long, vùng sản xuất lúa gạo
nhiều nhứt của đất Gia Định nói chung là vùng Gò Công, thuộc trấn Định Tường.
Khi người Pháp đến, trung tâm điểm của vựa lúa di
chuyển lần hồi về miền Tây Nam. Muốn có lúa gạo thặng dư để xuất cảng, cần hai
điều kiện:
- Dân số địa phương ít, mức tiêu thụ tại chỗ không
cao.
Sau đây là vài con số về diện tích canh tác của
từng tỉnh. Thời Pháp thuộc, việc phân chia ranh giới các tỉnh không đồng đều, tỉnh
thì quá lớn, tỉnh thì quá nhỏ. Số lượng đất đai chỉ là chỉ dẫn, vì đất tốt xấu
khác nhau.
Năm 1873:
Chợ Lớn 37.340 mẫu (tỉnh Chợ Lớn gồm Cần Đước, Cần
Giuộc là nơi sản xuất lúa tốt và nhiều)
Mỹ Tho 34.238
Vĩnh Long 28.784
Gò Công 28.146 (Gò Công là tỉnh có diện tích tổng
quát rất nhỏ nhưng đứng hạng tư về đất canh tác, tức là vẫn còn giữ vị trí bực
nhứt).
Năm 1900:
Sóc Trăng 158.439 mẫu (đứng đầu Nam kỳ)
Cần Thơ 124.588
Trà Vinh 120.419
Mỹ Tho 91.748
Năm 1930:
Rạch Giá 358.900 mẫu (đứng đầu Nam kỳ)
Bạc Liêu 330.030
Sóc Trăng 212.909
Cần Thơ 205.000
Long Xuyên 186.049 (đa số lúa sạ, gạo xấu)
Mỹ Tho 154.662 (dân đông đúc, một phần lúa sạ phía
Đồng Tháp)
Trà Vinh 152.000
Theo P. Bernard, mấy tỉnh Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Trà
Vinh là vựa lúa thật sự của Nam kỳ để
xuất cảng. Năm tỉnh nói trên gồm 966.000 mẫu ruộng, những năm bình thường cung
cấp hơn phân nửa tổng số lúa xuất cảng của Đông Dương. Các tỉnh ấy xuất cảng
986.000 tấn. Dân số trong hiện tại (ở các tỉnh vừa kể, khoảng năm 1930) phỏng chừng
1.130.000 người, tính đổ đồng mỗi mẫu ruộng là 1,15 người và mỗi mẫu ruộng xuất
cảng được một tấn.
Theo bác sĩ Trần Như Lân thì buổi bình thường trước
khi xảy ra kinh tế khủng hoảng, Nam kỳ và Cao Miên mỗi năm xuất cảng 1.300.000
tấn gạo; trong số này có 200.000 tấn gạo của vùng Battambang (Cao Miên) và
900.000 tấn của miền Hậu giang.
Nhiều tài liệu đề cập đến việc đào kinh
xem là yếu tố quan trọng để vựa lúa thành hình với các chi tiết kỹ thuật. Xin
ghi lại vài nét chánh:
- Vùng Cần Thơ đào từ 1890 đến 1900: kinh Trà ết,
kinh Xà No, kinh Long Mỹ, Bassac (gọi nôm na là kinh Lái Hiếu); từ 1900 — 1920:
kinh Thốt Nốt qua Giồng Riềng, kinh Thới Lai, Ô Môn, Xuân Hòa, Phong Điền, Cái
Răng, Trà Lồng, kinh Cái Vồn...
- Vùng Sóc Trăng: đào từ 1890 — 1900: kinh Bocquillon,
kinh Saintenoy...; từ 1900 — 1920: kinh Phụng Hiệp, Sóc Trăng (1905), kinh
Maspéro (1911), kinh Cái Trầu (1914—1917), kinh Quan lộ, Nhu Gia (1925), kinh
Cái Trầu qua Chàng Ré (1917), kinh Nàng Rền (1911), kinh Tiếp Nhựt (1911)...
Một phần lớn kinh do xáng đào từng chặn, sửa chữa
nới rộng và vét tới vét lui nhiều lần; một số kinh thì đào tay, bắt dân làm
xâu. Tỉnh Rạch Giá được ảnh hưởng tốt nhờ mấy con kinh đào từ Cần Thơ và Sóc
Trăng ăn qua.
Để nhiên cứu vựa lúa Hậu giang cũng là
vựa lúa quan trọng của Nam kỳ và Việt Nam, chúng tôi chọn ba tỉnh Rạch Giá, Bạc
Liêu và Cần Thơ.
Rạch Giá và Bạc Liêu là hai tỉnh rất
mới mà việc khai khẩn vẫn chưa hoàn tất mãi đến khi người Pháp rời xứ Nam kỳ.
Nghiên cứu hai tỉnh này, ta thấy rõ việc làm của người Pháp và những nét đặc
biệt của vùng đất rộng người thưa mà vùng Tiền giang không có.
Tỉnh Cần Thơ điển
hình cho sự sung túc của Hậu giang, nơi gọi là thủ đô miền Tây, với nhiều đồn
điền của Pháp. Một phần đất của Cần Thơ đã được khai khẩn từ thời Minh Mạng, Tự
Đức. Cần Thơ là nơi người Việt chiếm đa số, phong tục thuần tục, nước ngọt, đất
tốt, đường giao thông thuận lợi về Sài Gòn, với vùng Ngả Bảy (Phụng Hiệp), một
quận thành hình nhờ việc đào kinh thời Pháp thuộc.
Vùng Rạch Giá Đất Rộng Người
Thưa
Rạch Giá là hậu bối khá rộng của bờ biển vịnh Xiêm La. Bờ biển từ Rạch
Giá (vàm sông Cái Lớn) ăn về phía Nam là khu rừng sác với cây mắm, cây giá, cây
cóc, loại cây tạp không đem huê lợi gì đáng kể, trừ huê lợi sáp và mật ong,
hoặc cua, ba khía sống nhun nhúc trong bãi bùn (khu vực của cây đước chỉ ở về
phía cực Nam tận mũi Cà Mau). Hậu bối tức là sau lưng, giáp vào rừng sác. Có
thể nói đất Rạch Giá là rừng tràm minh mông, nhiều phèn và thấp; xa bờ biển
hàng đôi chục cây số ngàn vẫn còn là rừng tràm cầm thủy (trầm thủy). Nổi danh
nhứt là U Minh Thượng và U Minh Hạ. U Minh Thượng là rừng chồi, có từng lõm
"đất cháy" (than bùn) nằm bên tả ngạn sông Cái Lớn. U Minh Hạ là rừng
tràm tốt và mọc dày, dọc ven biển chạy dài tới Cà Mau. Đất Rạch Giá khi người
Pháp đến hãy còn nhiều cọp, khỉ, sấu, heo rừng, huê lợi chánh vẫn là mật và sáp
(nhờ bông cây tràm, cây giá). Ngoài ra còn cây tràm (làm củi, cột nhà), lá dừa
nước (để lợp nhà), cá đồng và cá biển. Đáng chú ý là voi thường tới lui cánh
đồng nối liền với Cần Thơ mà ăn lau sậy.
Hai con sông đáng kể là Cái Bé và Cái Lớn từ đất
thấp phía Đông chảy ra vịnh Xiêm La, hiệp lại ở một vàm khá rộng. Hai con sông
này chia ra nhiều nhánh nhóc. Ngọn sông Cái Bé ăn qua rạch Cần Thơ, về bờ Hậu
giang. Sông Cái Lớn ăn xuống Ba Xuyên, thuộc Sóc Trăng hoặc xuống phía chợ Cà
Mau nhưng là những đường liên lạc nhỏ bé, vào mùa nắng có nhiều chặng cạn và
hẹp, đầy cỏ. Dân ở vùng Rạch Giá, trước khi đào kinh xáng, phần lớn sống nhờ
nước mưa, trừ trường hợp chợ Rạch Giá hứng nước ngọt từ kinh Thoại Hà (đào từ cuối đời Gia Long) nối qua Hậu giang. Giếng có thể đào trên
mấy giồng cao ráo, chắc thịt bên bờ sông. Vùng ven biển vịnh Xiêm La định cư
được là nhờ nước suối chở từ Hòn Tre. Bên bờ Cái Lớn, Cái Bé và các phụ lưu,
rải rác nhiều giồng, nhiều gò, nơi người Miên đến lập từng sốc: những ốc đảo
hoang vắng, chung quanh là rừng che kín chân trời. Muỗi mòng, rắn và vô số chim
cò tha hồ nẩy nở.
Trước đời Gia Long, dân chúng đã chọn lựa vài gò
cao lập được bảy xã theo sông Cái Bé và chợ Rạch Giá (tổng Kiên Định), bốn xã
theo sông Cái Lớn (tổng Thanh Giang). Nhưng dân số người Miên và diện tích
ruộng đất do họ canh tác từ xưa vẫn đáng kể tuy không có con số chánh thức. ít
ra họ cũng dư khả năng tự túc về lúa gạo. ở Rạch Giá, người Miên đứng vào hàng
đầu (Rạch Giá: 80.000 người, Trà Vinh: 80.000, Sóc Trăng: 50.000, Châu Đốc:
30.000, Bạch Liêu: 23.000).
Vĩnh Long mất, Hà Tiên lại mất, thực dân chiếm
huyện Kiên Giang không tốn một phát đạn. Viên tham biện đầu tiên là Luro.
Paulin Vial đến Rạch Giá thanh tra nhưng năm sau Nguyễn Trung Trực đánh một
trận thần tình, giết gần trọn người Pháp vừa lính vừa viên chức ở tỉnh lỵ này
(16/6/1868).
Dạo ấy, Rạch Giá là hải cảng tấp nập, tàu buồm Hải
Nam tới mua bán luân lưu giữa khu vực Cao Miên (thương cảng Kampot), Xiêm (Vọng
Các), Tân Gia Ba và Nam Dương. Nhà cửa san sát ở hai bờ rạch sát vàm biển.
Thoạt tiên, hạt Rạch Giá bao gồm luôn trọn mũi Cà Mau, tức là huyện Kiên Giang
và huyện Long Xuyên thời Tự Đức. Sông rạch nhỏ chằng chịt, tháng nắng dùng
không được, chỉ thuận lợi cho ghe xuồng cỡ nhỏ. Nhiều con đường mòn dành riêng
cho dân địa phương sử dụng ở nơi đi bộ không được đi xuồng không xong; đó là
đường cộ, dùng cộ có trâu kéo (không bánh xe, kiểu cộ trượt tuyết ở Bắc Nu).
Mãi đến năm 1879, vùng Rạch Giá còn trong vòng thám hiểm của thực dân, bản đồ
chưa được chính xác, nhiều con rạch dân chúng sử dụng được nhưng chưa ghi, lại
còn vị trí nhiều xóm nhỏ ẩn lánh ở ngọn rạch của bọn người đốn củi lậu thuế
hoặc ăn ong (lấy sáp và mật). Bọn thợ rừng sử dụng những con đường quanh co để
chở củi lậu thuế. Việc cai trị ở thôn quê xa tỉnh lỵ chưa thành nền nếp. Theo
báo cáo của tham biện thì năm 1879, tỉnh này tuyệt nhiên chưa có địa bộ, tất cả
đất trong tỉnh đều được xem như là công điền. Hương chức làng kê khai diện tích
tổng quát, chịu thuế rồi gán ép lại cho dân. Vài người tự nhận là chủ của phần
đất đang canh tác, vì chính họ khai phá hoặc do cha mẹ để lại. Trường hợp làng
Vĩnh Lộc (vùng Ngan Dừa, còn gọi là Ngan Gừa): hương chức làng chịu thuế điền
là 406 quan để rồi bắt buộc dân gồm đa số là Cao Miên phải đóng gấp đôi gấp ba.
Hương chức cứ ở không mà hưởng, đến độ dân địa phương phẫn nộ, đòi tản cư luôn
qua Sóc Trăng nếu họ không được phép lập một làng riêng.
Đầu năm 1880, tham biện chủ tỉnh làm tờ
trình về tình hình thuế khóa và dự án thâu như sau (Rạch Giá và Cà Mau):
- Thuế điền ănm 1879: 11.068 quan, tính trên tổng
số đất ruộng và rẫy là 2.847 mẫu.
Dân đinh gồm người Việt và Cao Miên:
2744 người (2.010 Việt và 734 Miên).
Mấy giồng chung quanh chợ Rạch Giá trồng xoài, vì
lâu năm nên hóa xoài rừng. Người Huê kiều và người Minh Hương làm rẫy rau cải,
đất ngoại ô cũng như tại chợ đều không có bộ sổ chi cả.
Thuế kiểm lâm thất thâu, dân chúng lén đốn cây tràm
trong rừng rồi theo đường quanh nẻo tắt mà chở qua Sóc Trăng thay vì đi ngang
qua trạm kiểm soát.
Nguồn lợi lớn nhứt của ngân sách vẫn là thuế phong
ngạn (đấu giá từng lô rừng cho dân khai thác sáp, mật): năm 1879 đã thâu: 29.546
quan (trong khi thuế điền chỉ có 11.068 quan).
Nguồn lợi thứ yếu là đấu thầu sân chim:
năm 1879 đã thâu: 25.000 quan.
Tóm lại, năm 1880, Rạch Giá không được
chánh phủ Nam kỳ chú ý nhiều. Riêng về sân chim thì các viên tỉnh trưởng xem
như là "kỳ quan". Tuy nhiên, những nguồn lợi sáp mập cùng là sân chim
giảm bớt trong những năm sau, dân phá rừng lần hồi để bán cây. Cây tràm tuy
không là danh mộc nhưng làm cột nhà rất tốt, bán qua các tỉnh lân cận. Sân chim
mỗi lần khai thác là giết cả trăm ngàn con vừa lớn vừa nhỏ để lấy lông kết
quạt.
Trong khi ấy ở một tỉnh xưa như tỉnh Sa Đéc (tức
huyện Vĩnh An, tỉnh An Giang đời Tự Đức, thuộc trấn Vĩnh Thanh đời Gia Long)
dân số và bộ điền đã khá rành mạch:
Chúng ta thử so sánh tạm.
Diện tích ruộng vườn và rẫy, trong bộ
sổ của Pháp mới lập:
Rạch Giá 2.2847 mẫu
Sa Đéc 53.386
Dân đinh ở Rạch Giá, Cà Mau 2.744 người
Sa Đéc 128.902 người
Vì là tỉnh xưa, ở Sa Đéc nhiều vùng đông đúc, mật
độ cao đến 241 người mỗi cây số vuông, đất bị cắt manh mún theo chế độ tiểu
điền chủ, những sở đất dưới 5 mẫu chiếm 4/10 của tổng số đất khai thác. Và 6/10
của đất khai thác là đất thổ cư và vườn tược.
Sáu năm sau, năm 1886, tình hình tỉnh
Rạch Giá bắt đầu khả quan hơn. Báo cáo của tham biện ngày 8/8/1886 nêu vài chi
tiết:
- Trong 7 người dân, tỷ lệ là 4 người
Cao Miên, 3 người Việt.
- Biến cố ở Kinh thành Huế (vụ Tôn Thất Thuyết và vua
Hàm Nghi 1885) chẳng gây xúc động gì rõ rệt trong dân gian;
-
Đường bộ quá
ít, dân chúng ao ước đường thủy phát triển thêm. Mọi việc xê dịch đều dùng
đường thủy.
- Dân ra chợ mua bán thường dùng đường biển cho nhanh
hơn. ở vùng Cái Lớn (Mũi Gảnh) nạn chìm ghe thường xảy ra.
-
Năm 1883, đã
bắt dân xâu đào con kinh, gọi là kinh Ông Hiển, để đi từ sông Cái Bé, từ rạch
Tà Niên ra chợ mà khỏi vượt biển. Kinh này tiếp tục đào đến năm 1886. Đường
liên lạc từ Rạch Giá đến Châu Đốc gần như không có, dân chúng dùng xuồng nhỏ,
theo đường quanh len lỏi giữa rừng tràm.
- Đào xong con kinh từ Cạnh Đền ăn xuống Cà Mau (kinh
Bạch Ngưu), dùng dân xâu làng Vĩnh Lộc.
-
Con lộ chiến
lược quan trọng nhứt trong tỉnh chạy từ chợ Rạch Giá vô Minh Lương (khoảng 15
cây số). Minh Lương làm xóm sung túc từ lâu đời, gồm đa số người Miên. Lộ này
vạch sẵn hồi xưa, nay tu bổ lại để đem thơ từ, chạy ngựa.
- Trường học tại tỉnh lỵ lợp lá, ngưng dạy từ mấy năm
qua đang bắt đầu hoạt động trở
-
Năm 1885,
trong toàn tỉnh có 6 trường tổng, trường ở Minh Lương không đem lại kết quả vì
thiếu giáo viên.
- Dân bộ chịu thuế năm 1883 là 8.000 người, năm 1886
là 10.000 người. Kết quả này thâu được là nhờ lập bộ kỹ lưỡng hơn trước.
- Bộ điền năm 1883: 8000 mẫu; năm
1886: 10000 mẫu.
Đất ruộng khó kiểm soát vì dân làm
ruộng không đều, hễ thất mùa thì họ dời chỗ. Nhiều vùng đất 3 năm mới có làm
một mùa ruộng.
Tại chợ, từ 4 năm qua đã lập một lò gạch nhưng xấu
về phẩm chất. Vì chưa cấp bằng khoán thổ cư nên chẳng ai dám xây nhà gói, sợ
sau này bị đuổi.
- Việc mua bán xáo trộn vì giá tiền kẽm bị sụt. Tiền
điếu (bằng đồng phiếu) lại khó xài, nhà nước phát ra khi dân lãnh ngân phiếu,
nhưng dân đem tiền điếu đóng trở lại cho "công xi" khi mua á phiện và
rượu.
Tóm lại, tỉnh Rạch Giá (gồm luôn Cà Mau) là miếng
mồi khó nuốt so với các tỉnh miền Tiền giang như Sa Đéc, Mỹ Tho, Vĩnh Long hoặc
Long Xuyên. Huê lợi, thuế khóa quá thấp kém. Các viên tham biện không rành về
hành chánh, những bản phúc trình chánh thức gởi về cho Giám đốc Nội vụ về hình
thức cũng như nội dung gần như là thơ riêng gởi cho bạn, viết tháu, báo cáo đại
khái vài nét, nhận xét tùy hứng, không thứ tự.
Trong thực tế, muốn báo cáo kỹ lưỡng cũng không
được vì tỉnh này vừa khi mới thành lập đã thiếu người hợp tác; các tỉnh Tiền
giang dầu sao đi nữa cũng thừa một số người lịch lãm biết chữ nho hoặc chữ quốc
ngữ, am hiểu địa phương. Sau cuộc đánh úp đồn chợ Rạch Giá vào năm 1868, người
Pháp nghi kỵ tất cả người Việt vì đa số lính mã tà, đến viên quản mã tà cũng
đều làm nội ứng. Thực dân không muốn xài người Việt ở Rạch Giá và nhân dịp tu
chỉnh lại bộ máy cai trị, chúng cố ý dùng người Miên để trị người Việt, cổ xủ
chia rẽ. Vài người hữu công được nâng lên làm huyện, bấy giờ đóng vai phụ tá
của tham biện để cai trị, đi điều tra miền quê. Đây là những người kém văn hóa,
háo sát, ham danh vọng. Những người Miên hoặc Miên lai Tàu này đều lấy tên họ
như người Việt:
-
Phó quản mã tà
người Miên tên là Cao Thiên gọi nôm na là phó quản Thiên làm phủ, lập công sau
cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực bằng cách điềm chỉ, bắt giết. Năm 1873, nghỉ
việc vì già (60 tuổi), Pháp cho chức phó quản là để tưởng lệ công lao, chẳng có
năng lực chuyên môn gì cả.
- Huyện Xiêu được làm huyện sau khi Nguyễn Trung Trực
rút khỏi Rạch Giá, kiêu hãnh tới mức dám tố cáo chuyện xấu của tham biện Rạch
Giá lên quan trên. Tám tháng sau khi nhận chức thì bị Pháp cách chức.
- Huyện Trần Lương Xuân, cũng người Miên được tin cậy
cho trấn nhậm vùng Minh Lương, khu vực đông dân và phì nhiêu. Tự xưng trong
công văn "Kiên Giang huyện, Tri huyện Trần Lương Xuân", được giữ một
khẩu súng lục, 2 khẩu súng hai lòng, 1 khẩu súng 1 lòng, 4 cây giáo, 1 khẩu súng
Le Faucheux.
- Trịnh Lục Y, người Miên, từng được cựu trào phong
chức cai tổng, cư ngụ vùng áp lục (Rạch Tìa, Thủy Liễu) rồi theo Pháp. Sau thời
gian làm cai tổng dài dẵng là 48 năm, thấm mệt xin nghỉ, được huy chương bạc
hạng nhứt.
- Cai tổng Hà Mỹ Phiến (tên ngoài là Phến) người Tàu
lai Miên làm vua một cõi ở tổng Kiên Hảo, chữ nghĩa kém, được sắm 4 cây mác
thông cho bọn hộ vệ khi đi hầu quan vì đường sá còn rừng rậm (con và cháu đều
làm cai tổng nối tiếp đến năm 1945).
- Cai tổng Trần Quang Huy (con của cai tổng Trần
Quang Sô) cũng người Miên, làm phó tổng Kiên Hảo. Cai tổng Sô tận tụy với thực
dân từ buổi đầu, bị nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực giết. Sau đó, Pháp ban
chức phó tổng cho Huy là nghĩ tới công lao của cha. Ngày trước, Pháp cho tổng
Sô hai cây súng, súng này giao lại cho Huy.
Người Việt Nam duy nhứt được Pháp tin
cậy ban chức cai tổng là Nguyễn Văn Nguơn, coi tổng Kiên Định, ngụ ở Tân Hội,
một làng đông dân khi Pháp đến và có công lớn là báo tin trước cho tên tham
biện Rạch Giá về việc Nguyễn Trung Trực sắp tấn công nhưng tên tham biện không
tin lời (vì oán xã Nguơn nên nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực đã giết lây một
số người công giáo ở Tân Hội, xóm của Nguơn cư ngụ). Cai tổng Nguơn làm chúa
một vùng, được cấp cho 6 khẩu súng, đặc biệt là 1 khẩu thần công mà quân sĩ của
Nguyễn Trung Trực bỏ rơi lại.
Với bọn cộng sự viên như thế, các tham biện ở giai
đoạn đầu tỏ ra chán nản. Chung quanh chợ, ngoài vài xóm đông đúc là rừng rậm,
họ không muốn đi thanh tra. Mãi đến năm 1901, viên bếp trạm (đi thơ từ công văn,
ngạch bếp) còn kêu nài để xin được giữ cây súng vì vùng Ngan Dừa (làng Vĩnh
Lộc) là nơi nguy hiểm, khó di chuyển, đi trát cho làng nọ làng kia thì đường đi
rừng bụi vắng vẻ quá, "có nhiều lần tôi gặp cọp nó làm dữ với tôi, thì tôi
cũng nhờ có cây súng tôi bắn nó chết, có khi nó ra phá xóm làng thì người ta
tới kêu tôi cùng đi cứu giúp mà bắn cho đặng bình an trong xóm".
Vì không thấy có huê lợi dồi dào về
thuế má trong tương lai gần nên vào khoảng 1889, hạt Rạch Giá bị sáp nhập vào
hạt Long Xuyên cho đỡ tốn kém về mặt bố trí cơ sở hành chánh cùng là lương bổng
nhân viên. Rạch Giá lúc bấy giờ trên con dấu chánh thức là "Kiên Giang
huyện" của tỉnh Long Xuyên, còn con dấu của tham biện Long Xuyên ghi
"Arrondissement de Long Xuyên" chính giữa là "Long Xuyên, Rạch
Giá".
Nhưng đôi năm sau, Rạch Giá tách trở lại làm một
tỉnh như trước, chánh phủ đang trù liệu kế hoạch khai thác quy mô vùng Hậu
giang với ngân sách của chánh quốc cho mượn: đào kinh nối liền từ vịnh Xiêm La
lên Sài Gòn.
Chỉnh đốn tỉnh lỵ Rạch Giá và các vùng phụ cận
Chợ Rạch Giá là cơ sở tốt với giồng cao ráo sát bờ
biển, lại còn nhiều giồng đất phì nhiêu vùng phụ cận. Quy chế khẩn đất đặt ra
rành mạch, các tỉnh miền Tiền giang không còn đất tốt vô chủ khiến nhiều người
đổ xô về
Rạch Giá là nơi dễ làm ăn, đặc biệt là dân từ Long Xuyên
đến. Tháng 10/1895, chủ tỉnh báo cáo về Thống đốc Nam kỳ với ý kiến của Hội
đồng địa hạt đưa nhiều đề nghị:
- Từ vài năm qua dân số gia tăng gấp đôi.
- Diện tích canh tác tăng hơn 10 lần.
-
Đề nghị vét
kinh Rạch Giá, Long Xuyên (Thoại Hà) để tàu Lục tỉnh từ Sài Gòn đến chợ Rạch
Giá ít nhứt là 3 lần trong mỗi tuần như các tỉnh khác. Bấy lâu, Rạch Giá và Hà
Tiên không có chuyến nào trong tuần (tức là khoảng 10 ngày mới có một chuyến).
- Bảo vệ bờ biển Rạch Giá đừng cho lở, bằng cách cẩn
đá mà chận sóng biển. Đồng thời, xây một con đê bằng đá chạy ra ngoài biển để
vào mùa hạn tàu bè có thể cất hàng hóa (nhưng không thực hiện được).
Bấy lâu đường giao thông từ Rạch Giá lên Sài Gòn
khó khăn vì kinh Thoại Hà quá cạn, nhứt là vào mùa hạn. Hành khách từ Sài Gòn
đến Rạch Giá dùng xe lửa Sài Gòn, Mỹ Tho, rồi đi tàu Lục tỉnh từ Mỹ Tho đến
Long Xuyên. Từ Long Xuyên, dùng ghe mà chèo chống qua Rạch Giá.
Để thiết kế tỉnh lỵ, năm 1896, 4 xã
Vĩnh Lạc, Vĩnh Hòa (Huề), Vân Tập, Thanh Lương nhập lại gọi là làng Vĩnh Thanh
Vân. Đến năm 1908 mới đặt tên đường sá lại chợ và năm 1910, đưa dự án dùng đèn
thắp bằng "ga" ở đường phố.
Tàu buồm Hải Nam ra vào cửa Rạch Giá tấp nập. Vào
tháng gió chướng (gió mùa từ Đông Bắc), nhiều khi 20 chiếc cặp bến một lượt. Ty
Thương chánh hoạt động với quyền hạn không phân định rõ rệt vì cho rằng chỉ
chịu sự chỉ huy từ Sài Gòn mà thôi, không can hệ gì đến nhà cầm quyền ở tỉnh.
Năm 1887, viên chức Thương chánh xét bắt Hoa kiều ở chợ, tha hồ làm tiền vì quả
thật các tàu buôn Hải Nam vào bến chở theo á phiện lậu thuế để bán lén theo hệ
thống riêng cho các tỉnh miền Tây là nơi tập trung người Huê kiều khá giả.
Người Huê kiều thì ăn chịu với viên chức địa phương. Ngoài ra, viên chức Thương
chánh (bấy giờ gọi là Công—xi) lại còn bắt buộc người làm nước mắm ở hòn Sơn
Rái, thuộc tỉnh Rạch Giá phải đóng thuế nhập cảng, lấy cớ trong nước có mắm
muối, xem mấy người làm nước mắm như đã chở muối lậu thuế. Mấy bang Huê kiều
yêu cầu đừng đánh thuế quá nặng những hàng hóa chở từ bên Xiêm vào chợ Rạch
Giá, nhưng không được chấp thuận. Bấy giờ, tàu Hải Nam chở vào nhiều nhứt là
vải, từ Xiêm hoặc từ Tân Gia Ba, đặc biệt có loại vải thông dụng (gọi là vải
Xiêm, vải tám Hạ, tức là từ Hạ Châu đem đến). Mặc nhiên, hàng hóa xuất xứ từ
Anh quốc lại cạnh tranh với hàng hóa Pháp! Mấy viên cai tổng đồng thanh phản
đối việc tra xét của mấy ông tây "Công—xi", khi đồng bào đến chợ theo
đường biển phải đi ngang qua Thương cảng. Năm 1886, hải quân Pháp ra tận hònCổ
Tron (Poulo Dama) để thám hiểm nhưng ngoài ấy chẳng có nguồn lợi gì về kinh tế.
Việc bán gạo từ hải cảng Rạch Giá đã có
từ đời Mạc Cửu do người Huê kiều đảm trách độc quyền. Dịch vụ xay lúa tổ chức
theo kỹ thuật cổ truyền, dùng loại cối to, mỗi cối có bốn người cầm giàng xay,
hai người sàng, một người quạt, một người giần tấm.
Năm 1884, chợ có 6 trại xay lúa, sử dụng gần 40 cối
to. Khi tàu Hải Nam gần đến để ăn gạo, trại hoạt động suốt ngày đêm, dùng toàn
sức người. Dọc theo bờ rạch gần mé biển, người Huê kiều cất khi dự trữ hàng
hóa. Tàu Hải Nam đến mua nhiều nhứt là gạo, chiếu, tiền kẽm, nước mắm, cá khô,
mắm ruốc cà ròn (bao bằng vàng), mật, sáp. Họ chở đến tô chén, bài tứ sắc, vải
bô, giấy tiền vàng bạc, mền, thuốc Bắc, pháo, nhang, trái cây khô.
Lần hồi, thương cảng bớt hoạt động. Gạo xay máy từ
Sài Gòn chở qua Hương Cảng bằng tàu máy ít tốn sở phí hơn là gạo xay bằng sức
người, chở bằng ghe buồm ở Rạch Giá.
Về đường sá trong tỉnh, mãi đến năm
1907 chỉ thấy vài khúc lộ dở dang. Theo sáng kiến của tham biện, con lộ từ chợ
Rạch Giá đến Hòn Đất thành hình, bắt dân làm xâu, đường trải đá ong Biên Hòa và
trải đất hầm (đất ruộng đốt cho chín rồi đập ra từng cục nhỏ). Dụng ý của bọn
Pháp ở địa phương là đắp đường theo mé biển ăn tới Hòn Đất nơi chúng chọn làm
căn cứ nghỉ mát; từ trên Hòn nhìn ra vịnh Xiêm La, khung cảnh khá thơ mộng.
Điều bất lợi là con lộ này chạy ngang vùng còn rừng tràm, người Miên sống rải
rác. Trong tương lai, nhà nước hy vọng là nối lên Hòn Chông thuộc Hà Tiên.
Nhưng công tác này trở thành tốn kém vô ích, khí hậu Hòn Đất không tốt cho lắm,
đất hai bên lộ quá xấu, mở đường mà chẳng ích lợi gì cho việc canh tác! Bọn
Pháp ở địa phương cố duy trì kế hoạch, lấy lý do là để tới lui giữ an ninh đồng
thời làm bờ đê chận nước biển. Lộ bị dẹp bỏ vì rốt cuộc ai cũng nhìn nhận là
lãng phí (lộ hãy còn di tích sát theo bờ biển, song song với con lộ Rạch Giá,
Hà Tiên đắp xa biển hơn lúc sau này).
Con lộ thứ nhì là nền móng của lộ Rạch Giá, Cần
Thơ. Năm 1907, nối liền tới Minh Lương (khoảng 15 km), trải đá ong và đất hầm.
Có kế hoạch nối luôn tới Gò Quao rồi Long Mỹ. Mãi đến năm 1914, lộ Rạch Giá qua
Cần Thơ mới tiếp tục khởi công.
Việc chia ra quận (huyện) trở thành cấp bách, tham
biện Rạch Giá nêu lý do là dân số gia tăng, nhiều người từ tỉnh khác đến làm ăn
nên khó kiểm soát, diện tích của tỉnh lại quá rộng.
Vùng ở giáp ranh Cần Thơ và giáp ranh Bạc Liêu, Sóc
Trăng cần mỗi nơi một ông phủ hoặc ông huyện để coi sóc, ngoài ra, cần một quan
huyện ở Châu Thành. Năm 1898, tham biện Rạch Giá nhắc lại ý kiến nên lập một
phân khu hành chánh ở ngọn Cái Lớn (nhằm đề phòng trộm cướp) hoặc lập ở làng
Long Mỹ một quận mới. Nhưng cấp trên bác bỏ cho là tốn thêm tiền xây cất cơ sở
hành chánh, mướn thơ ký, mã tà; nếu tỉnh quá rộng, tham biện chủ tỉnh cứ đi
thanh tra bằng tàu máy là đủ rồi. Bấy giờ, việc khẩn hoang chỉ mới xúc tiến,
thuế má chưa thâu nhiều. Nhưng đến năm 1907, quận Long Mỹ thành lập ở ngọn sông
Cái Lớn, phía giáp ranh với Cần Thơ. Chủ quận đầu tiên là Maurel nắm nhiều
quyền hạn quan trọng. Quận Gò Quao thành lập, trên con dấu ghi mấy chữ nho
"Đại Hà huyện" (tức là huyện lập ở sông Cái Lớn), quận Giồng Riềng
ghi là Tiểu Hà huyện (sông Cái Bé), quận Châu Thành tại chợ thì thêm mấy chữ
nho "Kiên Giang phủ".
Việc phân chia ra tổng cũng chưa hợp lý và gây
nhiều phiền phức: riêng tổng Thanh Bình, năm 1907, rộng đến 250.000 mẫu tây
(trong khi tỉnh Bến Tre chỉ có 164.000 mẫu, tỉnh Gò Công 62.698 mẫu diện tích
vào năm 1922), ăn từ vịnh Xiêm La đến ranh Sóc Trăng. Riêng làng Đông Thái
(thuộc về tổng này) dài cỡ 30 cây số từ rạch Thứ Năm đến rạch Mương Đào, lý do
chánh là đất quá rộng, dân ít, còn nhiều rừng, xóm này xa cách xóm kia. Bấy
giờ, cai tổng tha hồ xử kiện theo ý thích, xã trưởng thì không thèm đi
"hầu việc" quan trên, viện lý do là biển động, đi sợ ghe chìm hoặc
nộp thuế thì sợ bị ăn cướp dọc đường.
Đại khái, Rạch Giá là tỉnh chậm phát triển về đường
sá, dân trí kém mở mang, thua xa các tỉnh miền Tiền giang hoặc gần Sài Gòn nơi
mà nhà nước thực dân đã chú ý thiết kế từ trước năm 1900. Mãi đến 1910, 1911
hương chức làng ở Rạch Giá mới bắt đầu có con dấu bằng đồng để đóng vào công
văn.
Những rắc rối đầu tiên trong việc khẩn đất
Chủ tỉnh Rạch Giá báo cáo cho Thống đốc Nam kỳ ngày
17/3/1898:
- Trên nguyên tắc, mỗi làng phải có địa bộ và điền
bộ. Nhưng ở Rạch Giá trước năm 1891 không nơi nào có địa bộ. Một số hương chức
làng tự ý lập địa bộ, vẽ bản đồ chia ra từng sở đất, ghi tên chủ đất nhưng
thường là ghi tên "ma", ai đến xin khẩn thì bảo là hết đất, nếu muốn
thì làng sẽ đứng làm trung gian mua lại giùm cho. Hương chức làng tự ý sửa
chữa, sang tên các sở đất, hậu quả là địa bộ ở làng trên nguyên tắc là bản phụ,
lại không giống với địa bộ (bản chánh) nạp ở tỉnh.
-
Ai muốn sao
lục địa bộ (có giá trị như bằng khoán đất) thì làng đòi ăn hối lộ rồi mới chịu
sao.
- Chủ tỉnh nhắc lại nguyên tắc: mọi sửa đổi về ranh
giới hoặc tên người chủ sở đất đều phải được phép của chủ tỉnh (theo nghị định
6/3/1891, chủ tỉnh là người quản thủ địa bộ).
-
Để cứu vãn
tình thế, chủ tỉnh Rạch Giá yêu cầu Thống đốc cho thành lập một ủy ban gồm một
chủ tỉnh từ tỉnh khác đến làm chủ tịch, một viên kinh lý (họa đồ) cũng là cai
tổng và hương chức sở tại để tu chỉnh, lập địa bộ mới cho tỉnh.
- Không làm được việc ấy thì dân ở tỉnh khác không
xuống Rạch Giá đông đảo như trước nữa. Trong hiện tại, đa số người chiếm giữ
đất để canh tác không có bằng khoán hợp pháp, còn những người tranh chấp thì
chẳng có giấy tờ gì để chứng minh.
-
Không lập được
địa bộ thì dân làng chỉ làm công cho thiểu số người có thế lực hưởng huê lợi.
Nhiều vụ tranh chấp xảy ra.
Dân khẩn hoang thoạt tiên tin rằng nhà nước cho
phép họ làm ruộng trước rồi sẽ khai báo để hợp thức hóa về sau, với điều kiện
khẩn không quá 10 mẫu (gọi là đất công nghiệp). Làm sao người dân hiểu rành
cách thức làm đơn và dám ra tỉnh lỵ để hầu quan chủ tỉnh? Đường xa, lắm khi hơn
70 cây số, ra chợ lại không biết thưa bẩm với ai. Vài người hiểu luật lệ đã
chịu khó chạy chọt, tìm cách giựt đất.
Ở làng Vĩnh Hưng, năm 1904, một viên
thông ngôn tòa án đang ăn lương
lớn lại xin nghỉ việc để tranh cử chức
cai tổng, chưa đắc cử là cho vợ đứng đơn xin khẩn chồng lên mấy sở đất mà người
khác đã ruồng phá thành khoảnh từ trước. Vai trò của cai tổng khá quan trọng
khi lập địa bộ cấp đất, vì là một ủy viên. Năm 1903 chủ tỉnh rất áy náy vì tình
trạng chiếm đất, do thiểu số nhiều uy thế và rành luật lệ. ở làng Lộc Ninh,
nhiều sở đất có rừng tràm tốt hoặc có người đang canh tác lại bị kẻ lạ mặt làm
đơn xin trưng khẩn. Chủ tỉnh ra lịnh cho cai tổng Thanh Bình cứ ghi tên những
người thật sự đang canh tác và cho họ được ưu tiên vào bộ.
Theo thủ tục bấy giờ, hễ vô đơn xin tạm khẩn thì
mặc nhiên được cấp cho một biên lai. Với tấm biên lai có chữ ký của chủ tỉnh,
bọn gian hùng cứ đến địa phương mà tranh cản, tự nhận là sở hữu chủ, với diện
tích rộng hơn. Ai năn nỉ thì họ bán tấm biên lai với giá cao, bảo đó là tờ bằng
khoán chánh thức.
Khi hay tin kinh xáng Xà No sắp đào nối liền qua
Rạch Giá, nhiều ông hội đồng, cai tổng, thân hào đã vội làm đơn xin khẩn, căn
cứ vào bản đồ con kinh mà họ biết trước. Luôn luôn họ dành phía mặt tiền, giáp
với bờ kinh. Chủ tỉnh bác những đơn ấy không phải vì thương dân, chẳng qua là
muốn dành cho bạn bè, hoặc cho kẻ nào dám dâng tiền bạc hối lộ.
Có người vội cho rằng Pháp bày ra việc cử Hội đồng
quản hạt, địa hạt, cai tổng chỉ là để mua chuộc một số người Việt háo danh mà
thôi. Thật ra, những chức vụ ấy đem lại nhiều ưu thế trong việc khẩn đất. Nhờ
chức vụ mà giao thiệp dễ dàng nên họ biết kế hoạch đào kinh qua phần đất nào,
khi cho trưng khẩn thì họ vô đơn trước. Lại còn trường hợp nếu cho ai trưng
khẩn với diện tích lớn thì họ được hỏi ý kiến. Chủ tỉnh sẵn sàng cho họ quyền
ưu tiên trưng khẩn để bù lại việc họ làm ngơ cho chủ tỉnh chi tiêu phí phạm
ngân sách địa phương, hoặc tăng thuế, hoặc xuất công qũ tu bổ công sở... Họ vận
động với quan trên, lo lót tiền bạc để xin phép sắm súng cho bằng được, nhằm mục
đích uy hiếp tinh thần dân chúng khi cần chiếm đất. Khẩn đất cũng là cơ hội cho
vài tên đầu cơ, mị dân, gây uy tín cá nhân để ứng cử chức nghị viên Nam kỳ. Vào
năm 1912, ký giả thực dân hạng nặng là J. Adrien Marx đến quận Gò Quao để hướng
dẫn kẻ bị mất đất làm đơn tố cáo điền chủ và quan chủ quận về tội ăn hối lộ,
lấn hiếp dân: 12 người Miên đã khẩn được 108 mẫu từ năm 1907—1908, vô bộ ở làng
rồi, thế mà điền chủ lại mướn tay em chừng 70 người đến đánh đập, tịch thâu
nông cụ lúc họ đang canh tác. Lại còn bọn kinh lý (họa đồ) Pháp thừa cơ hội và
cậy quyền thế để giựt đất một cách hợp pháp. Năm 1913, ấp Thành Lợi (sau này
trở thành làng Ninh Thạnh Lợi, phần đất cũ của làng Lộc Ninh) được thành lập do
3 người xin khẩn nhưng ba năm sau, một viên kinh lý người Pháp đến trưng khẩn
bao trùm lên và bắt buộc 3 người nọ phải làm tờ mướn đất như là tá điền. Rốt
cuộc theo sự phân xử của chủ tỉnh, 3 người này thất kiện, mỗi người chỉ còn giữ
được 10 mẫu đất công nghiệp, còn bao nhiêu đất dư ra đã thành thuộc rồi thì phải
giao cho viên kinh lý. ở tỉnh lỵ Rạch Giá, có người chuyên sống bằng nghề trung
gian để lo hối lộ. Năm 1916, người nọ xin khẩn 2.000 mẫu ở làng Vĩnh Bình, nhờ
kẻ trung gian đút lót trước 2000 đồng cho chủ tỉnh, xong việc sẽ đưa thêm tiền.
Chủ tỉnh trình việc ấy lên Thống đốc Nam kỳ và bảo rằng phần đất ấy chắc chắn
có người đang khai thác từ lâu. Chủ tỉnh tố cáo, vì số tiền lo hối lộ quá ít
hay vì thanh liêm?
Để làm điền chủ lớn, nhiều người dùng nhiều chiến
thuật khác nhau:
-
Họ làm đơn với
chủ tỉnh, lo lót, ra mặt công khai chiếm đất. Rồi khi tới địa phương, họ chịu
bồi thường chút ít cho người đã khai khẩn từ trước; hoặc mua lại với giả rẻ lúc
người dân cô thế đang tuyệt vọng thấy mình chẳng bao giờ đủ khôn lanh và đủ
tiền bạc để kêu nài hoặc lo hối lộ.
- Họ không bao giờ đứng tên khẩn đất trong đợt đầu,
tránh mọi việc tranh chấp vụn vặt có vẻ vũ phu và bất lương. Họ đem tiền tới
nơi (tiền này thường là tiền vay) để mua đất trong những năm ruộng thất mùa.
Hoặc họ chuyên sống bằng nghề cho vay nặng lời, hoặc chứa cờ bạc để lần hồi bắt
con nợ phải bán đất cho họ mà trừ nợ. Họ công khai đưa con nợ ra tòa, với giấy
tờ hợp pháp về hình thức: người dân quê dốt chữ khi túng thiếu vì đau ốm, vì
thua cờ bạc đã ký tên, điểm chỉ vào sau khi nghe đọc qua loa nội dung tờ giấy
nợ chứa đựng nhiều cạm bẩy ngặt nghèo.
Kẻ quyền thế thường vận động với các quan lại cao
cấp, chịu tốn kém về tiệc tùng để được khẩn không tiền theo quy chế mà nhà nước
dành cho người hữu công: Tổng đốc Phương hưởng theo quy chế này 2.223 mẫu ở các
làng Hỏa Lựu, Hòa Hưng, Vĩnh Hòa Hưng; Trần Chánh Chiến (sau này cổ húy cho
phong trào Duy Tân ở Nam kỳ) khẩn hơn 1000 mẫu; một nho sĩ họ Trần ở Rạch Giá
cũng nhờ Tổng đốc Phương điền chủ ở Trà Vinh khẩn trong địa phận Rạch Giá trên
1400 mẫu.
Những nguồn lợi thiên nhiên
Trước khi trở thành ruộng, rừng tràm là nguồn lợi
thiên nhiên đáng kể. Vào đời Gia Long, vùng Rạch Giá được chú ý nhờ sáp ong và
cá tôm. Làng Vĩnh Hòa, làng Đông Yên ở hữu ngạn sông Cái Lớn thành hình từ lâu
nhờ nguồn lợi sân chim (sử chép là Điểu đình), những khu rừng mà hằng năm loại
chàng bè, lông ô (còn gọi già sói, marabout) tụ họp về làm ổ, sanh sôi nẩy nở
hàng chục vạn con, thợ rừng đến sân (nơi chim tụ họp) bao vây và giết sống để
nhổ lông bó lại đem bán cho tàu buôn Hải Nam. Thuở ấy người Việt cũng như người
Tàu đều ao ước có cây quạt kết bằng lông chim, với đứa tiểu đồng đứng hầu quạt
phe phẩy, tiêu biểu cho nếp sống phong lưu. Thuế điểu đình vẫn duy trì, nhà
nước thực dân cho đấu thầu nhưng giá thầu ngày càng thấp, dân giết quá nhiều không
chừa chim con. Gặp khi giông tố bất thường, chim kéo đến khu rừng khác, người
thầu không được quyền truy nã theo để khai thác. Người trúng thầu thường là Huê
kiều. Họ có hệ thống tiêu thụ ở nước ngoài: giá thầu là 21.000 quan (1879),
20.000 quan (1880). Việc thầu sân chim có lúc bị bãi bỏ hoặc ngăn cấm. Năm 1908
cho khai thác trở lại. Những năm chót, nhà nước hương chức làng thầu với giá
tượng trưng. Năm 1912, một hội viên của Phòng Canh nông Nam kỳ (cũng là tay
khai thác đất đai nổi tiếng ở Hậu giang) lên tiếng xin nhà nước cấm khai thác
sân chim vì thuế thâu vào chẳng bao nhiêu mà gây tai hại lớn. Theo bài toán của
ông ta, chim có đến hàng trăm ngàn con bị giết mỗi năm, mỗin gày một con chim
già sói (marabout) ăn đến 20 con chuột, mất chim thì hàng triệu chuột tha hồ
sinh sôi nẩy nở. Đây chỉ là bài toán không tưởng mà thôi.
Mật, sáp ong, cá tôm là nguồn lợi lớn và lâu dài
hơn. Khi mới chiếm vùng Hậu giang, đặc biệt là vùng Rạch Giá, những huê lợi này
đều do nhà nước giao lại với giá thầu tượng trưng cho các ông cai tổng, xem như
là hình thức mua chuộc rất có hiệu quả. Các ông cai tổng cứ chia ra từng sở
nhỏ, giao cho bọn tay sai thân tín thầu lại với giá cao. Kế đến là giai đoạn
giao cho hương chức làng thầu với giá phỏng định. Năm 1895, hương chức làng
thâu lợi quá nhiều đến mức dám hiến lại cho ngân sách tỉnh phân nửa số lời mà
họ thu được (2785 đồng).
Sáp là nguồn lợi làm cho xứ Rạch Giá
nổi danh (người Miên gọi là vùng Kramuôn—Sor tức là xứ sáp trắng) vì thời xưa ổ
ong bám vào cây tràm, lâu ngày rụng xuống rồi trôi trên sông, không người vớt.
Thời Tự Đức (và có lẽ trước hơn), quan lại địa phương chia rừng tràm ra từng
"ngan" tức là từng lô nhỏ, lấy những con rạch thiên nhiên làm ranh
giới. Nay hãy còn dùng làm địa danh. Ngan Trâu, Ngan Dừa, Ngan Rít, Ngan Vọp.
Nghề ăn ong gọi là "ăn ngan", lô rừng đem đấu thầu gọi là sở phong
ngạn (phong là ong, ngạn là bờ ranh). Phong ngạn tập trung ở những làng nhiều
rừng tràm, năm 1905, làng Vĩnh Lộc có tới 19 sở, làng Sóc Sơn 13 sở. Làng Đông
Thái có 4 sở to chạy theo địa phận làng, dài cỡ ba mươi cây số.
Chủ tỉnh Rạch Giá thảo ra điều kiện sách nhằm dành
ưu tiên cho người khẩn đất làm ruộng. Điều 2 ghi rõ: "Rừng thì lần lần có
người khai phá làm ruộng vì việc canh nông có lợi hơn, nên sự đấu giá này (đấu
giá phong ngạn) không buộc 3 năm, buộc một năm mà thôi. Nhưng mà chủ ngan phải
thưa
cho nhà nước biết
trước ngày 15/1 kế đó".
Nghề khai thác phong ngạn lần hồi trở
nên khó khăn vì gặp sự tranh chấp của người làm đơn khẩn ruộng. Thoạt tiên, chủ
đất xem khu rừng tràm là của mình, tha hồ đốn cây để lấy huê lợi đầu tiên. Hoặc
dân làng cứ đốn cây, phá rừng. Báo cáo của làng Mỹ Lâm ngày 12/12/1911 cho
biết: Năm nay bị thất mùa màng, dân nghèo nàn quá, không có phương thế chi mà
làm ăn. Chúng nó cứ việc hạ tràm tươi mà cưa làm củi bán đổi gạo ăn (Hồ sơ Miel
et Cire). Diện tích rừng để khai thác ong mật bị thu hẹp vì thỉnh thoảng rừng
cháy, ong bỏ ổ đi nơi khác.
Nhưng lý do chánh khiến cho nghề phong ngạn suy đồi
là trận bão lụt năm Thìn (1904) khiến đa số rừng tràm bị ngã sập, rễ tràm vì ăn
bám trên vùng đất sình lầy nên chịu đựng không nổi. Tràm ngã xuống, sau này khi
cày cấy hễ gặp là đào lên đem về chụm bếp, gọi là tràm lụt (bão lụt). Đối với
ngân sách làng và ngân sách tỉnh, đây là sự hao hụt đáng kể. Để bù vào số thuế phong
ngạn, chủ tỉnh Rạch Giá giải quyết bằng cách bắt buộc dân phải chịu thêm một
thứ thuế phụ trội, cộng thêm với thuế thân mà dân phải đóng. ở làng Mỹ Lâm,
trước kia ngân sách dồi dào nhờ thuế phong ngạn, nhưng vì dân bộ quá ít nên khi
chia ra thì mỗi đầu người phải gánh đến bốn đồng.
Sáp là sản phẩm qủ, theo lệ xưa và mãi đến khi
người Pháp đến, đó là món dùng để lo hối lộ thông dụng nhứt (gọi khôi hài là
"đút sáp").
Thủy lợi, theo nghĩa là huê lợi cá tôm ở sông rạch
được chú ý từ thời xưa. Người Pháp lúc ban đầu cũng dùng chánh sách mua chuộc
cai tổng và hương chức làng bằng cách cho họ mua lại (tức là thầu) với giả
phỏng định.
Rừng tràm phát triển ở nơi đất thấp,
vào mùa mưa thì nước ngập tràn. Rừng ở Rạch Giá và luôn cả rừng tràm ở Hà Tiên,
Châu Đốc, Cà Mau có thể so sánh với vùng Biển Hồ ở Cao Miên về phương diện sinh
hoạt của cá tôm. Nước mưa dâng lên, cá lên rừng mà sanh đẻ, di chuyển. Rừng rậm
với con lăng quăng do trứng muỗi nở ra là thức ăn lý tưởng của cá. Khi mùa nắng
vừa bắt đầu, gió chướng thổi thì cá biết là nước sắp cạn, từng bầy tìm cách ra
sông, xuống rạch để khỏi chết khô. Bởi vậy, rạch ở rừng tràm là nơi tập trung
cá; loại cá đồng đắt giá như cá lóc, cá trê chở đem bán nơi xa được, không chết
dọc đường.
Dân địa phương từ lâu đã biết các đào
đìa. ở vùng cỏ hoang hoặc giữa rừng tràm, cá rút xuống đìa mà sống. Và khi đã
quen thói, hằng năm cá lên rừng vào mùa mưa, trở về rạch, về đìa khi mùa nắng
bắt đầu. Nhiều đìa cá của dân làng đào sẵn trong rừng hoang lại trở thành đìa
của điền chủ vì phần đất ấy đã bị trưng khẩn. Đìa đào ở trong rừng thì nhiều cá
nhưng khó đem cá về, lắm khi phải gánh cá hàng năm bảy cây số, nếu đìa ít cá
thì bỏ luôn chẳng ai thèm tát (đìa ở xa trong rừng gọi là đìa U Minh theo nghĩa
là ở nơi u u minh minh, tối tăm như địa ngục, mặc dầu không nằm trong vùng U
Minh).
Nhà nước bày lệ đấu thầu để thâu thuế nhiều hơn,
mỗi lần đấu cho phép khai thác trong ba năm. Điều kiện sách ghi rõ là sự
"ích lợi của nông nghiệp phải trọng hơn các điều khác" nhưng trong
thực tế, việc đấu thủy lợi làm giàu cho một số trung gian. Họ chia ra từng phần
nhỏ rồi cho mướn lại với giá cao gấp đôi hoặc gấp ba. Để bắt hết cá, kỹ thuật
hữu hiệu nhất là xây rọ với đăng sậy, tùy theo hình thể con rạch mà lựa chọn
kiểu rọ thích hợp. Nhiều cuộc tranh chấp xảy ra, người đấu thủy lợi nếu có thế
lực thì cứ phá đập giữ nước (của kẻ khác đang làm ruộng) để cá trên ruộng chạy
xuống rạch, gây nạn lúa háp vì ruộng bị cạn quá sớm. Hoặc người khai thác thủy
lợi làm cản trở lưu thông, ngăn cản không cho câu cá khiến người địa phương ăn
uống khổ cực, thiếu cá làm mắm dự trữ để làm mùa. Nhiều làng đã xin quan trên
bỏ việc cho thầu thủy lợi để dân làng tự do bắt cá mà ăn. Nhưng khoản dự thâu
ngân sách về thủy lợi hằng năm không thể bỏ được, quan trên thường giải quyết bằng
cách bắt buộc mỗi đầu dân đóng thêm năm cắc hoặc một đồng để bù trừ lại.
Chủ đất có thế lực thường ngang nhiên
đắp đập ở ngọn rạch, không cho cá xuống khiến người xây rọ chịu thất thâu.
Dân Châu Đốc xuống Rạch Giá dạy nghề xây rọ. Dân Gò
Công tới vàm biển sông Cái Lớn phổ biến việc đóng đáy (trước năm 1912).
Việc thành lập làng mới
Người nhiều vốn để mộ dân đi khẩn hoang mà dám bảo
đảm sẽ đóng đầy đủ thuế thì được nhà nước chấp thuận cho lập làng mới. Đây là
nguyên tắc từ thời vua chúa nhà Nguyễn mà thực dân cho áp dụng trở lại để thâu
thêm thuế điền và thuế thân. Năm 1894, việc thành lập làng Vĩnh Hưng cho thấy
sự xuất hiện của bọn cường hào mới. Vùng đất này ở phía nam tỉnh Rạch Giá, giáp
ranh Sóc Trăng. Hai người giành nhau lập làng, cả hai đều là bá hộ nổi danh
thời bấy giờ, tuy là người Việt nhưng gốc Hoa kiều.
- Phan Hộ Biết (tục danh là bá hộ Bì) ở Bạc Liêu xin
lập làng mới. Dân do ông ta quy tụ sẽ lần hồi đóng thuế cho nhà nước. Ông ta đã
xuất tiền túi ra xây cất xong một nhà việc (công sở làng) trị giá 200 đồng.
-
Bành Trấn thì
đưa kế hoạch đào kinh do chính ông xuất vốn, mướn nhân công. Lại cam kết rằng
sau khi được chấp thuận lập làng thì sẽ có 150 dân công do ông quy tụ, đóng
thuế ngay (thuế này do chính ông xuất ra cho dân mượn trước). Và tuy đất chưa
thâu hoạch huê lợi, ông sẵn sàng chịu thuế điền 1500 mẫu, đóng ngay cho nhà
nước. Nếu nhà nước chịu cho đứng tên làm chủ 1000 mẫu đất thì ông ta hứa bảo
đảm đóng thuế cho 300 người trong những năm tới. Theo lời trong đơn, vùng này
còn nhiều voi và trộm cướp, lập làng thì đất trở thành tốt, thú rừng và bọn bất
lương không còn lai vãng. Kế hoạch của Bành Trấn được Thống đốc Nam kỳ chấp
thuận vì Bành Trấn vào đơn trước hơn Phan Hộ Biết. Nhưng lý do vẫn là vì Bành
Trấn chịu đóng thuế ngay, làng Vĩnh Hưng trở thành một tiểu quốc của Bành Trấn,
ông ta bèn bắt buộc bọn tá điền trả lại tiền thuế thân đã ứng trước, rồi cho
vay nặng lời. Rốt cuộc tất cả dân trong làng trở thành tá điền, chẳng ai làm
chủ mảnh đất lớn nhỏ nào cả. Đến năm 1911, nhà nước mới can thiệp vì lập làng
như vậy là thất nhân tâm, có lợi cho cá nhân đứng lập làng nhưng hại cho nhà
nước.
Bởi vậy, khi cho lập làng Ninh Quới vào năm 1913,
viên phó tham biện đặc trách quận Long Mỹ đã tổng kết kinh nghiệm và nhận định
về việc bầu cự các hương chức hội tề:
- Trong ban hội tề, chức vụ xã trởng là quan trọng
hơn hết, viên chức này giữ mộc ký (triện) của làng. Xã trưởng lựa người thân
tín, cho làm chức hương xã, rồi đến chức hương thân, hương hào. Những chức vụ
còn lại thì do xã trưởng nêu điều kiện, ai muốn làm thì cứ thương thuyết, lo
hối lộ cho ông ta. Đây là tình trạng lập làng mà không có bầu cử về hình thức.
- Nếu bày ra hình thức bầu cử, chỉ một thiểu số điền
chủ được ứng cử và có quyền bầu mà thôi. Dân làng không được tham khảo ý kiến.
Và dân chỉ muốn cuộc bầu cử diễn ra thật nhanh, ai làm cũng được, để họ biết ai
là người nhận tiền thuế mà họ phải đóng.
-
Khi lập làng
mới, công việc đầu tiên của hương chức là bắt buộc dân phải ký giấy nợ, trả lại
cho họ những sở phí lập làng (tiền mua bộ sổ, tiền mua tặng phẩm để hối lộ cho
quan trên). Dân không dám cãi lịnh vì họ được khai khẩn vài mảnh đất nhỏ.
Bởi vậy, theo ý kiến của Marcel Roché (phó tham
biện đặc trách quận Long Mỹ) thì nên lưu ý việc sắp đặt hương chức hội tề ở
làng mới lập: nếu xã trưởng và hương cả thuộc một phe với nhau thì nhà nước nên
cho người thuộc về phe khác (lẽ dĩ nhiên hai phe này đều tham nhũng) làm những
chức vụ còn lại trong ban hội tề, để khi hai phe nói xấu, tố cáo nhau thì nhà
nước có lợi là biết được sự thật. Nếu chỉ một phe cường hào nắm trọn một ban
hội tề thì dân càng khổ. Cũng theo ý kiến viên phó tham biện này, những người
đứng ra sáng lập làng thường đem lá đơn được chấp thuận ấy về địa phương mà dằn
mặt dân, rồi bắt đầu lên "ngai vàng mà thống trị như vua chúa".
Trường hợp một làng khác ở quận Long Mỹ, có viên
chức cho 17 người Miên đến khẩn đất. Họ lo bắt cá, đốn củi, sau bão lụt năm
Thìn, cây rừng ngã xuống mới bắt đầu làm ruộng. Khi đất dọn xong thì mới hay
rằng viên chức nói trên đã làm đơn xin khẩn chồng lên phần đất ấy từ trước, có
biên lai. Cũng may là vụ này được giải quyết êm đẹp, dành ưu tiên cho người
Miên vì họ chịu cực khai phá từ trước.
Trường hợp làng quá rộng như làng Đông Thái dài 30
cây số, dân đến cư ngụ lần hồi, khi đủ số thì những ấp ở xa trở thành làng mới,
tách ra lập thêm ba làng là Đông Hưng, Đông Hòa và Đông Thạnh từ năm 1914.
Lắm khi vì muốn kiểm soát an ninh ở mấy ấp hẻo
lánh, nhà nước chấp thuận cho tạm lập một làng mới. trong giai đoạn sơ khởi,
lúc quan kinh lý chưa đến phân ranh thì hương chức không được thâu thuế, chỉ
được xử kiện những vụ nhỏ và sắp đặt dân canh phòng mà thôi: làng Thạnh Lợi
tách ra khỏi làng Thạnh Hưng tháng 11/1912.
ở những làng quá đông người Miên, hương chức hội tề
có thể ký tên bằng chữ Miên và điều kiện để làm hương chức không cần là phải
biết chữ quốc ngữ. Quan trọng nhứt là chức xã trưởng, chỉ dành cho người hằng
sản để có thể bồi thường cho nhà nước trong trường hợp làm sổ sách sai lạc hoặc
gian lận thuế, lấy tiền công nho để cho vay nợ riêng, hoặc cờ bạc thua. Người
biện làng (thơ ký, nhân viên riêng của xã trưởng) lãnh trách nhiệm viết lách,
thảo đơn từ, phúc bẩm báo cáo.
Việc lựa chọn vài người háo danh và khờ
khạo để làm hương chức lắm khi là dụng ỳ của những tay có thế lực để dễ dàng
thao túng. Tệ đoan lớn ở mấy làng xa quận lỵ là nạn cờ bạc, chứa chấp bọn trộm
cướp do hương chức làng chủ mưu và chia phần. Nhiều ông điền chủ không thèm vào
ban hội tề, khi cần thế lực thì dựa vào quan trên hoặc đứng ngoài, sắp xếp tay
em của họ vào làm hội tề là đủ rồi.
Trong những làng mà đất đai đều do người Pháp làm
chủ, về mặt hình thức thì người Việt Nam vẫn cai trị lẫn nhau nhưng hương chức
chỉ là tay sai. Khôi hài nhứt là những báo cáo của làng gởi lên cấp trên: nếu
là trên lãnh thổ của điền Tây thì phải có chữ ký của chủ điền hoặc của người
quản lý thì mới có giá trị. Người "chủ điền Tây" có quyền thị thực
chữ ký hoặc xác nhận sự kiện trong công văn của làng. Trong điền của Pháp, việc
cử hương chức hội tề (chỉ định thì đúng hơn) không theo tiêu chuẩn là có hằng
sản vì tìm đâu ra một người có hằng sản! Năm 1911, vào tháng 9, hương chức làng
báo cáo khi chủ quận ra lịnh cử một người thay thế cho vị hương chủ vừa chết:
"Ông A. Isidore mới lập làng, dân làng là người nghèo nàn và các nơi tới
mướn đất làm ruộng cấy, lúa tốt thì nó ở, lúa xấu thì nó trốn đi, dân không có
vườn đất tại làng. Xin đình lại tháng Décembre nhằm mùa lúa trổ, làng xét lại
lúa ai tốt là người khá trong làng và lựa người xứng đáng làng mới dám
cử".
Vài nét lớn về điền của Pháp
Cần nhớ là bấy giờ ở Nam kỳ, danh từ đồn điền không
được xài tới vì gợi ý nghĩ không tốt, trùng hợp với những đồn điền thời đàng
cựu mà Pháp chánh thức giải tán (dân đồn điền thường là dân làm loạn khi người
Pháp mới đến). Gọi là điền, kèm theo tên của người chủ, thí dụ như điền ông
La—bách (Labaste) hoặc tên tục như điền ông Kho (Gressier), hoặc khôi hài hơn:
điền Tây Mập, điền Tây Tàu (tên này có tàu riêng để chở lúa) hoặc điền Tây Đầu
Đỏ (tóc đỏ). Nếu là của công ty thì gọi là điền hãng. Người làm chủ đất thì gọi
là điền chủ (gọi "địa chủ" nghe không thanh tao, theo lối nói lái của
người miền Nam). Chủ ruộng là người canh tác trên đất mướn của người khác. Tá
điền là người mướn đất làm ruộng (không gọi là dân cày, vì dân chúng bấy giờ
cho là trâu mới cày, người đâu phải trâu mà cày).
Thoạt tiên, nhà nước định hễ người
Pháp hoặc người Việt có quốc tịch Pháp khai thác trên mười mẫu thì được hoàn
toàn miễn thuế trong 5 năm liền; đến năm thứ 6 là bắt đầu đóng 1/5 số thuế, cứ
như vậy đến năm thứ 10 là đóng trọn. Nghị định ngày 4/1/1894 sửa đổi lại không
miễn thuế 5 năm đầu, ngay trong năm đầu đóng số 1/5 thuế, đến năm thứ 5 là đóng
trọn. Nghị định 13/4/1909 cho phép những người Pháp có trên 80 tá điền và khai
thác một diện tích ít nhứt là 400 mẫu được quyền lập riêng một làng mới, nếu
chủ điền yêu cầu, dân trong điền được hưởng quy chế "dân điền Tây".
Với nhiều ưu đãi vừa kể, thực dân Pháp
tha hồ làm mưa làm gió. Trước khi có nghị định trên, từ năm 1906 ở Rạch Giá đã
xảy ra một vụ lập làng mới lấy tên là Vĩnh Báu, trên địa phận của làng Vĩnh
Viễn. Chủ điền là trạng sư Doutre cho người quản lý (gọi nôm na là cặp—rằn) đem
70 dân đến lãnh thổ vừa được phép trưng khẩn để lập làng mới. Hương chức hội tề
địa phương can thiệp vì chưa có lịnh chánh thức của quan trên. Người quản lý
này (người Việt) cứ ra lịnh tiếp tục cất công sở mới và xúi dục tá điền cầm dao
rượt chém hương chức làng sở tại!
Thực dân khuyến khích cho người ở xa cũng khẩn đất,
trường hợp Nam tước Rothiacob cư ngụ ở Ba Lê làm đơn xin khẩn ở Vị Thủy (Rạch
Giá) phần đất 1357 mẫu, vào năm 1911 vì nghe tin sắp đào kinh ở vùng này, nhưng
chỉ được cấp 642 mẫu để rồi không nhận lãnh. Phần đất tốt này lại được dân địa
phương canh tác mà không làm đơn trước vì họ tưởng là vô chủ. Hai người Pháp là
Duval và Guéry (đã có đất ở Cần Thơ) lấn qua đó 80 mẫu, đến năm 1911, tên
Labaste xin trưng khẩn (Labaste nổi tiếng là lãnh chúa với những phần đất ở Sóc
Trăng).
Vài người Pháp lanh lợi và thực tế đã khéo lợi dụng
sự ưu đãi để giựt đất của dân hoặc giựt tiền trợ cấp của chánh phủ thuộc địa,
điển hình là L. Bélugeaud, kinh lý hữu thệ. Năm 1911, ông ta trưng khẩn 500 mẫu
đất ở làng Hưng Điền (Mộc Hòa), xin trợ cấp cho 500 đồng để thí nghiệm cơ giới
hóa nông nghiệp theo một kiểu máy do chính ông ta sáng chế và ráp tại chỗ. Đến
nông trại, ông ta nhờ tham biện, nhờ hương chức làng giúp mướn cu—li, mướn trâu
và cất chòi. Khi lãnh tiền, ông ta cho bọn cu—li cày bừa rồi lại báo cáo từng
đợt để hưởng thêm trợ cấp, sau rốt, ông ta bỏ căn chòi xơ xác nọ, bỏ mấy bộ
phận sắt vụn đầy sét, giựt luôn tiền mướn trâu và mướn cu—li. Đến mùa, ông ta
hưởng phần hoa lợi do bọn cu—li canh tác theo lối cổ truyền chừng 30 mẫu. Năm
1913, Bélugeaud đến Rạch Giá mở văn phòng lãnh đo đạc ruộng đất, bấy giờ muốn
có bằng khoán thì phải có bản đồ do chuyên viên được chánh phủ thừa nhận lập
ra. Dịp tốt để Bélugeaud đòi tiền thêm, cao hơn giá mà nhà nước quy định. Và
sau khi đo xong, chủ đất phải lo hối lộ thêm 500 đồng thì mới có bản sao của
bản đồ. Trước đó, năm 1909, ông ta tìm cách giao thiệp với các người giàu có ở
Rạch Giá, nhận tiền rồi bảo là để vận động giùm với quan trên, ai muốn khẩn đất
to thì cứ đưa nhiều tiền. Dân địa phương tin lời, vì ông ta là người Pháp. Năm
1913, thấy phần đất giữa làng Lộc Ninh và làng Vĩnh Bình đã có dân khai thác từ
lâu nhưng chưa được cấp phát chính thức, ông ta làm đơn xin khẩn 1000 mẫu, với
dụng ý bắt buộc dân đang canh tác phải nạp địa tô cho ông ta.
Một tay khác là Beauville—Eynaud, làm chức còm—mi ở
Rạch Giá đã quá chú trọng vào việc khẩn đất. Khi thấy nhà nước soạn kế hoạch
đào kinh xáng giữa Rạch Ngan Dừa và Cạnh Đền, ông ta xin trưng khẩn 1300 mẫu,
khẩn xong, lại khai là mất mùa và không thèm đóng thuế!
Nhiều người Pháp nhờ bạn bè đứng tên
giùm để khẩn thêm đất, hoặc có những viên chức Pháp không thích canh tác nhưng
cứ khẩn để bán lại cho người Việt. Lại còn trường hợp tên Ernest Outrey (sau
này là Thống đốc Nam kỳ) lợi dụng danh nghĩa là nghị viên của Nam kỳ can thiệp
với chủ tỉnh để cho bạn bè ông ta được khẩn đất, nói đúng hơn là chiếm phần đất
mà dân quê đã khai phá từ buổi đầu.
Đời sống trong điền Tây
Điền của người Pháp là một tiểu quốc,
người tá điền của điền Tây hưởng quy chế đặc biệt về thuế thân. Họ được chủ đất
bảo lãnh, dùng "giấy đỏ" " (carte díengagé, in trên giấy cứng
màu đỏ), thuế thân đóng một đồng bạc thôi, trong khi dân ở thôn xóm làm lụng
cho chủ điền Việt Nam phải đóng cỡ 5 đồng. Họ chỉ đóng thuế chánh, khỏi những
thuế phụ trội, khỏi làm xâu, khỏi đóng tiền canh gác. Để đề phòng trường hợp họ
trốn, loại giấy đỏ này phải được chủ đất hoặc người thay mặt ký tên xác nhận,
cứ 3 tháng gia hạn một lần, ai ra khỏi điền mà không có giấy phép đặc biệt của
chủ thì bị bắt, xem như chưa đóng giấy thuế thân.
Kẻ ở điền Tây phải làm giấy giao kèo "ở mướn
cố công với chủ", tùy theo điền mà giá cả khác nhau; mượn tiền, mượn lúa
với số lời khá cao nhưng trong giao kèo thì ghi thấp. Người làm ruộng nhiều thì
được vay nhiều, tùy theo sự tiến triển của mùa màng mà chủ đất lần hồi cho họ
vay thêm.
Điền tây là nơi chứa chấp đủ thứ tội
ác: cờ bạc, hút á phiện lậu, đặt rượu lậu thuế. Hương chức làng, lính mã tà, nhân
viên thương chánh khó bề đột nhập để tra xét nếu không được phép của người chủ
điền Tây. Trong những điền lớn, chủ đất thường vắng mặt quanh năm, việc quản lý
giao cho hai ba người Pháp gọi là "surveillant agricole" được phép
mang súng, lắm khi họ là người Pháp dốt nát (lính sơn—đá nghỉ dài hạn hoặc đã
giải ngũ). Lại còn những cặp—rằn bổn xứ chuyên nghề tuần tra với cây cù ngoéo,
có thể đánh đập dân chẳng khác nào mấy ông hương quản, cai tổng. Điền Tây còn
là nơi chứa chấp trộm cướp; bọn này hành nghề ở địa phương khác rồi trở về ẩn
náu, làm ruộng cho có hình thức. Đôi khi, điền Tây lại vô tình thâu nhận những
chánh trị phạm, những tay phiến loạn bị tập nã từ các tỉnh miền Tiền giang.
Mùa lúa chín thì chung quanh điền Tây việc canh
phòng bố trí nghiêm nhặt như một cơ sở quân sự. Bọn cặp—rằn đánh mỏ canh tuần
ghe xuồng di chuyển gần điền phải bị tra xét phiền phức. Mục đích là đề phòng
bọn tá điền "lưu" lúa ra ngoài bán trước lấy tiền xài riêng, rồi khi
chủ điền tới đong, tá điền nói gạt rằng ruộng thất mùa. Người trong điền muốn
chở lúa đem bán nơi khác hoặc cho bà con thì phải xin giấy chứng nhận là đã
đóng đủ địa tô rồi.
Nơi trạm kiểm soát, bọn cặp—rằn treo lá cờ to làm
hiệu, tùy sở thích của chủ điền mà cờ này màu đỏ hay màu trắng (bởi vậy dân địa
phương căn cứ vào màu cờ mà gọi là điền Tây Cờ đỏ, điền Tây Cờ trắng...).
Về mặt trị dân, vài tên chủ điền Tây hoặc cặp—rằng
tỏ ra đầy đủ bản lĩnh, thí dụ như họ dám hòa mình với dân Việt: ăn mắm, uống
rượu đế, ăn thịt chó, cỡi trâu kình (trâu đua). Có tay còn gian hùng hơn, rước
thày về để làm lễ tống ôn, tống gió, ăn lễ hạ điền, tụng kinh cầu cho quốc thái
dân an với dụng ý cầm giữ dân và phát triển mê tín, óc xôi thịt. Hoặc là ông
Tây chủ điền già nua lại mặc áo dài xanh, đội khăn đóng "cúc cung bái"
khi cúng đình thần, với chức vụ là đại hương cả.
Bọn chủ điền Pháp là thế lực khá mạnh,
thường đưa ra nhiều yêu sách với chánh phủ thuộc địa như đòi tham gia Hội đồng
địa hạt để bàn bạc hằng năm về giá biểu thuế khóa trong tỉnh. Trong một bài
báo, J. Delpit đòi được miễn thuế "bách thân phụ trội" đánh vào thuế
điền vì thuế này do chủ tỉnh đặt ra, tham khảo với Hội đồng địa hạt An Nam chớ
chủ điền Pháp không được hỏi ý kiến. J. Delpit bảo rằng thuế ấy chỉ dành cho
người Việt đóng mà thôi. Nhà nước thực dân nhận định rằng nếu đưa người Pháp
vào Hội đồng địa hạt thì quá đáng: đa số điền chủ Pháp không cư ngụ tại địa
phương thì làm sao họ đại diện cho dân trong hạt được? Vả lại, đa số điền chủ
Pháp đều là công chức hoặc chức sắc của công giáo.
Delphit khoe khoang rằng chủ điền Pháp đã góp công
lớn vào việc xây dựng thuộc địa Nam kỳ: Trong vòng 40 năm, họ đã khai khẩn đến
247.417 mẫu (do 300 người chủ đất), cao hơn diện tích mà suốt 15 thế kỷ qua
người Miên và người Việt đã khai khẩn (215.578 mẫu, năm 1868), chưa kể đến 85.000
mẫu đất trồng cao su. Bên cạnh người Pháp, dân Việt đã khai khẩn từ
215.578 mẫu năm 1868 đến mức 1.291.358 mẫu vào khoảng năm
1912.
Vào năm 1912, cũng theo con số mà J. Delpit trưng
dẫn, Rạch Giá là tỉnh mà người Pháp có nhiều ruộng đất nhứt: 12.304 mẫu đã canh
tác cộng với 26.121 mẫu đang trên đà khai phá, sắp có huê lợi.
Đứng nhì là Sóc Trăng với 11.246 mẫu đã canh tác
của người Pháp và 4.308 mẫu khác đang trên đà khai khẩn thêm. Hạng ba là Cần
Thơ với 8.127 mẫu đã khai thác cộng thêm với 21.931 mẫu đang trên đà khai thác
của người Pháp. Tỉnh Rạch Giá cũng đứng đầu về số người Pháp làm điền chủ: 23
người, (trong số này có 11 vị chức sắc công giáo).
Sống trong điền của Tây hay điền của
người Việt sướng hơn? Câu hỏi này là cái vòng lẩn quẩn: nếu gặp năm thất mùa
thì đâu cũng là cực khổ. Chủ đất nào cũng đưa giá biểu địa tô tùy hứng, gom góp
ít nhứt là 80 % tổng số lúa thâu hoạch vì ở đâu cũng cho vay nặng lời, công
khai hoặc trá hình.
Cuộc tranh đấu của giới đại điền chủ
Từng lớp đại điền chủ bổn xứ thành hình nhờ khẩn
đất nhiều và đất tốt, nhứt là phần đất có nước ngọt từ Hậu giang dẫn qua nhờ
kinh đào. Đặc biệt ở phía sông Cái Bé, một mẫu đất trị giá bằng năm, bảy hoặc
mười mẫu ở phía Cái Lớn, nơi nước mặn. Kinh đào biến nhiều vùng thành ra phì nhiêu,
dễ sinh sống, nước ngọt mãn năm. Điền chủ vay nợ để khẩn đất. Trong vài năm
đầu, nếu gặp gió thuận mưa hòa thì lấy vốn được. Hễ thấy đất tốt, tá điền ít
chịu dời chỗ. Đất tốt dầu thất mùa vẫn thu hoạch tương đương hoặc cao hơn nơi
đất xấu vào những năm trung bình.
Trận bão lụt năm Thìn (1904) gây thiệt
hại nặng nề cho mùa màng ở Rạch Giá (bấy lâu, ta chỉ biết rằng thiệt hại to lớn
là ở Mỹ Tho, Gò Công mà thôi). Chủ điền lo ngại vì không kiếm ra tiền để đóng
thuế điền. Mặt khác, số vốn khá to mà họ đưa cho tá điền vay lại bị mất luôn.
Một số tá điền ngang nhiên bỏ đất, dời qua vùng khác, trong trường hợp chánh
đáng mà điền chủ không có lý lẽ để truy tố được.
Tại Rạch Giá, năm Thìn (1904) xảy ra hai trận bão
lớn: 1/5 và 3/11. Năm sau (1905) lại thêm lụt rồi nắng hạn bất ngờ.
Trong điền của Gilbert Trần Chánh
Chiếu, mức tổn thất được kê khai như sau với nhà nước:
- Đất ruộng ở làng Thạnh Hòa (Tràm Chẹt nhỏ) 1000 mẫu
bị ngập suốt hai tháng liên tiếp, rồi trận giông ngày 2/11/1904 làm sập nhà cất
cho tá điền ở, lẫm lúa bị tốc nóc. Đất khẩn ở phía Hòa Hưng gồm 200 mẫu, hư
trọn. Trong hiện tại, cần cấp dưỡng cho 200 tá điền sống lây lất.
- Từ bốn năm trước, lúa trong lẫm gom từ 20 tới 25
ngàn giạ lúa, năm 1904 chỉ còn thâu được từ 1000 đến 1500 giạ. Sự lỗ lã ước
lượng là 15000 đồng. Xin nhà nước cho vay trợ cấp, để tiếp tục khai thác.
Đơn kêu nài gởi lên. Chủ tỉnh cho cai tổng tới điều
tra, thấy phần đất ở Thạnh Hòa của Trần Chánh Chiếu trước kia có 125 gia đình
tá điền thì nay 42 gia đình đã đào tẩu, còn lại 83 gia đình. Nhà cất cho tá
điền ở gồm 93 cái, cộng là 232 căn đã bị sập hết 72 cái, tức là 177 căn. Năm
1904, đất này canh tác 645 mẫu.
Riêng về phần đất ở Hòa Hưng gồm 14
người tá điền, còn lại 3, trốn hết 11. Nên nhớ là ở Rạch Giá chỉ làm ruộng mỗi
năm một mùa, người cai quản ruộng đất của ông Chiếu trình bày trong đơn:
"Thiệt tội nghiệp, trong dân tá điền ai ai cũng đều nghèo khổ, đói khát,
rách rưới, ở ruộng thì nhờ ruộng, một năm làm ruộng có một lần, trông đợi có
bấy nhiêu song chẳng đặng, bây giờ phải đợi qua năm khác, lâu không biết bao xa
mà nói cho cùng". Và hiện tại, dân chỉ biết hy vọng cấy lúa ván ăn đỡ,
kiếm chút ít mạ hồi mùa rồi còn sót lại, chặt bớt rễ mạ mà cấy tạm khi nước
giựt xuống.
Một linh mục ở họ đạo Trà Lồng gởi thơ
lên chủ tỉnh xin miễn thuế, cho biết: vì đường giao thông khó khăn nên trong
điền lúa hạ giá quá thấp dân không bán được, trong khi những sản phẩm cần thiết
thì mua với giá gần gấp đôi ngày thường.
Phong trào tranh đấu chống thuế điền nổi lên, khi
chủ tỉnh Rạch Giá hăm he truy tố vài người chủ điền ra tòa và mặt khác, gởi
trát đòi từng người để thúc hối, cảnh cáo. Nhưng chủ tỉnh cho riêng Thống đốc
Nam kỳ biết là không thể nào đòi được số thuế điền trong tỉnh còn thiếu lại là
trên 135.000 đồng. Lại báo tin rằng điền chủ lớn đang xúi giục điền chủ nhỏ
đừng đóng thuế điền năm 1905 rồi theo đà ấy, không đóng thuế luôn qua năm 1906.
Tòa án Rạch Giá đã xử làm gương hai vị
điền chủ thiếu thuế. Lúc đầu, hương chức làng mời tới công sở, họ không thèm
tới gặp. Ra trước tòa, họ tỏ thái độ ngạo mạn hơn. Khi được hỏi tại sao mà
không tới gặp hương chức làng, họ nói thẳng là "chỉ vì họ không muốn đóng
thuế, và chẳng có ai được quyền bắt buộc họ đóng", nếu nhà nước đem phát
mãi đất của họ, nhứt định là chẳng ai dám mua (ngụ ý là nếu mua thì sẽ bị họ
trả thù). Chủ tỉnh Rạch Giá còn đưa ra đề nghị nên chia những tổng có diện tích
quá rộng ra làm đôi, để có thêm cai tổng đi thúc thuế. Đồng thời, cương quyết
phạt tù kẻ thiếu thuế, đem đất họ ra phát mãi, dán yết thị ở những làng lân cận
để người giàu ở tỉnh khác đến đấu giá.
Để đối phó lại, 81 người "điền chủ lớn" ở
Rạch Giá đồng ký tên vào đơn, trình cho chủ tỉnh để xin tha thuế năm 1905, đứng
đầu là hai ông Trần Chánh và Huỳnh Thiện Kế (đơn ngày 29/4/1906) với lập luận
sắc bén:
- Muốn trở thành điền (tức là canh tác) một mẫu đất,
phải nuôi tá điền 20 giạ lúa và vài ba đồng bạc là tối thiểu.
-
Năm rồi (năm
Thìn, 1904) chủ điền phải vay bạc của nhà băng Đông Dương mà nuôi nhân điền (tá
điền).
- Như hạt Sa Đéc là chỗ điền thổ đã khai mở lâu năm
thành khoảnh mà nhà nước còn chuẩn cho các chủ điền đóng thuế hạng nhứt sụt
hạng nhì, hạng nhì sụt hạng ba, còn hạng ba thì tha thuế trọn, huống chi là hạt
Rạch Giá là hạt mới khai mở không đặng 10 năm, và phần nhiều trong số điền thổ
khai phá không đặng 4 năm nay.
- Nhà nước đã hứa miễn thuế cho điền chủ nghèo, còn
với điền chủ lớn thì đợi lúa thóc gặt rồi, cho đóng 1/3. Nay xin tha trọn thuế,
vì đất ruộng ở phía sông Cái Bé thất bát 7/10, nước vừa giựt xuống là bị nắng
hạn.
-
Yêu cầu nhà
nước áp dụng luật Gia Long về tỷ lệ miễn thuế, luật này được nhà nước Lang Sa
phê ưng và cho thi hành từ năm 1871: theo đó hễ ruộng thất mùa 1/10, không giảm
thuế; ruộng thất 2/10, giảm 1/10; khi thất mùa đến mức 8/10 hoặc hơn nữa thì
miễn trọn thuế.
Kết quả là Thống đốc Nam kỳ chịu miễn thuế cho
những ai chưa đóng thuế năm 1904 mà thôi (tức là cho mùa gặt cuối năm 1903).
Còn về hậu quả của bão lụt năm Thìn thì đóng y như cũ. Nhưng điền chủ ở Rạch
Giá chưa chịu thua. Họ loan tin rằng nhà nước đã hoàn toàn miễn thuế, khiến cho
một số điền chủ bấy lâu rụt rè lại hăng hái lên không thèm đóng.
Theo đề nghị của chủ tỉnh, Thống đốc Nam kỳ cách
chức viên cai tổng và phó tổng tổng Kiên Tường (cả hai đều là người Miên) về
tội phao tin thất thiệt là hoàn toàn miễn thuế. Thật ra, nhà nước chỉ chấp nhận
miễn phần thuế quản hạt (budget local) mà thôi, chớ vẫn thâu trọn phần địa hạt
và bách phân phụ trội.
Thống đốc lại cho một viên chủ tỉnh nhiều năng lực
là Albert Lorin nghiên cứu vấn đề. Lorin phúc trình rằng Rạch Giá có 6 tổng,
mỗi tổng đều quá rộng nên khó theo sát từng điền chủ để làm áp lực. Trong vòng
hai năm mà ở Rạch Giá lại thay đổi 4 lần chủ tỉnh nên chánh sách không được
liên tục. Theo ý kiến của Lorin, chỉ nên giảm thuế cho chủ điền nhỏ, chớ chủ
điền lớn thì vẫn còn dư tiền để mua đất, khẩn đất thêm: Hiện tại, ở tòa Bố Rạch
Giá còn đến 439 đơn xin khẩn một diện tích là 14.031 mẫu, chứng tỏ điền chủ bốn
xứ hãy còn hăng hái trong việc làm ăn.
Năm 1911, tỉnh Rạch Giá trải qua một
cơn mất mùa trầm trọng, nhà nước đành cứu xét miễn thuế, tuy miễn ít nhưng
những ai lì lợm thì cũng bỏ luôn.
Cuộc tranh đấu trên đã bộc lộ một sự thật khách
quan: vào năm 1905, giai từng điền chủ đã thành hình, có tinh thần chống Pháp
nhứt là vào những năm kế tiếp khi đa số điền chủ lớn ở Nam kỳ đều hưởng ứng
cuộc Minh Tân (phong trào Duy Tân) do Bùi Chi Nhuận và Trần Chánh Chiếu điều
khiển, ủng hộ ông Phan Bội Châu và ông Cường Để. Điền chủ trong nước thấy rõ là
thực dân pháp ngăn cản không cho họ tiến xa hơn để họ tự do kinh doanh, trở
thành những chủ xưởng, những thương gia như ở bên Nhựt. Thực dân Pháp, thương
gia Huê kiều (nắm độc quyền về mua bán, thao túng giá lúa gạo). ấn kiều cho vay
đều là những chướng ngại mà họ muốn san bằng.
Còn vài chi tiết cần ghi nhớ về vai trò của giới
điền chủ, không riêng gì cho tỉnh Rạch Giá:
- Mua nhiều trâu bò từ Cao Miên đem về (từ tỉnh
Tà—Keo) nhờ đó mà việc cày cấy thêm phát triển. Mua sắm nhiều ghe độc mộc từ
sông Lớn (Cao Miên, Lào) giúp phương tiện vận tải.
-
Thích sống xa
hoa theo lối Pháp, tiêu thụ rất nhiều hàng hóa nhập cảng, nhất là rượu Tây.
- Vào những năm lúa có giá và giá lúa được vững
(1928, 1929 luôn cả năm 1930), mức sống lên cao tột bực, điền chủ bực trung ở
Hậu giang dư sức cho con qua Pháp du học, có gia đình đi cả hai ba người, học
siêng năng thì thành bác sĩ; ăn chơi thì trở thành "công tử".
- Một số không nhỏ điền chủ ở Rạch Giá
là người Minh Hương hoặc Huê kiều. Người Huê kiều nếu làm điền chủ thì bị đồng
hóa, trở thành Việt Nam trong vài năm (khăn đóng áo dài khi làm hương chức hội
tề, cúng đình). Riêng người Huê kiều ở chợ chuyên nghề buôn bán thì giữ nếp
sống riêng.
Về đời sống của tá điền
Tá điền chẳng có quyền tham dự sinh hoạt chính trị
nào cả. Hương ấp, phó quản (gọi là hương chức nhỏ) do hương chức hội tề chỉ
định. Hương chức làng thì do bọn hương chức chọn lựa lẫn nhau, giới thiệu bà
con vây cánh, sau đó được cai tổng và chủ quận chuẩn y. Cai tổng và phó tổng,
ban biện được cử do một số thừa sai (người thay mặt); tùy theo số dân bộ mà mỗi
làng được gởi nhiều hay ít, đổ đồng 50 dân bộ có một người. Các vị thừa sai
thay mặt cho dân phải là hương chức làng (trừ xã trưởng, hương thân, hương
hào), phó xã hoặc điền chủ. Hội đồng canh nông, hội đồng địa hạt hoặc hội đồng
quản hạt là chuyện riêng của một số hương chức làng và điền chủ đi bầu. Tóm
lại, người dân nghèo chẳng bao giờ được đi bầu cử ai cả.
Hai gánh nặng cho tá điền là thuế thân và xâu
(sưu). Thuế thân thời Pháp thuộc được quy định đồng đều (trừ những năm sau cùng
của chế độ thực dân, chia ra người có hằng sản và người không có hằng sản).
Thuế chánh chỉ là mọt đồng bạc nhưng dân phải đóng thêm một số tiền gọi là bách
phân phụ trội cho ngân sách. Số bách phân này thay đổi tùy theo năm để cho ngân
sách được quân bình chi tiêu. Ngoài ra mỗi người phải chịu năm ngày làm xâu, có
thể chuộc bằng tiền, lại còn phụ thâu về thủy lợi, về rừng.
Nếu là dân ở xa tới, chưa vào bộ thì
đóng thêm một số tiền gọi là thuế dân ngụ. Tính trung bình vào những năm đầu
thế kỷ, thuế thân cọng thêm các khoản linh tinh vừa kể là 5 đồng, làng này đóng
nhẹ nhưng làng kia lại đóng nặng. Nên nhớ là lúc bấy giờ lúa bán vài cắc một
giạ, một đứa trẻ chăn trâu suốt năm chỉ được khoảng 10 đồng thôi. Có làng lại
đặt ra thuế nóc gia hoặc quy định tiền chuộc công sưu (đóng tiền để khỏi đi làm
sưu) với giá quá cao, thí dụ trường hợp làng Vĩnh Hòa Hưng, tổng cộng là 8 đồng
3 xu về thuế thân, năm 1914.
Số đông tá điền không đóng nổi thuế thân hoặc không
muốn đóng vì suốt năm họ không có việc gì để đi ra khỏi làng. Thỉnh thoảng lính
mã tà vào làng xét hỏi, dân lậu thuế (gọi là trốn xâu lậu thuế) chạy trốn ngoài
ruộng hoặc vô rừng mà ẩn náu. Bị bắt về tội thiếu thuế thân là 5 ngày tù với 15
quan phạt vạ. Khi mản tù phải đóng thuế, ai không tiền thì làm cu—li cho nhà
nước tại chợ lấy tiền mà bù vào.
Người nào trốn thuế quá lâu mà muốn vô
bộ thì hương chức giải quyết bằng cách ăn hối lộ rồi cấp cho một giấy thuế thân
mà làng đã xin cho người khác (nhưng người ấy đã trốn, bỏ làng). Trường hợp
thay đổi tên họ như thế thường xảy ra. Gặp năm mất mùa hễ không đóng nổi thuế
thân và không trả được địa tô cho chủ điền thì cứ trốn qua xứ khác mà làm ruộng
lưu động, để rồi tiếp tục dời chỗ (gọi nôm na là làm ruộng dạo, làm ruộng hàng
xáo).
Ngao ngán nhứt cho người dân là việc làm xâu. Trong
những năm cần đào kinh hoặc đắp đường, nhà nước trưng dụng quá thời hạn 5 ngày
mà luật đã định. Cai tổng và hương chức lợi dụng để bắt nạt tống tiền, ai muốn
ở nhà thì lo hối lộ. Mãn hạn thì người làm xâu được về nhưng hương chức thường
bắt buộc làm thêm vài ngày (trường hợp làm đường lộ Rạch Giá, Hòn đất năm
1905). Năm 1911, khi bày việc đào kinh từ rạch Cái Su đến rạch Thứ Nhứt, dân
phải làm đến 20 ngày, tự túc đem theo ky, cuốc, xuổng, gạo, nhà nước không cấp
phát gì cả. Trong vài trường hợp nhà nước có cấp phát tượng trưng bằng tiền
mặt. Người ở gần sông, đặc biệt là ở phía sông Cái Lớn hoặc Cái Bé tiếp giáp
qua Cần Thơ lại phải làm xâu vớt lục bình, đề phòng sông rạch bị chận nghẹt, ghe
thuyền khó qua lại. Thời thực dân hễ gom dân làm xâu, trong văn kiện làng công
khai gọi là "đuổi dân xâu ra nhà việc". Khi phóng lộ hoặc tiếp tay
với nhân viên Công chánh đắp lộ, dân phải làm cu—li với giá rẻ, nhiều người bỏ
trốn.
Người Miên khổ cực hơn người Việt. Trong những địa
phương người Miên quá đông, hương chức làng đa số là người Miên. Họ bị cai trị
hteo lối phong kiến đặc sệt. Khi bị đòi tới làng, tới quận là họ sợ bị tù. Khi
cần hợp thức hóa đất ruộng mà họ dày công khai phá, họ lại vắng mặt. Họ ít khi
dám đòi hỏi quyền lợi chánh đáng, thà chịu thua thiệt mà được ở nhà.
Thực dân Pháp khinh thường người Miên
ra mặt. Trừ một số ít người mang họ (Sơn, Thạch...) do ông bà truyền lại từ đời
Tự Đức, hoặc lai Tàu (họ Trần, họ Lý nhưng không có chữ lót) thì tất cả đều
không họ. Trong bộ sổ, cứ gọi tên này tên kia (Danh), đàn bà thì gọi là Thị.
Trong công tác khẩn hoang, người Miên góp công lao
đáng kể. Họ làm công hoặc làm tá điền cho người Việt, dầm mưa dãi nắng rất dẻo
dai, sở trường của họ là chèo ghe, đốn tràm, đào mương, tát đìa bắt cá. Đàn bà
Miên giỏi về cấy và gặt lúa, gặt cấy rất kỹ lưỡng và vén khéo tuy chậm chạp.
Gia đình Miên nào nghèo thì khó tả: ngủ nóp, hoặc ngủ trần với bếp un, ở nơi
muỗi mòng mà nhiều đứa trẻ từ khi lọt lòng đến tuổi mười hai mười ba vẫn ở trần
ở truồng, không biết áo quần là gì, ăn uống quá đạm bạc. Vài người đã mất đất
vì ham cờ bạc, quá cao hứng lúc uống rượu say nên sẵn sàng điềm chỉ vào bất cứ
giấy nợ hoặc giấy bán đất. Về thuế thân thì mười người trốn hết bảy tám.
Đặc biệt là ở Rạch Giá, người Huê kiều
lại tích cực khẩn hoang với sở trường là làm rẫy ở đất giồng ven sông Cái Lớn
và Cái Bé (những giồng này gọi là thanh lang). Họ có mặt tại xứ Rạch Giá từ đời
Mạc Cửu nhưng con cháu số người cố cựu ấy đã trở thành Việt Nam từ lâu đời rồi.
Đợt người sang cư trú khi Pháp đến gồm đa số là người Triều Châu. Theo bảng kê
khai vào tháng giêng năm 1906, tỉnh Rạch Giá có:
Quảng Đông 266 người
Hẹ (Akas) 17 người
Hải Nam 331 người
Phước Kiến 108 người
Triều Châu 876 người
Người Triều Châu làm rẫy cư ngụ thành xóm đông đúc,
siêng năng không ai bì kịp, ăn ít, làm việc thì nhiều, bất chấp giờ giấc. Khóm
(thơm) ở Tắc Cậu, khoai lang ở Ngả Ba Đình, khoai lang ở Trà Bang (Long Mỹ), ổi
ở Bến Nhứt một dạo nổi danh toàn cõi Hậu giang. Đa số nghèo khó, không được
quyền làm thừa sai để bầu cử ông Bang vì muốn làm thừa sai thì phải có hằng
sản, đứng bộ điền hoặc đóng thuế môn bài. Họ cưới vợ Việt, gặp năm rẫy thất
mùa, đời sống nói chung là cơ cực vì còn phải trả tiền mướn đất rẫy.
Thuế thân của Hoa kiều cao gấp ba lần
thuế của người Việt. Người nào làm ăn khá, còn sức khoẻ thì Bang trưởng đứng ra
bảo đảm đóng thuế giùm, sau này trả lại. Nhưng gặp trường hợp quá nghèo, đau
yếu thì chẳng ai dám bảo lãnh giùm cả. Thiếu thuế nhiều năm liên tiếp, theo luật
là bị trục xuất về Trung Hoa. Người thiếu thuế 4 năm nếu bị bắt thì phải đóng
62 đồng, cộng thêm 30 đồng tiền phạt. Một số làm ăn thất bại, trốn xuống tàu
buồm Hải Nam mà đến xứ khác như qua Xiêm, Mã Lai, rủi bị trục xuất về Tàu thì
xảy ra cảnh chồng Bắc vợ Nam. Huê lợi về rẫy không được bền, sau năm bảy năm,
họ trồng các loại khác, kém huê lợi hơn vì đất lần lần mất chất màu mỡ. Người
quá nghèo không còn bà con bên Tàu thì cố gắng ở lại xóm rẫy. Trong trường hợp
thiếu thuế, họ đành tự giam hãm trong làng, lo hối lộ từng chập cho hương chức
hội tề để khỏi bị bắt. Hoặc dời chỗ, cải trang như trường hợp của người mang
tên là Trần Văn Sơn, 60 tuổi, người Triều Châu để búi tó, mặc quần áo như người
Việt Nam bị bắt vào tháng chạp 1914 ở Gò Quao vì bị tình nghi là theo Thiên Địa
Hội. Ông này khai thật rằng qua Việt Nam hồi năm 38 tuổi, ở Bạc Liêu làm ăn 3
năm, ở Cần Thơ 8 năm, ở Cà Mau 3 năm, ở Rạch Giá từ 3 năm qua nhưng rốt cuộc
làm ăn không khá, đành mua tấm giấy lão của người Việt tên Phạm Văn Lê. Vì sợ tung
tích bại lộ nên ông ẩn lánh ở
sốc người miên.
Về tình trạng của nông dân nghèo năm 1908, nhà cách
mạng Trần Chánh Chiếu cũng là điền chủ lớn ở Rạch Giá đã viết bài đăng trên tờ
Lục Tỉnh Tân Văn số 42, tháng 9/1908 (hai tháng sau là ông bị bắt vì việc vận
động Đông Du). Bài lấy hai câu thơ "Nhị ngoạt mại tân ti. Ngũ ngoạt khiếu
tân cốc" làm nhan đề.
Người Nhiếp di Trung làm bài thơ Mảng Nông có câu
thơ rằng: tháng hai bán tơ mới, tháng năm bán lúa sớm, cắt thịt vá ghẻ nghĩa là
đở ngặt vậy chớ khổ cũng hoàn khổ.
Thương hại cho dân nghèo ra thân đi làm tá điền, vì
trong tay không có nghề sản nên mới chui đụt đỡ giấc, nói tiếng làm ruộng chớ
kỳ trung đi kiếm ăn cho qua ngày tháng. Làm ruộng gì mà mãn nhứt đại không có
dư một hột lúa dính tay, lẽ thì ba năm làm mới có một năm thiếu ăn, có đâu hụt
trước thiếu sau, lúa gặt vừa rồi đã đi lãnh ruộng giao, lãnh công cấy công
phát.
Một năm 12 tháng, làm ruộng thật sự có bốn năm
tháng còn bảy tám thán dư linh làm nghề chi? Vì không có nghề trong tay nên mới
rủ nhau đánh cờ chó, hoặc đi coi đánh cờ bạc, chà lết mòn quần rách áo.
Thương ôi, dốt đặc hơn cá tôm, vụng về
hơn trùng dế. Dân nước khác tiếc tới giờ tới phú như tiền bạc, dân nước mình
phí ngày tháng như nước trôi.
Uổng thay, từ già tới trẻ, từ nam tới nữ đều luống
những đêm ngày. Nghe ai cho vay thì mừng hớn hở, hỏi rồi nào lo trông trả. Vì
vô nghề nghiệp nên mới sanh tệ trong xứ như thế. Làm người phải biết thương cái
thể diện của mình.
Kẻ thương quê hương phải hết sức giúp
cho nền công nghệ thì có ngày trừ đặng việc tình tệ mới bày tỏ trước đó.
Hơn 20 năm sau, vài học giả Pháp nghiên cứu tình
hình kinh tế, tình hình đất đai miền Nam, cách khẩn hoang ở Hậu giang, vấn đề
cho vay, việc phân phối đất đai... rồi đưa ra vài biện pháp "xây
dựng". Nhưng gẫm lại, việc nghiên cứu của họ chỉ là thương vay khóc mướn,
không tiến bộ bằng bài báo trên. Vấn đề chánh là tá điền sống trong tình trạng
bán thất nghiệp, ruộng một mùa, độc canh; kỹ thuật thì không hơn thời vua Tự
Đức, nếu không nói là thời Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp.
Bi
thảm nhứt là năm mất mùa, bao nhiêu lúa phải gom lại để trả địa tô để rồi xuất
cảng, trong khi "những người mạnh khỏe, nếu tìm được công việc làm (làm
mướn trong xóm) cũng khó đủ tiền để mua gạo ăn trong ngày, vì giá lúa cứ tăng
lên tại địa phương".
Không có nhận xét nào